Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng phát triển tất yếu của các quốc gia trên thế giới hiện nay. Và Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Ngay từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng đã xác định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt là đổi mới kinh tế đối ngoại. Hoạt động kinh tế đối ngoại rất phong phú bao gồm mua bán hàng hoá quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ, hợp tác lao động quốc tế Trong đó mua bán hàng hoá quốc tế là hoạt động chủ yếu nhất. Sau hơn 20 năm thực hiện chiến dịch đổi mới, nền kinh tế Việt Nam không những thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng mà còn có những bước phát triển vững chắc. Điều này chứng tỏ Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Cùng với việc chủ trương đổi mới quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập KTQT. Một trong những yêu cầu của quá trình hội nhập này là bảo đảm tôn trọng và thực thi những quy định của các tổ chức quốc tế cũng như những cam kết trong các hiệp định mà Việt Nam là thành viên. Điều đó đòi hỏi Nhà nước ta phải đổi mới hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế để đảm bảo sự tương thích với pháp luật quốc tế và các nước trên thế giới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã yêu cầu: “ Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sau hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới. Thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực khác Chuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện các cam kết sau khi nước ta gia nhập WTO. Khẩn trương đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế”[1].
Lời nói đầu. 1
Chương 1. 5
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 5
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC DẠNG TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ. 5
1.1.1. Khái niệm tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. 5
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 10
1.1.3. Các dạng tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. 11
1.2. TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ. 13
1.2.1. Tình hình tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. 13
1.2.2. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 13
1.3. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 14
1.3.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài 15
1.3.2. Các hình thức trọng tài 17
1.3.3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài 18
1.4. LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 23
Chương 2. 28
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 28
2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 28
2.1.1. Thẩm quyền của Trọng tài giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. 28
2.1.2. Trình tự giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài 30
2.1.3. Thi hành quyết định của trọng tài 39
2.1.4. Sự hỗ trợ của Toá án đối với hoạt động của Trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. 41
2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 45
2.2.1. Ưu điểm của pháp luật hiện hành giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài 45
2.2.2. Hạn chế của pháp luật hiện hành giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài 54
Chương 3. 63
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 63
3.1. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 63
3.1.1. Thực trạng hoạt động trọng tài ở Việt Nam 63
3.1.2. Nguyên nhân của thực trạng hoạt động trọng tài ở Việt Nam 64
3.2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 68
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG 87
3.3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao năng lực giải quyết các tranh chấp HĐMBHHQT. 87
3.3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp HĐMBHHQT bằng Trọng tài. 87
3.3.3. Một số kiến nghị về các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp thương mại có yếu nước ngoài bằng Trọng tài 89
3.3.4. Một số kiến nghị về các giải pháp hỗ trợ giải quyết tranh chấp thương mại có yếu nước ngoài bằng Trọng tài 96
KẾT LUẬN 99
PHỤ LỤC 1.SO SÁNH PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤT THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN VÀ TRỌNG TÀI 101
PHỤ LỤC 2.THỐNG KÊ VỤ KIỆN 104
PHỤ LỤC 3.ĐƠN KIỆN 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
112 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4571 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biến, và sự tăng hoặc giảm mạnh về giá cả" là một trong những nguyên nhân cản trở việc thực hiện hợp đồng.
Vì vậy, Uỷ ban trọng tài phải xem xét liệu việc giá thép tăng từ 190 USD lên 215 USD/tấn có phải là tăng đột biến giá hay không và nếu vậy, liệu Bị đơn có tính đến tình huống này tại thời điểm hợp đồng được ký kết không.
Theo kinh nghiệm cho thấy, giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới, mà đặc biệt là thép, luôn biến động. Tại thời điểm ký hợp đồng, giá thép đã bắt đầu tăng nhẹ và có xu hướng tiếp tục tăng trong khoảng thời gian từ khi ký kết hợp đồng đến khi thực hiện "quyền mua đặc biệt", thậm chí có thể tăng hơn nữa vào cuối năm 1988.
Trong trường hợp này, giá thép trên thị trường thế giới tăng từ 190 USD lên 215 USD (tức là khoảng 13,6%). Theo đánh giá của uỷ ban trọng tài, việc bán thép theo giá thoả thuận (giá bán theo “quyền mua đặc biệt”) thay vì giá hiện tại trên thị trường với mức "thiệt" 13,6% hoàn toàn nằm trong phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán.
Hơn nữa, việc tăng giá cũng có thể dự đoán được. Một người bán hàng bình thường cần phải dự liệu được rằng giá thép có thể tăng hơn so với tình hình thực tế, thậm chí mức tăng còn có thể cao hơn nhiều so với mức tăng trong vụ việc đang xét. Việc xem xét liệu Bị đơn - người bán có hợp lý không khi chấp thuận "quyền mua đặc biệt" với cùng một mức giá trong thời gian tương đối dài như vậy không thuộc thẩm quyền của Uỷ ban trọng tài. Về mặt nguyên tắc, Bị đơn - người bán vẫn có thể khuyến khích người mua khi họ ký hợp đồng đầu tiên bằng cách đưa là điều khoản "quyền mua đặc biệt" mà vẫn bảo lưu quyền được viện dẫn Điều 133 Luật nghĩa vụ nếu giá cả tiếp tục tăng mạnh. Trên thực tế, Bị đơn đã không đưa ra bảo lưu này và vì vậy không thể viện dẫn lý do tăng giá thép để từ chối "quyền mua đặc biệt" của Nguyên đơn.
Mua hàng thay thế và tính toán lãi suất:
Bị đơn giữ ý kiến của mình rằng việc mua 80.000 tấn thép từ một công ty Rumania của Nguyên đơn không thể coi là việc mua hàng thay thế, vì Bị đơn không được thông báo trước về ý định mua hàng cụ thể của Nguyên đơn, và hơn nữa, vì Bị đơn đã chào giá thép là 215 USD/tấn và thấp hơn giá mà Nguyên đơn mua của công ty Rumania, thêm vào đó, thép của Bị đơn có chất lượng tốt hơn.
Trước tiên, ở đây cần làm rõ sự tác động qua lại về mặt pháp lý giữa Điều 262 và 525 Luật nghĩa vụ của Nam Tư. Điều 262 cho phép các bên của hợp đồng quyền đòi bồi thường những thiệt hại xảy đến với họ phát sinh từ việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc chậm trễ các nghĩa vụ của bên kia. Điều 525, đề cập đến việc mua hàng thay thế, coi việc mua hàng thay thế là giải pháp giảm thiệt hại cho một bên tham gia hợp đồng nếu bên đó đưa ra được các chứng cứ về thiệt hại mà họ phải gánh chịu.
Cả hai bên đều không phản đối thực tế là giá thép trên thị trường thế giới (cùng loại hàng giao) đã tăng ít nhất tới 215 USD/tấn tại thời điểm thực hiện “quyền mua đặc biệt”. Tuy nhiên, Bị đơn cho rằng với các biểu hiện của sự tăng giá này, Nguyên đơn lẽ ra phải mua thép của Bị đơn, việc Nguyên đơn trên thực tế đã mua thép từ Rumani với giá cao hơn giá Bị đơn chào bán là hết sức vô lý.
