Nhận thức được vị trí, vai trò của vấn đề giải quyết việc làm trong những năm
qua, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tỉnh đã có nhiều chủ trương, giải
pháp để giải quyết vấn đề việc làm. Những kết quả thu được trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thương mại - dịch vụ, giáo
dục - đào tạo, xóa đói giảm nghèo. bước đầu đã tạo ra việc làm cho hàng chục nghìn
người lao động. Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng lên, tỷ lệ thất nghiệp
ở đô thị giảm xuống, chất lượng nguồn lao động bước đầu có tiến bộ, từng bước đáp ứng
được yêu cầu của thị trường sức lao động trong và ngoài tỉnh.
111 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5199 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết việc làm ở Thái Bình- thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã quy hoạch ở
thành phố Thái Bình, Tiền Hải, Thái Thụy; từng bước xây dựng các cụm công nghiệp
ven quốc lộ số 10, các cụm công nghiệp, dịch vụ ở các trị trấn, thị tứ.
- Tập trung khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, du nhập các nghề
mới, chú trọng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, mạnh dạn đổi mới đầu tư công nghệ,
kết hợp giữa công nghệ tiên tiến với công nghệ cổ truyền để nâng cao chất lượng và sức
cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, đáp ứng được nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu.
Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, du nhập và phát triển các
nghề mới nhằm phát huy thế mạnh của địa phương, giải quyết việc làm, tăng thu nhập tạo
điều kiện phân bố lại lao động nông nghiệp, nông thôn, làm thay đổi bộ mặt nông thôn
theo hướng hiện đại hóa. Chuyển đổi một bộ phận lớn lao động nông nghiệp sang khu
vực phi nông nghiệp, làm thay đổi cơ cấu lao động về mặt chất, tạo ra một lực lượng lao
động mới ở nông thôn từ lao động phổ thông trở thành lao động có kỹ thuật.
3.2.1.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành thương mại dịch vụ
Thương mại - dịch vụ là một ngành có khả năng thu hút được nhiều thành phần
kinh tế tham gia, đẩy mạnh phát triển thương mại - dịch vụ sẽ tạo ra nhiều cơ hội giải
quyết được nhiều chỗ việc làm mới cho người lao động. Mục tiêu đến năm 2010 tỷ trọng
ngành dịch vụ GDP tăng lên 42%, tăng kim ngạch xuất khẩu 16% năm, năm 2005 đạt 75
triệu USD, đến năm 2010 đạt 150 triệu USD [26, tr. 53].
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành thương mại - dịch vụ đạt hiệu quả, góp
phần tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, tỉnh cần tập trung vào giải quyết tốt các
việc sau:
- Quy hoạch, phát triển tốt hệ thống thương mại - dịch vụ phù hợp với nền kinh
tế thị trường. Đẩy mạnh hoạt động thông tin, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường.
Phát huy tiềm năng du lịch tự nhiên, sinh thái, du lịch văn hóa của tỉnh, gắn với tổng thể
du lịch đồng bằng sông Hồng và cả nước, mở rộng dịch vụ du lịch quốc tế.
- Phát triển mạnh hệ thống thương mại nhiều thành phần, kiên quyết xóa bỏ tình
trạng gây ách tắc cản trở sản xuất kinh doanh; bảo vệ quyền lợi của người kinh doanh và
người tiêu dùng trong khuôn khổ pháp luật quy định.
- Đầu tư, phát triển xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ để tương xứng và phát huy
được vai trò vừa là động lực, vừa là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội.
- Quy hoạch lại mạng lưới chợ ở khu vực nông thôn, đặc biệt là chợ đầu mối
trung tâm cụm xã, liên xã, thị trấn và thị tứ; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có môi
trường để giao lưu hàng hóa dịch vụ.
Phát triển mạnh các ngành dịch vụ như: giao thông vận tải, bưu chính viễn thông,
dịch vụ tư vấn, thông tin, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm...
- Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên
có đủ năng lực và trình độ phục vụ trong ngành thương mại - dịch vụ.
3.2.2. Xây dựng và phát triển kinh tế biển thành ngành kinh tế mũi nhọn
gắn với giải quyết việc làm cho người lao động
Những năm qua ngành kinh tế biển của tỉnh đã huy động được sức mạnh tổng
hợp của các thành phần kinh tế, giải quyết việc làm thường xuyên cho trên 15 nghìn lao
động, tạo ra thu nhập, cải thiện đời sống của ngư dân và bảo vệ an ninh vùng biển.
Tuy nhiên, tốc độ phát triển kinh tế biển còn chậm, chưa tương xứng với tiềm
năng thế mạnh của tỉnh. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải tập trung xây dựng và phát
triển kinh tế biển nhanh chóng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; nhằm đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Mục tiêu phấn đấu từ nay
đến năm 2010: "Tăng diện tích nuôi trồng hải sản 7000 ha trở nên, sản lượng nuôi trồng
hải sản 30 nghìn tấn, khai thác 37 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu 25 triệu USD trở lên"
[27, tr. 5].
Để thực hiện tốt mục tiêu trên, biến tiềm năng thành hiện thực, đẩy mạnh phát
triển kinh tế biển gắn liền với giải quyết việc làm cho người lao động, tỉnh cần tập trung
vào giải quyết tốt các việc sau:
- Đẩy mạnh nuôi trồng thủy, hải sản theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tiến hành quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết vùng nuôi trồng thủy, hải sản.
Ngoài việc củng cố trên 3000 ha đầm hiện có, xây dựng mới 1000 ha đầm mới và chuyển
đổi trên 2000 ha ở vùng đất bị ô nhiễm mặn, vùng ven đê biển đang làm muối và cấy lúa
kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy hải sản.
Quy hoạch lại vùng đầm hiện có; vùng đầm dự kiến chuyển đổi phải có quy
hoạch cụ thể trước khi tiến hành chuyển sang nuôi trồng thủy, hải sản. Từng bước đầu tư
xây dựng các cơ sở thuần hóa giống và vươn lên cho sinh sản tại chỗ các giống tôm (tôm
sú, tôm càng xanh, tôm rảo), các giống cá (cá chim trắng, rô phi đơn tính, cá trê, cá vược,
cua...) để cung cấp cho các tập thể, tư nhân nuôi trồng thủy, hải sản. áp dụng các tiến bộ
sinh học và tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nuôi trồng thủy, hải sản. Giảm dần diện tích
nuôi quảng canh, tăng nhanh diện tích nuôi bán thâm canh và thâm canh. Trước mắt nhập
đủ thức ăn công nghiệp, tiến tới chủ động sản xuất thức ăn tại chỗ cho nuôi, trồng, thủy,
hải sản. Làm tốt công tác kiểm dịch, phòng trừ bệnh dịch cho các con vật nuôi thủy, hải
sản.
- Khuyến khích mở rộng ngư trường ngoài khơi.
