Với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và của kinh tế tri
thức, với xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, chưa bao giờ nhân tố con
người lại được mọi quốc gia chú trọng như hiện nay. Phát huy vai trò con người thực
chất là bồi dưỡng, phát triển và khai thác những tiềm năng vô tận, sáng tạo của con
người. Thế giới quan khoa học biểu hiện như là “lăng kính” mà qua đó con người có thể
nhận thức thế giới, định hướng được cuộc sống, giúp học hoạt động hiện thực có hiệu quả
hơn. Do đó, nó có vai trò hết sức quan trọng và vai trò ấy ngày càng tăng lên trong thời đại
ngày nay.
82 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3517 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lên lớp lý thuyết sẽ giảm đi so với
đào tạo niên chế (khoảng 1/3), số giờ tự học sẽ tăng lên. Đây là vấn đề rất mới, nên
chúng tôi nghĩ rằng bước đầu thực hiện chắc chắn sẽ có rất nhiều khó khăn đồi với
giảng viên nói chung và giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin nói riêng.
Thứ hai, sức thu hút của các tổ chức thanh niên – sinh viên chưa cao.
Các tổ chức này hiện là một chủ thể quan trọng trong giáo dục sinh viên. Sự
nghiệp đổi và hội nhập thế giới đưa đến sự phát triển của xã hội về mọi mặt trong
đời sống, nhu cầu của sinh viên đòi hỏi với tổ chức đoàn cũng cao hơn như: về nhu
cầu nghiên cứu khoa học, nhu cầu hưởng thụ văn hoá. Để tổ chức Đoàn thanh niên,
Hội sinh viên thực sự tạo ra một “sân chơi” bổ ích cho sinh viên trong hoàn cảnh
mới này đòi hỏi phải có một đội ngũ làm công tác Đoàn, Hội phải thực sự có năng
lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức, khả năng tập hợp thanh niên. Mặt khác, quá
trình đổi mới và hội nhập thế giới này cũng đang tác động tiêu cực đến sinh viên
như: ngại tham gia hoạt động Đoàn thể, sống buông thả, thực dụng, cá nhân chủ
nghĩa, sống thiếu lý tưởng, đua đòi. Một số loại hình nghệ thuật cổ như chèo,
tuồng, kịch nói, kịch câm ít được sinh viên quan tâm do tiết tấu chậm, không phù
hợp với nhịp sống nhanh, sôi động của tuổi trẻ. Do vậy, muốn tập hợp được thanh
niên, giáo dục cho họ sống có lý tưởng cao đẹp, cần phải có đội ngũ cán bộ đoàn
thật sự tâm huyết, nhiệt huyết, có hiểu biết rộng, năng lực tổ chức tốt.
Hơn nữa, hiện nay một số trường Cao đẳng, Đại học ở Tây Nguyên đang
chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Theo hình thức đào tạo này hệ thống các
chi đoàn, chi hội truyền thống sẽ dễ bị tan rã. Bởi vì, đào tạo theo học chế tín chỉ,
lớp học được tổ chức theo học phần, sinh viên đăng ký học các học phần ở đầu mỗi
học kỳ. Một tổ chức Đoàn, Hội muốn hoạt động có hiệu quả phải có các chi đoàn,
chi hội như những “pháo đài”, là nơi trực tiếp triển khai Nghị quyết của Đoàn, Hội
cấp trên đến từng đoàn viên, hội viên. Nhiều trường hiện nay, các tổ chức này chưa
thật sự là nơi tập hợp được nhiều nhất sinh viên, thậm chí có nơi mang nặng tính
hình thức. Đây thực sự là vấn đề tổ chức đang đặt ra cho nhiều trường.
2.2.3. Yêu cầu cao về đổi mới nội dung, phương giảng dạy các môn khoa
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang vượt xa so với cơ sở giáo dục còn
hạn chế
Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế việc giáo dục chủ nghĩa Mác -
Lênin, giáo dục lý luận, tư tưởng chính trị cho sinh viên chưa đáp ứng sự nghiệp giáo
dục trong giai đoạn hiện nay đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới nội dung chương
trình và phương pháp giảng dạy với những điều kiện cơ sở vật chất còn rất nhiều hạn
chế trong các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên hiện nay.
Hiệu quả của việc giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin nói chung và giáo
dục thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng không chỉ phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ
giảng dạy mà còn phụ thuộc vào nội dung, chương trình giảng dạy và phương pháp
giảng dạy. Vì vậy, cải tiến nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy là một yêu
cầu cấp thiết và là một biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả giảng dạy các môn
khoa học này. Vấn đề này đã được Bộ Giáo dục - Đào tạo cực kỳ quan tâm, và Bộ đã
trực tiếp chỉ đạo và chủ trì thực hiện đổi mới nội dung chương trình, đổi mới phương
pháp giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ
Giáo dục - Đào tạo, các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên và sự nỗ lực của đội
ngũ cán bộ giảng viên để cụ thể hoá vào từng nội dung bài giảng. Tuy nhiên, trong quá
trình giảng việc thực hiện sự đổi mới, cải tiến phương pháp giảng dạy lại gặp nhiều trở
ngại về cơ sở vật chất không đáp ứng được với phương pháp giảng dạy mới này.
Thứ nhất, thiếu giáo trình, tài liệu; khi thực hiện nội dung chương trình và
phương pháp giảng dạy theo tinh thần giảng viên chỉ trực tiếp giảng dạy 2/3 nội
dung theo quy định, còn 1/3 nội dung sinh viên tự học và thảo luận. Điều này đòi
hỏi 100% sinh viên phải đảm bảo đủ giáo trình học tập, nhưng hiện tại các trường
Cao đẳng, Đại học ở Tây Nguyên lại không đáp ứng được nhu cầu này. Thư viện
của các trường tài liệu học tập còn nghèo nàn, thậm chí một số trường chỉ giải
quyết cho 3 sinh viên mượn 1 cuốn giáo trình. Đa số sinh viên muốn có giáo trình
thì phải tự đi mua, nhưng đa số sinh viên ở Tây Nguyên xuất thân từ gia đình còn
khó khăn về kinh tế, chẳng hạn ở trường Cao đẳng sư phạm ĐăkLăk, trường Cao
đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên (80% là sinh viên người dân tộc thiểu
số) nên rất nhiều sinh viên không thể tự mua được. Hơn nữa, các nguồn tài liệu,
giáo trình này lại không được cung cấp rộng rãi ở đây, vì vậy các em chỉ học tất cả
những gì ở trong vở ghi. Phương pháp giảng dạy hiện đại đòi hỏi phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của sinh viên, nhưng nếu sinh viên không có đủ phương
tiện tối thiểu để thực hiện việc đọc giáo trình trước ở nhà thì chắc chắn không thể
thực hiện được.