Trong bản giải trình cuối cùng Nguyên đơn khẳng định rằng họ đã thực sự mua được giá rẻ hơn, họ đã trả 216,50 USD/ tấn nhưng tiết kiệm được 2 - 2,5 USD/ tấn cước phí vận chuyển. Thiệt hại của họ vì vậy thấp hơn so với sự chênh lệch giá trên thị trường thế giới. Số lượng thiệt hại chỉ là sự chênh lệch giữa 190 USD và 214 USD/ tấn là 24 USD/tấn.
Bị đơn cho rằng Nguyên đơn phải trả khoản thuế nhập khẩu hàng của Rumani cao hơn hàng của Nam Tư, tuy nhiên điều này hoàn toàn không liên quan vì Nguyên đơn không hề đòi bồi thường bất kỳ khoản thiệt hại bổ sung nào phát sinh từ việc mua hàng thay thế. Thắc mắc của Bị đơn liên quan đến việc liệu thép mua của công ty Rumani có chất lượng thấp hơn so với loại thép mà Bị đơn cung cấp không cũng không có liên quan gì trong vụ việc này. Đối với Nguyên đơn thì chất lượng thép là tương đương.
Về nghĩa vụ phải thông báo của Nguyên đơn như lập luận của Bị đơn, uỷ ban trọng tài cho rằng việc Nguyên đơn không thông báo cho Bị đơn biết về việc mua hàng thay thế không vi phạm Điều 525.
Từ các lập luận nêu trên, trong tài đi đến kết luận rằng trong trường hợp này Nguyên đơn hoàn toàn có quyền yêu cầu Bị đơn bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua thép của một bên thứ ba thay thế cho số thép đáng lẽ đã mua của Bị đơn theo quyền mua đặc biệt. Tuy nhiên, Nguyên đơn chỉ có thể đòi bồi thường khoản thiệt hại thực tế mà họ phải chịu. ậ đay, khoản thiệt hại được tính là mức chênh lệch giữa giá mua đặc biệt (190 USD/tấn) và giá mua thực tế mà Nguyên đơn đã phải trả cho công ty Nam Tư (216,5 USD/tấn) sau khi đã trừ đi khoản tiền mà Nguyên đơn tiết kiệm được từ việc vận chuyển (khoảng 2,5 USD/tấn). Như vậy Bị đơn sẽ phải bồi thường cho Nguyên đơn một khoản tiền là 80.000 x 24 USD = 1.920.000 USD
Và Uỷ ban trọng tài sau đó đã tính toán khoản lãi suất như sau:
Theo Điều 277 của Luật nghĩa vụ Nam Tư, lãi suất được tính cho bên chủ nợ đối với một khoản thiệt hại kể từ ngày mà bên nợ bắt đầu không thực hiện nghĩa vụ. Bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở chỗ từ chối giao hàng theo giá đã thoả thuận buộc Nguyên đơn phải mua hàng thay thế. Việc không thực hiện của Bị đơn bắt đầu từ ngày mà họ phải giao hàng nhưng đã không giao. Theo hợp đồng mua bán, 80.000 tấn thép của “quyền mua đặc biệt” phải được giao theo 5 lần giao hàng từng phần với khối lượng tương tự trong khoảng tháng 1 và tháng 5 năm 1988. Do vậy Bị đơn đã nợ quá hạn 1/5 của tổng số hàng vào ngày 1 tháng 2; ngày 1 tháng 3; ngày 1 tháng 4; ngày 1 tháng 5 và ngày 1 tháng 6 năm 1988. Lãi suất có thể được tính theo tổng số nợ quá hạn bắt đầu từ ngày giao hàng của chuyến hàng thứ ba.
Như đề cập ở trên, mức lãi suất từ khoảng 6,25 - 8,25%. Không thể dự đoán trước được về lãi suất sẽ tăng như thế nào vì có khoảng thời gian chậm trễ giữa việc đưa ra phán xử của Uỷ ban trọng tài và việc thực hiện tự nguyện hoặc cưỡng chế thực hiện nên phán quyết của Uỷ ban trọng tài cũng phải ấn định mức lãi suất trong tương lai, ví dụ: cho tới khi Bị đơn thực hiện tự nguyện hoặc cưỡng chế thực hiện phán quyết. Trên cơ sở xem xét đến trị giá tăng trưởng trung bình, Uỷ ban trọng tài cho rằng mức lãi suất 7,25% là phù hợp.
Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐMBHHQT đã nêu trên cho phép chúng tôi rút ra một số kết luận sauXem: Nguyễn Trung Tín (2009), “Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, tr188-190
:
- Trường hợp huỷ hợp đồng trong trường hợp hàng hoá không phù hợp với quy cách phẩm chất
Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài (tranh chấp thứ nhất) cho thấy rằng nếu trong trường hợp hàng hoá không phù hợp với quy cách phẩm chất theo hợp đồng thì không phải khi nào bên mua cũng có quyền huỷ bỏ hợp đồng. Việc bên người mua có quyền huỷ bỏ hợp đồng hay không phụ thuộc vào việc luật quốc gia điều chỉnh quan hệ hợp đồng liên quan tới trường hợp đó. Thực tiễn pháp luật điều chỉnh quan hệ này cho thấy rằng người mua có thể huỷ hợp đồng của mình với một lô hàng hoặc một đơn vị hàng hoá khi lô hàng được giao không đúng với quy cách phẩm chất quy định, gây thiệt hại lớn cho người mua trong các trường hợp sau:
+ Sự không phù hợp về quy cách phẩm chất đó có thể được khắc phục nhưng lại không được khắc phục một cách hợp lý;
+ Người mua đã chấp nhận hàng hoá được giao mà không biết rằng phẩm chất và quy cách hàng hoá không phù hợp với hợp đồng do lỗi về phẩm chất và quy cách này rất khó phát hiện khi nhận hàng giao hoặc do người bán đã có bảo đảm trước về chất lượng hàng hoá.
Như vậy nếu trên thực tế người bán đã có sự vi phạm về quy cách phẩm chất hàng hoá thuộc một trong các trường hợp trên mà luật áp dụng quy định thì người mua có quyền huỷ bỏ hợp đồng.
Trong trường hợp đó người mua được hoàn trả lại tiền thanh toán hàng hoá và được bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua hàng khác thay thế (trong trường hợp cần phải mua ngay hàng thay thế có thể giải thích được khắc phục hậu quả thiệt hại).
- Trường hợp người mua hàng có quyền huỷ hợp đồng khi hàng hoá giao không đúng quy cách phẩm chất mà mình hiểu do lỗi cẩu thả của hai bên (bên bán và bên mua)
Thực tiễn giải quyết trách chấp thương mại có yếu tố nước ngoài cho thấy rằng người mua có quyền huỷ hợp đồng thậm chí trước cả thời gian được ấn định cho việc giao hàng nếu có bằng chứng rõ ràng rằng hàng hóa được giao không phù hợp với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng.
Trong trường hợp do lỗi cẩu thả của hai bên nên quy cách phẩm chất hàng hoá đã không đựơc quy định rõ phù hợp với cách hiểu của các bên, bên có lỗi có quyền được yêu cầu huỷ hợp đồng ngay cả khi lỗi đó do cẩu thả của mình gây ra.
Trong trường hợp cả hai bên đều có lỗi, hai bên phải chia sẻ trách nhiệm về hậu quả do lỗi cẩu thả gây nên. Trên thực tế, trọng tài sẽ có quyền xem xét ai có lỗi nhiều hơn thì phải gánh trách nhiệm trên nhiều hơn.
