Giải quyết khiếu nại trong Thi hành án dân sự là lĩnh vực rộng và phức
tạp cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Luận văn đã cố gắng thực hiện các
mục đích và nhiệm vụ của đề tài, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra.
1. Vấn đề đảm bảo quyền công dân, quyền khiếu nại tố cáo cho công
dân đối với hành vi trái pháp luật trong hoạt động của cơ quan nhà nước đã
được Đảng và Nhà nước ta xác định đây là một công việc mang tính cấp bách
và gắn với trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Triển khai
quan điểm mang tính chỉ đạo này, theo quan điểm của tác giả, các giải pháp
phải được đặt ra một cách đồng bộ, trong đó, giải pháp tuyên truyền phổ biến
pháp luật trở thành mối quan tâm hàng đầu, bên cạnh giải pháp về xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra
thanh tra, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả công tác của cơ quan nhà nước có
liên quan như các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan hữu quan và từ phía
bản thân công dân. Đặc biệt, tác giả luận văn cho rằng, quyền của công dân
đối với hành vi trái pháp luật phải được đảm bảo với các giải pháp từ gốc rễ
chứ không phải từ ngọn, đó chính là các giải pháp ngăn chặn oan sai trong
hoạt động của cơ quan nhà nước.
2. Giải quyết khiếu nại thuộc lĩnh vực Thi hành án dân sự là một loại
thủ tục hành chính, quy định về thẩm quyền,trình tự, thủ tục cách thức thực
hiện trong việc giải quyết khiếu nại của đương sự; Đây là thủ tục hành chính
giải quyết các công việc có nội dung tư pháp nhằm hỗ trợ cho hoạt động quản
lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Thủ tục về giải
quyết khiếu nại là một công cụ để cơ quan Thi hành án dân sự tự xem xét, sửa
chữa, khắc phục những sai sót của mình trong hoạt động quản lý hành chính
về thi hành án dân sự; giúp cho Đảng và Nhà nước kịp thời điều chỉnh, đề ra
những chủ trương, chính sách phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước.
3. Tình hình khiếu nại của đương sự về thi hành án dân sự đang có
95chiều hướng gia tăng về số lượng, gay gắt về tính chất. Số vụ việc khiếu nại
vượt cấp về các cơ quan Trung ương ngày càng nhiều, tình trạng đơn thư
khiếu nại gửi tràn lan tới mọi cấp, mọi ngành diễn ra phổ biến. Số vụ khiếu
nại đông người, phát sinh thành các “điểm nóng” xảy ra ở nhiều địa phương,
nhưng chưa có những giải pháp, những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục
giải quyết đối với các loại khiếu nại này, dẫn đến tình trạng lúng túng cho cơ
quan Thi hành án dân sự và các chủ thể thực hiện thẩm quyền giải quyết
khiếu nại. Hiệu lực, hiệu quả thi hành quyết định giải quyết khiếu nại của một
số đơn vị địa phương còn thấp.
4. Bắt nguồn từ tâm lý "ngại pháp luật" và "sợ pháp luật" sâu xa trong
lịch sử, người dân Việt Nam thích ứng xử theo quan hệ tình cảm và thói quen,
không coi trọng vai trò của Nhà nước và pháp luật - "phép vua thua lệ làng",
"một bồ cái lý không bằng một tý cái tình". Tuy nhiên, đã có sự thay đổi quan
trọng về bản chất của Nhà nước, về trách nhiệm của Nhà nước đối với công
dân. Nhà nước phải quan tâm xem xét các khiếu nại tố cáo của công dân do
hành vi trái pháp luật của những người đại diện cho Nhà nước, cũng như tạo
ra các điều kiện cần thiết khác để đảm bảo cho công dân thực hiện quyền
khiếu nại tố cáo, đưa ra những giải pháp nhằm góp phần bảo vệ triệt để hơn
quyền lợi chính đáng của những công dân bị oan, nhằm xây dựng một nền tư
pháp dân chủ hơn, một xã hội yêu thương con người hơn - một xã hội mà theo
cách nói của Nguyễn Trãi - "khắp nơi hang cùng ngõ hẻm, không đâu còn
tiếng nỉ non, hờn giận, oán sầu". /.
105 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 760 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển đơn.
Thông qua các phương tiện điện tử, nhân dân sẽ tiếp cận được kết quả giải
quyết, hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Tuy
nhiên, đến nay việc công bố công khai trên Trang thông tin điện tử về công
tác thi hành án dân sự vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc.
3.1.5. Đảm bảo yêu cầu về thời hạn
Theo các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và thông tư
hướng dẫn thi hành quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại rất ngắn nên khi
giải quyết khiếu nại, cán bộ tham mưu, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
cần lưu ý thời hạn, tránh chậm trễ. Đối với các đơn không thuộc thẩm quyền,
sau khi phân loại, các cơ quan thi hành án dân sự chỉ có thời hạn rất ngắn, tính
bằng ngày để xử lý đơn nên khi nhận được đơn, cán bộ tham mưu phải dự thảo
ngay văn bản trình lãnh đạo ký giải quyết khiếu nại, không để tồn đọng, chậm
thời hạn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
71
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực thi hành án dân sự
Để nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực thi hành án dân sự, điều đầu tiên tôi muốn đặt ra ở đây là phải hoàn thiện
pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, như vậy
mới có cơ sở và tiền đề để giải quyết việc khiếu nại phát sinh. Phải nói rằng
pháp luật về thi hành án dâ sự tuy đã được chú trọng xây dựng trong nhiều
năm lại đây và kết quả là đã có một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ,
nhưng cuộc sống luôn phát triển nên pháp luật vẫn bị tụt hậu đằng sau. Mặt
khác, vẫn còn tình trạng chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn, thiếu cụ thể của các
quy định pháp luật làm cho người thi hành công vụ cũng lúng túng dễ xảy ra
sai sót. Vấn đề này nếu không được kịp thời khắc phục sẽ dẫn đến hiệu quả
của công tác tổ chức thi hành án không đạt hiệu quả, là nguyên nhân phát sinh
khiếu nại, do đó cần tiến hành sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật thi hành án
dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể:
3.2.1. Giải pháp chung
+ Thứ nhất, đối với Luật Thi hành án dân sự cần sửa đổi, bổ sung,
bãi bỏ một số quy định về thủ tục và quy trình, như sau:
- Về thông báo thi hành án đề nghị tăng thời hạn xác minh đối với các
vụ việc phức tạp, ít nhất là 10 ngày theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật
sửa đổi bổ sung.
Về vấn đề này, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thực
hiện chưa có quy định các tiêu chí xác định đối với vụ việc phức tạp. Tuy
nhiên, để đảm bảo thời hạn xác minh điều kiện thi hành án đúng pháp luật thì
cũng cần xem xét đối với những trường hợp quyết định thi hành án có nhiều
người phải thi hành và có nơi ở, làm việc khác nhau thì cân nhắc tới việc tăng
thời hạn xác minh cho phù hợp với điều kiện thực tế để đảm bảo thời hạn thực
hiện việc xác minh điều kiện thi hành án đúng pháp luật.