Thứ hai, việc cải tiến và đổi mới phương pháp giảng dạy hiện đại này, đòi hỏi
đội ngũ giảng viên phải có sự chuẩn bị công phu, đầu tư nhiều thời gian dành cho việc
nghiên cứu để thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy của từng bài, từng chương.
Trong khi đó đời sống của đa số giảng viên Mác - Lênin ở Tây Nguyên đang gặp nhiều
khó khăn, đa số giảng viên phải đi làm thêm, dạy thỉnh giảng ở nhiều trường, nhiều hệ
khác nhau nên không thể có thời gian để đầu tư thiết kế một bài giảng đáp ứng yêu cầu
đổi mới phương pháp giảng dạy này.
Thứ ba, cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy hiện đại đòi hỏi phải có sự hỗ
trợ của phương tiện kỹ thuật hiện đại. Hiện nay các trường Cao đẳng, Đại học ở Tây
Nguyên cơ sở vật chất, trang thiết bị và các phương tiện hỗ trợ dạy học còn thiếu rất
nhiều và lạc hậu. Qua tìm hiểu được biết chưa trường nào có phòng học dành riêng để
giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy mà mỗi khi
giảng viên thực hiện một tiết dạy có sự hỗ trợ của phương tiện hiện đại thì phải mất rất
nhiều thời gian, thủ tục rườm rà. Đây thực sự là những vấn đề với yêu cầu đổi mới nội
dung chương trình và phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở các
trường Cao đẳng, Đại học ở Tây Nguyên hiện nay. Thiếu cơ sở vật chất tối thiểu chưa
thể thực hiện được một cách có hiệu quả yêu cầu đổi mới giáo dục đào tạo ở nước ta
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong khi đó, từ phía bên kia, các thế lực thù địch, phản động đang tìm mọi cách
chống phá với nhiều phương tiện hiện đại, với những điều kiện vật chất hơn hẳn và những
hình thức tuyên truyền tinh vi... Ưu thế ấy đang tác động, chi phối khá mạnh vào tư tưởng,
tình cảm, ý chí, nghị lực, của không ít sinh viên.
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
VÀ HIỆU QUẢ GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO
SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
2.3.1. Tạo môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho sinh viên
Muốn giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên đạt hiệu quả
cao nhất, vấn đề hết sức quan trọng là phải tạo lập một môi trường kinh tế, xã hội
lành mạnh. Môi trường kinh tế, xã hội được coi là lành mạnh, trong sạch khi ở đó sự
phát triển của kinh tế không kìm hãm sự phát triển các mặt của đời sống xã hội,
không triệt tiêu và phủ định lẫn nhau. Phát triển kinh tế phải gắn liền với công bằng
và tiến bộ xã hội. Trong chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải thống nhất với
nhau, sự phát triển của kinh tế phải là tiền đề vật chất cho sự phát triển con người,
phát triển xã hội. Bởi vì môi trường sống, điều kiện kinh tế, xã hội có ảnh hưởng rất
lớn tới nhận thức, lối sống tình cảm, sự hình thành nhân cách của con người. Trong
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “con người tạo ra hoàn
cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy”.
Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội phải đấu tranh loại bỏ những hiện tượng,
những biểu hiện xấu đang đối lập với thế giới quan duy vật biện chứng. Cần phải có
những chính sách hợp lý để làm tốt công tác làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đây là nhân tố cực kỳ thiết thực để tạo niềm tin ở sinh viên vào Đảng vào chế độ từ đó
hình thành lý tưởng sống vì mục tiêu của Đảng.
Trong các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên cần ngăn chặn những hiện
tượng tiêu cực trong học tập, thi cử, trong quan hệ thầy trò, chống sự thâm nhập của các
tệ nạn xã hội, lối sống thiếu lành mạnh. Để tạo niềm tin của sinh viên vào công bằng xã
hội, vào kỷ cương phép nước trong nhà trường. Cần phát huy tính tiên phong gương
mẫu của cán bộ, đảng viên, giáo viên ở các trường, xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, thực hiện chủ trương lớn của Bộ Giáo dục - Đào tạo là “học sinh tích cực, xây
dựng trường học thân thiện”. Thực hiện nghiêm túc cuộc vận động hai không do Bộ
Giáo dục - Đào tạo phát động “không tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục”.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên
đòi hỏi phải chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của sinh viên. Chúng ta sẽ
không thu được một kết quả tốt đẹp khi giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho
sinh viên nếu như những vấn đề cấp bách của tuổi trẻ chưa được giải quyết và chú
trọng.
Như hiện nay, đặc biệt là vấn đề giải quyết việc làm cho sinh viên sau khi ra
trường là một vấn đề hết sức nan giải, nhiều sinh viên ra trường đã nhiều năm nhưng
vẫn chưa tìm được việc làm, hoặc phải đi làm “trái nghề”. Cùng với giải quyết việc làm
cho sinh viên sau khi ra trường thì vấn đề thiết thực nhất, trực tiếp hàng ngày của sinh
viên cần được đáp ứng chính là điều kiện ăn, ở, học tập, nghiên cứu khoa học.
Trên thực tế các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên hiện nay cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ cho học tập, nghiên cứu khoa học và chỗ ở cho sinh viên
chưa đáp ứng, thậm chí ở một số trường vừa thiếu, vừa quá lạc hậu… thư viện hay chỉ
đơn thuần là “kho chứa sách”, thiếu nhiều đầu sách cần thiết, trang bị nghèo nàn, cũ kỹ,
lạc hậu; ký túc xá sinh viên thiếu hẳn những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu; khu vui chơi
giải trí cho sinh viên nội trú hầu như không có. Ký túc xá sinh viên trường Cao đẳng Sư
phạm ĐăkLăk, trường Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên, quỹ phòng ở
thừa nhưng sinh viên lại không muốn vào ở, một trong những nguyên nhân chính đó là
điều kiện sinh hoạt tinh thần hầu như không có gì nên phần lớn sinh viên thuê nhà trọ ở
bên ngoài. Điều này sẽ dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý, dễ xảy ra hiện tượng
sinh viên lười học, tụ tập chơi bời, tham gia vào các tệ nạn xã hội. Muốn khắc phục
được những điểm này thì việc tạo lập điều kiện sinh hoạt tốt và xây dựng môi trường
văn hoá lành mạnh ở ký túc xá sinh viên là việc làm thiết thực nhất ở các trường Đại
học, Cao đẳng ở Tây Nguyên hiện nay.