Phát triển thêm các đội tàu khai thác xa bờ, đầu tư đồng bộ phương tiện, thiết bị
hiện đại, đào tạo nhân lực, đảm bảo các dịch vụ hậu cần, cải tiến quản lý và hình thức tổ
chức phục vụ cho khai thác hải sản xa bờ cả ba vụ trong năm. Gắn khai thác hải sản xa bờ
với bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biển.
- Mở rộng khả năng chế biến thủy, hải sản.
Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư chế biến thủy, hải sản phục
vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Đa dạng và nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo sức cạnh
tranh trên thị trường. Tập trung đầu tư xây dựng nhà máy chế biến thủy, hải sản xuất
khẩu tạiâhi huyện ven biển Thái Thụy và Tiền Hải có năng lực sản xuất trên 3.000
tấn/năm với các thiết bị và công nghệ hiện đại đủ khả năng chế biến sản phẩm đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu. Từng bước hạn chế và đi đến chấm dứt tình trạng xuất khẩu nguyên liệu
thô. Giữ vững thị trường xuất khẩu đã có, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước
Tây Âu và Bắc Mỹ.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng dịch vụ, du lịch biển.
Mở rộng, nâng cấp hệ thống đường giao thông liên xã, liên huyện, đường từ tỉnh
xuống các huyện ven biển: đường 39, 217; cầu Trà Lý, cầu Vô Hối, cầu Hồng Quỳnh.
Mở rộng, nâng cấp cảng Diêm Điền, cảng cá Tân Sơn, Nam Thịnh. Nạo vét các cửa sông
lớn và luồng lạch để tàu có trọng tải 1000 tấn ra vào thuận tiện. Xây dựng một xí nghiệp
đóng mới và sửa chữa tàu, thuyền với quy mô 120 đến 150 chiếc/năm bằng vật liệu gỗ,
thép, xi măng lưới thép. Xây dựng cơ sở dịch vụ cung ứng nguyên liệu, bao tiêu sản
phẩm; các đội tầu dịch vụ trên biển làm dịch vụ cho các đội tàu khác.
Triệt để khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, tổ chức các tuyến du lịch
hợp lý, hấp dẫn; chú ý khai thác ưu thế của các di tích lịch sử, văn hóa, làng nghề, làng
vườn, danh lam thắng cảnh, các cồn đảo và vùng tự nhiên sinh thái ven biển. Kết hợp
giữa tham quan trong đất liền với du lịch trên biển, trên sông và nghỉ dưỡng tại các nhà
nghỉ ở nội tỉnh và vùng ven biển. Từng bước xây dựng và cải tạo các nhà nghỉ, khách sạn
đủ tiêu chuẩn, đủ điều kiện đón khách trong nước và quốc tế.
Đề nghị với Trung ương và Bộ Quốc phòng, Quân khu III đẩy nhanh quá trình
xây dựng và thực hiện các đề án khai thác cồn Vành, cồn Thủ, cồn Đen; xây dựng đường
giao thông thủy - bộ nối liền các cồn trên với đất liền nhằm khai thác tốt các tiềm năng
phát triển kinh tế để thu hút nhiều lao động có việc làm, gắn với nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh vùng biển.
- Trồng rừng ngập mặn và bảo vệ môi trường biển.
Tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch vành đai rừng phòng hộ ven biển, tổ chức trồng
mới ở những bãi bồi chưa có rừng, phục hồi rừng ngập mặn ở cồn Vành đã bị phá. Phấn
đấu đưa tổng số diện tích rừng ngập mặn lên 12.000 ha. Bên cạnh việc trồng mới phải
bảo vệ tốt những vùng rừng đã trồng, thực hiện nguyên tắc muốn khai thác 1 ha rừng bên
trong phải trồng mới trên 1 ha rừng bên ngoài để diện tích rừng không ngừng tăng lên và
vùng bãi bồi càng lấn xa ra biển; có kế hoạch cụ thể để khai thác và sử dụng có hiệu quả
số đất bồi hàng năm, thực hiện tốt luật bảo vệ môi trường, ngăn chặn và xử lý nghiêm
minh các hiện tượng vi phạm, khai thác rừng trái phép, đánh bắt hải sản mang tính hủy
diệt. Nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản phải bảo đảm vệ sinh môi trường, không làm ảnh
hưởng đến đời sống nhân dân vùng biển.
- Nghề làm muối: quy hoạch lại diện tích làm muối, xác định cụ thể diện tích
chuyển đổi, diện tích còn lại tiếp tục làm muối để đầu tư, cải tạo, nâng cấp, bảo đảm hiệu
quả kinh tế - xã hội. Trong 5 năm tới, phấn đấu giữ sản lượng muối từ 10.000 tấn đến
12.000 tấn, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh.
- Phát triển kinh tế đi đôi với đảm bảo giữ vững an ninh quốc phòng vùng biển.
Các ngành Công an, Bộ đội biên phòng, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh cùng với chính
quyền hai huyện Thái Thụy, Tiền Hải và các xã ven biển xây dựng kế hoạch phối hợp lực
lượng cả ba tuyến (trên bờ, trong và ngoài khơi); đổi mới phương thức hoạt động vừa
đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững trật tự an ninh và bảo vệ môi trường biển, vừa
đẩy mạnh sản xuất, tăng cường giao lưu mở rộng hợp tác với bên ngoài, thực hiện đúng
tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đề ra: "Gắn khai thác hải
sản với bảo vệ an ninh quốc phòng vùng biển" [26, tr. 48]; kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng và an ninh trong tổng thể chiến lược xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh.
3.2.3. Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống
Nghề và làng nghề ở Thái Bình đã có từ lâu đời, nhiều nghề và làng nghề truyền
thống đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm nay.
Từ khi thị trường truyền thống (Liên Xô cũ và Đông Âu) bị thu hẹp, một số nghề
và làng nghề truyền thống bị mai một. Việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền
thống giữ vai trò quan trọng và là biện pháp trọng yếu để giải quyết việc làm cho người
lao động; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu: công - nông nghiệp - dịch vụ ở nông thôn; xóa
đói, giảm nghèo, đổi mới bộ mặt nông thôn, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân ở
tỉnh.
Hiện nay, ở Thái Bình có "152 làng nghề, thu hút 15 vạn lao động, chiếm 16%
lực lượng lao động trong tỉnh và chiếm 75% tổng giá trị sản xuất ngoài quốc doanh của
tỉnh" [28, tr. 2].
Tuy nhiên, việc khôi phục và phát triển làng nghề nhìn chung còn chậm, chưa
tương xứng với tiềm năng thế mạnh của tỉnh, phần lớn các sản phẩm sản xuất ra với công
nghệ lạc hậu, chủ yếu làm thủ công, chất lượng kém, mẫu mã đơn điệu, sức cạnh tranh
hạn chế, bị ép cấp, ép giá, thu nhập của người lao động thấp. Nguyên nhân của tình trạng
trên là:
- Về chủ quan:
Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh chưa nhận thức đầy đủ tiềm năng, thế mạnh và
lợi thế của nghề và làng nghề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nên chưa đầu tư
thá¢a đáng cho việc lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng, xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư
cho khôi phục và phát triển làng nghề.