72
Do vậy, đề nghị sửa đổi khoản 1 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự theo
hướng tăng thời hạn xác minh điều kiện thi hành án từ 10 ngày lên 15 ngày
đối với những quyết định thi hành án có nhiều người phải thi hành án...
- Về việc phân loại án, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 44a Luật
Thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ban hành quyết
định về việc chưa có điều kiện thi hành khi chưa xác định được địa chỉ, nơi cư
trú của người phải thi hành án, người chưa thành niên được giao cho người
khác nuôi dưỡng. Cũng với lý do này, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều
48 Luật thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ban hành quyết định hoãn
thi hành án; khoản 3 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn: Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi
hành án. Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án phải ghi rõ việc thi
hành án bị hoãn theo điểm b khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.
Về vấn đề này, trường hợp cơ quan thi hành án chưa xác định được địa
chỉ người phải thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra một
quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án và trong nội dung quyết định
đó phải ghi rõ việc thi hành án bị hoãn theo điểm b khoản 1 Điều 48 Luật thi
hành án dân sự mà không phải ra quyết định hoãn thi hành án. Tuy nhiên, để
thống nhất biện pháp thực hiện, tránh việc áp dụng tùy tiện, trùng lặp, đề nghị
xem xét bãi bỏ điểm b khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.
Theo điểm b khoản 1 Điều 44a quy định: “người phải thi hành án phải
thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư
hỏng đến mức không thể sử dụng được; phải trả giấy tờ nhưng giấy tờ không
thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được mà đương sự không có thỏa thuận
khác” thì được xác định việc chưa có điều kiện thi hành.
Về vấn đề này, do đối tượng thi hành án không còn. Do vậy, việc đưa
vào chưa có điều kiện thi hành án sẽ làm tăng lượng án tồn đọng kéo dài,
73
không phù hợp với điều kiện thực tế. Đề nghị nghiên cứu để có biện pháp giải
quyết triệt để vấn đề này.
- Về việc kê biên quyền sử dụng đất tại Điều 110 Luật quy định về quyền
sử dụng đất được kê biên, bán đấu giá để thi hành án, theo đó: “ 2. Người phải
thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc
trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa
có quyết định thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó”.
Tuy nhiên, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy định về điều kiện thực hiện
các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng
cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất, theo đó:
“a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và
trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này”.
Như vậy, quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 110 Luật có sự mâu thuẫn
với quy định của Luật Đất đai, gây khó khăn cho Chấp hành viên khi kê biên,
bán đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án.
+ Đề nghị bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự về quy
trình tổ chức thi hành án, như sau.
- Về đình chỉ thi hành án quy định tại Điều 50 Luật THADS, theo quy
định tại Điều 372 Bộ luật dân sự năm 2015 thì căn cứ chấm dứt nghĩa vụ gồm
“Bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một”, “vật đặc định là đối
tượng của nghĩa vụ không còn và được thay thế bằng nghĩa vụ khác”. Để phù
hợp với quy định mới này của Bộ luật dân sự năm 2015, cần bổ sung vào Điều
50 Luật với 2 căn cứ quy định tại Điều 372 nêu trên để áp dụng thống nhất.
+ Về những vấn đề khác Luật Thi hành án dân sự chưa có quy định
- Về chuyển giao nghĩa vụ thi hành án
Luật Thi hành án dân sự quy định trường hợp thi hành nghĩa vụ về tài
sản mà người phải thi hành án chết; nhưng đối với trường hợp người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan đứng tên chủ sở hữu, sử dụng tài sản đảm bảo thi hành
74
án chết (trong các vụ việc tín dụng, ngân hàng) thì luật chưa có quy định. Việc
tài sản đảm bảo thi hành án là tài sản thế chấp đứng tên sở hữu, sử dụng của
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được thông qua hợp đồng ủy quyền
hoặc bảo lãnh. Theo quy định của Luật dân sự khi bên ủy quyền chết thì hợp
đồng ủy quyền chấm dứt; trường hợp bên bảo lãnh là cá nhân chết thì bảo
lãnh chấm dứt, nghĩa vụ bảo lãnh được chuyển giao cho người thừa kế Từ đấy
có thể thấy khi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng tên chủ sở hữu,
sử dụng tài sản đảm bảo thi hành án chết được xác định là sự kiện pháp lý ảnh
hưởng đến việc xử lý tài sản đảm bảo thi hành án, nhưng Luật không quy định
cụ thể đã ảnh hưởng đến quá trình thi hành án.
- Về thi hành quyết định giám đốc thẩm
Khoản 50 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2011 và Điều 343 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy
định thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, theo đó, Hội đồng xét
xử giám đốc thẩm có thẩm quyền hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết
định của Tòa án; sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án.
Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm
2014 chưa quy định về thi hành quyết định giám đốc thẩm hủy một phần và
sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án.
+ Đề nghị bãi bỏ quy định về kết thúc thi hành án
Theo khoản 1 Điều 52 Luật Thi hành án dân sự quy định về “kết thúc
thi hành án”, trong đó: “có xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc
đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình”.
Về vấn đề này, theo Điều 53 Luật Thi hành án dân sự quy định, thì việc
xác nhận kết quả thi hành án khi có yêu cầu của đương sự. Do vậy, quy định
tại khoản 1 Điều 52 không còn phù hợp, vì không phải mọi trường hợp các
đương sự đều xin xác nhận. Việc xác nhận thi hành án, về cơ bản chỉ liên
quan đến việc người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù để làm căn
cứ trong việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án tù giam có thời hạn. Do vậy, để
75
giảm bớt các thủ tục hành chính, đề nghị xem xét bãi bỏ khoản 1 Điều 52 là
phù hợp.
+ Thứ hai, sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 62/2015/NĐ-
CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án dân sự:
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5, K1, điều 6, Thông tư 10/2010/TT-
BNV ngày 28/10/2010 của Bộ nội vụ quy định: Chấp hành viên sơ cấp có trách
nhiệm trực tiếp tổ chức thi hành án đối với vụ việc đơn giản, lượng tiền, tài sản
phải thi hành án có giá trị nhỏ thuộc thẩm quyền thi hành án. Chấp hành viên
trung cấptổ chức vụ việc thi hành án dân sự phức tạp, số tiền, tài sản lớn.
Tuy nhiên, đến nay, chưa có văn bản nào quy định như thế nào là "vụ việc đơn
giản, phức tạp; lượng tiền, tài sản phải thi hành án có giá trị nhỏ, lớn".
Theo quy định tại Thông tư 10/2010/TT-BNV thì Chấp hành viên sơ
cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành án dân sự, có trách nhiệm
trực tiếp tổ chức thi hành án đối với vụ việc đơn giản, lượng tiền, tài sản phải
thi hành án có giá trị nhỏ. Chấp hành viên trung cấp tổ chức vụ phức tạp, có
giá trị lớn. Việc tổ chức thi hành án liên quan đến quy định về thẩm quyền xét
xử của Tòa án nhân dân các cấp tại Điều 35 của Luật, theo đó “ Cơ quan thi
hành án dân sự cấp huyện có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sau
đây: “a) Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ quan thi hành án dân sự có trụ
sở”. Tuy nhiên, theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ
sung năm 2011, được sửa đổi, bổ sung năm 2015 thì Tòa án cấp quận, huyện,
thị xã xét xử các tranh chấp về dân sự, kinh doanh, thương mại mà không
giới hạn về giá trị tài sản. Như vậy, việc quy định về nhiệm vụ của Chấp hành
viên sơ cấp, trung cấp tại thông tư 10/2010/TT-BNV là không còn phù hợp.