- Trường hợp một bên dựa vào điều khoản quy định trong hợp đồng tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng
Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài cho thấy rằng trong trường hợp một bên có hành vi thực hiện không đúng quy định trong hợp đồng và hợp đồng có quy định có quyền chấm dứt hợp đồng, song khi thực hiện quyền này bên thực hiện cần dành cho bên kia một cơ hội để giải thích tình trạng của mình trước khi đưa ra thông báo về việc chấm dứt hợp đồng.
Thực tiễn cho thấy rằng một người chấm dứt hợp đồng phải bồi thường thiệt hại nếu người đó lạm dụng quyền chấm dứt hợp đồng (làm trái với tinh thần của luật áp dụng và hợp đồng).
- Quyền chấm dứt hợp đồng không thời hạn và hậu quả của việc tuyên bố chấm dứt hợp đồng đột ngột
Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài cho thấy về trường hợp một bên tuyên bố chấm dứt hợp đồng một cách đột ngột như sau:
+ Một bên có quyền chấm dứt hợp đồng không thời hạn, miễn là hợp đồng được thực hiện trong thời gian hợp lý. Một bên có quyền chấm dứt hợp đồng đối với loại hợp đồng đó mà không cần đưa ra lý do trừ khi các bên có thoả thuận khác;
+ Việc một bên ra tuyên bố rõ ràng về bản hợp đồng mới có thể là việc làm khiến bên kia hy vọng về triển vọng quan hệ lâu dài. Trong trường hợp đó, quyền tự do đơn phương chấm dứt quan hệ hợp đồng của bên đó (bên ra tuyên bố trên) đối với loại hợp đồng không thời hạn không còn ở mức độ tuyệt đối như trước khi các tuyên bố trên được đưa ra;
+ Bên muốn chấm dứt hợp đồng có thể rút lại quyết định chấm dứt hợp đồng của mình với điều kiện là bên kia không phản đối việc tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc không coi quyết định chấm dứt hợp đồng là quyết định cuối cùng. Ngoài ra, để rút lại quyết định chấm dứt hợp đồng một cách rõ ràng, bên muốn rút lại phải thể hiện ý định rõ ràng và không đưa vào hợp đồng cũ các điều kiện mới;
+ Một bên có thể coi là hành vi chấm dứt hợp đồng của bên kia là sự vi phạm hợp đồng trước thời hạn và ngay lập tức có quyền đòi bồi thường thiệt hại do việc chấm dứt đó;
+ Một bên chỉ có thể đòi bồi thường thiệt hại cho những tổn thất phát sinh mà bên đó chứng minh được do sự tuyên bố chấm dứt hợp đồng của bên kia, nhưng chỉ xét những tổn thất phải gánh chịu cho đến khi bên đó vô lý bác đề nghị gia hạn hợp đồng của bên đã tuyên bố chấm dứt hợp đồng;
+ Một bên ký kết phải có trách nhiệm thực hiện hành vi làm giảm thiểu thiệt hại phát sinh từ việc bên kia đột ngột chấm dứt hợp đồng. Sẽ là không công bằng khi một bên từ chối cho bên kia (bên tuyên bố chấm dứt hợp đồng) sửa chữa sai lầm (gia hạn thực hiện hợp đồng).
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG
3.3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao năng lực giải quyết các tranh chấp HĐMBHHQT.
Trong bối cảnh giao lưu, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã ký kết hơn 100 văn bản Điều ước quốc tế song phương, trong đó chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại, Việt Nam cũng tham gia hơn 180 Điều ước quốc tế đa phương, có quan hệ thương mại với 225 nước, quan hệ đầu tư với hơn 40 quốc gia, Việt Nam đã là thành viên của các tổ chức tài chính lớn như Ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), tham gia diễn đàn kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM), Hiệp định khung về đầu tư ASEAN, ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài là một đòi hỏi cấp thiết. Những quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng Trọng tài ở Việt Nam phải thừa nhận những nguyên tắc chung, các tập quán thương mại, thông lệ quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại. Phải có sự tiếp cận pháp luật các nước trong khu vực và trên thế giới trong việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp để mở rộng phạm vi và tăng cường hiệu quả hoạt động cho Trọng tài. Nếu không thực hiện được điều này, chúng ta tự gây cản trở cho mình trong quá trình hội nhập.
3.3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp HĐMBHHQT bằng Trọng tài.
- Trước hết, cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng Trọng tài phải thỏa mãn được các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Nhà nước cụ thể chính sách đối với sự phát triển của Trọng tài, thông qua sự hỗ trợ khuyến khích những điều kiện hoạt động cũng như tạo môi trường pháp lý thuận lợi để TTTM phát huy ưu thế của nó; sau đó là nghiên cứu tất cả các khía cạnh lý luận và thực tiễn để xây dựng và hoàn thiện các quy định về pháp luật Trọng tài nhằm đảm bảo cho Trọng tài hoạt động có hiệu quả.
- Thứ hai, phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng Trọng tài phải bảo đảm được yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế. Nghĩa là pháp luật Việt Nam quy định về giải quyết tranh chấp HĐMBHHQT phải tiến đến những điểm chung so với pháp luật các nước về giải quyết loại tranh chấp này, đảm bảo cho lợi ích của các bên trong tranh chấp khi lựa chọn Trọng tài Việt Nam giải quyết luôn được bảo vệ. Chính vì vậy, Việt Nam cần tham gia các Điều ước quốc tế liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài như là Công ước Viena 1980 về mua bán hàng hóa, Công ước Roma 1980 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, Công ước La Hay ngày 15/11/1965 về Tống đạt ở nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp liên quan đến dân sự và thương mại.
- Thứ ba, tính minh bạch của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng Trọng tài cũng phải được tính đến trong phương hướng hoàn thiện pháp luật. Bởi pháp luật về lĩnh vực này cần thiết phải công khai, chính xác, rõ ràng và ổn định. Chúng ta đã có những quy định về việc đăng công báo công khai các văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực. Tuy nhiên trong lĩnh vực thương mại quốc tế vẫn còn rất hạn chế, các nhà đầu tư rất khó tiếp cận pháp luật Việt Nam, đặc biệt những Hiệp định tương trợ tư pháp liên quan đến giải quyết tranh chấp dân sự, thương mại rất khó tìm thấy. Pháp luật không minh bạch dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi, công chúng không tiếp cận được luật pháp để tuân thủ, cơ quan giải quyết tranh chấp vận dụng pháp luật một cách tùy tiện, khiến phán quyết của Trọng tài đưa ra không thỏa mãn được nhu cầu của các doanh nhân.
- Thứ tư, hoàn thiện pháp luật tố tụng bằng cách quy định đơn giản hóa và xã hội hóa các thủ tục tố tụng Trọng tài. Bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên đương sự trong tranh chấp thương mại. Quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng phải thống nhất. Tạo điều kiện cho người dân, giới doanh nhân dễ dàng tiếp cận với TTTT và TTV giải quyết tranh chấp mà họ đặt niềm tin.
- Thứ năm, nâng cao năng lực giải quyết của TTV trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. Xây dựng đội ngũ TTV, HĐTT có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ kiến thức pháp luật, kinh tế, kinh nghiệm thực tiễn và kiến thức bổ trợ (ngoại ngữ, tin học) đáp ứng yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại nói chung, tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài nói riêng.