- Về khách quan:
Thị trường truyền thống ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ (Liên Xô và Đông Âu)
bị thu hẹp, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, vấn đề hội nhập mở cửa cạnh
tranh quyết liệt trên thị trường quốc tế đã tác động không nhỏ đến sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm của làng nghề, làm cho quá trình khôi phục và phát triển làng nghề gặp nhiều khó
khăn.
Mục tiêu phát triển nghề và làng nghề của tỉnh từ nay đến năm 2010: "Giá trị sản
xuất của ngành nghề tăng bình quân 19%/năm; hàng năm giải quyết việc làm cho 15.000
lao động, GDP bình quân đầu người đối với hộ làm nghề đạt 500 USD trở lên" [28, tr. 3].
Để thực hiện được mục tiêu trên, góp phần vào vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động, tỉnh cần tập trung vào giải quyết tốt các việc sau:
Một là, khuyến khích hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển làng nghề.
Tỉnh cần xây dựng chính sách hỗ trợ việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở khu vực có
nghề và làng nghề tập trung, chính sách ưu đãi về vốn và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Hàng năm tỉnh dành một phần ngân sách từ vốn khuyến công, quỹ hỗ trợ đầu tư
phát triển, quỹ giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo... hỗ trợ cho việc đào tạo nguồn
nhân lực, đưa công nghệ mới vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, xử lý ô
nhiễm môi trường. Tôn vinh khen thưởng những người có công đưa nghề về địa phương;
suy tôn kịp thời các danh hiệu cao quý: Nghệ nhân, Người có bàn tay vàng, Bằng lao
động sáng tạo... để động viên, khuyến khích mọi người rèn luyện, nâng cao tay nghề.
Hai là, đẩy mạnh mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân trong các thành phần kinh tế
chủ động tìm kiếm thị trường theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ hợp
tác, liên doanh, liên kết.
Sở thương mại chịu trách nhiệm cùng các ngành liên quan, các doanh nghiệp,
người sản xuất tìm kiếm thị trường; tổ chức giới thiệu các sản phẩm làng nghề trong tỉnh
qua các hé¦i chợ triển lãm, qua mạng Internet để tìm kiếm khách hàng; tổ chức tốt thông
tin thị trường, nâng cao năng lực nghiên cứu, xây dựng chiến lược thị trường, phục vụ có
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Chấn chỉnh các hoạt động kiểm tra, kiểm soát, thu thuế, quản lý thị trường, khắc
phục các hiện tượng gây ách tắc, cản trở sản xuất và lưu thông hàng hóa. Ngăn chặn tình
trạng sản xuất kinh doanh trốn lậu thuế, sản xuất, lưu thông hàng giả, hàng "nhái", bảo vệ
quyền lợi của người sản xuất và quyền lợi của người tiêu dùng theo pháp luật quy định.
Ba là, tăng cường công tác đào tạo nghề cho người lao động.
Đa dạng hóa các loại hình đào tạo cho nhiều loại đối tượng như: đào tạo chủ
doanh nghiệp, cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật bằng các hình thức đào tạo tập trung,
kèm cặp, truyền, dạy nghề tại cơ sở. Khuyến khích các cấp, các ngành, các tổ chức, cá
nhân tham gia phát triển sự nghiệp đào tạo nghề; du nhập và dạy nghề trong nông thôn;
mời các chuyên gia giỏi về địa phương dạy nghề, truyền nghề mới và các nhà khoa học,
các nhà quản lý công nhân có kỹ thuật bậc cao cùng tham gia giảng dạy, truyền nghề.
Bốn là, tạo điều kiện thuận lợi phát triển các hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn làm đầu tàu, nòng cốt, cung ứng nguyên liệu, tổ chức sản
xuất, đầu tư đổi mới công nghệ, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho làng nghề.
Năm là, khuyến khích đầu tư, đưa tiến bộ khoa học - công nghệ mới vào sản xuất
để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường; nghiên cứu, cải tiến công nghệ truyền thống, từng bước cơ khí hóa
các khâu lao động thủ công như: dệt, mạ bạc, ươm tơ, đánh bóng...
Sáu là, gắn việc xây dựng, phát triển thị trấn, thị tứ, các tụ điểm kinh tế với phát
triển làng nghề, từng bước đô thị hóa nông thôn. Gắn quy hoạch phát triển làng nghề với
du lịch làng nghề và du lịch sinh thái để thu hút nhiều khách du lịch, mở rộng thêm nhiều
việc làm mới; đồng thời thu hút đầu tư và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm làng
nghề.
Bảy là, chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái cho các làng nghề.
Khi quy hoạch phát triển nghề, làng nghề và các vùng sản xuất nguyên liệu phải
chú ý giải quyết các vấn đề vệ sinh môi trường để bảo vệ sức khá¢e và nâng cao đời sống
nhân dân.
3.2.4. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân, tạo ra nhiều việc làm cho người
lao động
Quán triệt quan điểm Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương
khóa IX:
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế [11, tr. 57].
Đối với Thái Bình là một tỉnh thuần nông, phát triển kinh tế tư nhân càng có vị
trí hết sức quan trọng để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động xã
hội, tạo ra nhiều việc làm, từng bước chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang khu
vực công nghiệp và thương mại dịch vụ.
Những năm qua, kinh tế tư nhân ở tỉnh bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân phát triển mạnh mẽ trong các ngành, các lĩnh vực. Đã góp phần quan
trọng vào việc huy động tiềm năng, nội lực, công sức, kinh nghiệm, trí tuệ và các nguồn
vốn của nhân dân đầu tư sản xuất kinh doanh, giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy
phân công lao động xã hội, giải quyết việc làm thường xuyên cho hàng chục nghìn người
lao động, cải thiện đời sống cho nhân dân, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước,
giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong tỉnh. Tổng sản phẩm GDP hàng năm (2000 -
2004) chiếm 45% tổng sản phẩm của toàn bộ nền kinh tế trong tỉnh. Đến nay toàn tỉnh có
6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 2.200 lao động và 850 doanh nghiệp tư
nhân với các loại hình khác nhau thu hút 33.000 lao động, góp phần đáng kể làm giảm
sức ép về việc làm, đảm bảo đời sống cho một bộ phận lớn lao động xã hội [24, tr. 3].