76
Do đó, cần quy định bổ sung tại NĐ số 62/2015/NĐ-CP theo hướng bỏ
quy định trên.
- Quy định từ chối yêu cầu thi hành án
Theo quy định tại khoản 4 Điều 7 NĐ số 62/2015/NĐ-CP thì: Cơ quan
thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án theo quy định tại Điểm a
Khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự trong trường hợp bản án, quyết
định không xác định cụ thể người phải thi hành án và nghĩa vụ phải thi hành
án. Thực tế, chỉ cần 1 tiêu chí “không xác định được người phải thi hành án”
hoặc “không xác định được nghĩa vụ phải thi hành án” là việc tổ chức thi
hành án gặp nhiều khó khăn, nhiều vụ việc không thi hành án được.
Trong thực tế, khi bản án, quyết định của Tòa án không rõ về người
phải thi hành án hoặc nghĩa vụ phải thi hành án dẫn đến gặp rất nhiều khó
khăn trong quá trình tổ chức thi hành án. Để tổ chức thi hành, cơ quan THA
phải có văn bản đề nghị Tòa án nơi ban hành giải thích, đính chính rất mất
nhiều thời gian, dẫn đến đương sự cho rằng cơ quan THADS chưa tích cực tổ
chức thi hành án. Trách nhiệm của đương sự: Khi nhận thấy bản án, quyết
định của Tòa án tuyên không rõ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của mình thì phải tự đề nghị Tòa án giải quyết xem xét lại theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm hoặc giải thích, đính chính bản án, quyết định. Do đó, nên
quy định bổ sung khi sửa đổi Nghị định số 62/2015/NĐ-CP theo hướng như
sau: “Cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án theo quy định tại
Điểm a Khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự trong trường hợp bản án,
quyết định không xác định cụ thể người phải thi hành án hoặc nghĩa vụ phải
thi hành án”.
- Quy định về đình chỉ thi hành án
Theo quy định khi có căn cứ tại điểm c, khoản 1 Điều 50 Luật thì cơ
quan THADS ra quyết định đình chỉ thi hành án. Tuy nhiên, Điều luật chưa
77
quy định việc người được thi hành án không có quyền yêu cầu thi hành án trở
lại mà chỉ thể hiện trong nội biểu mẫu của quyết định.
Việc định chỉ thi hành án theo điểm c, khoản 1 Điều 50 Luật là do
đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản
yêu cầu cơ quan THADS đình chỉ một phần hay toàn bộ quyền, lợi ích theo
bản án, quyết định. Trên thực tế, sau khi cơ quan THADS ra quyết định đình
chỉ thi hành án, các đương sự lại thay đổi quan điểm tiếp tục đề nghị tổ chức
thi hành án gây mất thời gian, không đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật. Do đó, cần thiết phải quy định, người được thi hành án không có quyền
yêu cầu thi hành án trở lại trong trường hợp đình chỉ quy định tại điểm c,
khoản 1 Điều 50 Luật. Do đó, đề nghị bổ sung trong Nghị định sửa Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
- Về thẩm định giá
Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-
CP thì “Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng”, đồng thời, tại
đ Điểm c, khoản 1, Điều 43 Nghị định quy định: "Chi phí cho việc Chấp hành
viên xác minh, xác định giá trị tài sản trước khi cưỡng chế để áp dụng biện
pháp cưỡng chế tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành án, chi phí cần thiết để
áp dụng theo Điều 90 Luật Thi hành án dân sự". Tuy nhiên, Luật, Nghị định
không quy định Chấp hành viên tự xác định giá trị tài sản Luật chưa quy định
tự xác định theo trình tự, thủ tục và cơ chế nào (Chấp hành viên tự xác định
giá trị tài sản hay ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá để xác định).
Liên quan đến nội dung này, về nguyên tắc kê biên tài sản phải tương
ứng với nghĩa vụ mà người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ theo
quyết định của bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, Pháp luật THADS
chưa quy định trước khi ban hành quyết định cưỡng chế, Chấp hành viên phải
tự xác định giá trị tài sản hay ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá để xác
định giá trị tài sản. Việc Chấp hành viên xác định giá trị tài sản theo cơ chế
78
nào Luật cũng không quy định rõ. Trường hợp Chấp hành viên ký hợp đồng
với cơ quan thẩm định giá để xác định giá trị tài sản trong khi chưa có quyết
định cưỡng chế là không khả thi (chưa có các tài liệu chứng minh nguồn gốc,
mô tả tài sản). Do đó, đề nghị quy định bổ sung khi sửa đổi Nghị định số
62/2015/NĐ-CP.
- Quy định về chuyển giao nghĩa vụ, tại khoản 2, khoản 3 Điều 54 Luật
Thi hành án sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định:
“2. Trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án là cá
nhân chết thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác
theo quy định của pháp luật về thừa kế.
3. Trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì tổ chức, cá
nhân được chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án có quyền làm đơn yêu
cầu thi hành án hoặc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thi hành án theo quy
định của Luật này.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án đối
với cá nhân, tổ chức mới tương ứng với quyền, nghĩa vụ thi hành án được
chuyển giao và ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án trước đây.”
Như vậy khi người phải thi hành án là cá nhân chết, Cơ quan thi hành
án phải xác định được người thừa kế nhận thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Sau
đó, Thủ trưởng cơ quan thi hành án thu hồi quyết định thi hành án trước đây
và ra quyết định thi hành án đối với cá nhân mới.
Để làm rõ thêm vấn đề này, tại điểm b, khoản 1 Điều 15 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP quy định: “b) Trường hợp người phải thi hành nghĩa vụ về
thanh toán tiền đã chết mà có để lại tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự có
văn bản thông báo, ấn định trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông
báo hợp lệ, để người thừa kế hoặc người quản lý di sản của người phải thi
hành án thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành
án để lại. Hết thời hạn này, nếu người thừa kế hoặc người quản lý di sản
79
không thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được việc thực hiện nghĩa vụ của
người phải thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp bảo
đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản để lại của người phải thi
hành án để đảm bảo thi hành án, đồng thời ấn định trong thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày được thông báo hợp lệ, để những người liên quan đến tài sản thực hiện
quyền khởi kiện phân chia di sản thừa kế. Hết thời hạn thông báo về thực
hiện quyền khởi kiện phân chia di sản thừa kế mà không có người khởi kiện
thì cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản để thi hành án.
Trường hợp chưa xác định được người thừa kế thì cơ quan thi hành án
dân sự thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết
tại nơi có tài sản, trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản trong thời
gian 03 tháng, kể từ ngày thông báo, niêm yết để người thừa kế biết, liên hệ
và thực hiện nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án để lại; hết thời
hạn này mà không có người khai nhận thừa kế thì cơ quan thi hành án
dân sự xử lý tài sản để thi hành án.”