3.3.3. Một số kiến nghị về các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp thương mại có yếu nước ngoài bằng Trọng tài
Thừ nhất: Phải sớm ban hành Luật Trọng tài trên cơ sở hoàn thiện PLTTTM
Để tạo cho Doanh nghiệp có được lòng tin và cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, ngày 32/01/2008 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 57/2008/NQ-UBTVQH về việc thành lập ban soạn thảo về luật Trọng tài thương mại. Tiếp đó ngày 4/11/2008 Ban soạn thảo thông qua hai Luật trọng tài. Trong dự thảo này đưa ra nhiều điểm sửa đổi mang tính tiến bộ, sớm đưa Luật trọng tài thương mại Việt Nam gần với Luật mẫu trọng tài của UNCITRAL, cũng như pháp luật của các nước, như: mở rộng thẩm quyề của trọng tài (áp dụng cho mọi tranh chấp), bổ xung giải quyết tranh chấp tên miền, mở rộng phạm vi và đối tượng điều chỉnh, quy định chặt chẽ hơn về hình thức thỏa thuận trọng tài, quy định thẩm quyền hỗ trợ và giám sát của tòa án…Huy vọng Luật trọng tài sớm có hiệu lực trong việc khắc phục tình trạng bất cập của PLTTTM hiện nay, đồng thời tạo ra bước đột phá cho hoạt động Trọng tài Việt nam cũng như tạo ra đúng hình ảnh của một phương thức giải quyết tranh chấp mền dẻo, linh hoạt, hiệu quả.
Thứ hai: Thống nhất về khái niệm nội hàm hoạt động thương mại, tranh chấp kinh doanh thương mại trong các văn bản pháp luật, tạo điều kiện cho việc xác định của thẩm quyền trọng tài thương mại.
Khái niệm “hoạt động thương mại” quy định trong PLTTTM gần giống với khái niệm “thương mại” trọng Luật mẫu UNCITRAL. PLTTTM ban hành năm 2003, trong khi đó Luật thương mại ban hành năm 1997 quy định “hoạt động thương mại” chỉ bao gồm 14 hành vi thương mại bó hẹp trong phạm vi mua bán hành hóa, dịch vụ mua bán hàng hóa thì quy định của pháp lệnh là rất tiến bộ, làm mở rộng đáng kế thẩm quyền của TTTM. Với sự ra đời của Luật thương mại năm 2005 thì khái niệm “hoạt động thương mại” lại được quy định khác, có tính bao quát hơn, cho phép tất cả các hoạt động manh mục đích sinh lợi đều được coi là hoạt động thương mại. Như vậy, đã có sự quy định không giống nhau về khái niệm “hoạt động thương mại” trong hai văn bản điều chỉnh trực tiếp tranh chấp thương mại. Vì vậy việc ban hành Luật trọng tài phải thống nhất nội nam khái niệm “hoạt động thương mại” như cách hiểu của Luật thương mại 2005.
Trong khi đó Luật doanh nghiệp 2005 lại đưa ra khái niệm “kinh doanh” để chỉ hoạt động của các chủ thể thực hiện một, một số hoặc tất cả công đoạnc ủa quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Ngoài ra theo khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2005 quy định Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại giữa các nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều nhằm mục đích sinh lợi nhuận. Đối chiếu với các quy định tại Khoản 3 Điều 2 PLTTTM thì các tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự giống nhau. Riêng quan hệ Li-Xăng BLTTDS quy định riêng tại Khoản 2 Điều 29 BLTTDS về sở hữu trí tuệ.
Vì vậy cần thống nhất khái niệm tranh chấp phát sinh trong hoạt động “kinh doanh, thương mại”, tạo điều kiện cho việc xác định thẩm quyền thương mại thuận lợi hơn.
Thứ ba: Mở rộng thẩm quyền cho TTTM
Để TTTM có thể phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường bắt kịp sự phát triển cuat trọng tài quốc tế cũng như đảm bảo cho các bên tranh chấp được lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp tối ưu, pháp luật về trọng tài thương mại cần mở rộng thẩm quyền cho trọng tài các tranh chấp phát sịnh trong đời sống kinh tế-xã hội, không phân biệt tranh chấp có phát sinh trong hoạt động thương mại hay không, tranh chấp hợp đồng hay ngoài hợp đồng, không phân biệt tranh chấp các chủ thể có đăng ký kinh donh hay không…
Mặc dù vậy, cơ quan chủ trì soạn thảo Luật trọng tài thương mại (Hội luật gia Việt Nam) đã nhận được nhiều ý kiến xung quanh vấn đề thẩm quyền của Trọng tài. Nhìn chung các ý kiến đó đều cho rằng Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp, nghĩa vụ dân sự theo thỏa thuận của các bên. Việc mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh của dự thảo là điểm mới so với PLTTTM. Theo đổi sự mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh là tốt nhưng không thể đưa tất cả các tranhh chấp quyền và nghĩa vụ dân sự mà các bên thỏa thuận thuộc thẩm quyền của TTTM mà phải có sự cân nhắc, chọn lọc phù hợp với thực tiễn khách quan, phù hợp với khả năng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của trọng tài và trên hết là phải phù hợp với luật pháp quốc tế. cho nên việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật trọng tài trong tương lai phải mang lại nhiều thuận lợi thúc đẩy hoạt động trọng tài Việt Nam phát triển lên tầm cao mới.
Thứ tư: Quy định bổ xung về TTTT
Thực tiễn cho thấy có rất nhiều TTTT vô hiệu do nôi dung của TTTT. Để khác phục điều này cần phải quy định cụ thể, rõ ràng nội dung của thỏa thuận trọng tài, bao gồm: hình thức TTTT, trung tâm trọng tài, địa điểm trọng tài, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài, chi phí và lệ phí trọng tài, cam kết thực hiện quyế định trọng tài….
PLTTTM quy định hình thức của trọng tài phải lập bằng văn bản là phù hợp nhưng chưa quy định được hết tính mở như quy định của luật mẫu UNCITRAL và luật trọng tài của các nước. Theo Khoản 1 Điều 9 PLTTTM quy định hình thức văn bản khác phải phù hợp với “ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài” mới được coi thỏa thuận bằng văn bản. Trong khi đó luật mẫu trọng tài quy định: TTTT cũng được thừa nhận dưới hình thức qua trao đổi đơn kiện và bản biện hộ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của TTTT do một bên đưa ra và bên kia không phản đối hoặc dẫn chiếu trong hợp đồng tới một văn bản trong đó ghi nhận điều khoản trọng tài lập nên TTTT. Vì vậy, cách quy định cứng nhắc như PLTTTM hiện nay đã dẫn đến hạn chế thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM. Vì vậy, hình thức của TTTT cần quy định lại cho phù hợp với Khoản 2 Điều 7 Luật mẫu UNCITRAL.
Cũng tương tự theo quy định tại khoản 4 Điều 10 PLTTTTM quy định TTTT vô hiệu nếu không quy định hoặc quy định không rõ tổ chức trọng tài nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Cách quy định này vô hình đã làm tăng diện tích của thỏa thuận trọng tài vô hiệu và hạn chế thẩm quyền của TTTM. Với quy định như hiện nay làm thu hẹp thẩm quyền của TTTM, mặc dù ban đầu các bên đã có thiện chí, mong muốn giải quyết tranh chấp của mình bằng trọng tài. Ổ đây, pháp luật đã lấy thiếu sót của các bên trong việc không chỉ đích danh tên của tổ chức trọng tài hoặc tên của tổ chức trọng tài không chính xác, không đầy đủ để vô hiệu hóa ý chí sử dụng Trọng tài, thay vì phải quy định một cơ chế “mở” phù hợp với thực tiễn áp dụng, tôn trọng ý chí của các bên. Luật mẫu và Luật trọng tài của nhiều nước không quy định vấn đề này, thậm chí còn quy định thông thoáng hơn trong việc xác định hình thức thỏa thuận trọng tài.
