Luận văn Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh Thực trạng và giải pháp

Giải quyết việc làm đang là vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách trước mắt, là vấn đề gay cấn và nhạy cảm đối với cộng đồng, đối với từng gia đình và mọi thành viên trong xã hội. Giải quyết việc làm không những có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội mà còn thể hiện rõ năng lực tổ chức quản lý cũng như bản chất chính trị của Nhà nước.

pdf105 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6020 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó sẽ đào tạo một lực lượng lao động nông thôn từ lao động phổ thông thành lao động có nghề, lao động có kỹ thuật. Đối với ngành dịch vụ Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ, mở thêm các loại hình mới cả dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất và kinh doanh cũng như đời sống của nhân dân trong tỉnh. Mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động thương mại dịch vụ như thông tin, tư vấn kỹ thuật công nghệ, tài chính, ngân hàng, pháp luật, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh… Tổ chức hình thành các chợ ở khu vực nông thôn, tạo điều kiện cho nông dân có môi trường thuận lợi để giao lưu hàng hóa dịch vụ. Phát triển mạng kết cấu hạ tầng đi trước một cách hợp lý, tương xứng với vai trò vừa là động lực vừa là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên đầu tư phát triển du lịch, vận tải, bưu điện, tài chính, ngân hàng là ngành chiếm tỷ trọng lớn và then chốt. Đây là hướng cơ bản để tăng cầu lao động, tạo việc làm ở cả thành thị và nông thôn. Liên quan đến vấn đề này là hàng loạt các biện pháp đồng bộ từ Luật doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư, chính sách hộ khẩu, chính sách thuế, vốn… đến quy hoạch tổ chức lại các vỉa hè, chợ, quản lý đô thị… đặc biệt là đào tạo các chủ doanh nghiệp trẻ, các hộ sản xuất kinh doanh, trạng bị cho họ những kiến thức cơ bản về thị trường và quản trị doanh nghiệp. 3.2.2. Phát triển và đa dạng hóa các hình thức kinh doanh tạo nhiều việc làm mới cho lao động của tỉnh Phát triển và đa dạng hóa các hình thức kinh doanh đa thành phần với nhiều trình độ kỹ thuật và quy mô tổ chức khác nhau ở cả thành thị và nông thôn, để tạo nhiều việc làm, thu hút được nhiều lao động là hướng đi quan trọng để tăng cầu về lao động, phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm. 3.2.2.1. Phát triển kinh tế hộ gia đình Kinh tế hộ gia đình có vị trí hết sức quan trọng, tuy nó không phải là một thành phần kinh tế nhưng nó là một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Các thành viên của kinh tế hộ gia đình là những người có quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống, người chủ quản lý của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động của mình. ở nước ta kinh tế hộ gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn. Phát triển kinh tế hộ gia đình là giải pháp tạo ra nhiều việc làm tại chỗ phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi trình độ và tận dụng được các nguồn lực tại chỗ như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, lao động dư thừa, kinh nghiệm quản lý dân gian… Với mô hình này, sự hợp tác và phân công lao động trong gia đình rất linh hoạt và có hiệu quả. ở Việt Nam hiện nay và cả những năm tiếp theo, hộ gia đình vẫn là đơn vị quản lý kinh tế cơ bản tổ chức sản xuất - kinh doanh. Chỉ có phát triển kinh tế hộ gia đình mới thu hút được các loại đối tượng lao động trong gia đình như: phụ nữ, trẻ em, nhất là lao động đã lớn tuổi, trình độ văn hóa thấp, không có chuyên môn kỹ thuật, tạo việc làm tại chỗ cho người lao động. 3.2.2.2. Phát triển kinh tế trang trại Kinh tế trang trại là hệ quả của sự phát triển kinh tế hộ, trong đó quy luật phát triển của nền nông nghiệp từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hàng hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, phù hợp với quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội. Kinh tế trang trại đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; tạo ra các vùng chuyên canh tập trung, sản xuất hàng hóa làm tiền đề, cơ sở cho việc phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm; tạo thuận lợi cho việc đưa công nghiệp và dịch vụ vào nông thôn; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn; tăng độ che phủ đất trống đồi trọc, cải thiện môi trường sinh thái. Kinh tế trang trại tạo thêm việc làm, góp phần giải quyết số lao động dư thừa trong nông thôn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống và nâng cao dân trí. Để kinh tế trang trại phát triển đúng hướng, thực sự đóng vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, cần phải thực hiện tốt một số vấn đề sau đây: - Phân vùng quy hoạch gắn với chính sách sử dụng và quản lý đất đai, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. - Tăng cường đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật, mở rộng và phát triển sản xuất thâm canh, có chính sách cho vay vốn ưu đãi để đầu tư phát triển kinh tế trang trại. - Có chính sách trợ giá đối với giống, vật tư, phân bón. - Hỗ trợ các chủ trang trại tìm kiếm thị trường, mở rộng và ổn định thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa. Hình thành quỹ trợ giá hỗ trợ người sản xuất lúc khó khăn, tổ chức cung cấp thông tin giá cả, dự đoán biến động giá cả vật tư, nông sản phẩm trên thị trường thường xuyên cho chủ trang trại để điều hành sản xuất có hiệu quả. - Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, đặc biệt là hệ thống đường giao thông, điện, thủy lợi… 3.2.2.3. Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống Có thể nói làng nghề ở Bắc Ninh có những tác động rất lớn vào đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh, đặc biệt trong lĩnh vực việc làm. Việc khôi phục và phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp trong các vùng nông thôn, nhất là trong các làng nghề thủ công truyền thống đóng vai trò quan trọng và là biện pháp chủ yếu nhất giải quyết lực lượng lao động thiếu việc làm hiện nay của tỉnh; góp phần chuyển dịch cơ cấu nông, công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn; xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân và người lao động ở tỉnh. Hiện nay Bắc Ninh có 58 làng nghề, trong đó có 31 làng nghề truyền thống, với tổng số 278 đơn vị sản xuất tiểu thủ công nghiệp và hơn 9.000 hộ kinh doanh. Làng nghề Bắc Ninh có vai trò to lớn tạo ra nhiều sản phẩm cần thiết cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, nhất là tăng trưởng sản phẩm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thu hút nhiều lao động, làm tăng thu nhập cho người lao động. Giá trị sản lượng hàng năm của các làng nghề chiếm hơn 40% tổng giá trị công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Cho đến nay tổng số vốn đầu tư cho các làng nghề khoảng 200.000 triệu đồng [32, tr. 12-13]. Giá trị sản lượng sản xuất ra hàng năm khá lớn và đa dạng, thể hiện khả năng và năng lực sản xuất của các làng nghề. Mặc dù thị trường tiêu thụ còn rất hạn hẹp, nhưng các tổ chức và cá nhân trong làng nghề đã hình thành được cách tiêu thụ riêng cho mình. Trên cơ sở khôi phục và phát triển các cụm công nghiệp, các làng nghề truyền thống hiện có, từ nay đến năm 2010 Bắc Ninh cần quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề và đa nghề ở các huyện có quy mô từ 5-20 ha với những cơ sở sản xuất vừa và nhỏ sau đây: + Cụm công nghiệp Châu Khê, Đồng Quang, Đình Bảng, Tân Hồng. + Hạp Lĩnh, Khắc Niệm, Phú Lâm, Liên Bão. + Thanh Khương, thị trấn Hồ (Thuận Thành). + Đại bái, Ngụ (Gia Bình). + Táo Đôi, Kênh Vàng. + Thị trấn Phố Mới (Quế Võ). + Phong Khê, Đông Tiến, Núi (Yên Phong). + Võ Cường, Đại Phúc (Thị xã Bắc Ninh)… Định hướng phát triển các cụm công nghiệp này là sản xuất các sản phẩm truyền thống có lợi thế của địa phương, đồng thời bố trí các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, dệt, may, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ kim khí vừa và nhỏ… Để Bắc Ninh giữ được nghề truyền thống, phát triển nhiều nghề mới, có nhiều sản phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước và có những bước phát triển vững chắc trong thời kỳ mới, cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây: Thứ nhất, tạo lập thị trường cho các làng nghề. Thị trường là vấn đề sống còn, quyết định sự tồn tại, phát triển hay diệt vong của các làng nghề. Sự biến động thăng trầm của làng nghề phần lớn là do biến động của thị trường quyết định. Vì vậy, cần hỗ trợ giúp các làng nghề tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Vấn đề đặt ra hiện nay là: phải có kế hoạch đầu tư vào việc nghiên cứu phát triển sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế thông qua triển lãm hội chợ... Sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài cần được khai thác kỹ lưỡng năng lực truyền thống để tạo ra những sản phẩm mới và có những mẫu mã phù hợp với thị hiếu và tiêu chuẩn quốc tế. Thường xuyên nghiên cứu sự biến động nhu cầu và thị hiếu của khách hàng ở các nước khác nhau mà cải tiến sản phẩm cho phù hợp. Tỉnh phải có chính sách ưu đãi thích hợp đối với những nhà sản xuất các mặt hàng truyền thống để họ có cơ hội duy trì, phát triển mặt hàng thông qua việc mở rộng sản xuất, bồi dưỡng tay nghề cho sự kế tục và cải tiến sản phẩm. Cung cấp thông tin dịch vụ tư vấn kinh doanh, tư vấn thị trường, trợ giúp các làng nghề làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa, giảm bớt khó khăn và phiền hà các thủ tục, giấy tờ xuất nhập khẩu. Thứ hai, giải pháp về vốn Vốn là nhân tố cực kỳ quan trọng không thể thiếu được trong quá trình sản xuất ở làng nghề truyền thống. Mặc dù yêu cầu về vốn cho sản xuất trong các làng nghề không phải là lớn, nhưng hiện nay nguồn vốn đầu tư vào sản xuất trong các làng nghề còn thấp chủ yếu là vốn tự có. Do nguồn vốn hạn hẹp, nhiều doanh nghiệp tư nhân và các hộ cá thể gặp nhiều khó khăn về vốn trong việc đầu tư trang thiết bị và công nghệ mới. Để có thể tạo nguồn vốn cho các làng nghề phát triển cần áp dụng một số giải pháp sau: - Mở rộng hệ thống tín dụng cho khu vực nông thôn, tổ chức các quỹ tín dụng chuyên doanh phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn. - Hàng năm tỉnh nên có kế hoạch nhất định từ nguồn vốn đầu tư phát triển cho vay với lãi suất ưu đãi cho các cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong các làng nghề, làng nghề mới khôi phục và phát triển, các làng nghề mới. - Đơn giản hóa thủ tục cho vay vốn của các ngân hàng, các quỹ tín dụng. - Khai thác triệt để các khoản vốn hỗ trợ từ bên ngoài thông qua các chương trình, dự án doanh nghiệp vừa và nhỏ trong làng nghề. Thứ ba, đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất Đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất cần đi theo con đường phát triển từ thấp đến cao, từ thô sơ đến hiện đại. Đối với ngành nghề thủ công truyền thống, một mặt phải hết sức coi trọng việc kế thừa kỹ thuật cổ truyền với phát triển kỹ xảo, tay nghề của các nghệ nhân; mặt khác, phải thực hiện kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, trang bị kỹ thuật tiên tiến cho những công đoạn cần thiết để nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất là biện pháp hết sức quan trọng của mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh trong làng nghề truyền thống. Vì vậy cần phải: - Khuyến khích các cơ sở sản xuất trong làng nghề truyền thống đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ, hiện đại hóa công nghệ truyền thống, áp dụng công nghệ nhiều trình độ trong khu vực sản xuất của làng nghề làm cho sản phẩm làm ra cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. - Để giúp các cơ sở sản xuất có thể đổi mới thiết bị và công nghệ, ngoài sự hỗ trợ về vốn để người sản xuất có điều kiện đầu tư mua sắm trang thiết bị, tỉnh cần hỗ trợ trong việc hướng dẫn hoặc cung cấp những thông tin về thiết bị, công nghệ nhập ngoại để người sản xuất có điều kiện chọn lọc cho phù hợp. - Tổ chức các trung tâm tư vấn, chuyển giao công nghệ và các hoạt động hỗ trợ về mặt kỹ thuật và công nghệ cho các làng nghề. Các trung tâm này sẽ tư vấn cho các làng nghề nên sử dụng công nghệ gì, đổi mới ở khâu nào, sử dụng kỹ thuật ra sao… để giúp các làng nghề có thể áp dụng những công nghệ hiện đại vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng của các làng nghề. Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động của các làng nghề. Nhìn chung, chất lượng nguồn lao động trong các làng nghề còn thấp, nhiều người chưa qua đào tạo, mà chủ yếu là truyền nghề trực tiếp. Hiện nay, lao động có chuyên môn kỹ thuật ở trong làng nghề truyền thống chiếm tỷ lệ rất nhỏ, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý vừa ít về số lượng, vừa thấp về chất lượng. Đội ngũ các chủ doanh nghiệp trình độ quản lý còn nhiều yếu kém, ít hiểu biết về sản xuất kinh doanh. Do đó, họ không đủ kiến thức và trình độ để áp dụng phương pháp quản lý tiến tiến. Để nâng cao trình độ quản lý và trình độ tay nghề cho người lao động, đáp ứng được yêu cầu mở rộng sản xuất ở làng nghề truyền thống cần phải có ngay giải pháp mang tính hệ thống và đồng bộ theo các hướng sau: - Nâng cao trình độ văn hóa chung cho dân cư trong các làng nghề. Đây là điều kiện cơ bản để đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề, có trình độ ở các làng nghề. - Cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống các trường dạy nghề. Tập trung chủ yếu vào đào tạo những kiến thức thiết thực cho việc phát triển của làng nghề truyền thống. - Mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng hóa các hình thức dạy nghề. + Khuyến khích hình thành các trung tâm dạy nghề do tư nhân mở lớp đào tạo nghề cho những người có nhu cầu học. + Có thể đưa thêm một số nghề truyền thống vào dạy ở các trường kỹ thuật chuyên nghiệp, các trường công nhân kỹ thuật. Đi đôi với vấn đề đào tạo là việc sử dụng, phải gắn việc đào tạo với giải quyết việc làm. + Các nghệ nhân, thợ giỏi dạy nghề theo kiểu vừa học, vừa làm trong một thời gian nhất định. + Các hiệp hội nghề có thể tổ chức các lớp đào tạo kỹ thuật và quản lý ở trình độ cao, nhằm tạo ra nhiều người có trình độ sản xuất và kinh doanh giỏi, có khả năng tiếp nhận được những nghề mới, cải tiến nghề cũ, làm hạt nhân trong các cơ sở, các làng nghề truyền thống. Thứ năm, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm - Đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất: hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH… nhằm tăng cường sức cạnh tranh và củng cố quan hệ sản xuất. - Khuyến khích và tạo điều kiện cho các làng nghề thành lập trung tâm hoặc doanh nghiệp chịu trách nhiệm giới thiệu đầu ra, đầu vào của sản phẩm. Tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho vay vốn, mặt bằng và tạo cơ sở pháp lý cho các trung tâm này hoạt động. - Thành lập các hiệp hội ngành nghề có nhiều thành phần kinh tế tham gia nhằm liên kết các khâu trong quá trình sản xuất, trao đổi, rút kinh nghiệm, phân công hợp tác sản xuất. - Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa các làng nghề với các DNNN và tăng cường hình thức các cơ sở sản xuất làng nghề làm vệ tinh cho các doanh nghiệp quốc doanh. - Các tổ chức làm nhiệm vụ quản lý ngành, quản lý ngoại thương, các hiệp hội nên có sự phối hợp chặt chẽ trong việc sắp xếp và thống nhất các đầu mối xuất khẩu, phân chia phạm vi và ranh giới các mặt hàng đối với mỗi đơn vị hoặc công ty được giao nhiệm vụ xuất nhập khẩu, nhằm hạn chế tình trạng cạnh tranh hỗn loạn làm tổn hại đến lợi ích chung. Thứ sáu, hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước. Hoàn thiện hệ thống luật, chính sách để tạo lập, phát triển môi trường thể chế cho phát triển làng nghề. Trước mắt cần tập trung vào một số các chính sách cơ bản sau: - Chính sách cơ cấu ngành nghề, mặt hàng và vùng lãnh thổ. Chú trọng phát triển các ngành và sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao như: mặt hàng xuất khẩu, mặt hàng chế biến nông, lâm, thủy sản… - Chính sách huy động vốn cho các làng nghề. - Chính sách thuế. - Chính sách đào tạo nguồn lao động ở các làng nghề. - Chính sách hỗ trợ chuyển giao công nghệ cho các làng nghề ở nông thôn. - Tăng cường công tác quản lý của Nhà nước đối với làng nghề truyền thống. - Bảo vệ môi trường sinh thái và chống ô nhiễm môi trường trong các làng nghề. 3.2.3. Giải pháp phát triển thị trường lao động Nói đến thị trường lao động tức là đề cập đến toàn bộ các quan hệ về lao động diễn ra trong nền kinh tế, bao gồm trao đổi (hay mua bán, thuê mướn) giữa người lao động tự do và người sử dụng lao động dựa trên cơ sở các quy định ràng buộc như tiền công, tiền lương, thời gian lao động, điều kiện lao động, thỏa thuận về quyền lợi của hai bên. Dưới góc độ giải quyết việc làm hoặc giảm thất nghiệp, trong cơ chế thị trường, về thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu lao động trên thị trường lao động. Trong giai đoạn vừa qua, Bắc Ninh đã quan tâm giải quyết cả hai vế cung và cầu lao động, nhưng chú trọng hơn tới biện pháp giải quyết việc làm. Điều này thể hiện tính chất cấp bách tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động ở tỉnh. Tuy nhiên, để thực hiện chiến lược giải quyết việc làm mà tỉnh đã đề ra cần thực hiện các biện pháp sau: Đối với cung của thị trường lao động: - Tiếp tục thực hiện chương trình DS-KHHGĐ, đặc biệt tập trung ở các vùng nông thôn - nơi đông dân nhưng trình độ dân trí thấp lại bị ảnh hưởng bởi phong tục tập quán lạc hậu. - Tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ ở người lớn. - Nâng cao chất lượng của nguồn lao động với các giải pháp cụ thể sau: + Trong lĩnh vực đào tạo, ưu tiên ngân sách và huy động ngoài ngân sách để củng cố các trường dạy nghề, thực hiện đào tạo có mục tiêu. Các trường này cần phối hợp với các doanh nghiệp, cơ quan quản lý Nhà nước để xây dựng nhu cầu đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo để làm căn cứ tuyển chọn và đào tạo công nhân đáp ứng nhu cầu theo các ngành nghề mà nền kinh tế của tỉnh đang cần. + Tiến hành các biện pháp đào tạo, đào tạo lại nghề cho lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN. + Cần xây dựng quỹ đào tạo chung cho các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế, nhằm đào tạo lại nghề cho người lao động bị thất nghiệp do chuyển đổi cơ cấu, do chuyển giao công nghệ. + Cần có biện pháp khuyến khích (hỗ trợ vốn, thuế, thủ tục hành chính…) đối với các doanh nghiệp gửi công nhân đã có tay nghề đi đào tạo ngắn hạn ở nước ngoài phục vụ chuyển giao công nghệ. Các công nhân này sau khi đã được đào tạo phải tiếp tục chuyển giao lại kiến thức cho đồng nghiệp của mình. + Để nâng cao chất lượng nguồn lao động của tỉnh cần ưu tiên đầu tư cho giáo dục - đào tạo, trong đó cần chú trọng tới vùng nông thôn, vùng nông dân nghèo. + Chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Vì vậy, cần phải điều chỉnh lại cơ cấu đào tạo đối với các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề. Trong lĩnh vực đào tạo, đặc biệt cần coi trọng công tác dạy nghề là trọng tâm. Mở rộng hệ thống các trường dạy nghề và xây dựng mối quan hệ chiều ngang giữa trường học, trường dạy nghề và các nhà đầu tư, cũng như mối quan hệ dọc giữa trường dạy nghề với các cơ quan hoạch định chính sách của tỉnh. Cần giới thiệu cho các em học sinh phổ thông cơ sở và phổ thông trung học hiểu biết về các trường dạy nghề, qua đó tạo cầu nối giữa trường học và trường dạy nghề, giúp cho các em tự lựa chọn và quyết định nghề nghiệp cho phù hợp với khả năng của bản thân. Mặt khác, trường dạy nghề cũng cần đào tạo cho các đối tượng khác theo yêu cầu. Như vậy, trong thời gian tới, trường dạy nghề là một khâu quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động, góp phần điều chỉnh cơ cấu đào tạo đang rất bất hợp lý hiện nay để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động của tỉnh. Đối với cầu của thị trường lao động: - Cần có chính sách rõ ràng về hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra được nhiều việc làm. Khuyến khích liên kết giữa các doanh nghiệp lớn - vừa - nhỏ, qua đó có thể tuyển dụng lao động có trình độ khác nhau từ giản đơn đến kỹ thuật cao, vừa thực hiện chuyển giao kỹ thuật giữa doanh nghiệp lớn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực hiện đào tạo theo phương thức vừa học, vừa làm. - Cần cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư tư nhân trong mọi lĩnh vực. - Khuyến khích các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại để giải quyết việc làm tại chỗ. Các cấp chính quyền có vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin, giới thiệu sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ và tạo cầu nối giữa nông dân và các cơ quan hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân. - Nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình giải quyết việc làm bằng cách xây dựng hệ thống hướng dẫn, giám sát, kiểm tra điều chỉnh chặt chẽ từ cơ quan của tỉnh đến các cấp cơ sở. Nâng cao vai trò của các cấp chính quyền địa phương trong giải quyết việc làm, bao gồm trách nhiệm về đóng góp tài chính, hướng dẫn thực hiện, hướng dẫn kỹ thuật, giám sát và đánh giá, chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chương trình khi không đạt được mục tiêu. Không nên thực hiện chương trình giải quyết việc làm một cách dàn trải, nên ưu tiên cho các vùng căng thẳng về giải quyết lao động và cần sự hỗ trợ của Nhà nước Trung ương. Tuy nhiên, chương trình cũng chỉ nên triển khai ở một số nơi đã có đủ điều kiện về đội ngũ cán bộ địa phương am hiểu thực tế và có khả năng giám sát, đánh giá hiệu quả của các biện pháp giải quyết việc làm, ở nơi người lao động có đủ khả năng vay vốn để tự tạo công ăn việc làm. - Cần hoàn thiện khung pháp luật về lao động như quy định về tiền công, tiền lương, các chế độ đối với người lao động khi chuyển việc, thôi việc, mất việc, an toàn lao động… 3.2.4. Hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số Bắc Ninh là một tỉnh có diện tích không lớn 803,87 km2 với số dân cũng không nhiều 951.600 người, nhưng mật độ dân số lại quá cao 1.184 người/km2 (gấp hơn hai lần mật độ dân cư của cả nước). "Đất chật, người đông", vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh còn hạn hẹp. Do đó, hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số nhằm tạo ra sự phù hợp giữa quy mô, tốc độ tăng của nguồn lao động với khả năng thu hút việc làm là một giải pháp quan trọng làm giảm sức ép về việc làm hiện nay ở tỉnh Bắc Ninh. Thực tế cho thấy, tốc độ tăng dân số Bắc Ninh giảm dần chủ yếu là do tỷ lệ sinh giảm xuống. Năm 2000, tốc độ tăng tự nhiên là 1,22% thấp hơn so với trung bình cả nước. Dự kiến đến năm 2005 tỷ lệ đó giảm xuống 0,97% và năm 2010 còn 0,87%. Để đạt được tốc độ tăng tự nhiên trên đây, đồng thời kiểm soát được dân số nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản về phát triển kinh tế của tỉnh, hàng năm bằng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, Bắc Ninh cố gắng giảm tỷ lệ sinh tối thiểu từ 0,03 - 0,05%/năm. Bảng số 10: Dự báo dân số Bắc Ninh theo các giai đoạn Năm Dân số (người) Dưới tuổi LĐ (người) Trong tuổi LĐ (người) Trên tuổi lao động (người) Tỷ lệ sinh (%) Tỷ lệ tăng tự nhiên (%) 2000 2005 2010 2020 951.600 1.000.400 1.058.000 1.174.000 390.900 400.600 412.800 434.400 485.000 517.100 550.200 622.200 76.100 86.300 95.000 117.400 1,64 1,39 1,29 1,02 1,22 0,97 0,87 0,62 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [45, tr. 20]. Để thực hiện được mục tiêu, chiến lược dân số mà tỉnh đã đề ra, cần thực hiện các biện pháp sau đây: - Làm tốt công tác truyền thông dân số đến từng gia đình, đến từng cá nhân, để mọi người hiểu rõ được nội dung kế hoạch hóa gia đình. Thông qua việc giáo dục dân số của các đoàn thể, các tổ chức xã hội… làm cho mọi người hiểu được lợi ích và sự cần thiết của kế hoạch hóa gia đình, thực hiện mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con. - Bảo đảm các dịch vụ kỹ thuật tránh thai một cách dễ dàng, an toàn và có hiệu quả. Hỗ trợ hoặc có thể cung cấp miễn phí các phương tiện, dụng cụ trách thai và các dụng cụ y tế, thuốc men cho những người thực hiện kế hoạch hóa gia đình. - Công tác giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình đến từng gia đình, từng vùng dân cư, thôn xóm phải thông qua các cán bộ chuyên trách công tác kế hoạch hóa gia đình. Vì vậy, cần phải đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ này, đồng thời cũng cần phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với họ. Có như vậy mới thực hiện thành công được chương trình DS-KHHGĐ. - Nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân trong tỉnh, nhất là đối với người sống ở khu vực nông thôn. Giúp họ hiểu được lợi ích của việc kế hoạch hóa gia đình đối với chính bản thân họ, với gia đình họ và đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. - Cần có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những người không chịu thực hiện kế hoạch hóa gia đình, sinh con thứ 3 trở lên. 3.2.5. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề để đổi mới và nâng cao chất lượng nguồn lao động Đào tạo nghề là sự nghiệp của toàn xã hội. Đầu tư cho đào tạo nghề là đầu tư cho phát triển bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội trực tiếp. Vì vậy, đào tạo nghề đòi hỏi sự đầu tư lớn, Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất ban đầu cho các cơ sở đào tạo; đặc biệt là đối với những ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, cho xuất khẩu lao động và cho những vùng khó khăn; đồng thời tạo điều kiện và môi trường để mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia phát triển đào tạo nghề, đặc biệt là những ngành nghề phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Mục tiêu đào tạo nghề ở nước ta giai đoạn 2001 - 2010 [6, tr. 7]: - Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực kỹ thuật với chất lượng cao, với quy mô và cơ cấu ngành nghề hợp lý phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập. - Nâng cao hiệu quả đào tạo nghề, gắn đào tạo với việc làm, với sử dụng lao động, phấn đấu đến năm 2010 sẽ có khoảng 80% lao động có việc làm sau khi đào tạo. - Cải tổ hệ thống giáo dục nghề nghiệp để: + Hình thành hệ thống mạng lưới rộng khắp với quy mô và số cơ sở trọng điểm hợp lý nhằm vừa đáp ứng nhu cầu đào tạo đại trà, vừa đáp ứng nhu cầu đào tạo mũi nhọn. + Tổ chức đào tạo đa dạng, linh hoạt, liên thông để đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất và đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người lao động. + Bộ máy quản lý nhà nước được tổ chức năng động, đơn giản, gọn nhẹ nhưng đủ mạnh để quản lý hệ thống và phải dành quyền chủ động cho các cơ sở đào tạo trong điều kiện luôn biến động của thị trường. Tình hình hiện nay ở nước ta, tâm lý chung của học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học là muốn vào các trường đại học và đó cũng là mong muốn của các bậc cha mẹ. Chính vì vậy, mà hàng năm số lượng thí sinh thi vào các trường đại học ngày càng đông. Ngược lại, số thanh niên vào học các trường nghề rất ít, phần lớn là do hoàn cảnh khó khăn hoặc học lực yếu. Bên cạnh đó, trường dạy nghề chính quy hiện nay vẫn dạy theo chương trình cũ còn các doanh nghiệp thì lại nhập thiết bị mới, vì vậy, "sản phẩm" của các trường chính quy không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Một bất cập lớn đang diễn ra hiện nay là đào tạo nghề chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng kinh tế, chưa gắn với sản xuất và thị trường lao động. Nhiều cơ sở dạy nghề đang rơi vào tình trạng dạy cho người học "cái mình có" chứ không dạy "cái thị trường cần" để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Đào tạo công nhân kỹ thuật lại chưa có các chính sách phù hợp. Những chính sách gắn đào tạo với việc làm vô cùng lỏng lẻo, danh mục nghề đào tạo, danh mục nghề xã hội, tiêu chuẩn cấp bậc nghề… còn đang để trống. Cơ cấu đào tạo còn bất hợp lý, mấy năm gần đây, kế hoạch đào tạo đại học đã vượt quá 50%, còn đào tạo công nhân đạt tỷ lệ quá thấp. Nhiều trường cùng đào tạo một nghề trên một địa bàn, có nghề lại không có trường nào đào tạo. ở Bắc Ninh số người chưa được đào tạo nghề còn rất lớn chiếm 90% lực lượng lao động của tỉnh. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ rất thấp 11,77% (năm 2000). Để nâng cao chất lượng nguồn lao động của tỉnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường lao động, thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2001 - 2010 cần phải đẩy mạnh các hình thức đào tạo nghề. Trong điều kiện của Bắc Ninh hiện nay, yêu cầu đẩy mạnh các hình thức đào tạo nghề rất cần thiết để vừa bổ sung, cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực, khắc phục những bất hợp lý về phân bổ nguồn nhân lực, những khó khăn về nguồn lực, nhất là về tài chính, nâng cao hiệu quả đầu tư cho đào tạo nghề của tỉnh. Vì vậy, cần phải thực hiện các biện pháp sau: Thứ nhất, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội: làm chuyển biến nhận thức của mọi người dân về vị trí và vai trò của công tác đào tạo nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cũng như đối với việc làm và sự ổn định phát triển của mỗi người, mỗi gia đình. Duy trì các hoạt động thi tay nghề, thi thầy giỏi, trò giỏi, thợ giỏi. Tôn vinh về giá trị xã hội đối với người có "bàn tay vàng", đối với các nghệ nhân… tạo phong trào thi đua yêu nước trong lĩnh vực đào tạo nghề. Các cấp chính quyền cần phối hợp với Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xây dựng phong trào thanh niên học nghề, lập nghiệp; với hội Phụ nữ về đào tạo nghề cho phụ nữ; với Liên đoàn lao động về tổ chức phong trào luyện tay nghề, thi thợ giỏi; với Hội khuyến học nhằm đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề trong mọi tầng lớp dân cư. Thứ hai, huy động ngân sách cho công tác đào tạo nghề: tăng ngân sách cho đào tạo nghề bằng huy động từ nhiều nguồn: ngân sách Nhà nước cấp, các nguồn hợp tác quốc tế thông qua các dự án hỗ trợ và vay vốn, các doanh nghiệp có trách nhiệm đóng góp cho đào tạo nghề, các nguồn đầu tư của tổ chức trong và ngoài nước, huy động đóng góp của cá nhân và gia đình người học… Đổi mới cơ chế cấp, phát quản lý và sử dụng ngân sách theo hướng ngân sách cho đào tạo nghề được phân bổ trực tiếp đến các cơ sở dạy nghề. Thứ ba, đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nghề: phải thường xuyên cập nhật kiến thức, thông tin mới, nâng dần nội dung chương trình giảng dạy, chất lượng nguồn nhân lực lên ngang các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào hay xuất khẩu lao động sang các nước khác ngày càng nghiêng về lao động được đào tạo, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Ngoài ra, còn phải chú ý đến khâu thực hành, ứng dụng, giáo dục kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp, rèn luyện kỹ năng và những khả năng thích ứng của người lao động với những đặc điểm của nền kinh tế thị trường. Đặc biệt cần có nội dung, chương trình đào tạo riêng phù hợp cho những đối tượng tham gia xuất khẩu lao động như ngoại ngữ, chuyên môn kỹ thuật, những kiến thức về kỷ luật lao động của doanh nghiệp nước sẽ đến. Thứ tư, mở rộng quy mô và các hình thức đào tạo nghề. - Hệ thống đào tạo nghề bao gồm tất cả các cơ sở dạy nghề thuộc loại hình: công lập, bán công, dân lập, tư thục chịu sự quản lý của Nhà nước. Hệ thống đào tạo nghề bao gồm: + Các trung tâm dạy nghề do chính quyền địa phương, cơ sở, các tổ chức đoàn thể xã hội thành lập để đào tạo