Theo quy định trên thì trường hợp chưa xác định được người thừa kế
thực hiện nghĩa vụ thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự vẫn xử lý tài sản để
thi hành án. Bên cạnh đấy, theo quy định tại Khoản 2, khoản 3 Điều 54 Luật
Thi hành án 2014 đã nêu trên, khi chưa xác định được người thừa kế thì không
thể thu hồi quyết định thi hành án trước đây đối với người phải thi hành án đã
chết để ra quyết định thi hành án mới đối với người thừa kế. Như vậy, Chấp
hành viên có được xử lý tài sản để thi hành án khi chưa ra được quyết định thi
hành án mới hay không, vẫn chưa được Luật và Nghị định làm rõ.
+ Thứ ba, sửa đổi, bổ sung một số điều quy định về việc giải quyết
khiếu nại theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, như sau:
- Về thời hạn giải quyết khiếu nại, đề nghị xem xét sửa đổi Điều 146
Luật Thi hành án dân sự, theo hướng tăng thêm thời hạn về giải quyết khiếu
nại, được như vậy sẽ tạo điều kiện tâm lý tốt cho người có thẩm quyền giải
80
quyết khiếu nại, không còn bị áp lực lớn về thời gian giải quyết. Theo đó,
cũng quy định về trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại phải gắn với
chất lượng giải quyết, có thể hiểu là tăng thời gian giải quyết để chất lượng
giải quyết cũng phải tăng lên, đảm bảo việc xem xét giải quyết khiếu nại của
đương sự được thấu đáo.
- Bổ sung quy định tại Điều 142 Luật Thi hành án dân sự về thẩm
quyền giải quyết khiếu nại đối với Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự khi
thực hiện nhiệm vụ của Chấp hành viên, cục thể:
Theo khoản 1 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự quy định“Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện giải quyết khiếu nại đối với quyết định,
hành vi trái pháp luật của Chấp hành viên thuộc quyền quản lý của cơ quan
thi hành án dân sự cấp huyện”, tại điểm c khoản 2 điều luật này quy định Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh giải quyết đối với “... quyết định
giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện.
Quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh có hiệu lực thi hành”.
Tuy nhiên, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 23 Luật Thi hành án
dân sự quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có các nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây: “ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên”.
Theo đó, ta có thể hiểu Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự (các cấp) bắt
buộc phải là Chấp hành viên theo quy định và họ có quyền hạn thực hiện
nhiệm vụ dưới vai trò của Chấp hành viên. Đối chiếu theo quy định tại khoản
2 Điều 142 nên thì trường hợp khi Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
thực hiện nhiệm vụ của Chấp hành viên mà bị khiếu nại thì Luật chưa có quy
định cụ thể rõ thẩm quyền giải quyết đối với khiếu nại đó. Thông thường
trong thực tế hiện nay khi Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện
thực hiện nhiệm vụ của Chấp hành viên mà bị khiếu nại thì Thủ trưởng cơ
81
quan thi hành án dân sự cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) sẽ thụ lý
giải quyết, theo tôi như vậy là bất hợp lý bởi vì:
Nhiệm vụ quyền hạn của Chấp hành viên thì được quy định cụ thể tại
Điều 20 Luật Thi hành án dân sự, khi thi hành nhiệm vụ dưới vai trò của Chấp
hành viên thì đều có chức năng, trách nhiệm như nhau, không phân biệt Chấp
hành viên thường hay Chấp hành viên đồng thời là Thủ trưởng đơn vị, nên khi
Chấp hành viên mặc dù là Chi cục trưởng bị khiếu nại thì phải giải quyết cấp
từ cơ sở và quy định về thẩm quyền giải quyết phải đưa vào quy định của
Luật Thi hành án dân sự.
- Bổ sung thẩm quyền của Bộ trưởng, theo quy định tại điểm b khoản 4
Điều 142 Luật Thi hành án dân sự quy định “ Trường hợp cần thiết, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có
hiệu lực thi hành quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này”, với những quy
định như trên thì Bộ trưởng chỉ có thẩm quyền xem xét đối với quyết định có
hiệu lực của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và Thủ trưởng cơ
quan quản lý thi hành án dân sự, không có thẩm quyền xem xét đối với quyết
định đã có hiệu lực đối với hành vi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành
án (được quy định từ Điều 66 đến Điều 69 của Luật Thi hành án dân sự) của
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện, bởi vì theo quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 140 Luật Thi hành án thì khiếu nại đối với hành vi này
chỉ giải quyết một lần và có hiệu lực thi hành ngay. Do đó, đề xuất sủa quy
định tại điểm b khoản 4 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự theo hướng “
Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại các quyết
định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành”. Như vậy mới không bỏ sót
đối với quyết định giải quyết khiếu nại hành vi của Chấp hành viên cấp huyện
khi thực hiện các biện pháp bảo đảm.
- Bổ sung rõ quy trình và hình thức đối với việc Bộ trưởng Bộ Tư pháp
xem xét trong trường hợp đặc biệt, thực tế hiện nay trong những trường hợp
82
Bộ trưởng xem xét lại thì chưa có quy định hay quy trình cụ thể nào để thực
hiện việc này và hình thức thì cũng không thống nhất, có những vụ việc Bộ
trưởng ban hành Kết luận và có những vụ lại ban hành quyết định giải quyết.
Do đó, phải bổ sung quy trình và hình thức đối với việc Bộ trưởng Bộ Tư
pháp xem xét lại, như vậy việc giải quyết khiếu nại mới đảm bảo được tính
thống nhất và xuyên suốt từ trên xuốn dưới, tránh tình trạng như hiện nay là
ban hành kết luận cũng được và ban hành quyết định cũng xong.
- Bổ sung quy định về thông báo chấm dứt giải quyết khiếu nại, đối với
những vụ việc đã được xem xét giải quyết và không thụ lý giải quyết một số
khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng kéo dài qua rà soát đã kết luận rằng các
vụ việc đó đã được giải quyết đúng chính sách pháp luật “thấu tình, đạt lý” 12.
12 Công văn số 2695/TTCP-VP ngày 19 tháng 10 năm 2012 của Thanh tra Chính phủ V/v
hướng dẫn ra thông báo chấm dứt giải quyết khiếu nại, tố cáo sau rà soát theo Kế
hoạch 1130/KH-TTCP của Thanh tra Chính phủ,
83
3.2.2. Giải pháp cụ thể
3.2.2.1. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng. Đề cao
trách nhiệm của người đứng đầu trong giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự
Kinh nghiệm cho thấy nơi nào cấp ủy Đảng quan tâm chỉ đạo, kiểm tra,
đôn đốc thì nơi đó có sự chuyển biến rõ rệt về công tác tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại và đã đem lại hiệu quả thiết thực; nơi nào thiếu sự quan tâm,
kiểm tra, đôn đốc thì nơi đó chất lượng công tác này sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Từ đó, để thực hiện giải quyết khiếu nại về hoạt động thi hành án dân sự được
tốt, các cấp ủy Đảng trong các cơ quan thi hành án dân sự phải luôn quán triệt
các quan điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng, nhất là Chỉ thị 35-CV/TW ngày
26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại, tố cáo coi đây là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên, đồng thời tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đối
với công tác này.