Ngoài ra, chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện những chủ trương, chính sách phù
hợp hơn để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng đống bào dân tộc thiểu số. Khi đời
sống vất chất và tinh thần của các buôn làng được cải thiện, được nâng lên, được hoàn
thiện các thiết chế văn hoá. Đó là những điều kiện để khắc phục dần những tập tục và
hủ tục, tạo ra một không gian – xã hội cho nhóm sinh viên dân tộc thiểu số có cơ hội
để thể nghiệm và hoàn thiện thế giới quan mới đã được trang bị trong nhà trường.
2.3.2. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy đặc biệt là đội ngũ cán bộ
giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin
Nói đến việc học tập của thế hệ trẻ cũng có nghĩa là nói đến nhà trường, nói đến
thầy giáo, mà nói đến trường học là nói đến tri thức, nói đến văn minh, văn hoá. Điều 16
Luật Giáo dục quy định: “không truyền bá tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo
trong các trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan hành
chính nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, của lực lượng vũ trang
nhân dân”. Điều này muốn nói lên đòi hỏi người đi giáo dục cũng phải có một thế giới quan
khoa học - thế giới quan duy vật biện chứng. Thế giới quan khoa học của nhà giáo chi phối
hoạt động và thái độ của họ trong quá trình hành nghề, như trong việc lựa chọn nội dung và
phương pháp giảng dạy, việc kết hợp giữa giáo dục với nhiệm vụ chính trị - xã hội, gắn nội
dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống, cũng như cách nhìn nhận và đánh giá mọi biểu
hiện của sinh viên. Nói cách khác, thế giới quan duy vật biện chứng là kim chỉ nam giúp
cho nhà giáo đi đúng hướng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt động giảng dạy và giáo dục
của nhà giáo.
Trong các trường Đại học và Cao đẳng, đội ngũ giảng viên có vị trí, vai trò hết
sức quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu của môn học. Mục tiêu, yêu cầu
hàng đầu của giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin là giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng cho sinh viên, và chính đội ngũ giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin là
lực lượng chủ yếu thực hiện mục tiêu, yêu cầu cơ bản này. Thông qua giảng dạy chủ nghĩa
Mác - Lênin, giảng viên giúp sinh viên nắm vững và vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng vào học tập chuyên ngành và phân tích các vấn đề thực tiễn xã hội. Vì vậy,
nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng dạy các môn
khoa học Mác - Lênin là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo dục
thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên.
Vì vậy, theo chúng tôi muốn việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho
sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên hiện nay có hiệu quả cần tập
trung vào những vấn đề cụ thể sau:
Một là, phải nâng cao chất lượng của toàn bộ đội ngũ giảng viên ở các trường
Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên hiện nay, trang bị cho đội ngũ này đầy đủ những
phẩm chất cần thiết.
Điều đó đòi hỏi bản thân đội ngũ giảng viên phải là người giác ngộ lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, có phẩm chất chính trị vững vàng tham gia tích cực vào việc giáo dục thế
giới quan duy vật biện chứng thông qua những môn học mà mình đang trực tiếp giảng
dạy.
Hai là, tiếp tục bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên một phương pháp sư phạm tốt,
khả năng truyền thụ hấp dẫn, logic,… giúp sinh viên nắm chắc kiến thức qua đó mà thế
giới quan duy vật biện chứng của họ ngày càng được củng cố và nâng cao.
Riêng đối với giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin, do chức năng đặc
biệt của nó trong việc giáo dục thế giới quan. Vì vậy, trong quá trình nâng cao trình
độ năng lực của đội ngũ này phải chó những chính sách quan tâm hơn.
Cũng giống như các loài hình giảng viên khác, trước hết giảng viên các môn
khoa học Mác - Lênin phải có sự hiểu biết rộng, có chuyên môn giỏi, có năng lực bắt
kịp tri thức khoa học hiện đại và có hiểu biết thực tiễn sinh động. Thông qua việc
truyền đạt những nguyên lý của các môn khoa học Mác - Lênin nó tác động đến tư
tưởng, tình cảm của sinh viên, đến sự lôi cuốn sinh viên say mê học tập hoặc cũng có
thể là gây nên tình trạng sinh viên chán, không muốn học các môn khoa học này.
Qua khảo sát thực tế ở trường Đại học Tây Nguyên, trường Cao đẳng Sư phạm
ĐăkLăk, trường Cao đẳng Văn hoá nghệ thuật ĐăkLăk, trường Cao đẳng nghề thanh
niên dân tộc Tây Nguyên cho thấy khi giảng viên có năng lực chuyên môn và nghiệp
vụ sư phạm tốt, có nghệ thuật truyền đạt thì thu hút được sự say mê học tập, nghiên
cứu của sinh viên. Điều này cũng đồng nghĩa với việc hình thành niêm tin vào những
tri thức của khoa học Mác - Lênin, từ đó mà ở họ có một lý tưởng sống cao đẹp và
tích cực tham gia vào các hoạt động có ý nghĩa như: hoạt động của tổ chức Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên…
Để có được đội ngũ giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin đáp ứng được
nhiệm vụ đó cần phải có các biện pháp như sau:
- Bộ Giáo dục - Đào tạo cần có những biện pháp kiên quyết để không còn tình
trạng giảng viên không còn đủ trình độ, năng lực chuyên môn và nghiệp vụ kém. Đặc
biệt, những giảng viên có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống phải kiên quyết cho
ra khỏi ngành. Bởi những hành vi sai trái của đội ngũ giảng viên nếu không được ngăn
chặn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành nhân cách của mỗi sinh viên, suy giảm
niềm tin của họ đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước. Bên cạnh đó cần
phải đảm bảo số lượng biên chế giảng viên cho từng môn học để giảng viên được đào
tạo chuyên ngành nào thì giảng dạy đúng chuyên ngành ấy nhằm khắc phục tình trạng
giảng viên phải dạy nhiều môn, thực hiện đúng tinh thần công văn số 2488/BGDĐT-
ĐH&SĐH “tuyển đủ giảng viên để giảng dạy các môn này, chấm dứt việc bố trí giảng
viên dạy 2 hoặc 3 môn học, dạy vượt quá nhiều giờ so với quy định”, tạo điều kiện cho
giảng viên có thời gian nghiên cứu khoa học, chuẩn bị bài giảng phong phú hơn, bổ
sung những kiến thức cập nhật cho sinh viên nâng cao trình độ chuyên môn của giảng
viên.