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân ở tỉnh còn bộc lộ nhiều thiếu sót, tồn tại. Nhìn chung
các doanh nghiệp tư nhân vốn tự có ít, quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém,
nhiều doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận đơn thuần, kinh doanh trái pháp luật buôn bán
hàng lậu, hàng giả, trốn thuế; chưa thực hiện tốt những quy định về chế độ bảo hiểm, tiền
lương (tiền công)... đối với người lao động mà Bộ luật lao động đã quy định.
Để khắc phục những tồn tại trên, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân
phát triển, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo ra nhiều việc làm cho
người lao động, trong những năm tới tỉnh cần thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân, tạo môi trường tâm lý xã hội và kinh
doanh thuận lợi để công dân được tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Tổ chức học tập, tuyên truyền sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, cơ chế chính sách của địa phương trong toàn Đảng, toàn dân trong
tỉnh, tạo ra sự thống nhất trong nhận thức và hành động, đẩy mạnh phát triển kinh tế tư
nhân với tốc độ nhanh và đúng hướng, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động.
Tạo mọi điều kiện kinh doanh thuận lợi để doanh nghiệp và người kinh doanh
được hưởng các chính sách ưu đãi hiện hành của Nhà nước, đi đôi với xử lý nghiêm minh
những hành vi kinh doanh trái pháp luật, nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa
vụ kinh doanh theo luật định.
Hai là, soát xét, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp và ban
hành một số chính sách mới, tiếp tục tháo gỡ vướng mắc, khó khăn để khuyến khích phát
triển kinh tế tư nhân đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Ba là, tăng cường các biện pháp quản lý, cải tiến thủ tục hành chính theo mô hình
"một cửa, một dấu" ở những công việc có liên quan đến doanh nghiệp, trong các lĩnh vực:
đăng ký kinh doanh, đất đai, xây dựng... tạo ra sự chuyển biến đồng bộ, thông thoáng có
sức hút "hấp dẫn" mọi đối tác về đầu tư sản xuất kinh doanh tại Thái Bình.
Bốn là, tăng cường hơn nữa chính sách hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý, công nhân
kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các lớp tập huấn, các trung tâm dạy
nghề miễn phí, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước mở các cơ sở dạy
nghề và truyền nghề tại Thái Bình.
3.2.5. Đẩy mạnh di dân chủ động, có tính toán cụ thể nhằm phát triển vùng
kinh tế mới
Là tỉnh "đất chật, người đông", mật độ dân số cao nhất cả nước (1.188 người/km2,
gấp 5,7 lần so với mật độ dân số trung bình của cả nước); vì vậy, vấn đề di dân phát triển
vùng kinh tế mới là một giải pháp quan trọng góp phần vào giải quyết việc làm cải thiện
đời sống của nhân dân trong tỉnh.
Những năm gần đây công tác di dân trong tỉnh đã thu được một số kết quả quan
trọng: "Chỉ tính trong 4 năm (2001 - 2004) đưa dân đi phát triển vùng kinh tế mới được 852
hộ, với số khẩu 2.918 khẩu và 1.883 lao động. Di dân dưới hình thức lập nghiệp lâu dài tại
các đơn vị quốc phòng được 382 lao động, trong đó tại binh đoàn 15 là 121 lao động và binh
đoàn 16 là 261 lao động" [4, tr. 8].
Tuy nhiên, công tác di dân phát triển vùng kinh tế mới ở tỉnh còn bộc lộ nhiều
thiếu sót tồn tại, tốc độ còn chậm, hình thức di dân tự phát nghèo nàn, chưa đa dạng, mới
thực hiện di dân ngoài tỉnh, chưa chú ý đến việc di dãn dân trong địa bàn tỉnh nên mật độ
dân số ở các huyện, vùng không đồng đều.
Nguyên nhân cơ bản của những yếu kém trên là do còn ảnh hưởng tâm lý xã hội
cũ, nhiều người còn có quan niệm sai lệch di dân là "Tha phương, cầu thực", chưa có
quan niệm mới đúng đắn "Đất nước đẹp giàu, đâu cũng là quê hương". Mặt khác, chính
sách đối với di dân xây dựng vùng kinh tế mới chưa đủ mạnh, cơ sở hạ tầng ở vùng đưa
dân đến thấp kém, do chưa có sự tính toán khoa học, cụ thể nên đời sống của dân di cư
gặp nhiều khó khăn (ví dụ: năm 2001 Thái Bình đưa 88 hộ, với tổng số 354 người đi phát
triển kinh tế mới ở huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Do cơ sở hạ tầng: điện, đường,
trường, trạm, nước sạch... xây dựng chưa đồng bộ nên đời sống người dân đi xây dựng
kinh tế mới ở nơi này lúc đầu gặp rất nhiều khó khăn).
Để khắc phục những yếu kém tồn tại trên; đẩy mạnh, nhân rộng và phát triển
vùng kinh tế mới nhằm tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống của
nhân dân. Công tác di dân từ nay đến năm 2010 tỉnh cần tập trung thực hiện tốt các mục
tiêu: "Bình quân mỗi năm đưa dân đi xây dựng kinh tế mới ngoài tỉnh từ 38.000 đến
40.000 người. Trong đó: đưa dân đi phát triển kinh tế mới từ 3.800 hộ đến 4.500 hộ với
18.000 - 20.000 người, đưa lao động vào các binh đoàn quân đội làm kinh tế lâu dài từ
5.000 người trở lên, di dân nội tỉnh từ 3.500 hộ đến 4.500 hộ với trên 20.000 người" [4, tr.
9].
Để thực hiện được mục tiêu trên, tỉnh cần phải thực hiện tốt các giải pháp chủ
yếu sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân có
quan niệm đúng đắn đối với vấn đề di dân, xây dựng và phát triển vùng kinh tế mới, coi
đó vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi và là trách nhiệm của mỗi người dân, với tư tưởng
mới tiến bộ: "Đất nước đẹp giàu, đâu cũng là quê hương". Người đi xây dựng và phát
triển vùng kinh tế mới là đi làm giàu cho gia đình mình và cho quê hương, góp phần phân
bố lại dân cư, tổ chức lại sản sản xuất, phát huy và khai thác thế mạnh của từng vùng,
góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân và tăng
cường thế trận an ninh nhân dân và quốc phòng toàn dân.
Hai là, thông tin đầy đủ cho nhân dân biết về tình hình địa lý tự nhiên, đất đai,
khí hậu, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng và những thuận lợi khó khăn ở vùng dự
định đưa dân đến, để dân biết, dân bàn và tự nguyện ra đi lập nghiệp ở vùng kinh tế mới.