Cùng với việc tăng cường vai trò của cấp ủy, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự các cấp thường xuyên, liên tục tổ chức tuyên truyền, phổ biến
pháp luật liên quan đến tiếp dân, khiếu nại. Đồng thời, tổ chức tập huấn,
hướng dẫn nghiệp vụ về công tác tiếp dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại
thi hành án dân sự cho cán bộ trực tiếp làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu
nại của cấp mình nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hạn chế
những sơ hở, sai phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ, chủ động tổ chức nghiên cứu, quán triệt, tuyên
truyền, phổ biến sâu rộng Luật Hòa giải ở cơ sở, Nghị định số 15/2014/NĐ-
CP ngày 27 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản pháp luật
có liên quan nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trên
địa bàn, đặc biệt là người dân cơ sở về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác
này. Từ đó, sử dụng ngày càng nhiều hơn biện pháp hòa giải để giải quyết các
84
vụ việc thi hành án dân sự. Xác định công tác hòa giải là một trong những
nhiệm vụ quan trọng góp phần tích cực vào việc đảm bảo ổn định trật tự, an
toàn xã hội và đối với công tác giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự.
Thủ trưởng các cơ quan thi hành án dân sự cần kiểm tra, rà soát những
vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền còn tồn đọng
để đẩy nhanh tiến độ; giải quyết dứt điểm vụ việc khiếu nại đúng trình tự, thủ
tục, kịp thời, đúng thời gian và đúng quy định của pháp luật nhằm hạn chế
tình trạng đơn thư vượt cấp. Đặc biệt chỉ đạo giải quyết những vụ việc khiếu
nại đông người, phức tạp ngay từ cơ sở, không để khiếu kiện vượt cấp đến
thành phố, Trung ương và phát sinh thành "điểm nóng" gây phức tạp về an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Quá trình giải quyết khiếu nại cần làm rõ
nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại để rút kinh nghiệm, chấn chỉnh công tác
thi hành án dân sự, đồng thời xác định rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm minh
theo quy định của pháp luật những trường hợp vi phạm trong quá trình tổ
chức thi hành án dân sự trái pháp luật.
3.2.2.2. Thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật, Quy chế nghiệp vụ của
ngành trong giải quyết khiếu nại trong hoạt động thi hành án dân sự
Thực hiện các quy định của pháp luật, Quy chế nghiệp vụ của ngành
trong hoạt động giải quyết khiếu nại trong hoạt động thi hành án dân sự là yêu
cầu khách quan, đòi hỏi những người có trách nhiệm, thẩm quyền phải tự
giác, nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ, đúng đắn và các quy định pháp luật
khác có liên quan. Cụ thể như: thực hiện đầy đủ chế độ trách nhiệm giải quyết
khiếu nại: trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền,
trách nhiệm chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại. Nhiều trường hợp do
thiếu trách nhiệm, chưa giải quyết kịp các khiếu nại để người khiếu nại đi lại
nhiều gây bức xúc và mất niềm tin vào các cơ quan pháp luật nên họ gửi đơn
đến cả các cơ quan không có thẩm quyền giải quyết ở Trung ương của Đảng,
Nhà nước. Do vậy thực hiện đầy đủ chế độ trách nhiệm giải quyết khiếu nại
85
sẽ góp phần làm giảm các khiếu nại bức súc, kéo dài. Bảo đảm cho người
khiếu nại, người bị khiếu nại thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình
theo quy định của pháp luật. Việc bảo đảm những quyền và nghĩa vụ của người
khiếu nại có vai trò quan trọng trong việc giải quyết được khách quan, công
bằng đúng pháp luật những vụ việc khiếu nại, tố cáo. Tuân thủ quy định về việc
ban hành quyết định giải quyết khiếu nại theo đúng quy định. Quyết định giải
quyết khiếu nại là những văn bản áp dụng pháp luật quan trọng nên các văn
bản giải quyết nêu trên phải đúng về hình thức, chặt chẽ về nội dung, phản ánh
chân lý khách quan của quá trình xác minh, giải quyết những vụ việc khiếu nại
cụ thể, để tránh những khiếu kiện không đáng có.
Đối với Tổng cục Thi hành án dân sự và Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự địa phương, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực
hiện chỉ đạo và hướng dẫn các các cơ quan thi hành án dân sự địa phương làm
tốt công tác phối hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân. Mục tiêu
của công tác này nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật cho công
dân, góp phần hạn chế việc khiếu nại không đúng cơ quan có thẩm quyền giải
quyết, khiếu nại đông người, vượt cấp trái với quy định của pháp luật về
khiếu nại ở địa phương.
- Công tác giải quyết khiếu nại phải được tiến hành theo đúng quy
trình, bảo đảm về thời gian, việc giải quyết phải phản ánh đúng thực tế, phù
hợp chính sách pháp luật, giải quyết dứt điểm tránh để công dân khiếu nại
nhiều lần, vượt cấp. Tăng cường nhận thức về pháp luật và trách nhiệm trong
giải quyết khiếu nại của cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại. Xử lý
nghiêm với hành vi né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, không thực hiện đúng
trách nhiệm, có hành vi bao che, cố ý làm sai hoặc không nghiêm túc thực
hiện triệt để ý kiến chỉ đạo của cấp trên.
- Thực hiện tốt công tác quản lý về khiếu nại từ trên xuống dưới để kịp
thời có biện pháp điều chình, chấn chỉnh, chỉ đạo nhằm mang hiệu quả giải
86
quyết đạt cao trong toàn hệ thống. Thực hiện tốt việc báo cáo thống kê các vụ
việc khiếu nại chính xác, không để bị động và lúng túng trong chỉ đạo khi xử
lý tình huống phức tạp xảy ra. Các cấp phải lập kế hoạch giải quyết cụ thể,
giải quyết đúng trọng tâm khiếu nại của công dân, giải quyết kịp thời những
vụ việc phát sinh mới.
- Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật, các quy
định chung của ngành; đảm bảo việc giải quyết khiếu nại phải tuân thủ các
quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật về khiếu nại. Với
mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động, giải quyết khiếu nại đúng thời hạn,
đúng pháp luật ngay từ cơ sở, hạn chế đến mức thấp nhất khiếu nại mới phát
sinh, khiếu nại vượt cấp. Mọi khiếu nại phải được xem xét, xử lý, giải quyết
đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức
và người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án dân sự. Đối với
công tác thi hành án dân sự nói chung, công tác giải quyết khiếu nại nói riêng,
tính thống nhất của việc áp dụng trước hết cần phải đảm bảo đầy đủ, đúng quy
định của pháp luật, đúng hướng dẫn của ngành về nội dung, hình thức và
phương pháp thực hiện.