Ngoài ra, Bộ Giáo dục - Đào tạo cần nghiên cứu xây dựng đề án “Bồi dưỡng cho
đội ngũ giảng viên Mác - Lênin về trình độ ngoại ngữ, tin học , khả năng sử dụng
phương tiện kỹ thuật hiện đại trong giảng dạy đạt chuẩn”. Đồng thời tiếp tục thường
xuyên tổ chức bồi dưỡng theo định kỳ cho giảng viên Mác - Lênin về chuyên môn đặc
biệt là những vấn đề lý luận mới đang đặt ra. Bởi trong thế kỷ XXI, thế kỷ của tri thức
với sự phát triển nhanh chóng, tri thức của loài người ngày càng tăng lên, đặt ra những
vấn đề lý luận và thực tiễn mới cần giải quyết.
Hiệu trưởng các trường cần tạo điều kiện tổ chức cho giảng viên Mác - Lênin đi
thực tế 10 ngày trong một năm học. Đây là một yêu cầu cần thiết để đảm bảo nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn mà mỗi một giảng viên Mác - Lênin cần có. Thông
qua đi thực tế tại các khu công nghiệp, các doanh nghiệp, các cơ sở nông nghiệp, các
danh lam thắng cảnh và các di tích lịch sử sẽ cung cấp rất nhiều những tri thực thực tế
để họ có điều kiện vận dụng những tri thức lý luận trong nhà trường luận chứng những
vấn đề của thực tiễn từ đó trong quá trình giảng dạy giảm bớt sự khô cứng, kích thích sự
hứng thú của người học, đem lại hiệu quả cao hơn trong việc giáo dục thế giới quan duy
vật biện chứng.
Đi thực tế 10 ngày dành cho giảng viên Mác - Lênin các trường Đại học, Cao
Đẳng được Bộ Giáo dục - Đào tạo quy định rất rõ, nhưng hầu như các trường Đại học,
Cao đẳng ở Tây Nguyên chưa thực hiện, đặc biệt trường Cao Đẳng nghề Tây Nguyên,
trường Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk trong những năm qua chưa thực hiện được năm nào.
- Đảm bảo điều kiện vật chất cho giảng viên dạy và học tập các môn khoa học
Mác - Lênin. Để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay, trước mắt các trường cần đảm bảo các điều kiện
vật chất cơ bản như: tăng cường sách và tài liệu cần thiết cho thầy và trò cụ thể là sách
giáo khoa phải được đảm bảo đầy đủ; các tạp chí lý luận và các báo chính phải đảm bảo
cho mỗi giảng viên. Để đảm bảo được những điều kiện vật chất này ở mỗi trường cần
phải trang bị tốt hệ thống thư viện và đặc biệt là hệ thống thư viện điện tử.
- Thường xuyên tổ chức các hội thảo về đổi mới phương pháp giảng dạy các môn
khoa học Mác - Lênin. Tuy nhiên, trong những năm gần đây các trường Đại học, Cao
đẳng ở Tây Nguyên đã có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, các hội nghị về chủ đề này
nhưng rất hình thức, làm chiếu lệ, không có một đề tài nào được áp dụng hoặc áp dụng
rất hạn chế.
- Một trong những giải pháp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho
giảng viên đó là việc nâng cao khả năng vận dụng, quán triệt những quan điểm của
Đảng trong giảng dạy. Muốn vận dụng, quán triệt được nhất thiết phải nghiên cứu kỹ
những văn kiện của Đảng, hiểu rõ nội dung các quan điểm của Đảng được trình bày
trong các văn kiện đó, trên thực tế điều này không phải ai cũng thực hiện được.
Nhiều cán bộ giảng dạy, nhất là cán bộ trẻ, vẫn còn quan niệm sai lầm khi cho rằng
không cần phải nghiên cứu nghị quyết của Đảng, xem việc nghiên cứu này chỉ là
công việc của đảng viên, chỉ liên quan đến công tác vận động, tuyên truyền, công tác
thực tiễn, không liên quan đến công tác lý luận. Do không nghiên cứu, thậm chí
không đọc văn kiện, nghị quyết của Đảng, nên nhiều cán bộ không nắm được thực
chất các quan điểm của Đảng, vì vậy khi giảng dạy không thể đưa các quan điểm của
Đảng vào bài giảng của mình được, nếu có thì cũng chỉ là nhắc lại giáo trình một
cách chiếu lệ, gượng ép. Do vậy, việc giảng dạy những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin hiện chưa có tính thuyết phục cao, còn xa rời cuộc sống của đất nước và
những diễn biến của địa phương.
Trong quá trình vận dụng, quán triệt những quan điểm của Đảng trong giảng
dạy những nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin không nên tham đưa ra nhiều các quan
điểm của Đảng mà không phân tích sâu cơ sở lý luận của một quan điểm nào. Điều
đó sẽ làm mờ nhạt tính khoa học trong các quan điểm của Đảng, làm cho mối quan
hệ giữa lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và các quan điểm của Đảng trở nên hời hợt,
dễ dãi, bị lắp ghép một cách tuỳ tiện. Do vậy, không nên quá tham trích dẫn nhiều
mà không phân tích. Muốn làm được như vậy, người cán bộ giảng dạy phải thường
xuyên học hỏi, rút kinh nghiệm qua thực tiễn giảng dạy của bản thân. Điều này suy
đến cùng phụ thuộc vào năng lực, trình độ thực tiễn của người cán bộ giảng dạy.
- Bộ Giáo dục - Đào tạo và các tỉnh Tây Nguyên cần có những chính sách ưu đãi
để thu hút được những giảng viên giỏi về công tác ở các trường nhất là các trường Cao
đẳng trực thuộc Sở và Uỷ ban nhân tỉnh.
2.3.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin
Cùng với đổi mới nội dung, đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học
Mác - Lênin là khâu cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, phát huy vai trò giảng
dạy các môn khoa học Mác - Lênin trong việc giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên.
Phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin tất yếu phải tuân thủ
những yêu cầu của phương pháp sư phạm. Đồng thời, với tính cách là phương pháp
giảng dạy bộ môn, nó có những đặc trưng riêng phụ thuộc vào đối tượng dạy học, mục
đích, yêu cầu của môn học…
Quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy phải dựa trên lý luận dạy học mới
được gọi là “công nghệ giáo dục - dạy học”. Đây là cuộc cách mạng trong giáo dục -
dạy học đặc trưng bởi sự biến đổi sâu sắc trên tất cả mọi khâu: mục đích, nội dung,
phương pháp, phương tiện, chủ thể dạy và học.
Đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường là đòi hỏi tất yếu khách quan,
xuất phát từ sự gia tăng nhanh chóng khối lượng tri thức khoa học, sự xuất hiện nhiều
lĩnh vực tri thức khoa học mới. Những biến đổi sâu sắc trong các trường Đại học, Cao
đẳng như mở rộng quy mô đào tạo, xu hướng chuyển dần sang đào tạo tín chỉ… đã tác
động đến hoạt động giảng dạy, đòi hỏi thay đổi cách dạy của giảng viên.
Hiện nay, để đổi mới phương pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao, theo chúng tôi
cần tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, đổi mới phương pháp giảng dạy. Khi đổi mới phương pháp giảng dạy tất
yếu phải quán triệt yêu cầu phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Phát
huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học là tạo mọi điều kiện để cho người học
- cái đối tượng, cái trung tâm - phát triển trí tuệ, trí thông minh của mình. Muốn vậy cần
chuyển giảng dạy theo hướng lấy người học là trung tâm, còn giảng viên đóng vai trò là
người tổ chức quá trình dạy học. Đặt người học ở trung tâm của hệ thống giáo dục là
làm cho người học tự hiểu mình hơn, hiểu môi trường giáo dục và môi trường lao động
và có khả năng tự lựa chọn. Dạy học lấy người học làm trung tâm nhằm mục đích tích
cực hoá quá trình dạy học, phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người
học, nhằm mục đích bồi dưỡng năng lực tự lực, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực biết
đặt và giải quyết vấn đề. Phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học có tác
dụng khơi dậy, phát huy tiềm năng trí tuệ của con người nói chung, tiềm năng sinh viên
nói riêng là vô cùng, vô tận và hết sức đa dạng, phong phú. Vì thế, cần biết cách khai
thác, bồi dưỡng, rèn luyện, phát triển nó. Để phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo
của người học, giảng viên phải chịu khó tìm tòi suy nghĩ, biết đặt ra những câu hỏi hấp
dẫn, tạo ra những tình huống có vấn đề và một không khí học tập sôi nổi, cuốn hút,
thoải mái. Giảng viên cần tạo dựng cho sinh viên sự say mê, lòng ham học và phương
pháp tự học, tự nghiên cứu. Cần dạy cho sinh viên không chỉ kiến thức mà cả phương
pháp học tập mà trong đó cốt lõi là phương pháp tự học. Mục đích dạy học không chỉ là
truyền thụ kiến thức mà điều quan trọng hơn là rèn luyện cho người học cách học, cách
tổ chức và thực hiện quá trình học tập một cách có hiệu quả nhất.
Nhằm giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên, trong quá trình
giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, giảng viên nhất thiết phải rèn luyện cho họ
năng lực vận dụng phương pháp luận. Ở đây, cách thức hoạt động của giảng viên không
những nhằm truyền thụ kiến thức cơ bản cho sinh viên, mà còn phải làm cho người học
có thể vận dụng được những kiến thức đó vào quá trình học tập, nghiên cứu chuyên
ngành và lý giải những vấn đề của thực tiễn. Muốn vậy trong quá trình giảng dạy giảng
viên cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học như: thuyết trình, nêu
vấn đề, giảng giải, lấy vị dụ chứng minh, thảo luận nhóm… kết hợp với sử dụng các
phương tiện hiện đại hỗ trợ dạy học để hấp dẫn sinh viên.
Hai là, đổi mới phương pháp thảo luận. Thảo luận là hình thức cơ bản, hết sức
thiết thực đối với sinh viên và nếu giảng viên có được phương pháp tốt sẽ phát huy
được hiệu quả trong việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên.
Trong quá trình đổi mới giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, hoạt động tự nghiên cứu và thảo luận rất được coi trọng, chiếm 1/2 tổng số tiết
của chương trình. Khi các môn lý luận chính trị được xây dựng thành 3 môn và các
trường Đại học, Cao đẳng đang chuyển dần sang hình thức đào tạo tín chỉ, số tiết dành
cho thảo luận, bài tập, thực hành và tự học của sinh viên nhiều hơn số tiết lý thuyết. Vì
vậy, giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin cần chú trọng đổi mới nội dung, cũng
như cách thức thảo luận. Để có được giờ thảo luận thực sự mang lại hiệu quả, cần phải
làm tốt các khâu, các bước tiến hành như chuẩn bị đề cương và tổ chức thảo luận.
Chuẩn bị đề cương thảo luận là khâu rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới chất
lưuợng giờ thảo luận vì chính khâu này buộc người học phải nghiên cứu và xử lý tài
liệu, vận dụng tổng hợp những tri thức để trình bày, phân tích, luận chứng các vấn đề
nêu ra. Do đó, các vấn đề người học chuẩn bị cho giờ thảo luận phải là những vấn đề mà
họ cảm thấy khó, còn băn khoăn, gây nhiều tranh cãi, đồng thời có tác dụng củng cố,
mở rộng kiến thức và rèn luyện năng lực vận dụng các nguyên lý, phạm trù, quy luật để
giải quyết các vấn đề nhận thức và thực tiễn. Giảng viên cần hướng dẫn, giúp đỡ và
thường xuyên kiểm tra, giám sát việc chuẩn bị đề cương của sinh viên; phân bổ thời
gian hợp lý và giới thiệu cho người học những tài liệu cần thiết phục vụ cho các chủ đề
thảo luận.
Tổ chức thảo luận trên lớp là khâu có tính chất quyết định đối với chất lượng, hiệu
quả thảo luận. Để làm tốt khâu này, trước hết phải làm tốt việc tổ chức lớp học, chia thành
các nhóm nhỏ và cử ra một nhóm trưởng để duy trì thảo luận, đồng thời ghi lại, tổng hợp lại
những ý kiến của các thành viên trong nhóm.