nghề ngắn hạn cho người lao động. + Đào tạo nghề tại các doanh nghiệp. + Các cơ sở, lớp đào tạo nghề tư nhân. + Các trường đào tạo nghề chính quy của Nhà nước. + Đào tạo nghề thông qua hợp tác quốc tế. - Đa dạng hóa các hình thức đào tạo nghề: ngoài đào tạo tập trung, chính quy cần coi trọng các hình thức đào tạo tại chức, đào tạo từ xa, đào tạo lại, đào tạo ngoài giờ, kèm cặp tại các cơ sở sản xuất. Khuyến khích các nghệ nhân, thợ cả mở lớp dạy nghề theo phương pháp truyền nghề trực tiếp. Thứ năm, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo nghề: củng cố và nâng cao năng lực bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo nghề. Tăng cường quản lý đối với các cơ sở đào tạo nghề, nắm chắc đối tượng quản lý, nội dung quản lý, kế hoạch hóa công tác đào tạo hàng năm và dài hạn. Cần tăng cường tổ chức kiểm tra, thanh tra về thực hiện mục tiêu, kế hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, quy chế chuyên môn, quy chế thi cử, cấp văn bằng chứng chỉ, chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề. Thứ sáu, Có chế độ đãi ngộ thỏa đáng và thường xuyên chăm lo đến đời sống của đội ngũ giáo viên và những người đã qua đào tạo; cải tiến chế độ tiền lương, phụ cấp và nâng cao vị trí xã hội của người dạy nghề, nhằm tạo điều kiện cho đội ngũ này phát huy hết khả năng chuyên môn, không ngừng phấn đấu vươn lên đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 3.2.6. Tiến hành hợp tác lao động quốc tế Hiện nay sự nỗ lực tạo thêm việc làm trong tỉnh chỉ mới giải quyết được một phần trong số lao động không có việc làm. Hàng năm lại có thêm một vạn người đến tuổi lao động. Trước tình hình đó, cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xã hội cần được đẩy mạnh nhằm góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế. Để xuất khẩu lao động thực hiện được mục tiêu: góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, bồi dưỡng đào tạo một đội ngũ lao động có tay nghề vững vàng đáp ứng được yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước, tạo thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, tăng cường hợp tác mối quan hệ quốc tế cần thực hiện các giải pháp sau: 1. Tổ chức tốt việc đào tạo chuẩn bị đủ nguồn lao động đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động quốc tế. Người lao động cần được đào tạo toàn diện cả ngoại ngữ, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kiến thức pháp luật và sự hiểu biết khác… phục vụ cho quá trình làm việc và sinh sống tại nước ngoài. Ngoài ra, còn phải giáo dục về kiến thức pháp luật, sự hiểu biết về đất nước, con người, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo… Đây là những nội dung cần thiết trang bị cho người lao động để họ thích nghi được với môi trường mới. Cần xây dựng các trung tâm dạy nghề và ngoại ngữ riêng cho lĩnh vực xuất khẩu lao động. Chương trình đào tạo phải được biên soạn cho phù hợp với từng khu vực, từng nước, đảm bảo chất lượng nguồn lao động đáp ứng với yêu cầu của thị trường lao động quốc tế. 2. Xây dựng cơ chế cho vay tín dụng từ các nguồn vốn quốc gia giải quyết việc làm, quỹ xóa đói giảm nghèo và các nguồn vốn khác để cho các đối tượng nghèo và đối tượng chính sách vay với lãi suất ưu đãi. Các tổ chức tín dụng cũng cần có cơ chế cho người nghèo và các đối tượng chính sách vay với lãi suất thấp để trang trải chi phí đi làm việc ở nước ngoài. Các chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội bảo lãnh, bằng tín chấp để giảm chi phí cho người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và các đối tượng xã hội đi làm việc ở nước ngoài. 3. Cần có chính sách, chế độ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đào tạo người lao động xuất khẩu. Hiện tại các doanh nghiệp còn yếu kém về cơ sở vật chất, vốn liếng còn nghèo nàn, kinh nghiệm lại chưa nhiều. Lao động Việt Nam cần cù, thông minh nhưng cũng có nhiều điểm yếu kém (nhất là về trình độ ngoại ngữ, trình độ chuyên môn kỹ thuật), nếu không được đào tạo thì họ khó có khả năng được chấp nhận ở các thị trường sử dụng lao động nước ngoài. 4. Hoàn thiện hệ thống quản lý xuất khẩu lao động. Hệ thống quản lý xuất khẩu lao động cần được đổi mới theo hướng tinh giảm đầu mối trung gian, hoàn thiện bộ máy tinh gọn nhưng hiệu quả hoạt động cao. Có như vậy mới giảm được chi phí, tránh được phiền hà và cả những tiêu cực do bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực mang lại. Bộ máy quản lý phải bao quát và xử lý tốt mọi nội dung quản lý nhà nước, đảm bảo tính linh hoạt, năng động. Cán bộ quản lý xuất khẩu lao động phải có trình độ ngoại ngữ thành thạo, thông hiểu được phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của đất nước nơi đang làm việc. Mặt khác, phải có trình độ nghiệp vụ và vốn sống, kinh nghiệm của người làm công tác quản lý lao động ở nước ngoài, người quản lý phải là người đại diện bảo vệ cho quyền lợi người lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. 5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền đối với chương trình xuất khẩu lao động. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền vừa là biện pháp thúc đẩy công tác xuất khẩu lao động phát triển, vừa ngăn ngừa những hành vi tiêu cực. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về chương trình xuất khẩu lao động. Giúp người lao động nắm được tiêu chuẩn, yêu cầu đặt ra đối với người đi xuất khẩu lao động. Qua đó họ hiểu được các mánh khóe lừa đảo và các hành vi tiêu cực để phòng tránh. 