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra, thanh
tra, quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo một cách nghiêm túc, kịp
thời. Đối với các vụ việc khiếu nại mà nội dung khiếu nại của người khiếu nại
được Thủ trưởng cơ quan thi hành án chấp nhận toàn bộ hoặc chấp nhận một
phần thì sau khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, Thủ trưởng có
trách nhiệm đôn đốc, chỉ đạo thi hành nghiêm chỉnh và báo cáo kết quả để
đảm bảo văn bản giải quyết khiếu nại được thực thi có hiệu lực, hiệu quả trên
thực tế; kiến nghị cấp có thẩm quyền quyết định xử lý vi phạm phát hiện được
thông qua kiểm tra, giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền.
- Những vụ việc thi hành án dân sự có khiếu nại bức xúc kéo dài mà
nguyên nhân do các đơn vị, tổ chức hoặc cá nhân không chấp hành án cần
87
phải có biện pháp yêu cầu thực hiện việc thi hành án. Những trường hợp do
các ngành, các cơ quan hữu quan chưa thống nhất ý kiến, thiếu đồng tình với
phán quyết của Toà án thì phải có biện pháp tháo gỡ, giải quyết kịp thời, rõ
ràng, ngăn ngừa việc đương sự lợi dụng khiếu nại kéo dài, vượt cấp gây mất
trật tự, an toàn ở địa phương. Trường hợp cần thiết, phải báo cáo cơ quan Thi
hành án dân sự cấp trên để tìm biện pháp giải quyết, tránh trường hợp do chưa
có ý kiến thống nhất giữa một số ngành ở địa phương mà cơ quan thi hành án
phó mặc, buông xuôi việc tổ chức thi hành án dẫn đến vụ việc phức tạp lại
càng phức tạp khiến khiếu nại bức xúc, gay gắt hơn.
- Đối với việc khiếu nại do nguyên nhân khách quan, liên quan đến các
ngành, các cấp thì cần tập hợp đầy đủ các thông tin, những vấn đề vướng mắc
để kiến nghị với cơ quan liên quan, báo cáo Ban chỉ đạo, Chủ tịch UBND
cùng cấp và Tổng cục Thi hành án dân sự để kịp thời chỉ đạo giải quyết. Đối
những vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự cần xem xét thì phải thụ lý, lập thủ tục giải quyết kịp thời, ngay tại
nơi phát sinh, không để khiếu nại vượt cấp, kéo dài. Trong quá trình giải
quyết khiếu nại cần tôn trọng người khiếu nại, không được định kiến, xem
thường, thờ ơ hoặc có các biểu hiện khác. Đối với các khiếu nại không thuộc
thẩm quyền hoặc khiếu nại nội dung không rõ ràng thì chuyển đến cơ quan có
thẩm quyền giải quyết hoặc chuyển trả cho người khiếu nại.
- Thực hiện việc phân loại tốt đơn khiếu nại từ giai đoạn đầu tiên: Trình
tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự được quy
định chặt chẽ ở các mức khác nhau vì giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi
hành án dân sự là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Đề đảm bảo tính chính
xác về nội dung, về thẩm quyền, về chủ thể có quyền khiếu nại, nên khi giải
quyết đơn thư khiếu nại, cán bộ được phân công giúp Thủ trưởng cơ quan Thi
hành án dân sự phải xác định đúng chủ thể làm đơn có quyền khiếu nại hay
88
không và có thuộc các trường hợp được thụ lý giải quyết theo phương pháp
loại trừ căn cứ vào Khoản 1,2,3 Điều 141 Luật Thi hành án dân sự.
Như vậy, việc bố trí cán bộ tham mưu rất quan trọng, bởi vì khi tiếp
nhận đơn họ phải xem kỹ nội dung đơn khiếu nại, bản án và các tài liệu kèm
theo để xác định người khiếu nại là ai, khiếu nại nội dung gì, người khiếu nại
có liên quan đến việc thi hành án hay không, việc làm của cơ quan Thi hành
án dân sự có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
khiếu nại hay không. Nếu trú trọng trong việc lựa chọn, bố trí người có trách
nhiệm, trình độ vào khâu đầu tiên này thì việc giải quyết khiếu nại các bước
tiếp theo sẽ được thuận lợi.
3.2.2.3. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị nghiệp vụ thuộc
các cơ quan thi hành án dân sự và giữa cơ quan thi hành án dân sự với các
cơ quan hữu quan, đặc biệt là Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân, các cơ quan
tư pháp khác về giải quyết khiếu nại trong hoạt động thi hành án dân sự.
Thực tiễn hoạt động công tác giải quyết khiếu nại cho thấy, nơi nào xây
dựng được mối quan hệ phối hợp tốt giữa các bộ phận đơn vị nghiệp vụ trong
ngành với nhau và giữa các cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan tư
pháp khác thì nơi đó có điều kiện để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của
mình. Mối quan hệ phối hợp ở đây phải được xác định bao gồm quan hệ phối
hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quan hệ phối hợp trong hoạt
động tác nghiệp nghiệp vụ, báo cáo tổng hợp. Quan hệ phối hợp có tác dụng
hỗ trợ tích cực cho các công việc được tiến hành thuận lợi. Quan hệ phối hợp
không chỉ được thiết lập giữa các bộ phận đơn vị trong nội bộ Viện kiếm sát
mà còn phải thiết lập với cơ quan, tổ chức khác mà trước hết là các cơ quan tư
pháp, như Toà án nhân dân, Công an, Việt Kiểm sát nhân dân vì công tác thi
hành án dân sự có liên quan chặt chẽ với chuỗi các hoạt động tuy khác nhau,
do các chủ thể là khác nhau hoặc cùng trong một hệ thống cơ quan thi hành
án dân sự nhưng ở các cấp khác nhau thực hiện, thực chất lại có liên quan mật
89
thiết với nhau, giai đoạn trước kết thúc trở thành căn cứ cho giai đoạn sau tiếp
tục, giai đoạn sau lại có thể xem xét lại tính đúng đắn trong hoạt động của giai
đoạn trước, do đó, việc phối hợp giữa cơ quant hi hành án dân sự là yếu tố rất
quan trọng trong giải quyết đúng đắn các vụ việc, cũng như trong giải quyết
khiếu nại thi hành án dân sự.
3.2.2.4. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội trong công tác giải
quyết khiếu nại thi hành án dân sự; giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp
Các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan tư pháp phối hợp chặt chẽ
với các cấp chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết
đơn, thư khiếu nại trong thi hành án dân sự. Nâng cao chất lượng, hiệu qủa
công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại của Đoàn đại biểu Quốc hội,
HĐND, các đại biểu Quốc hội và HĐND, UBMTTQVN và các đoàn thể
chính trị - xã hội.
3.2.2.5. Tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
làm công tác giải quyết khiếu nại trong hoạt động thi hành án dân sự.
Để giải quyết tốt khiếu nại thuộc thẩm quyền thì công chức, nhất là cán
bộ làm công tác tham mưu giải quyết khiếu nại phải có trình độ chuyên môn
vững vàng, nắm chắc các quy định của pháp luật, có tinh thần trách nhiệm,
đạo đức nghề nghiệp và đồng thời phải tuân thủ các thủ tục, quy trình giải
quyết khiếu nại, tố cáo được quy định tại quy chế nghiệp vụ của ngành.