Trong giờ thảo luận, giảng viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, còn sinh viên là
người trình bày, tranh luận vấn đề, do đó, lời dẫn vào đề của giảng viên yêu cầu phải
ngắn gọn, rõ ràng, làm nổi bật trọng tâm. Để không khí buổi thảo luận trở nên sôi nổi,
lôi cuốn mọi người tham gia, cần có những sinh viên mở đầu và tạo ra những tình huống
có vấn đề. Người thầy giỏi là phải biết đặt ra những câu hỏi, tạo ra những tình huống
buộc mọi người phải tham gia, phải suy nghĩ, tìm tòi. Trong quá trình thảo luận, giảng
viên phải theo dõi các ý kiến của sinh viên để nắm được quan niệm đúng, sai của họ và
để tránh tình trạng đi xa, chệch các vấn đề cần thảo luận. Cần phát hiện và uốn nắn kịp
thời cách tiếp cận vấn đề mang tính máy móc, phiến diện, giáo điều … của sinh viên.
Kết thúc buổi thảo luận, ngoài việc tổng kết những ý kiến xung quanh chủ đề
thảo luận, giảng viên còn phải giải đáp những khúc mắc của sinh viên, đồng thời gợi mở
vấn đề để sinh viên tiếp tục nghiên cứu.
Để có được những buổi thảo luận thực sự có hiệu quả, đòi hỏi thầy và trò phải nỗ
lực cao, phải đầu tư nhiều thời gian và công sức. Người thầy phải thật sự tâm huyết với
nghề, thường xuyên học hỏi kinh nghiệm, làm chủ kiến thức và có phương pháp sư
phạm tốt.
Ba là, đổi mới cách thức đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Đánh giá kết
quả học tập là khâu quan trọng trong hoạt động giảng dạy, ảnh hưởng trực tiếp đến thái
độ và phương pháp học tập của sinh viên, từ đó ảnh hưởng đến việc thực hiện hiện mục
tiêu, yêu cầu giảng dạy. Đổi mới cách thức đánh giá kết quả học tập của sinh viên cần
hướng tới phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Phương thức đánh giá
kết quả nhằm thực hiện yêu cầu: giúp người học vừa củng cố, vừa mở rộng kiến thức;
điều chỉnh kịp thời những nhận thức sai lầm, đặc biệt là cách tư duy máy móc, rập
khuôn, phiến diện… Thông qua đánh giá kết quả học tập của sinh viên, rèn cho họ năng
lực vận dụng lý luận, phương pháp luận biện chứng duy vật để học tập, nghiên cứu
chuyên ngành và phân tích các vấn đề thực tiễn.
Hình thức thi có thể là thi tự luận, vấn đáp, hoặc kết hợp hình thức tự luận với
trắc nghiệm (theo hướng kết cấu của một đề thi cần phải có 60% phần tự luận và 40%
phần trắc nghiệm), đặc biệt tăng cường cho sinh viên viết tiểu luận.
Các khâu này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do đó, trong quá trình đổi
mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin chúng ta phải thực hiện một
cách đồng bộ, thống nhất. Đặc biệt muốn đổi mới có hiệu quả các trường phải đầu tư cơ
sở vật chất cần thiết đáp ứng yêu phương pháp giảng dạy hiện đại này.
Ngoài ra trong quá trình giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin chúng ta phải
kết hợp học chính khoá trên lớp với các hình thức ngoại khoá, giúp cho sinh viên kiểm
chứng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn qua đây củng cố
những kiến thức đã học.
2.3.4. Nâng cao khả năng tự giáo dục, rèn luyện của sinh viên
Giáo dục là hai mặt thống nhất biện chứng trong một quá trình, một mặt là sự tác
động từ bên ngoài vào đối tượng được giáo dục, mặt khác là thông qua sự tác động này
đối tượng tự biến đổi bản thân, tự hoàn thiện nâng cao mình lên qua giáo dục. Sinh viên
với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức được giáo dục sẽ lĩnh hội những giá trị
trong nội dung giáo dục, biến nó thành những nguyên tắc định hướng chi phối suy nghĩ
và hành động của chính mình để tự hoàn thiện nhân cách của mình sao cho phù hợp với
yêu cầu của cuộc sống. Tự giáo dục hay nói cách khác là việc biến “quá trình giáo dục
thành quá trình tự giáo dục” là khâu quan trọng có tính quyết định đến hiệu quả của quá
trình giáo dục nói chung, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng. Vì vậy,
trong giai đoạn hiện nay để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội
đòi hỏi mỗi sinh viên phải biết tự nỗ lực phát huy cao độ tính tích cực, chủ động trong
tự giáo dục, trong học tập, nghiên cứu khoa học và trong giác ngộ tư tưởng chính trị.
Nâng cao khả năng tự giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên chính là
tạo ra những điều kiện tinh thần tốt nhất để nhân cách sinh viên có thể “đề kháng” được
những tác động mặt trái của xã hội và những âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực
thù địch, những kích động hàng ngày hàng giờ đến sinh viên ở Tây Nguyên, đặc biệt là
sinh viên người dân tộc thiểu số, nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta,
phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
Để sinh viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, một thế giới quan khoa học, một lý
tưởng sống cao đẹp, thì vấn đề cơ bản, quyết định nhất là quá trình tự trau dồi, rèn luyện
của chính bản thân sinh viên. Không ai có thể làm thay, nghĩ thay cho sinh viên được.
Tổng Bí thư Đỗ Mười từng nói:
Để biến lý tưởng và hoài bão thành hiện thực, học sinh, sinh viên
hôm nay - trí thức của ngày mai cần hiểu rõ tình hình đất nước và nhiệm
vụ cách mạng, xây dựng niềm tin, xác định trách nhiệm gắn học với hành,
gắn lý thuyết với thực tế, trau dồi bản lĩnh đạo đức, tu dưỡng lập thân, gắn
lợi ích của mình với lợi ích và tương lai của dân tộc, tham gia vào hoạt
động xã hội, hoà mình vào cuộc sống của nhân dân, trở thành tri thức của
chế độ mới [57, tr.5].
Tự giáo dục ở đây không chỉ đòi hỏi sinh viên một thái độ tự học nghiêm túc,
tích cực mà còn phải có mục đích học tập, rèn luyện đúng đắn để hoàn thiện chính mình
đúng với những yêu cầu mà sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta yêu cầu. Tự giáo dục
nó đòi hỏi sinh viên phải có thái độ nghiêm túc đối với bản thân trong việc đánh giá,
nhận xét về mọi hành vi của mình và chịu trách nhiệm trước những kết quả của những
hành vi đó. Trong quá trình tự giáo dục, mỗi sinh viên phải luôn thực hiện phê bình và
tự phê bình để kịp thời cùng tổ chức uốn nắn những lệch lạc trong tư tưởng, đồng thời
đây cũng là cơ hội để sinh viên bày tỏ thái độ, nguyện vọng của mình giúp cho sự tác
động của chủ thể giáo dục và quá trình tự giáo dục của sinh viên đạt hiệu quả cao hơn.