6. Ban hành các chính sách, chế độ thưởng phạt nghiêm minh đối với mọi đối tượng có liên quan đến xuất khẩu lao động. Cần có các biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tình trạng tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động. Những cá nhân và tổ chức nào có hành vi phạm pháp (lừa gạt, chiếm đoạt tài sản hoặc vô trách nhiệm khi tổ chức đưa người ra nước ngoài…) đều bị trừng phạt thích đáng theo pháp luật. Kết luận Giải quyết việc làm đang là vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách trước mắt, là vấn đề gay cấn và nhạy cảm đối với cộng đồng, đối với từng gia đình và mọi thành viên trong xã hội. Giải quyết việc làm không những có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội mà còn thể hiện rõ năng lực tổ chức quản lý cũng như bản chất chính trị của Nhà nước. Bắc Ninh là một tỉnh "đất chật, người đông", dân số tuy không lớn nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao, tình trạng thất nghiệp ở khu vực nông thôn tuy không nhiều nhưng tình trạng dư thừa lao động lại khá cao. Chính vì vậy, tạo mở việc làm, hạn chế thất nghiệp là một vấn đề kinh tế - xã hội đang được đặt ra một cách bức bách, là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bắc Ninh. ý thức về tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bắc Ninh đã có những chủ trương và giải pháp đúng đắn để giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh. Trong những năm qua, vấn đề giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động đã được các cấp, các ngành của tỉnh quan tâm chỉ đạo và thực hiện. Những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ bản, giáo dục - đào tạo, xóa đói giảm nghèo… đã giúp cho hàng chục nghìn người lao động có việc làm. Tỷ lệ người thất nghiệp ở thành thị giảm, hệ số sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn được nâng lên; chất lượng lao động bước đầu có chuyển biến nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết việc làm và đào tạo nghề còn những hạn chế và tồn tại. Tỷ lệ người thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm chậm. Tình hình dư thừa thời gian lao động ở khu vực nông thôn vẫn còn cao; phân bố lao động chủ yếu tập trung ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, người lao động được đào tạo đạt tỷ lệ thấp, tổ chức dạy nghề chưa gắn với việc làm nên hiệu quả chưa cao… Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm vẫn còn là vấn đề bức xúc, khó khăn. Để phát huy tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, hướng vào sử dụng có hiệu quả nguồn lao động. Vấn đề giải quyết việc làm gắn với chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển đa dạng các hình thức kinh doanh tạo nhiều việc làm mới, phát triển thị trường lao động, đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… là những giải pháp cơ bản, vừa có ý nghĩa thực tiễn trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài để giải quyết tốt vấn đề giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong tỉnh. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Phạm Ngọc Anh (1999), "Các giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn", Nghiên cứu lý luận, (7), tr. 19-22. 2. Nguyễn Tuệ Anh (1999), "Phát triển thị trường lao động ở nước ta", Nghiên cứu kinh tế, (259), tr. 47-55. 3. Nguyễn Hòa Bình (2000), "Giải pháp nào cho tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay", Con số và sự kiện, (3), tr. 21-24. 4. Nguyễn Sinh Cúc (1999), "Giải pháp tạo việc làm ở nông thôn thời kỳ CNH, HĐH", Thông tin lý luận, (7), tr. 28-32. 5. Cục Thống kê Bắc Ninh (2001), Niên giám thống kê 2000, Bắc Ninh. 6. Đỗ Minh Cương (2001), "Về chiến lược đào tạo nghề thời kỳ 2001-2010", Lao động và xã hội, (5), tr. 7. 7. Doãn Mậu Diệp (1999), " Dân số, lao động và việc làm ở Việt Nam", Tư tưởng văn hóa, (3), tr. 42. 8. Nguyễn Hữu Dũng (2000), "Chiến lược an toàn việc làm trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước", Lao động và công đoàn, (228), tr. 25. 9. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Lê Duy Đồng (2000), "Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực và tạo mở việc làm trong thời kỳ 2001-2010", Lao động và xã hội, (4), tr. 29-31. 14. Nguyễn Thị Hằng (1999), "Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam đến năm 2010", Tạp chí Cộng sản, (7), tr. 29-36. 15. Nguyễn Thị Hằng (1999), "Về triển khai thực hiện công tác đào tạo nghề và chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm", Lao động và xã hội, (4), tr. 20-26. 16. Trương Thị Thúy Hằng (1999), "Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực đối với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam", Những vấn đề kinh tế thế giới, (1), tr. 57. 17. Trương Thị Thúy Hằng (1997), "Thị trường lao động Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (232), tr. 69-72. 18. Huỳnh Tấn Kiệt (2000), Giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh Đồng Nai - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 19. Hương Liên (1998), "Giải quyết mối quan hệ cung cầu lao động theo hướng nào", Báo Nhân Dân, ngày 23/3/1998. 20. Bùi Sỹ Lợi (1999), "Về giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp nông thôn ở Thanh Hóa", Lao động và xã hội, (9), tr. 35-36. 21. Trần Văn Luận (1997), "Sử dụng nguồn lao động khu vực thành thị-thực trạng và giải pháp", Nghiên cứu kinh tế, (229), tr. 40-48. 22. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Phan Sĩ Mẫn (1997), "Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay", Nghiên cứu kinh tế, (225), tr. 21-23. 24. Nguyễn Lê Minh (2000), "Thị trường lao động và hội chợ việc làm", Lao động và xã hội, (3), tr. 24-25. 25. Nguyễn Xuân Nga (2001), "Nâng cao chất lượng nguồn lao động cho cạnh tranh và hội nhập", Lao động và xã hội, (1), tr. 24. 26. Jacques Nikonoff (2001), "Xây dựng một xã hội không có thất nghiệp và để thay đổi lao động", Thông tin lý luận, (5), tr 25. 27. Lê Duy Phúc (1999), "Giải quyết việc làm ở nông thôn nhìn từ góc độ cung cầu", Kinh tế và dự báo, (12), tr. 19-22. 28. Nguyễn Lương Phương (2000), "Những đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động và những giải pháp pháp lý nhằm đẩy mạnh xuất khẩu lao động trong tình hình mới", Nhà nước pháp luật, (4), tr. 52-58. 29. Đỗ Thị Xuân Phương (2000), Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm (qua thực tế ở Hà Nội), Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 30. Phan Thanh Tâm (2000), "Lao động có chuyên môn kỹ thuật ở nước ta hiện nay, thách thức và giải pháp", Kinh tế và dự báo, (7), tr. 15-16. 31. Phạm Đỗ Nhật Tân (1998), "Sự hội nhập khu vực về xuất khẩu lao động của Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (10), tr 49-52. 32. Nguyễn Quý Thanh, Nguyễn Quý Nghị (2000), "Sự phát triển của khoa học công nghệ và vấn đề lao động - việc làm", Công tác khoa giáo, (6), tr. 18. 33. Phạm Đức Thành (2000), "Lao động và việc phát triển công nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng", Kinh tế và phát triển, (35), tr. 29-32. 34. Phạm Đức Thành (2001), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH ở Việt Nam", Lao động và xã hội, (1), tr. 45-46. 