Chú trọng đào tạo Thẩm tra viên. Tập trung xây dựng, kiện toàn đội
ngũ cán bộ đủ về số lượng, được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ về
công tác kiểm tra, tiếp dân, xử lý giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành
án dân sự. Khắc phục tình trạng nhiều địa phương còn thiếu Thẩm tra viên (có
những đơn vị Cục Thi hành án dân sự chỉ có duy nhất 01 Thẩm tra viên nên
việc thực hiện theo chức năng nhiệm vụ bị chồng chéo, vừa kiểm tra hồ sơ
của Chấp hành viên, vừa phải kiểm tra theo định kỳ đối với các đơn vị cấp
90
dưới nên hiệu quả công việc chưa cao). Do đó, để đáp ứng nhu cầu tại các cơ
quan thi hành án dân sự trong cả nước hiện đang còn thiếu, đề nghị Lãnh đạo
Tổng cục và Cục Thi hành án dân sự tiến hành rà soát lại đội ngũ cán bộ trực
thuộc đủ tiêu chí để bổ nhiệm, cần quan tâm trú trọng để lựa chọn, bổ nhiệm
đủ số lượng Thẩm tra viên trong các cơ quan thi hành án dân sự trên toàn
quốc, đặc biệt đối với các Thẩm tra viên làm công tác giải quyết khiếu nại thì
ngoài trình độ theo yêu cầu thì cần phải có kinh nghiệm thực tế và cần quan
tâm và có chế độ thu hút, hỗ trợ đối với đội ngũ Thẩm tra viên làm công tác
giải quyết khiếu nại, vì đội ngũ làm công tác giải quyết khiếu nại chịu áp lực
rất lớn trong công việc có tính đặc thù riêng.
3.2.2.6. Tiếp tục nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng
Có thể nói, quá trình thi hành án phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của
các giai đoạn trước đó như giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Nếu các bản án
xét xử không công minh, không khả thi, không áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời thì khó nói hoạt động thi hành án dân sự được hiệu quả, vì vậy
cần nâng cao chất lượng cũng như trách nhiệm của các cơ quan này hơn nữa.
Mặt khác, công tác giải quyết khiếu nại là quá trình phản ánh cái "tâm" của
Nhà nước đối với công dân. Nếu các cơ quan thay mặt Nhà nước để giải
quyết việc cho công dân không có được sự tự nguyện, không dám chịu trách
nhiệm, không dám nhận lỗi và lảng tránh, trì hoãn trách nhiệm của mình thì
không chỉ công dân lại thêm một lần bị thiệt thòi.
Theo quan điểm phòng hơn là chống, đảm bảo bảo quyền của công dân
được do hành vi trái pháp luật, trước hết, phải hạn chế các nguy cơ xảy ra sai
phạm như do các nguyên nhân khách quan như tính chất phức tạp của vụ án,
do nhiều nguyên nhân chủ quan xuất phát từ trình độ nghiệp vụ non kém của
những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, do sự thiếu trách nhiệm, qua
loa đại khái, do thoái hóa đạo đức, nhận hối lộ, do bệnh thành tích, nể vì cấp
91
trên hoặc vì các động cơ cá nhân mang tính tiêu cực khác. Vì thế, việc tạo cho
họ một kiến thức, bản lĩnh chuyên môn vững vàng, môi trường làm việc độc
lập, ý thức pháp luật ở trình độ cao trên cơ sở nền tảng văn hóa pháp lý là
điều hết sức cần thiết.
Mặt khác, bên cạnh việc yêu cầu những người tiến hành tố tụng phải
nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm và chất lượng chuyên môn, còn cần phải
chú ý tới việc nâng cao thu nhập, đưa đời sống của những người công chức
được tốt hơn lên, tiến tới "Không thể tham nhũng, không phải tham nhũng và
không muốn tham nhũng". Có như vậy, mới giải quyết được tận gốc vấn đề từ
phía cơ quan nhà nước nói chung.
Kết luận chương 3
Việc giải quyết khiếu nại phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự và pháp luật về khiếu nại.
Để tăng cường và nâng cao hiệu quả đối với công tác quản lý và giải
quyết khiếu nại, Thủ trưởng các cơ quan thi hành án dân sự cần chấn chỉnh,
đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, chú trọng nâng cao chất lượng quyết
định giải quyết khiếu nại; cần chủ động chỉ đạo, tổ chức phối hợp giữa cơ
quan cấp trên với cơ quan cấp dưới; phát huy tối đa hiệu quả việc đối thoại,
gặp gỡ, trao đổi với người khiếu nại đặc biệt là đối với các vụ việc đông
người, phức tạp, gay gắt. Tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết định giải
quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật. Quá trình thực hiện, nếu phát hiện có
92
sai sót, bất hợp lý, thì phải quyết tâm điều chỉnh, sửa sai có phương án giải
quyết khác để bảo đảm quyền lợi của công dân, chấm dứt khiếu kiện, chấm
dứt tình trạng giải quyết hình thức cho hết trách nhiệm, xử lý nghiêm minh
những cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm.
Tiếp tục tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Cấp uỷ Đảng,
chính quyền địa phương trong công tác giải quyết khiếu nại thi hành án dân
sự. Đối với những trường hợp khiếu nại bức xúc, kéo dài, có liên quan đến
nhiều ngành, nhiều cấp ở địa phương, thì cần báo cáo kịp thời cấp uỷ Đảng,
chính quyền địa phương và Ban chỉ đạo thi hành án để đề xuất biện pháp,
hướng chỉ đạo giải quyết. Đồng thời phối hợp các ngành có chức năng tăng
cường hơn nữa trong công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhằm tạo
bước chuyển biến căn bản trong nhận thức của cán bộ và nhân dân đối với
việc chấp hành pháp luật, nhất là pháp luật về khiếu nại.
Mọi khiếu nại phải được xem xét, xử lý, giải quyết đúng pháp luật, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và người có quyền,
nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án dân sự. Khi thực hiện việc xem xét,
giải quyết các khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại của cơ
quan thi hành án dân sự phải nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công
tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự là yêu cầu cần thiết, cấp
bách, vừa là yêu cầu thường xuyên đối với toàn bộ hệ thống cơ quan Thi hành
án dân sự từ Trung ương tới địa phương. Tuy nhiên, để thực hiện được mục
đích và yêu cầu chung, việc đề cao vai trò trách nhiệm, duy trì và tăng cường
hơn nữa công tác quản lý về tổ chức thi hành án dân sự, công tác giải quyết
khiếu nại là vấn đề quan trọng, đòi hỏi mỗi Cơ quan thi hành án dân sự cần
phải quan tâm và nghiêm túc triển khai. Những chuyển biến về mặt nhận thức
và hành động đó, là động lực, là nền tảng góp phần tích cực không nhỏ trong
nỗ lực củng cố, xây dựng và hoàn thiện hoạt động thi hành án của toàn ngành
mà Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp đã và đang đặt ra; phấn đấu
93
hoàn thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước giao
cho.
94
KẾT LUẬN
Giải quyết khiếu nại trong Thi hành án dân sự là lĩnh vực rộng và phức
tạp cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Luận văn đã cố gắng thực hiện các
mục đích và nhiệm vụ của đề tài, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra.