Ba là, tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ ở những vùng kinh tế
mới. Tỉnh cần phải dành ngân sách thá¢a đáng để đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng ở
những vùng kinh tế mới một cách hoàn chỉnh, đồng bộ trước khi đưa dân đến, nhằm khắc
phục sự chênh lệch về đời sống vật chất và tinh thần giữa quê hương cũ và quê hương
mới. Đồng thời, cần có chính sách ưu đãi đặc biệt cho dân đi xây dựng phát triển kinh tế
mới như: các chính sách cấp đất ở, đất canh tác, miễn thuế, cấp vốn; thực hiện các quyền
chuyển nhượng nhà ở, đất thổ cư, đất nông nghiệp và các quyền lợi khác... một cách thá¢a
đáng, thuận lợi, nhanh chóng đảm bảo được quyền lợi và tạo ra tâm lý phấn khởi cho
người dân ra đi xây dựng và phát triển vùng kinh tế mới.
Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền, sự
phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội đối với công tác di dân phát triển vùng kinh tế
mới; phải coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
vừa có ý nghĩa thực tiễn trước mắt, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đồng thời, phải
chú trọng kiện toàn tổ chức di dân từ tỉnh đến huyện phù hợp với yêu cầu thực tiễn để
thường xuyên nắm bắt tình hình, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc để thực hiện tốt
nhiệm vụ vận động, tổ chức nhân dân hăng hái tình nguyện ra đi xây dựng vùng kinh tế
mới.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, rút kinh nghiệm kịp thời việc di dân phát
triển vùng kinh tế mới ở từng địa bàn và từng đợt. Chú trọng xây dựng và nhân rộng các
điển hình tiên tiến ở những vùng quê hương mới mà người Thái Bình đang sinh sống, tạo
ra sức hút mạnh mẽ lôi cuốn nhiều gia đình và nhiều người lao động hăng hái tình nguyện
ra đi xây dựng quê hương mới, góp phần giải quyết vấn đề lao động và việc làm một cách
thiết thực và hiệu quả.
3.2.6. Thực hiện có hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động
Thực chất của hoạt động xuất khẩu lao động là "Di dân quốc tế", ngày nay dưới
tác động mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, việc di chuyển nhân lực giữa các nước đã
trở thành hiện tượng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội quốc tế.
ở tỉnh Thái Bình, những năm gần đây bước đầu đã coi xuất khẩu lao động là một
lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng và thu được một số kết quả: "Bình quân hàng năm
(2001 - 2004) đã đưa được 2.500 lao động sang làm việc ở Malaysia và Đài Loan qua con
đường hợp tác lao động" [24, tr. 5]. Hoạt động này, đã góp phần vào vấn đề giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho nền kinh tế
của tỉnh.
Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu lao động ở tỉnh còn bộc lộ nhiều thiếu sót
tồn tại: phương thức, hình thức đưa lao động ra nước ngoài làm việc còn nghèo nàn, chưa
mở rộng xuất khẩu lao động sang nhiều nước, chất lượng nguồn lao động xuất khẩu thấp,
số lượng lao động xuất khẩu chưa nhiều, quyền lợi người đi xuất khẩu lao động chưa
được quan tâm đúng mức... Để thực hiện mục tiêu từ nay đến năm 2010 bình quân mỗi
năm đưa 3.500 lao động sang làm việc ở nước ngoài, hoạt động xuất khẩu lao động của
tỉnh cần phải tập trung thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tổ chức tốt việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu,
đáp ứng nhu cầu thị trường lao động quốc tế. Để thực hiện được yêu cầu trên, công tác
đào tạo cần phải tập trung nâng cao nghiệp vụ kỹ thuật nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ
luật, kiến thức ngoại ngữ, truyền thống văn hóa của nước mà người lao động sẽ sang làm
việc. Xây dựng các trung tâm đào tạo mở các lớp dành riêng cho xuất khẩu lao động.
Việc cấp chứng chỉ công nhận trình độ nghề nghiệp phải được thực hiện nghiêm túc theo
đúng quy định của pháp luật. Tỉnh trích ngân sách hỗ trợ khoảng 250.000 đồng/lượt
người để giúp cho người lao động học nghề, học ngoại ngữ, tin học, giáo dục định hướng
từ các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm.
Hai là, cho người đi xuất khẩu lao động được vay vốn từ ngân hàng chính sách
xã hội với l·¤i suất thấp để trang trải chi phí đi làm việc ở nước ngoài. Chính quyền địa
phương và các tổ chức chính trị xã hội bảo lãnh bằng tín chấp, tạo mọi thuận lợi cho
những người có hoàn cảnh khó khăn hoàn thành các thủ tục cần thiết để được đi làm việc
ở nước ngoài.
Ba là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống quản lý xuất khẩu lao động đồng bộ, vững
mạnh.
Cần phải đổi mới hệ thống quản lý xuất khẩu lao động theo hướng giảm đầu mối
trung gian, hoàn thiện bộ máy tinh, gọn nhưng hiệu quả hoạt động cao; chỉ có như vậy
mới tránh được những tiêu cực và giảm được chi phí do bộ máy quản lý cồng kềnh, kém
hiệu quả mang lại.
Cần phải tuyển chọn cán bộ quản lý xuất khẩu lao động có phẩm chất đạo đức
trong sạch, có trình độ quản lý và trình độ ngoại ngữ thông thạo, hiểu được phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, tôn giáo của đất nước và địa phương có lao động Việt Nam đến làm
việc. Người quản lý phải là người đại diện bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
Bốn là, đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền đối với hoạt động xuất khẩu
lao động.
Công tác thông tin, tuyên truyền là biện pháp quan trọng nhằm ngăn ngừa những
hành vi tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động. Vì vậy, cần tăng cường hoạt động
thông tin, tuyên truyền rộng rãi, công khai trong nhân dân về chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động, giúp cho nhân dân nắm
được yêu cầu, tiêu chuẩn đặt ra đối với người đi xuất khẩu lao động. Qua đó mà phòng và
tránh được các mánh khóe lừa đảo và các hành vi tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao
động.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xuất khẩu lao
động.
Tỉnh cần có cơ chế và biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng tiêu cực trong
hoạt động xuất khẩu lao động. Phải xử lý nghiêm minh theo pháp luật bất kỳ tổ chức, cá
nhân nào có hành vi lừa gạt, chiếm đoạt tài sản hoặc thiếu trách nhiệm khi tổ chức đưa
người lao động ra nước ngoài nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động theo luật định.
3.2.7. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động
để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động
Đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động không những có vai trò quyết
định trong việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
toàn diện kinh tế - xã hội mà còn tạo điều kiện cho mỗi con người có thể tìm được việc
làm phù hợp, có thu nhập cao hơn, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: "Phát triển giáo dục -
đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, là điều kiện cơ bản để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" [10, tr. 108].
Những năm qua, công tác đào tạo nghề ở tỉnh bước đầu đã được chú trọng, các cơ sở
dạy nghề được mở rộng, tăng cường, đã kết hợp giữa đào tạo cơ bản, dài hạn với ngắn hạn
làm cho năng lực đào tạo nghề của tỉnh ngày càng tiến bộ hơn; bình quân mỗi năm (2000 -
2004) đào tạo được 9.000 lao động có tay nghề, đáp ứng được một phần nhu cầu của xã hội
và của người lao động [30, tr. 3].
Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề của tỉnh còn nhiều thiếu sót tồn tại, hệ thống
trường dạy nghề và các cơ sở dạy nghề chỉ tập trung ở thành phố Thái Bình chưa phân bố
đều trong các huyện, số lượng cơ sở dạy nghề hiện có chỉ đáp ứng 40% nhu cầu học nghề.
Cơ cấu đào tạo nghề chưa hợp lý, một số nghề chưa được đưa vào chương trình đào tạo
dẫn đến cơ cấu lao động sau đào tạo không đồng bộ, hẫng hụt lao động trên nhiều lĩnh
vực. Chất lượng đào tạo kém, số người chưa qua đào tạo nghề còn rất lớn chiếm 81,5%
lực lượng lao động của tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, yếu kém trên là:
- Về chủ quan: Tỉnh chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện về vị trí, vai trò của vấn đề
đào tạo nghề cho nên chưa thật sự quan tâm đúng mức đến lĩnh vực này. Thể hiện ở
chính sách đầu tư, chính sách khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở dạy nghề, chính sách đối
với người dạy và người học nghề chưa đủ mạnh, chưa thiết thực nên công tác đào tạo
nghề của tỉnh còn chậm phát triển, chưa ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
- Về khách quan: Nền kinh tế của tỉnh chậm phát triển, mức thu nhập của dân
thấp, tâm lý xã hội còn coi trọng về giáo dục đại học - cao đẳng, xem nhẹ về học nghề
làm cho công tác đào tạo nghề gặp nhiều trở ngại khó khăn.
Để khắc phục những tồn tại yếu kém trên, thực hiện tè¨t mục tiêu đào tạo nghề
của tỉnh từ 2005 - 2010 là: "Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 40% đến 50%,
trong đó công nhân kỹ thuật chiếm từ 25% đến 30%; bình quân mỗi năm giải quyết việc
làm mới cho 20.000 - 25.000 lao động, xuất khẩu 3.000 lao động" [30, tr. 3]; trong thời
gian tới công tác đào tạo nghề của tỉnh cần tập trung thực hiện tốt những giải pháp chủ
yếu sau:
Một là, tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội.
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội làm chuyển biến sâu sắc nhận thức của
toàn xã hội về vị trí, vai trò "quốc sách, hàng đầu" của công tác đào tạo nghề đối với sự
phát triển phồn vinh của xã hội, cũng như đối với việc làm, nâng cao chất lượng cuộc
sống của mỗi người, mỗi gia đình. Tổ chức, phát động và duy trì các phong trào thi đua
"luyện tay nghề, thi thợ giỏi", tôn vinh về giá trị xã hội với các danh hiệu cao quý như:
"bàn tay vàng", nghệ nhân... cho những người có tay nghề giỏi, tạo ra phong trào thi đua
yêu nước trong lĩnh vực đào tạo nghề, học nghề.
Hai là, quy hoạch lại mạng lưới, đa dạng hóa các loại hình trường, lớp dạy nghề.
Sắp xếp lại hệ thống trường và cơ sở dạy nghề theo hướng chuyên sâu. Duy trì và
củng cố bốn trường hiện có (Trường công nhân kỹ thuật, Trường dạy nghề giao thông,
Trường công nhân xây dựng, Trường dạy chữ - dạy nghề cho người tàn tật). Từ nay đến
năm 2010 thành lập 7 trung tâm dạy nghề thuộc 7 huyện với lực lượng mỗi trung tâm đào
tạo 500 học sinh/năm. Phương thức hoạt động của các trung tâm thực hiện theo quy định
của pháp luật về đào tạo; dạy nghề phải gắn với nhu cầu lao động của từng vùng, củng cố
các cơ sở dạy nghề thuộc các tổ chức xã hội, các hợp tác xã và tư nhân theo hướng
chuyên sâu, nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng để giúp
cho người lao động cần gì học nấy, phục vụ kịp thời nhu cầu giải quyết việc làm cho lao
động tại chỗ.
Ba là, đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy nghề.
Căn cứ vào nhu cầu lao động trên các lĩnh vực để đào tạo có kế hoạch, có trọng
tâm, trọng điểm từng ngành, nghề để đáp ứng kịp thời cho quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của tỉnh. ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để đổi mới phương pháp dạy
nghề nhằm bảo đảm cho người học vừa tiếp thu được kiến thức cơ bản, vừa nắm chắc
được kỹ nghệ thực hành. Cần phải huy động các chuyên gia, các nghệ nhân, những thợ
giỏi (tay nghề bậc cao) tham gia xây dựng nội dung, chương trình, giảng dạy và đánh giá
kết quả đào tạo. Việc xây dựng nội dung, chương trình đào tạo phải bám sát nhu cầu xã
hội, theo hướng tiếp cận trình độ khoa học công nghệ tiên tiến ở khu vực và trên thế giới;
ưu tiên các lĩnh vực công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn.
Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề.
Tỉnh cần tập trung xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề đủ về số
lượng, hợp lý về cơ cấu, chuẩn hóa về trình độ và chất lượng; đáp ứng được yêu cầu vừa
tăng được quy mô, vừa nâng cao được chất lượng hiệu quả đào tạo. Cần xây dựng chính
sách, chế độ đãi ngộ thá¢a đáng đối với giáo viên dạy nghề, nâng cao đời sống và vị thế
xã hội của họ; nhằm khuyến khích đội ngũ giáo viên dạy nghề không ngừng phấn đấu
vươn lên trong giảng dạy, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo.
Năm là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các trường và các cơ sở dạy nghề.
Tỉnh cần xây dựng quy hoạch tổng thể mặt bằng, bảo đảm từng trường dạy nghề
có đủ điều kiện diện tích tác nghiệp theo quy định. Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở trường
lớp dạy nghề đồng bộ, phấn đấu đến năm 2006 các trường dạy nghề có đủ 100% số
phòng học đạt tiêu chuẩn kỹ thuật qui định; đồng thời từng bước đồng bộ hóa: thư viện,
phòng thí nghiệm, phòng thực hành, ký túc xá, công trình vệ sinh, nước sạch... để các
trường dạy nghề ngoài việc có cơ sở vật chất đồng bộ còn có môi trường, cảnh quan
"xanh, sạch, đẹp" thực sự hấp dẫn đối với người học.
Sáu là, đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp đào tạo nghề.
Đào tạo và đào tạo lại nghề cho người lao động là một yêu cầu cấp bách hiện nay.