Vì vậy, ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại một hiện tượng mà các giao kết hợp đồng hết sức lưu ý mặc dù có thỏa thuận trọng tài nhưng tranh chấp vẫn không được giải quyết bằng trọng tài vì thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không có khả năng thực hiện trên thực tế.
Thứ năm: về thời hiệu khởi kiện
Xung quanh vấn đề xác định thời hiệu khởi kiện đã phát sinh nhiều tranh cãi, gây không ít khó khăn trong thực tiễn áp dụng. Vì vậy, quy định này cấn sớm sửa đổi cho rõ ràng phù hợp với BLTTDS và Luật thương mại: Thời hiệu khởi kiện giải quyêtts tranh chấp bằng trọng tài được tính từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Thứ sáu: Xem xét thẩm quyền giải quyết tranh chấp của HĐTT
Trong thực tễn có thể xảy ra trường hợp: Trong quá trình HĐTT giải quyết tranh chấp các bên không có khiếu nại về thẩm quyền của HĐTT, nhưng sau khi vụ tranh chấp được giải quyết xong, bên không đồng ý với quyết định của HĐTT lại cho rằng HĐTT không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp và lấy lý do đó yêu cầu Tòa án hủy quyết định của Trọng tài. Theo quy định của Điều 54 PLTTTM thì không có một sự hạn chế nào đối với các bên khi đưa thẩm quyền của HĐTT để yêu cầu hủy quyết định của Trọng tài, nên Tòa án vẫn tiến hành xem xét. Điều này hoàn toàn trái với quy định của Luật mẫu UNCITRAL, Điều 4 quy định: “Khi một bên biết bất cứ quy định nào của Luật này gây bất lợi cho các bên, hoặc bất kỳ yêu cầu nào theo TTTT chưa được thuân thủ và vẫn tiếp tục tiến hành trọng tài mà không tuyên bố sự phản đối của mình về những việc vi phạm đó trong thời hạn cho phép thì được coi là từ bỏ quyền phản đối của mình”. Vì vậy, Pháp luật trong tài ở Việt Nam cần sửa đổi cho phù hợp với quy định của Luật mẫu UNCITRAL để tránh những “mánh lưới” của một bên lợi dụng việc khiếu nại để khéo dài thời gian giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi để TTTM giải quyết tranh chấp thuận lợi hơn.
Thứ bảy: Về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
PLTTTM quy định các bên được quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời và khi có quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời thì bị đơn có quyền yêu cầu Chánh án Tòa án ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải quyết việc thây đổi, hủy bỏ hoặc giữ nguyên các biện pháp đó. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định Tòa án không chấp nhận yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời thì thủ tục giải quyết như thế nào? Và không quy định quyền khiếu nại của các bên việc Tòa án từ chối áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là một thiếu sót. Vì vậy, quy định này phải thật rõ ràng và chặt chẽ hơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên bị xâm phạm.
Thứ tám: Về nguyên tắc ra quyết định trọng tài
Để khắc phục quy định của PLTTTM trong việc ra quyết định trọng tài đã được đề cập ở Chương 2, xét thấy cần bổ xung thêm vào Điều 42 PLTTTM như sau: “Trong trường hợp không đạt được đa số quyết định của HĐTT được lập theo quyết định của chủ tịch HĐTT”. Quy định như vậy phù hợp với quy tăc số tụng của ICC: “Khi Ủy ban trọng tài gồm nhiều TTV, thì phán quyết phải được lập theo nguyên tắc đa số. Nếu phán quyết không được đa số chấp thuận, thì phán quyết sẽ do Chủ tịch Ủy ban trọng tài quyết định” (Khoản 1 Điều 25), Pháp luật nhiều nước cũng quy định theo hướng như thế này.
Thứ chín: Quy định về hình thức của quyết định trọng tài
Về cơ bản , hình thức của quyết định trọng tài được xác định theo: TTTT và Luật áp dụng cho trọng tài. Khác với quy định của nhiều nước, cũng như quy tắc tố tụng trọng tài của nhiều thiết trọng tài quốc tế, Pháp luật Việt Nam không có một điều nào quy định quy định về hình thức của quyết định trọng tài. Tuy vậy, các quy định về nội dung của quyết định trọng tài tài Điều 44 PLTTTM có thể cho chúng ta lý do để hiểu mặc nhiên rằng hình thức của thỏa thuận trọng tài là văn bản. Khoản 1 Điều 44 quy định ‘Chữ ký của trọng tài viên duy nhất” hoặc Khoản 2 “trường hợp có một trọng tài viên không ký vào quyết định trọng tài…”. Hành vi “ký” ở đây đã thể hiện quyết định của Trọng tài phải được lập bằng văn bản. Tuy vậy, việc pháp luật của ta không có điều khoản quy định trực tiếp về hình thức của quyết định trọng tài cũng là vấn đề cần cân nhắc, tránh có sự tùy tiện trong giải thích và áp dụng điều khoản này trên thực tế. Pháp luật trọng tài của nhiều nước đồi hỏi hình thức của quyết định trọng tài phải lập bằng văn bản. Vì vậy, Pháp luật trọng tài của chúng ta cần quy định rõ ràng vàn chặt ché hơn về hình thức cuẩ quyết định trọng tài để tránh việc giải thích một cách tùy tiện.
Thứ mười: Quy định về nội dung của quyết định trọng tài
Cũng giống như đối với hình thức của quyết định trọng tài, nội dung của quyết định trọng tài được xác định chủ yếu trên hai cơ yếu tố: TTTT và Luật áp dụng cho trọng tài.
Điều 44 PLTTTM quy định khá chi tiết và đầy đủ về nội dung quyết định trọng tài:
- Ngày, tháng, năm và địa điểm ra quyết định trọng tài; trong trường hợp việc giải quyết vụ tranh chấp do Trung tâm Trọng tài tổ chức thì quyết định trọng tài phải có tên Trung tâm Trọng tài;
- Tên, địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn;
- Họ, tên các Trọng tài viên hoặc Trọng tài viên duy nhất;
- Tóm tắt đơn kiện và các vấn đề tranh chấp;
- Cơ sở để ra quyết định trọng tài;
- Quyết định về vụ tranh chấp; quyết định về phí trọng tài và các chi phí khác;
- Thời hạn thi hành quyết định trọng tài;
- Chữ ký của các Trọng tài viên hoặc Trọng tài viên duy nhất.
So với pháp luật một số nước khác cũng như pháp luật quốc tế về trọng tài thì những yêu cầu về nội dung quyết định trọng tài nêu trên là khá đầy đủ. Đặc biệt, quy định về thời hạn thi hành quyết định trọng tài là khá mới so với pháp luật trọng tài của nhiều nước. Tuy nhiên, quy định này không cần thiết, bởi thời hạn thi hành quyết định trọng tài đã được quy định ở một văn bản pháp luật chuyên ngành về tố tụng dân sự hoặ thi hành án.