1. Vấn đề đảm bảo quyền công dân, quyền khiếu nại tố cáo cho công
dân đối với hành vi trái pháp luật trong hoạt động của cơ quan nhà nước đã
được Đảng và Nhà nước ta xác định đây là một công việc mang tính cấp bách
và gắn với trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Triển khai
quan điểm mang tính chỉ đạo này, theo quan điểm của tác giả, các giải pháp
phải được đặt ra một cách đồng bộ, trong đó, giải pháp tuyên truyền phổ biến
pháp luật trở thành mối quan tâm hàng đầu, bên cạnh giải pháp về xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra
thanh tra, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả công tác của cơ quan nhà nước có
liên quan như các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan hữu quan và từ phía
bản thân công dân. Đặc biệt, tác giả luận văn cho rằng, quyền của công dân
đối với hành vi trái pháp luật phải được đảm bảo với các giải pháp từ gốc rễ
chứ không phải từ ngọn, đó chính là các giải pháp ngăn chặn oan sai trong
hoạt động của cơ quan nhà nước.
2. Giải quyết khiếu nại thuộc lĩnh vực Thi hành án dân sự là một loại
thủ tục hành chính, quy định về thẩm quyền,trình tự, thủ tục cách thức thực
hiện trong việc giải quyết khiếu nại của đương sự; Đây là thủ tục hành chính
giải quyết các công việc có nội dung tư pháp nhằm hỗ trợ cho hoạt động quản
lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Thủ tục về giải
quyết khiếu nại là một công cụ để cơ quan Thi hành án dân sự tự xem xét, sửa
chữa, khắc phục những sai sót của mình trong hoạt động quản lý hành chính
về thi hành án dân sự; giúp cho Đảng và Nhà nước kịp thời điều chỉnh, đề ra
những chủ trương, chính sách phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước.
3. Tình hình khiếu nại của đương sự về thi hành án dân sự đang có
95
chiều hướng gia tăng về số lượng, gay gắt về tính chất. Số vụ việc khiếu nại
vượt cấp về các cơ quan Trung ương ngày càng nhiều, tình trạng đơn thư
khiếu nại gửi tràn lan tới mọi cấp, mọi ngành diễn ra phổ biến. Số vụ khiếu
nại đông người, phát sinh thành các “điểm nóng” xảy ra ở nhiều địa phương,
nhưng chưa có những giải pháp, những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục
giải quyết đối với các loại khiếu nại này, dẫn đến tình trạng lúng túng cho cơ
quan Thi hành án dân sự và các chủ thể thực hiện thẩm quyền giải quyết
khiếu nại. Hiệu lực, hiệu quả thi hành quyết định giải quyết khiếu nại của một
số đơn vị địa phương còn thấp.
4. Bắt nguồn từ tâm lý "ngại pháp luật" và "sợ pháp luật" sâu xa trong
lịch sử, người dân Việt Nam thích ứng xử theo quan hệ tình cảm và thói quen,
không coi trọng vai trò của Nhà nước và pháp luật - "phép vua thua lệ làng",
"một bồ cái lý không bằng một tý cái tình". Tuy nhiên, đã có sự thay đổi quan
trọng về bản chất của Nhà nước, về trách nhiệm của Nhà nước đối với công
dân. Nhà nước phải quan tâm xem xét các khiếu nại tố cáo của công dân do
hành vi trái pháp luật của những người đại diện cho Nhà nước, cũng như tạo
ra các điều kiện cần thiết khác để đảm bảo cho công dân thực hiện quyền
khiếu nại tố cáo, đưa ra những giải pháp nhằm góp phần bảo vệ triệt để hơn
quyền lợi chính đáng của những công dân bị oan, nhằm xây dựng một nền tư
pháp dân chủ hơn, một xã hội yêu thương con người hơn - một xã hội mà theo
cách nói của Nguyễn Trãi - "khắp nơi hang cùng ngõ hẻm, không đâu còn
tiếng nỉ non, hờn giận, oán sầu". /.
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị 35-CV/TW ngày 26/5/2014.
2. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư 10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010.
3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2016), Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày
01/02/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn
khiếu nại, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự.
4. Chính phủ (2010), Báo cáo số 20/BC-CP ngày 23/10/2010 của Chính
Phủ Báo cáo công tác thi hành án và đặc xá năm 2010.
5. Chính phủ (2011), Báo cáo số 17/BC-CP ngày 18/10/2011 của Chính
Phủ Báo cáo công tác thi hành án và đặc xá năm 2011.
6. Chính phủ (2012), Báo cáo số 289/BC-CP ngày 19/10/2012 của Chính
Phủ Báo cáo công tác thi hành án năm 2012.
7. Chính phủ (2013), Báo cáo số 322/BC-CP ngày 04/9/2013 của Chính
Phủ Báo cáo công tác thi hành án và một số hoạt động bổ trợ tư pháp
năm 2013.
8. Chính phủ (2014), Báo cáo số 307/BC-CP ngày 03/9/2014 của Chính
Phủ Báo cáo công tác thi hành án năm 2014.
9. Chính phủ (2014), Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm
2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều và biện pháp
thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở.
10. Chính phủ (2015), Báo cáo số 566/BC-CP ngày 23/10/2015 của Chính
Phủ Báo cáo công tác thi hành án năm 2015.
11. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thi hành án dân sự.
12. Dung Lê Thị Kim Dung (2009), Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại tại Tổng cục Thi hành án dân sự”.
97
13. Nguyễn Thị Quỳnh Phượng (2010), Luận văn thạc sĩ “Tổ chức và hoạt
động của cơ quan thi hành án cấp tỉnh (thực tiễn từ TPHCM)”.
14. Quốc hội (1989), Pháp lệnh Thi hành án dân sự.
15. Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thi hành án dân sự.
16. Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự.
17. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự.
18. Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại.
19. Quốc hội (2013), Luật Đất đai.
20. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành
án dân sự.
21. Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi bổ
sung năm 2014.
22. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự.
23. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ
sung năm 2011, được sửa đổi, bổ sung năm 2015.
24. Thanh tra Chính phủ (2012), Công văn số 2695/TTCP-VP ngày 19 tháng
10 năm 2012 của Thanh tra Chính phủ V/v hướng dẫn ra thông báo
chấm dứt giải quyết khiếu nại, tố cáo sau rà soát theo Kế
hoạch 1130/KH-TTCP của Thanh tra Chính phủ.
25. Nguyễn Công Toàn (2012), Luận văn thạc sĩ “Khiếu nại và giải quyết
khiếu nại thuộc thẩm quyền của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự”..
26. Từ điển Anh - Việt (1990), Nxb Đồng Nai, tr.205.
27. Lương Thanh Tùng (2008), “Những điểm kế thừa và điểm mới của Luật
thi hành án dân sự 2008 so với pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 và
Luật khiếu nại sửa đổi năm 2005 về giải quyết khiếu nại trong thi hành
án dân sự”, Trang thông tin điện tử của Bộ Tư Pháp.
28. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiềng Việt, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội, tr.904.
98
99
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_giai_quyet_khieu_nai_trong_linh_vuc_thi_hanh_an_dan.pdf