Tự giáo dục là quá trình “tự thân” vậy nên nó đòi hỏi sinh viên phải có một nghị lực, ý
chí quyết tâm cao để chiến thắng được bản thân mình, không gục ngã trước những cám
dỗ của đồng tiền và tâm lý hưởng thụ tầm thường của con người, nhất là trong giai đoạn
hiện nay xã hội đang có những biến động trong nhận thức về định hướng giá trị xã hội.
Thế giới quan duy vật biện chứng không phải là cái sẵn có ở mỗi con người, mà
nó chỉ thể được hình thành, hoàn thiện thông qua quá trình giáo dục, sự đấu tranh rèn
luyện trong tự giáo dục hàng ngày của mỗi sinh viên. Để củng cố và khẳng định mình
có một thế giới quan duy vật biện chứng thì không chỉ dừng lại ở việc nhận thức chung
chung, cảm tính mà mỗi sinh viên phải từng bước hiện thực hoá nó trong cuộc sống
thông qua những hoạt động thực tiễn chính trị - xã hội của mình.
Chính vì vậy, tính tự giáo dục của sinh viên còn được thể hiện rõ trong việc tích
cực tham gia các hoạt động phong trào của Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên và của các
tổ chức khác phát động. Thông qua những hoạt động thực tiễn này sinh viên sẽ được rèn
luyện và trưởng thành hơn rất nhiều qua đó củng cố được niềm tin vào chính bản thân
mình và có một bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi thử thách và khó khăn của cuộc
sống, trước những kích động lôi kéo của các thế lực thù địch, có khả năng chống lại
những luận điểm sai trái và tuyên truyền đấu tranh chống lại cái gọi là “nhà nước Đê-Ga
tự trị” ở Tây Nguyên.
Trên thực tế có rất nhiều sinh viên khi đang còn học tập, nghiên cứu ở trường, đã
xác định được động cơ học tập và lý tưởng sống cao đẹp nhưng khi ra trường lại tỏ ra
thụ động dễ bị lôi kéo, sa ngã chính bởi họ không được thử thách rèn luyện trong môi
trường xã hội và với những hoạt động thực tiễn. Vì vậy hơn bao giờ hết, chúng ta phải
tạo ra điều kiện thuận lợi giúp sinh viên có cơ hội cọ sát, thể hiện mình vươn lên trong
cuộc sống. Tính tự giác, chủ động tự giáo dục tự rèn luyện của sinh viên chính là con
đường ngắn nhất để hình thành ở họ một thế giới quan khoa học - thế giới quan duy vật
biện chứng.
2.3.5. Phát huy vai trò hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam có vai trò to
lớn đối với việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên. Muốn phát
huy được vai trò của các tổ chức này ở các trường Đại học, Cao Đẳng ở Tây Nguyên,
theo chúng tôi cần phải thực hiện các vấn đề cấp bách hiện nay, cụ thể như sau:
Thứ nhất, phải xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác Đoàn, Hội thực sự có năng
lực tổ chức và hiểu biết rộng, nhiệt huyết với phong trào thanh niên, sôi nổi, có uy tín
với sinh viên, có khả năng tập hợp thanh niên. Theo chúng tôi đội ngũ Ban Chấp hành
Đoàn trường Đại học, Cao đẳng phải lựa chọn cho được những gương mặt tiêu biểu
không nên đặt nặng về cơ cấu thành phần, nói đúng hơn phải lựa cho ra một đội ngũ
Ban chấp hành có năng lực thực sự, có khả năng hoạt động công tác đoàn và phong trào
sinh viên.
Thứ hai, nội dung chương trình hoạt động công tác đoàn và phong trào sinh
viên phải đi vào chiều sâu, thiết thực, phải xuất phải từ tâm tư nguyện vọng của sinh
viên. Tổ chức triển khai chương trình hành động cụ thể, thiết thực và có tính khả thi cao
“Bốn đồng hành và năm xung kích” của tuổi trẻ, triển khai thực hiện có hiệu quả
“chương trình rèn luyện đoàn viên”, tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn nữa cuộc vận
động “Đoàn viên phấn đấu trở thành đảng viên”.
Thứ ba, về phương triển khai nội dung giáo dục của đoàn cũng cần phải đổi mới
phương thức tránh hành chính hoá tổ chức Đoàn, Hội. Theo chúng tôi cần kết hợp nhiều
hình thức giáo dục, tránh “nặng nề”, “khô cứng” những cũng không hời hợt, thiếu chiều
sâu, tránh tình trạng “lấy vui là chính”. Các hình thức tổ chức phải hợp lý về thời gian,
địa điểm, tránh việc tổ chức quá nhiều hoạt động chạy theo thành tích làm ảnh hưởng
tới thời gian học tập và sinh hoạt của sinh viên. Nội dung chương trình các buổi mít
tinh, kỷ niệm các ngày lễ lớn phải tổ chức trang trọng, cô đọng, sâu sắc tránh phô
trương hình thức, phải làm cho sinh viên thấy được niềm phấn khởi, vinh dự tự hào về
truyền thống của tuổi trẻ, của dân tộc. Tổ chức rộng rãi các hoạt động văn hoá, văn
nghệ, thể dục thể thao, các cuộc thi tìm hiểu, tăng cường các hoạt động kết nghĩa, giao
lưu tạo ra “sân chơi” rộng rãi cho sinh viên, xây dựng chương trình hành động cụ thể
cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Thứ tư, Ban chấp hành Đoàn, Hội luôn phải chủ động xây dựng chương trình và
tham mưu kịp thời với Đảng uỷ và Hiệu trưởng các trường để triển khai các nội dung
hoạt động có hiệu quả, thiết thực, thu hút đông đảo đoàn viên, hội viên nhiệt tình hưởng
ứng tham gia. Tranh thủ sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của các lực lượng khác trong
nhà trường và ngoài nhà trường.
Thứ năm, trong mỗi nội dung hoạt động cần có sự đánh giá tổng kết, khen
thưởng, kỷ luật thật khách quan để qua đó khích lệ được sự năng động sáng tạo của tuổi
trẻ.