Trong nội dung của quyết định trọng tài thì “cơ sở để ra quyết định trọng tài” và “Chữ ký của các TTV hoặc TTV duy nhất” chính là hai nội dung quan trọng nhất.
- Cơ sở (hay còn gọi là lý do) để ra quyết định trọng tài:
Khoản 2 Điều 31 Luật mẫu UNCITRAL quy định: “Trừ khi các bên có thỏa thuận về việc không nêu lý do hoặc khi phán quyết là quyết định về điều khoản được thỏa thuận theo Điều 30 (quy định về quyết định về điều khoản được thỏa thuận thông qu hòa giải), phán quyết phải nêu lý do làm căn cứ để ban hành”.
Đây là nguyên tắc về cơ bản đã được công nhận trong pháp luật về trọng tài của hầu hết các quốc gia. Pháp luật về trọng tài của Liên bang Nga và của Ukraine thậm chí còn không cho phép các bên thỏa thuận ngoại lệ về việc không nêu lý do, mà quy định bắt buộc, mọi phán quyết đều phải nêu lý do. Các văn bản pháp luật khác về trọng tài của Hoa kỳ cũng không yêu cầu phải nêu lý do, nhưng nếu quy tắc tố tụng trọng tài có quy định phải nêu lý do, trừ khii các bên có thỏa thuận khác-phán quyết phải nêu lý do.
Như vậy, việc nêu rõ cơ sở của phán quyết trọng tài là bắt buộc và được coi như một trong các nội hàm của trật tự công cộng. Tuy nhiên, một vấn đề dặt ra là trật tự công cộng được áp dụng khi hoàn toàn thiếu việc nêu lý do, hay chỉ khi thiếu một phần lý do hoặc nói cách khác, khi lý do được nneeu không đầy đủ. Do đó, chỉ có việc hoàn toàn thiếu lý do mới dẫn đến hủy quyết định trọng tài. Trong trường hợp Tòa án xem xét lý do được đưa ra ra cho phán quyết đã đầy đủ hhay chưa có thể dẫn đến việc xem xét nội dung của vụ việc, trong khi điều này lạ vượt quá thẩm quyền củ Tòa án, trừ trường hợp quyết định trọng tài vi phạm trật tự công cộng.
- Chữ ký của TTV hoặc TTV duy nhất
Một trong những yêu cầu về mặt nội dung của quyết định trọng tài theo pháp luật Việt Nam là cần phải có “chữ ký của các TTV hoặc TTV duy nhất”. Đây là yêu cầu được áp dụng khá phổ biến cho hầu hết pháp luật trọng tài của nhiều nước. Tuy nhiên, nếu nguyên tắc này được áp dụng một cách cứng nhắc, rất có thể sẽ xảy ra trường hợp một quyết định trọng tài cố thể bị hủy chỉ bằng một hành động của một trong các TTV cố ý từ chối ký vào quyết định. Vì vậy, việc quy định “chữ ký” của TTV là điều kiện bắt buộc mà không tính đến các trường hợp ngoại lệ, sẽ không được coi là phù hợp với trọng tài quốc tế.
Để tránh trường hợp có TTV làm hỏng quyết định trọng tài bằng cách không ký vào quyết định trọng tài, Khoản 2 Điều 44 PLTTTM đã quy định bổ sung: “Trường hợp có Trọng tài viên không ký vào quyết định trọng tài, Chủ tịch HĐTT phải ghi việc này trong quyết định trọng tài và nêu rõ lý do”. Tuy nhiên, việc quy định như thế này là chưa đủ, vẫn chư rõ ràng việc nêu lý do trường hợp có TTV không ký vào quyết định trọng tài như vậy đã đủ căn cứ để quyết định trong tài có hiệu lực hay không. Cho nên, pháp luật trọng tài Việt Nam cần quy định rõ ràng, rành mạch như quy tắc tố tụng trọng tài của nhiều nước.
- Một quyết định trọng tài có thể được trình lấy chữ ký của các TTV cùng lúc đang có mặt tại nhiều địa điểm khác nhau và đối với trường hợp trọng tài quốc tế, thì các TTV có thể đang cúng một lúc có mặt tại nhiều quốc gia khác nhau. Quyết định trọng tài không nhất thiết ký tại chính địa điểm tiến hành xét xử trọng tài. Trong trường hợp chỉ rõ địa điểm ký quyết định trong tài, thì địa điểm đó không có nghĩa là nơi xét xử trọng tài. Các TTV có thể ký quyết định trọng tài tại bất kỳ một địa điểm trọng tài nào. Cho nên, Pháp luật trọng tài Việt Nam cũng nên có quy định một cách rõ ràng về vấn đề này để áp dụng một cách thông nhất, tránh trường hợp giải thích tùy tiện.
3.3.4. Một số kiến nghị về các giải pháp hỗ trợ giải quyết tranh chấp thương mại có yếu nước ngoài bằng Trọng tài
Thứ nhất: Cần thành lập Hiệp hội trọng tài thương mại ở Việt Nam
Là tổ chức phi chính phủ khi chưa đủ mạnh để mỗi trung tâm khẳng định mình, trọng tài cũng có nhu cầu như các tổ chức xã hội khác, là cần một “mái nhà chung” để tập hợp lực lượng nâng cao số lượng, năng lực TTV. Sự quảng bá mang tầm quốc gia sẽ hiệu quả hơn so với việc mỗi trung tâm tự tìm hướng đi riêng cho mình. Pháp luật về trọng tài ở nhiều nước phát triển phần lớn các nước đều thành lập Hiệp hội trọng tài, như: Hiệp hội trọng tài mỹ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản.
Sự ra đời của Hiệp hội trọng tài là cơ sở để cho trọng tài Việt Nam thiết lập quan hệ với Hiệp hội thương mại, Hiệp hội doanh nghiệp của giới doanh nhân và xa hơn nữa là thiết lập quan hệ hợp tác với các TTTT thương mại có uy tín trong khu vực và của các nước phát triển.
Thứ hai: Tổ chức đào tạo đội ngũ TTV
Hiện nay một trong những hạn chế của tổ chức trọng tài là vấn đề nhân lực, đặc biệt là những tỉnh, thành phố không thuộc trung ương. Đa phần đội ngũ trọng tài viên hiện nay trình độ chuyên môn không cao, nhất là trong lĩnh vực thương mại quốc tế vì vậy đã gây ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng xét xử. Cho nên để phát triển phương thức trọng tài, Nhà nước cần có chính sách, hỗ trợ, đào tạo TTV thông qua các chương trình tập huấn trong và ngoài nước với sự hướng dẫn của các TTV, chuyên gia uy tín trên thế giới. Bên cạnh sự hỗ trợ của nhà nước, bản thân các TTTT cũng có những chính sách thiết thực để bồi dưỡng TTV của trung tâm mình, như: Tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu với các trung tâm, cử TTV sang nước ngoài học tập.