Nếu không nâng cao chất lượng nguồn lao động thì không thể đáp ứng được yêu cầu của
thị trường sức lao động. Nhiệm vụ này chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi Nhà nước và
nhân dân cùng làm. Xã hội hóa sự nghiệp đào tạo nghề vừa là một xu hướng tất yếu, vừa
một giải pháp bắt buộc và cấp thiết đặt ra tỉnh phải quan tâm giải quyết. Trước mắt, cần
tập trung thực hiện tốt các việc sau:
Khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển dạy
nghề và học nghề; tạo cơ hội cho mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ nhất là học sinh
phổ thông được học nghề. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị xã
hội, các doanh nghiệp và các cá nhân có khả năng được tổ chức hoặc tham gia đào tạo
nghề cho người lao động.
Tranh thủ chất xám, trình độ khoa học kỹ thuật của các viện nghiên cứu, các
trung tâm khoa học, các trường đại học... trong giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo
nghề.
Mở rộng sự hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề với nhiều hình thức phong phú:
có thể đưa công nhân đi đào tạo ở nước ngoài, có thể tranh thủ các nguồn tài trợ (các dự
án của các tổ chức quốc tế, các công ty nước ngoài), mời chuyên gia sang đào tạo...
3.2.8. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý nhà nước về tạo
việc làm ở tỉnh Thái Bình
Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền có ý nghĩa quyết định tới
việc tạo mở nhiều việc làm mới cho người lao động. Nhưng thực tế ở Thái Bình trong
những thời gian qua vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền đối với
vấn đề giải quyết việc làm còn bộc lộ nhiều thiếu sót tồn tại (đã được nêu ở mục 2.3.5,
chương 2).
Để khắc phục những yếu kém trong lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của Nhà
nước về việc làm ở Thái Bình, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
* Đối với các cấp ủy Đảng
Thứ nhất, cần phải xây dựng được đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
đặc biệt là chiến lược về giải quyết vấn đề lao động và việc làm một cách đúng đắn, khoa
học, phù hợp với thực tiễn của địa phương. Vấn đề này phải được thể hiện rõ trong quá
trình dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng bộ các cấp, xin ý kiến đóng góp của nhân dân trong
tỉnh, đưa vào chương trình nghị sự của Đại hội và trở thành nghị quyết của Đại hội Đảng
bộ các cấp của tỉnh trong nhiệm kỳ tới.
Thứ hai, phải biến nghị quyết của Đại hội Đảng bộ các cấp, đặc biệt là nghị quyết
về giải quyết việc làm trở thành hiện thực của cuộc sống, bằng cách:
- Tuyên truyền sâu rộng, làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp,
các ngành, các tổ chức xã hội và trong toàn thể nhân dân về chủ trương đường lối phát
triển kinh tế - xã hội, tạo mở việc làm của tỉnh; khuyến khích, động viên các thành phần
kinh tế, các tổ chức xã hội, mỗi gia đình và mỗi người lao động tự tạo việc làm cho mình
và cho xã hội.
- Các cấp ủy Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền cụ thể hóa đường lối nghị
quyết của Đảng thành những chính sách, giải pháp cụ thể tạo mở được nhiều việc làm
trên cơ sở khai thác có hiệu quả các tiềm năng sẵn có của địa phương, phát triển sản xuất
gắn với giải quyết việc làm cho người lao động.
- Các cấp ủy Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức chính trị xã hội (Công đoàn,
Đoàn thanh niên, phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh) và các tổ chức xã hội khác
tích cực vận động các hội viên của tổ chức mình hăng hái thi đua, giúp đỡ lẫn nhau phát
triển sản xuất, tạo mở việc làm.
Thứ ba, đưa vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những
nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng bộ, chi bộ; là một trong những nội dung quan
trọng để xem xét, đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ của chi bộ, Đảng bộ trong mỗi kỳ
sinh hoạt Đảng; là tiêu chí trọng yếu (cơ bản) để phân loại đảng viên hoàn thành nhiệm
vụ và xếp loại chi bộ, Đảng bộ (trong sạch vững mạnh và các danh hiệu khác...) sau mỗi
năm hoạt động.
* Đối với chính quyền
- ủy ban nhân dân tỉnh phải nhanh chóng xây dựng được "chiến lược" giải quyết
việc làm từ nay đến năm 2020, chấm dứt cung cách xây dựng chính sách việc làm "ngắn
hạn" kiểu "ăn đong, chắp vá" như thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó mà thể chế hóa
đường lối nghị quyết của Đảng bộ thành những chính sách, giải pháp cụ thể, hữu hiệu để
phát triển sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
- Chấn chỉnh, kiện toàn hệ thống tổ chức giải quyết việc làm ở cả ba cấp: tỉnh -
huyện - xã. Bố trí cán bộ chuyên trách có năng lực và phẩm chất tốt ở những "mắt khâu"
then chốt, xóa bỏ các tổ chức trung gian, hình thành hệ thống tổ chức chỉ đạo chương
trình giải quyết việc làm theo hình thức trực tuyến: "tỉnh huyện xã" và "tỉnh cơ
sở" (cơ quan, trường - lớp dạy nghề và các tổ chức xã hội... có liên quan đến vấn đề giải
quyết việc làm).
- Chấn chỉnh, nhiệm vụ, nội dung chương trình, cơ cấu ngành nghề đào tạo của
các trường dạy nghề, các trung tâm và cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh, nhằm đảm bảo
nguồn nhân lực sau khi được đào tạo đáp ứng được nhu cầu của thị trường sức lao động
cả về chất lượng và cơ cấu nghề nghiệp.
- Có chính sách ưu tiên thu hút đầu tư những ngành nghề có khả năng giải quyết
việc làm cho số đông lao động phổ thông. Đồng thời chú trọng phát triển song song
ngành nghề ở cả hai lĩnh vực: truyền thống (doanh nghiệp vừa và nhỏ) lẫn hiện đại
(doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến) cả ở nông thôn và thành thị.
- Tăng cường quản lý nhà nước bằng chính sách, pháp luật đối với mọi hoạt động
liên quan đến các vấn đề tạo mở việc làm. Đảm bảo mọi hoạt động như: tư vấn, hỗ trợ,
đào tạo, sản xuất kinh doanh tạo mở việc làm... được tự do, thông thoáng trong khuôn
khổ của pháp luật quy định. Xử lý nghiêm minh theo luật định đối với bất kỳ tổ chức và
cá nhân nào có hành vi vi phạm đến chính sách lao động và việc làm.
Tóm lại, chỉ có áp dụng đồng bộ các giải pháp trên đây thì vấn đề sức ép lao động
và việc làm của tỉnh mới từng bước được giải quyết; chương trình giải quyết việc làm của
tỉnh mới thật sự có hiệu quả và đi vào cuộc sống.
Kết luận
Việc làm là một trong những vấn đề mang tính toàn cầu, vừa cơ bản, vừa lâu dài,
vừa bức xúc trước mắt. Đối với hầu hết khắp các quốc gia trên thế giới, mở rộng việc làm
được coi là yếu tố "chìa khóa" trong mọi chiến lược hướng vào xóa đói, giảm nghèo và
tiến bộ xã hội.