35. Nguyễn Thế Thảo (2000), "Phát triển làng nghề để giải quyết việc làm ở Bắc Ninh", Lao động và xã hội, (10), tr. 12-13. 36. Nguyễn Thông (2000), "Một số biện pháp giải quyết việc làm năm 2000", Kinh tế và dự báo, (2), tr. 13-16. 37. Nguyễn Thị Thơm (2000), "Cơ cấu nguồn lao động nước ta - những bất cập và giải pháp", Lao động và xã hội, (9), tr. 35-36. 38. Cao Thị Thúy (1999), "Một số vấn đề về tình trạng lao động thừa mà thiếu", Nghiên cứu kinh tế, (12), tr. 56-61. 39. Phạm Hồng Tiến (2000), "Vấn đề việc làm ở Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (260), tr .32-38. 40. Trần Việt Tiến (1999), "Phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước", Kinh tế và phát triển, (32), tr. 40-43. 41. Hà Quý Tình (1998), "Nguồn nhân lực nông thôn - thực trạng và giải pháp", Nghiên cứu lý luận, (10), tr. 24-26. 42. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2001), Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Nguyễn Lương Trào (1995), "Xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm trong điều kiện hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (11), tr. 13-15. 44. Bùi Anh Tuấn (1998), "Tạo việc làm cho người lao động thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam", Những vấn đề kinh tế thế giới, (55), tr. 5. 45. Đức Tuấn (2000), "Giải quyết lao động và việc làm ở Sơn La", Báo Nhân Dân, ngày 2/12/2000. 46. Đỗ Thế Tùng (1996), "Vấn đề lao động và việc làm", Trung tâm Thông tin tư liệu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 47. Trần Hữu Trung (1999), "Việc làm của người lao động đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống", Tạp chí Cộng sản, (21), tr. 33-37. 48. UBND tỉnh Bắc Ninh (2000), Chương trình giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động tỉnh Bắc Ninh, Bắc Ninh. 49. UBND tỉnh Bắc Ninh (2001), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh đến 2010 và một số định hướng chiến lược đến 2020, Bắc Ninh. Phụ lục Phụ lục 1: Mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế bắc ninh Chỉ tiêu 2000 2005 2010 2020 Dân số (nghìn người) 951,6 1004 1058 1174 GDP (Tỷ đồng, giá 1994) 2472,6 4657,3 8393,4 22780,4 - Nông, lâm nghiệp 947,5 1238,3 1471,4 2178,1 - Công nghiệp-XD 866,2 2110,9 4235,4 12026,1 Trong đó công nghiệp 638,4 1725,4 3605,1 10706,8 - Dịch vụ 658,9 1308,1 2686,6 8576,2 Nhịp tăng 13,5 13,0 10,5 - Nông, lâm nghiệp 5,5 4,5 4,0 - Công nghiệp-XD 19,5 17,2 11,0 Trong đó công nghiệp 22,0 18,9 11,5 - Dịch vụ 14,7 15,1 12,3 Cơ cấu GDP (giá hiện hành) 100,0 100,0 100,0 100,0 - Nông, lâm nghiệp 39,5 26,9 17,8 9,5 - Công nghiệp-XD 33,8 44,1 49,0 52,2 Trong đó công nghiệp 24,9 36,1 41,8 46,1 - Dịch vụ 26,7 29,0 33,2 38,3 Cơ cấu GDP (giá 1994) 100,0 100,0 100,0 100,0 - Nông, lâm nghiệp 38,3 26,6 17,5 9,6 - Công nghiệp-XD 35,0 45,3 50,5 52,8 Trong đó công nghiệp 25,8 37,1 43,0 47,0 - Dịch vụ 26,7 28,1 32,0 37,6 GDP/ng (USD hiện hành) 249,3 437,2 733,0 1786,2 GDP/ng (USD 1994) 236,7 422,5 722,7 1767,5 Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn (Tr.USD) 49,0 115,0 350,0 1050,0 Riêng địa phương (Tr USD) 29,8 70,0 240,0 750,0 Tỷ lệ huy động ngân sách(%) 6,9 6,1 6,4 6,5 Tỷ lệ tích lũy/GDP (%) 27,5 32,0 35,0 37,0 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [49, tr. 19]. Phụ lục 2: nhu cầu đào tạo lao động tỉnh Bắc Ninh Chỉ tiêu Đơn vị tính 1997 2000 2005 - Dân số Người 932.424 978.450 1.036.725 - Lao động trong độ tuổi Người 470.874 499.000 545.000 - Lao động được đào tạo Người 73.340 99.800 152.600 Tỷ lệ so với tổng số % 16 20 28 - Lao động được đào tạo nghề Người 51.790 69.860 109.900 Tỷ lệ so với tổng số % 11 14 20 Chia theo ngành kinh tế - Lao động được đào tạo nghề Người 51.790 18.070 39.140 Tỷ lệ % 100 100 100 Trong đó: + Lao động nông nghiệp Người 23.600 7000 3914 Tỷ lệ % 46 39 10 + Lao động công nghiệp và XD Người 24.480 8.000 23.484 Tỷ lệ % 47 44 60 + Dịch vụ Người 3710 3.070 11.742 Tỷ lệ % 7 17 30 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [48, tr. 15]. Phụ lục 3: cân đối sử dụng lao động Trong các ngành kinh tế quốc dân tỉnh Bắc Ninh (giai đoạn 1999-2005) Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999 2000 2005 Tổng dân số Người 942.564 955.289 978.450 1.036.725 Số LĐ cần bố trí việc làm Người 486.800 493.500 499.000 545.000 Tỷ lệ so với dân số % 51,65 51,66 51,00 52,56 Số LĐ đã có việc làm Người 465.200 473.600 482.000 524.000 Tỷ lệ so với lao động cần bố trí việc làm % 95,56 95,97 96,59 96,69 Phân theo ngành KTQD Nông, lâm, thuỷ sản Người 365.480 360.140 354.800 328.050 Tỷ lệ so với LĐ có việc làm % 78,56 76,04 73,60 62,60 Công nghiệp và xây dựng Người 48.400 55.000 67.500 115.250 Tỷ lệ so với LĐ có việc làm % 10,4 11,61 14,00 21,99 Dịch vụ Người 51.320 58.460 59.800 81.000 Tỷ lệ so với LĐ có việc làm % 11,03 12,34 12,40 15,45 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [48, tr. 16]. Phụ lục 4: Kế hoạch đào tạo nghề đến năm 2005 Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2005 Số Lđ Tỷ lệ Số Lđ Tỷ lệ Số Lđ Tỷ lệ Số Lđ Tỷ lệ Tổng số LĐ 482.600 493.500 499.000 545.000 Số được đào tạo 80.687 16,57 89.187 18,10 99.800 20,00 148.500 28,00 Trong đó: Đào tạo ĐH, CĐ, THCN 21.711 4,46 24.230 4,91 27.944 5,60 39.050 7,10 CN và sơ cấp 20.533 4,2 22.754 4,59 26.432 5,28 37.950 6,90 Đào tạo kèm cặp truyền nghề 38.443 7,9 42.203 8,6 45.426 9,12 71.500 13,00 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [48, tr. 16]. Phụ lục 5: Tỷ trọng lao động có khả năng lao động tham gia vào các ngành kinh tế quốc dân Đơn vị: (%) Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2005 Lao động trong độ tuổi tham gia vào các ngành KTQD 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Chia ra: - Nông, lâm, ngư nghiệp 81,0 78,5 76 73,6 62,6 - Công nghiệp và XD 10,0 11,2 12,6 14,0 20,3 - Dịch vụ 9,0 10,3 11,4 12,4 17,1 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [48, tr. 17]. Phụ lục 6: Tăng trưởng nguồn lao động Bắc Ninh Giai đoạn Trong tuổi lao động (1.000 người) Tỷ lệ so với dân số (%) Nhịp tăng 1995 458 50,7 2000 485 51,0 1,2 2005 517,1 51,5 1,3 2010 550,2 52,0 1,3 2001-2010 1,3 2020 622,2 53,0 1,2 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [49, tr. 21].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh Thực trạng và giải pháp.pdf
Luận văn liên quan