TTV là người được các bên tin tưởng, giao quyền giải quyết tranh chấp. Để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, đòi hỏi TTV phải có kiến thức pháp lý
vừa có kiến thức sau rộng về kinh tế và các chuyên ngành khác. Trong điều kiện Hội nhập quốc tế, TTV không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ. Song song với tiêu chuẩn về chuyên môn, TTV là người có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, khách quan, vô tư, uy tín kinh nghiệm và trách nhiệm nghề nghiệp. - Thứ ba: Cần tuyên truyền pháp luật trọng tài thương mại
+ Cần tuyên truyền phổ biến pháp luật cho các cơ quan nhà nước có liên qun, như: Tòa án, Thi hành án, chính quyền địa phương. Việc nâng cao nhận thức tác dụng về trọng tài đói với cán bộ công chức là cần thiết, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động trọng tài. Đối với chính quyền địa phương cần nhận thức tích cực về TTTM đối với hoạt động kinh doanh của địa phương, để có sự giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trọng tài trong giai đoạn mới thành lập. Đối với Tòa án và có quan Thi hành án dân sự, việc tăng cường nhận thức của hai cơ quan này lại càng quan trọng hơn khi mà các thẩm phán của Tòa án, các chấp hành viên của cơ quan thi hành án là người trực tiếp thực hiện những công việc hỗ trợ đối với hoạt động trọng tài.
+ Tuyên truyền pháp luật trọng tài trong giới thương nhân: Ở việt Nam trong mấy năm qua số lượng giải quyết tranh chấp tại trọng tài rất khiếm tốn. Nguyên nhân của trình trạng này phần lớn là do các doanh nghiệp chưa nắm được một cách chính xác nhiệm vụ cũng như ưu việt của trọng tài so với các hình thức khác. Do vậy, việc nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về vai trò của TTTM là vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Để làm được công việc này cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trọng tài để các nhà kinh doanh nhận thức việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng không những đêm lại quyền chủ động cho các bên mà còn tạo cơ hội cho họ bảo vệ được bí mật kinh doanh, giữ được hờ khí, duy trì được quan hệ làm ăn lâu dài giữa các bên tranh chấp.
Thứ tư: Thành lập các TTTT chuyên giải quyết các tranh chấp về đầu tư, tài chính, nhân hàng, chứng khoán, sở hữu trí tuệ.
Hiện nay ở nước ta các tranh chấp này diễn ra rất sôi nổi, đặc biệt khi gia nhập WTO. Việt Nam đã trở thành một trong nhhwngx điểm đến của người nước ngoài, chính trong bối cảnh ấy tranh chấp phát sinh là không thể tránh khỏi. Song các nhà đầu tư thật chưa tin tưởng và chất lượng giải quyết trannh chấp tại TTTT, chưa thật sự đặt niềm tin, sự may rủi nơi TTV. Do đó để tăng sự hấp dẫn của TTTT đối với các nhà đầu tư, nên thành lập trung tâm trọng tài chuyên biệt, chuyên giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này.
KẾT LUẬN
Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại nói chung, HĐMBHH nói riêng đang là vấn đề mang tính thời sự. Việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện vấn đề này giúp chúng ta hiều đầy đủ hơn về lý luận cũng như thực tiễn tranh chấp HĐMBHHQT.
Luận văn đã phân tích thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành và phương thức giải quyết tranh chấp HĐMBHHQT bằng trọng tài ở nước ta hiện nay; phân tích đánh giá những ưu điểm và tồn tại của pháp luật trọng tài, nêu thực trạng tình hình giải quyết tranh chấp. Trên cơ sở đó đưa ra một số nhận xét và những bất cập của pháp luật trọng tài cũng như phương thức giải quyết tranh chấp HĐMBHHQT bằng trọng tài, kiến nghị một số vấn đề cần sửa đổi bổ xung nhằm hoàn thiện pháp luật trọng tài cũng như phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đối với các tranh chấp về HĐMBHHQT ở nước ta.
Trong những năm qua Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật trọng tài, tổ chức hiện toàn các hệ thống cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp thương mại nói chung, tranh chấp HĐMBHHQT nói riêng, góp phần tạo ra động lực sản xuất kinh doanh phát triển lành mạnh, khuyến khích các tổ chức, các nhân trong nước và quốc tế an tâm bỏ vốn vào đầu tư, góp phần phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vẫn thể hiện sự chưa đồng bộ, mâu thuẫn, chồng chéo, chưa tương thích với pháp luật quốc tế. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp HĐMBHHQT nói riêng còn nhiều điểm yếu kém bất cập trong lĩnh vực cũng như thực tiễn vận hành. Điều này ảnh hưởng đến sự hấp dẫn của phương thức giải quyết tranh chấp, đến môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta.
Những kiến nghị đưa ra nhằm góp phần tiếp tục hoàn thiện pháp luật trọng tài và phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài nói chung cũng như để nâng cao hiệu quả hoạt động cảu trọng tài thương mại. Vấn đề này cần xuất phát trên cơ sở các yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường, cuuar quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và đặt trong tổng thể yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính hiện nay. Để hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại cũng như phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thực sự có hiệu quả thì cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong giai đoạn hiện nay quốc gia luân trong xu thế cạnh tranh trong việc tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy việc xây dựng hệ thống pháp luật cởi mỡ, thông thoáng, một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại công bằng, hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế là cơ sở tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn và tạo cho Việt Nam hội nhập quốc tế một cách sâu rộng hơn.
Việc hoàn thiện pháp luật về trọng tài cũng như phương thức giải quyết tranh chấp thương mại nói chung, tranh chấp HĐMBHHQT nói riêng bằng trọng tài đang là trong những mục tiêu hàng đầu trong chương trình xây dựng pháp luật của quốc hội nước ta. Có thể khẳng định, nhà nước ta đã có sự quan tâm thích đáng vấn đề này, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp. Vì vậy, trong tương lai những vẫn đề còn khuyếm khuyết, bất cập hôm nay sẽ được khắc phục, góp phần vào sự phát triển nền kinh tế của đất nước, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên.
PHỤ LỤC 1
SO SÁNH PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤT THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN VÀ TRỌNG TÀI
STT
NỘI DUNG
TÒA ÁN
TRỌNG TÀI
1
Thẩm quyền
Đương nhiên
Từ TTTT của các bên
2
Phạm vi
Tất cả các lĩnh vực phát sinh trong đời sống xã hội: Thương mại, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, đất đai, hành chính, hình sự.
Hầu như chỉ bao gồm các tranh chất phát sinh trong hoạt động thương mại
3
Tính chung thẩm
Các bản án, quyết định của tòa án được kháng cáo, kháng nghị.
Quyết định của trọng tài là chung thẩm.
4
Sự công nhận
quốc tế
Phán quyết của tòa án thường ít đạt được sự công nhận quốc tế. Phán quyết của tòa án muốn công nhận ở nước khác thường thông qua hiệp định song phương hoặc quy tắc rất nghiêm ngặc.
Phán quyết của trọng tài đạt được sự công nhậ quốc tế thông qua hàng loạt các điều ước quốc tế, đặc biệt là công ước New york năm 1958 về công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài.
5
Tính trung lập
Mặc dù tòa án quốc gia có khách quan, họ vẫn phải sử dụng ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc gia họ và thường trùng với quốc tịch của một bên.
Các bên có quyền bình đẳng về nơi: nơi tiến hành tố tụng, quy tắc tố tụng, ngôn ngữ, quốc tịch TTV, và đại diện pháp lý.