Đối với nước ta, giải quyết việc làm không những có ý nghĩa quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới mà còn thể hiện rõ bản chất chính trị cũng như năng lực tổ
chức, quản lý xã hội của Nhà nước.
Thái Bình là tỉnh nghèo, kinh tế thuần nông, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp,
mật độ dân số cao, tài nguyên có hạn, tốc độ phát triển kinh tế chậm, tình trạng thất
nghiệp nhiều. Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm, đảm bảo đời sống của người lao động là
mối quan tâm hàng đầu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh.
Nhận thức được vị trí, vai trò của vấn đề giải quyết việc làm trong những năm
qua, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tỉnh đã có nhiều chủ trương, giải
pháp để giải quyết vấn đề việc làm. Những kết quả thu được trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thương mại - dịch vụ, giáo
dục - đào tạo, xóa đói giảm nghèo... bước đầu đã tạo ra việc làm cho hàng chục nghìn
người lao động. Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng lên, tỷ lệ thất nghiệp
ở đô thị giảm xuống, chất lượng nguồn lao động bước đầu có tiến bộ, từng bước đáp ứng
được yêu cầu của thị trường sức lao động trong và ngoài tỉnh.
Tuy nhiên, trong giải quyết vấn đề lao động và việc làm của tỉnh còn bộc lộ
nhiều thiếu sót, tồn tại: tỷ lệ người thất nghiệp lớn, số người thiếu việc làm cao đang là
hiện tượng phổ biến đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Mặt khác, số lao động chưa qua đào
tạo còn quá lớn, chất lượng nguồn lao động thấp, tốc độ phát triển kinh tế chậm, cơ chế
chính sách giải quyết việc làm còn thiếu đồng bộ và chưa đủ mạnh... Vì vậy, sức ép về
lao động và việc làm vẫn còn là vấn đề bức xúc và khó khăn.
Để nhanh chóng giảm được sức ép về lao động và việc làm, phát huy thế mạnh
và tiềm năng của tỉnh hướng vào sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động đòi hỏi phải áp
dụng đồng bộ hệ thống các chính sách, giải pháp; trước mắt cần tập trung thực hiện tốt
các giải pháp như:
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn;
- Xây dựng và phát triển kinh tế biển thành ngành kinh tế mũi nhọn;
- Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, du nhập và phát triển
ngành nghề mới;
- Đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế tư nhân;
- Đẩy mạnh di dân một cách chủ động, có tính toán cụ thể để phát triển vùng kinh
tế mới;
- Thực hiện có hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động;
- Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của thị trường sức lao động;
- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý nhà nước đối với vấn đề giải
quyết việc làm;
Những giải pháp trọng yếu trên vừa có ý nghĩa thực tiễn trước mắt, vừa có ý
nghĩa chiến lược lâu dài nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, xóa đói, giảm
nghèo nâng cao đời sống của nhân dân; xây dựng Thái Bình trở thành tỉnh có nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững; cùng với cả nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội - con
đường duy nhất đúng đắn mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; phấn đấu thực
hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trần Kim Anh (6/5/2005), "Phát triển nuôi trồng thủy sản", Báo Nam Định, (1078).
2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1997), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Trung
ương 2 (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ luật lao động, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
4. Chi cục Di dân phát triển vùng kinh tế mới Thái Bình (2004), Báo cáo phương hướng nhiệm
vụ di dân giai đoạn 2005 - 2010, số 94 ngày 22/12.
5. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2004), Niên giám thống kê Thái Bình năm 2003.
6. Cục thống kê Thái Bình (2004), Một số chỉ tiêu thống kê chủ yếu của Thái Bình năm
2004, số 71/TKTH ngày 02/12.
7. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Chính sách giải quyết việc làm ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đinh Đăng Định (chủ biên) (2004), Một số vấn đề lao động, việc làm và đời sống
người lao động ở Việt Nam hiện nay, Nxb lao động, Hà Nội.
15. Trần Xuân Giai (2005), "Tiếp tục đẩy nhanh phát triển nông nghiệp toàn diện, bền
vững theo hướng sản xuất hàng hóa", Báo Nam Định, (1092), ra ngày 08/6/2005.
16. Trần Hồ (2005), "Phát triển công nghiệp dân doanh", Báo Nam Định, (1080, 1081,
1082, 1084), ra ngày 11, 12, 16, 20/5/2005.
17. Nguyễn Thị Lan Hương (Chủ biên), (2002), Thị trường lao động Việt Nam định
hướng và phát triển, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
18. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Maxcơva.
19. Bùi Sĩ Lợi (1999), "Giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh Thanh Hóa", Lao động và xã hội, (9), tr.35-36.
20. C.Mác (1984), Bộ tư bản, Tập thứ nhất, quyển I, phần 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
21. C.Mác - Ph.ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. C.Mác - Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Hồ Chí Minh (2/9/1945), Tuyên ngôn Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Ba Đình, Hà Nội.
24. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thái Bình (2004), Báo cáo tình hình và kết
quả thực hiện chương trình việc làm, số 785/LĐTBXH, ngày 10/9.
25. Trần Thị Thu (2003), Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
26. Tỉnh ủy Thái Bình (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ
XVI, Thái Bình.
27. Tỉnh ủy Thái Bình (2001), Nghị quyết số 02-NQ/TU phát triển kinh tế biển, Thái
Bình.
28. Tỉnh ủy Thái Bình (2002), Nghị quyết số 01-NQ/TU phát triển làng nghề, Thái Bình.
29. Tỉnh ủy Thái Bình (2002), Đề án về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, Thái Bình.
30. Tỉnh ủy Thái Bình (2004), Nghị quyết số 13-NQ/TU phát triển đào tạo, dạy nghề giai
đoạn 2004 - 2010, Thái Bình.
31. Tổng cục Thống kê (2001), Tư liệu kinh tế - xã hội 61 tỉnh, thành phố, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Trình - Nguyễn Tiến Dũng - Vũ Văn Nghinh (2000), Lịch sử các học
thuyết kinh tế, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
33. Hà Lê Trung (1993), "Thế giới hậu chiến tranh", Quan hệ quốc tế, (48), tr. 31.
34. Bùi Sĩ Trùy (Chủ biên), (2000), Điều tra dân số, việc làm và nhà ở tỉnh Thái Bình.
35. Nguyễn Minh Tú (Chủ biên), (1996), Các chính sách huy động và phân bổ nguồn lực
cho phát triển kinh tế Nhật Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đỗ Thế Tùng (Chủ biên), (2000), Giáo trình kinh tế chính trị, Chương trình cao cấp,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đỗ Thế Tùng (2002), "ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm
ở Việt Nam", Lao động và công đoàn, (6), tr.19.
38. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2001), Chương trình mục tiêu giải quyết việc làm
2001 - 2005, Thái Bình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Giải quyết việc làm ở Thái Bình- thực trạng và giải pháp (2).pdf