KẾT LUẬN
Từ những vấn đề đã được trình bày, phân tích ở trên, luận văn khép lại với một
số kết luận được rút ra như sau:
1. Với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và của kinh tế tri
thức, với xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, chưa bao giờ nhân tố con
người lại được mọi quốc gia chú trọng như hiện nay. Phát huy vai trò con người thực
chất là bồi dưỡng, phát triển và khai thác những tiềm năng vô tận, sáng tạo của con
người. Thế giới quan khoa học biểu hiện như là “lăng kính” mà qua đó con người có thể
nhận thức thế giới, định hướng được cuộc sống, giúp học hoạt động hiện thực có hiệu quả
hơn. Do đó, nó có vai trò hết sức quan trọng và vai trò ấy ngày càng tăng lên trong thời đại
ngày nay.
2. Đối với hoạt động học tập, rèn luyện của sinh viên - chủ nhân của đất nước
trong một tương lai gần. Việc trang bị cho họ thế giới quan duy vật biện chứng là vấn đề
có tầm quan trọng đặc biệt, nó góp phần rèn luyện phương pháp tư duy khoa học. Trong
tình hình hiện nay, đặc biệt ở Tây Nguyên nếu sinh viên không có một thế giới quan
khoa học và cách mạng sẽ không giải quyết được những vấn đề nóng bỏng mà thực tiễn
xây dựng đất nước đang đặt ra, sẽ không đủ trình độ để nhận biết và phê phán những tư
tưởng đối lập đang tấn công vào hệ tư tưởng của chúng ta.
3. Sự hình thành và hoàn thiện thế giới quan duy vật biện chứng ở sinh viên phụ
thuộc vào nhiều yếu khác nhau, trong đó giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin có vị trí rất
quan trọng, đóng vai trò then chốt. Giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin có nhiều mục tiêu,
trong đó trang bị thế giới quan duy vật biện chứng là mục tiêu quan trọng nhất. Đây là
quá trình trang bị cho sinh viên cách nhìn nhận khoa học và chân thực về thế giới, về
vai trò làm chủ tự nhiên và xã hội của con người, qua đó làm cơ sở hình thành phương
pháp luận đúng đắn cho sinh viên.
4. Trong hệ thống các trường Đại học, Cao Đẳng việc giáo dục, bồi dưỡng thế
giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên còn có vai trò của tổ chức Đảng, Đoàn thanh
niên, Hội sinh viên…Trong đó, thông qua các phong trào hoạt động thực thực tiễn của
Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên, sinh viên có cơ hội thử thách, rèn luyện và trưởng
thành.
Từ những kết luận trên chúng tôi cho rằng để nâng cao hiệu quả việc giáo dục thế
giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên, cần phải có những giải pháp cụ thể như:
- Tạo môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho sinh viên
- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng
dạy các môn khoa học Mác - Lênin.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin.
- Nâng cao khả năng tự giáo dục, rèn luyện của sinh viên
- Phát huy vai trò hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và các
phòng ban chức năng có liên quan.
Tây Nguyên là một bộ phận có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với nước ta.
Ở Tây Nguyên có những đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán …
khác so với các địa bàn khác trong cả nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Nam An (2007), Giảng dạy triết học Mác - Lênin với việc giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Nghệ An hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Hoàng Chí Bảo (2000), “Giáo dục đạo đức, nhân cách cho sinh viên đại học ở
nước ta hiện nay - quan niệm, vấn đề và giải pháp”, Lý luận sinh hoạt chính
trị, (39).
3. Vũ Thanh Bình (2003), “Nâng cao chất lượng dạy - học các môn khoa học Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Chính trị trong các trường Đại học, Cao đẳng,
Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề”, Giáo dục, (62).
4. Phạm Văn Chúc (1992), Sự hình thành thế giới quan khoa học của sinh viên Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Triết học, trường Đại học Tổng hợp Ta-sken.
5. Nguyễn Trọng Chuẩn (1988), “Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện đại
đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học”, Triết học, (3).
6. Nguyễn Trọng Chuẩn (2008), Một số vấn đề về Triết học - con người - xã hội, Nxb
khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp Trung
ương Đảng khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện đại
hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX, Báo Hà Nội mới ra ngày 1/4/2002.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành trung
ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định
hướng trong công tác tư tưởng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Định hướng giá trị cho sinh viên trong
giai đoạn hiện nay, Báo cáo khoa học chuyên đề, Hà Nội.
20. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Điều tra tình hình tư tưởng và
nhận thức chính trị của thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội.
21. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), Tổng quan tình hình sinh viên,
công tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VII (2003 - 2008), Hà Nội.
22. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), Đổi mới nội dung, phương thức
giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong thời kỳ hội nhập, Kỷ yếu
khoa học, Hà Nội.
23. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Báo cáo tổng kết công tác đoàn
và các phong trào thanh thiếu nhi nhiệm kỳ 2002 - 2007, Hà Nội.
24. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), Lịch sử phong trào sinh viên, học
sinh và hội sinh viên Việt Nam (1925-2008), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
25. G.Gertx (1982), Triết học mác xít và tri thức khoa học tự nhiên, Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva.
26. Trần Thanh Hà (1993), Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng
viên người dân tộc Khơme ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
27. Nguyễn Thị Thu Hiền (2008), Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên Đại học
Thái Nguyên hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
28. Nguyễn Thế Kiệt (chủ nhiệm đề tài cấp bộ) (2007), Triết học Mác - Lênin với việc
xác định con đường và động lực đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
29. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 33, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Nguyễn Thắng Lợi (1997), “Giáo dục và rèn luyện bản lĩnh chính trị đối với sinh
viên”, Báo Nhân dân, ngày 28/11/1997.
31. Nguyễn Thị Luyến (2005), Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho
sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng ở Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
32. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
33. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1999), Sự thay đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế
thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ quản lý ở nước
ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Bùi Ngọc (1981), “Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử”, Thông tin khoa
học xã hội, (8).
47. Bùi Ỉnh (1988), Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ
đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước
ta, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
48. Lê Khả Phiêu (1995), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nhân cách trong cơ
chế thị trường”, Cộng sản, (6).
49. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với việc hình thành và phát triển nhân cách
sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
50. Trần Văn Phòng (1997), Đạo đức cán bộ quản lý nước ta hiện nay - thực trạng và
giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
51. Trần Viết Quân (2002), Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
52. Tạp chí Văn hoá nghệ thuật (1998), số 3.
53. Trần Thước (1993), Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí
thức ở Việt Nam, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
54. Bùi Kiến Thưởng (2004), Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học
viên trường chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
55. Đỗ Lê Triều (2006), Vấn đề giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
56. Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
57. Lê Xuân Vũ (1986), “Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần của nhân
dân ta”, Cộng sản, (6).
58. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội.
59. Vietnamnet.edu.net.vn
60. Websitewww.ĐangCongsan.or.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay.pdf