6
Năng lực chuyên môn của ngững người phán xử
Các thẩm phán thường có chuyên môn trong một số lĩnh vực nhất định mà phải giải quyết tất cả các tranh chấp thuộc các lĩnh vực khác nhau
TTV là người có trình độ chuyên môn sau trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp
7
Tính linh hoạt
Tòa án quốc gia bị rằng buộc bởi các quy tắc tố tụng nghiêm ngặt
Quy tắc tố tụng trọng tài rất linh hoạt, việc xác định thủ tục trọng tài, phiên họp giải quyết tranh chấp, địa điểm phiên họp giải quyết tranh chấp, nơi các TTV gặp gỡ, soạn quyêtts định trọng tài.
8
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Áp dụng trực tiếp
Áp dụng gián tiếp thông qu sự hỗ trợ của Tòa án.
9
Thời gian giải quyết tranh chấp
Thường bị trì hoãn và kéo dài
Thường nhanh hơn tòa án, các bên có thể thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp trong một thời gian ngắt nhất.
10
Nhân chứng
Tòa án là cơ quan đại diện cho chủ quyền quốc gia, có quyền triệu tập nhân chứng và bên thứ ba ra tòa án. Thể hiện sức mạnh cưỡng chế mà trọng tài không có
TTV không có quyền triệu tập bên thứ ba khi chưa có sự đồng ý của họ và không có quyền yêu cầy một bên phải mời nhân chứng đến.
11
Tính bí mật
Nguyên tăc xét xử tại tòa án là công khai, nên không có khả năng giữ được thông tin
Nguyên tắc xét xử kín, nên giữ được bí mật kinh doanh.
12
Chi phí
Các bên không phải trả chi phí cho Thẩm phán ngoại lệ phí hành chính rất phù hợp
Các bên phải trả trước thù lao, chi phí đi lại, ăn ở cho các TTV, cũng như chi phí cho tổ chức trọng tài thường trực
PHỤ LỤC 2
THỐNG KÊ VỤ KIỆN
Năm
Số vụ kiện
Quốc tịch các bên tranh chấp
1993
6
Singapore
Nhật Bản
Hồng Kông
Hàn Quốc
Bungari
2
1
2
1
1
1994
14
Singapore
Hàn Quốc
Ba Lan
Camphuchia
Malaysia
Thái Lan
Đài Loan
5
3
2
1
1
1
1
1995
17
Singapore
Hàn Quốc
Thái Lan
Nga
Italia
4
7
1
3
1
1996
25
Singapore
Hồng Kông
Hàn Quốc
Thái Lan
Anh
Ấn Độ
Áo
Canada
Bahamas
4
6
4
5
1
1
1
1
1
1997
24
Singapore
Nhật Bản
Hồng Kông
Hàn Quốc
Malasia
Đài Loan
Bahamas
Pháp
Thụy Điển
Trung Quốc
8
2
1
4
1
1
1
1
1
2
1998
18
Singapore
Hàn Quốc
Malaysia
Đài Loan
Áo
Hà Lan
Đức
Philippine
Hoa Kỳ
1
6
2
1
1
1
2
1
1
1999
20
Hàn Quốc
Pháp
Đức
Ba Lan
Mỹ
Singapore
Nhật Bản
Hoa Kỳ
8
1
2
1
1
3
1
1
2000
23
Singapore
Hoa Kỳ
Hàn Quốc
Malaysia
Thái Lan
Đài Loan
Anh
Áo
Thụy Điển
Trung Quốc
Panama
Ucraina
3
3
4
1
1
1
2
1
1
2
1
1
2001
16
Singapore
Hoa Kỳ
Hồng Kông
Hàn Quốc
Ba Lan
Ấn Độ
Đức
Indonesia
8
1
1
1
1
3
1
1
2002
19
Singapore
Hoa Kỳ
Hồng Kông
Hàn Quốc
Đài Loan
Anh
Ấn Độ
Trung Quốc
Tanzania
Israel
2
1
2
2
3
1
1
1
1
1
2003
16
Singapore
Nhật Bản
Hàn Quốc
Malaysia
Canada
Đức
Ukraina
4
2
3
1
1
1
1
2004
32
Singapore
Nhật Bản
Hồng Kông
Hàn Quốc
Đài Loan
Anh
Hà Lan
Indonesia
Tây Ban Nha
Uruquay
Vanuatu
6
1
2
3
2
1
3
1
1
1
1
2005
22
Singapore
Hàn Quốc
Malaysia
Đài Loan
Áo
Hà Lan
Đức
Hoa Kỳ
Na Uy
Slovakia
1
8
2
2
2
1
2
1
1
1
2006
23
Nga
Trung Quốc
Áo
Malaysia
Đức
Mỹ
Anh
Singapore
Hàn Quốc
Ấn độ
Ucraina
Thái Lan
Italy
Hồng Kông
1
4
3
2
2
1
2
1
2
1
1
1
1
1
Nguồn:htp\\WWW.viac.org.vn
PHỤ LỤC 3
ĐƠN KIỆN
....... ngày...... tháng ...... năm ............
Kính gửi: Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
Tên doanh nghiệp (Nguyên đơn): ....................................
Địa chỉ: .............................................................................
ĐT: ..................................................................................
Fax: .....................................Email....................................
Họ tên người đại diện: ......................................................
Chức vụ: ...........................................................................
Nay làm Đơn khởi kiện Bị đơn:
Tên doanh nghiệp: (Bị đơn) .............................................
Địa chỉ: ..............................................................................
ĐT: ...................................................................................
Fax: ...................................................................................
Họ tên người đại diện: ......................................................
Chức vụ: ...........................................................................
I
Trình bày tóm tắt nội dung vụ tranh chấp: ........................
..................................................................................................
II
Căn cứ pháp lý để khởi kiện ..................................................... ......................................................................................................
Nguồn:htp\\WWW.viac.org.vn
MỤC LỤC
MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Chương 1 5
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 5
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC DẠNG TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 5
1.1.1. Khái niệm tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 5
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 10
1.1.3. Các dạng tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 11
1.2. TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 13
1.2.1. Tình hình tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 13
1.2.2. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 13
1.3. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 14
1.3.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài 15
1.3.2. Các hình thức trọng tài 17
1.3.3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài 18
1.4. LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 23
Chương 2 28
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 28
2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 28
2.1.1. Thẩm quyền của Trọng tài giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 28
2.1.2. Trình tự giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài 30
2.1.3. Thi hành quyết định của trọng tài 39
2.1.4. Sự hỗ trợ của Toá án đối với hoạt động của Trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 41
2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 45
2.2.1. Ưu điểm của pháp luật hiện hành giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài 45
2.2.2. Hạn chế của pháp luật hiện hành giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài 54
Chương 3 63
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 63
3.1. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 63
3.1.1. Thực trạng hoạt động trọng tài ở Việt Nam 63
3.1.2. Nguyên nhân của thực trạng hoạt động trọng tài ở Việt Nam 64
3.2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 68
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG 87
3.3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao năng lực giải quyết các tranh chấp HĐMBHHQT. 87
3.3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp HĐMBHHQT bằng Trọng tài. 87
3.3.3. Một số kiến nghị về các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp thương mại có yếu nước ngoài bằng Trọng tài 89
3.3.4. Một số kiến nghị về các giải pháp hỗ trợ giải quyết tranh chấp thương mại có yếu nước ngoài bằng Trọng tài 96
KẾT LUẬN 99
PHỤ LỤC 1.SO SÁNH PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤT THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN VÀ TRỌNG TÀI 101
PHỤ LỤC 2.THỐNG KÊ VỤ KIỆN 104
PHỤ LỤC 3.ĐƠN KIỆN 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn thạc sỹ - Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam.doc