Việc thu hồi chứng từ của các công trình của Công ty còn rất chậm nguyên nhân là
tất cả các chứng từ do thống kê đội tập hợp ở các công trình là chậm vì không có trình
độ chuyên môn nên gặp nhiều khó khăn trong việc hoàn chứng từ.
Để đảm bảo công tác hoàn chứng từ được nhanh chóng, phòng kế toán phải cử kế
toán viên xuống công trường theo dõi đôn đốc cá nhân và thống kê phải nhanh chóng
hoàn chứng từ tại công trình để bảo đảm tốt cho việc quyết toán công trình có hiệu quả
đồng thời đảm bảo cho phòng kế toán của Công ty tập hợp chi phí tính giá thành sản
phẩm xây lắp và lập các báo biểu báo cáo tài chính được thuận tiện nhanh chóng kịp với
niên độ kế toán.
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2173 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng Licogi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở
Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng
Licogi
Lời nói đầu
Công tác kế toán là việc không thể thiếu được đối với mọi doanh nghiệp. Kế toán trở
thành một hệ thống quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ có hệ thống
kế toán, doanh nghiệp có thể tính được các chi phí sản xuất và dựa trên mục tiêu đề ra
để hạ chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm sao cho có lợi
Mặt khác, kế toán sổ sách chứng từ cũng là một phương tiện để Nhà nước quản lý
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp(trên nguyên tắc lãi hưởng, lỗ chịu) sao
cho doanh nghiệp thực hiện đúng nghĩa vụ đóng thuế đối với nước nhà và đảm bảo rằng
việc kinh doanh của doanh nghiệp không ảnh hưởng đến cá nhân và pháp nhân khác
Bởi vậy, hệ thống kế toán cần phải phù hợp và phản ánh đầy đủ, chính xác hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong chuyên đề này, với kiến thức nhỏ bé của
mình, tôi xin mạnh dạn trình bày vấn đề:"Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng
Licogi."
Nội dung chuyên đề gồm có:
Phần I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp ở các DN xây dựng trong giai đoạn hiện nay
Phần II: Tình hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp và một
số ý kiến đề xuất
1. Tình hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty xây
dựng và phát triển hạ tầng Licogi
2. Một số ý kiến đề xuất.
Phần I
Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp ở DN xây dựng trong giai đoạn hiện nay
I- Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản của sản phẩm xây lắp
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất có chức năng tạo ra trang thiết bị tài sản
cho tất cả ngành kinh tế quốc dân, góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội. Vì vậy phần
lớn thu nhập quốc dân nói chung và quĩ tích luỹ nói riêng cùng với vốn tài trợ từ nước
ngoài được sử dụng trong lĩnh vực cơ bản.
So với các ngành sản xuất khác, xây dựng cơ bản có những đặc điểm kinh tế kĩ thuật
đặc trưng thể hiện rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình sáng tạo ra sản phẩm của
ngành.
Quá trình tạo ra sản phẩm xây lắp, từ khi khởi công xây dựng đến khi công trình
hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng thường dài, phụ thuộc vào quy mô và tính chất
phức tạp của từng công trình. Quá trình thi công xây dựng này được chia thành nhiều
giai đoạn lại bao gồm nhiều công việc khác nhau. Các công việc này chủ yếu được thực
hiện ngoài trời nên chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố thiên nhiên như: nắng, mưa, gió, bão,
lụt... Do đó quá trình và điều kiện thi công có tính ổn định, phải di chuyển theo địa
điểm đặt sản phẩm và theo từng giai đoạn thi công công trình.
Đặc điểm này làm cho việc tổ chức, quản lý và hạch toán trong xây dựng cơ bản khác
với các ngành khác. Cụ thể là mỗi công trình đều được thi công theo đơn đặt hàng
riêng, phụ thuộc yêu cầu của khách hàng và yêu cầu kĩ thuật của công trình đó. Sản
phẩm xây lắp phải lập dự toán, quá trình sản xuất phải so sánh với dự toán, lấy dự toán
làm thước đo. Khi thực hiện các đơn đặt hàng của khách hàng, các đơn vị xây lắp phải
đảm bảo giao đúng tiến độ, đúng thiết kế kĩ thuật, đảm bảo chất lượng công trình.
II- Lý luận chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí trong doanh nghiệp xây dựng.
1.1. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng.
Quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình
biến đổi một cách có ý thức và có mục đích các yếu tố sản xuất đầu vào thành các công
trình, lao vụ nhất định.
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao
phí về lao động sống, lao động vật hoá và các hao phí cần thiết khác mà các doanh
nghiệp phải bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất thi công trong một thời kì nhất định.
1.2. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng:
Trong doanh nghiệp xây dựng, các chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại có nội dung
kinh tế và công dụng khác nhau, yêu cầu quản lý đối với từng loại chi phí cũng khác
nhau.
Vì vậy phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học và thống nhất không những có ý
nghĩa quan trọng đối với công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm mà còn là tiền đề rất quan trọng của kế hoạch hoá, kiểm tra và phân tích chi phí
sản xuất của toàn doanh nghiệp, thúc đẩy không ngừng tiết kiệm hợp lý chi phí sản
xuất, hạ giá thành, phát huy hơn nữa vai trò của công tác kế toánđối với sự phát triển
của doanh nghiệp.
Tuỳ theo yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp thông tin, giác ngộ xem xét chi phí...
mà chi phí sản xuất được phân loại theo cách sau:
1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất, kinh doanh theo yếu tố chi phí:
- Chi phí nguyên vật liệu.
- Chi phí nhiên liệu động lực.
- Chi phí lương và các khoản phụ cấp lương.
- BHXH, BHYT, KPCĐ.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Chi phí khác bằng tiền.
Phân loại chi phí sản xuất thao cách này có tác cho biết kết cấu, tỷ trọng từg loại chi
phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh để lập
bảng thuyết minh báo cáo tài chính (phần chi phí sản xuất, kinh doanh theo yếu tố) phục
vụ theo yêu cầu thông tin và quảng trị doanh nghiệp để phân tích tình hình thực hiện dự
toán chi phí, lập dự toán chi phí sản xuất, kinh doanh cho kỳ sau. Nó là tài liệu quan
trọng dùng làm căn cứ để xác định mức tiêu hao vật chất và thu nhập quốc dân.
1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất, kinh doanh theo mục đích, công dụng của chi
phí(khoản mục):
Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
- Chi phí sản xuất, chế tạo sản xuất.
Chi phí này chia thành:
+ Chi phí trực tiếp.
+ Chi phí gián tiếp.
-Chi phí bán hàng.
-Chi phí hoạt động khác.
-Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Theo cách phân loại này, các chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm là những chi phí cấu
thành trong giá thành sản phẩm theo các khoản mục giá thành đã qui định, đó là: Chi
phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
ở các doanh nghiệp xây dựng, do đặc điểm sản xuất của ngành, ngoài ba loại chi phí:
Chi phí NVL trực tiếp, nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung còn thêm chi phí
máy sử dụng thi công là toàn bộ những chi phí phục vụ cho sử dụng máy thi công như:
chi phí nguyên liệu cho máy, chi phí nhân công sử dụng máy, chi phí khấu hao máy.
Phân loại chi phí sản xuất theo cách này có tác dụng xác định số chi phí đã chi ra cho
từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, là cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm và
xác định kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, nó còn cho phép xác định
những chi phí tính trong giá thành sản phẩm,lao vụ hoàn thành, mà chỉ tính cho số sản
phẩm, lao vụ đã tiêu thụ, đã bán cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường.
Ngoài hai cách phân loại chủ yếu trên, phục vụ cho công tác quản lý và công tác kế
toán, chi phí sản xuất, kinh doanh còn có thể phân loại theo các tiêu thức như: Căn cứ
vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất kinh doanh với số khối lượng sản phẩm lao vụ
hoàn thành (chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi): Căn cứ vào phương pháp kế
toán tập hợp chi phí (chia thành chi phí trực tiếp và chi phí phân bổ gián tiếp)...
Mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng, phục vụ cho từng yêu cầu quản
lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể nhưng chúng luôn bổ xung cho nhau
nhằm quản lý có hiệu quả nhất toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong toàn doanh
nghiệp trong từng thời kì nhất định.
2. Giá thành và các loại giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây dựng.
2.1. Giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây dựng.
Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí sản xuất (bao gồm chi phí vật liệu, chi
phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung) tính cho từng
công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành đến giai đoạn qui
ước đã hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao và chấp nhận thanh toán.
Khác với doanh nghiệp công nghiệp, ở doanh nghiệp xây dựng, giá thành sản phẩm
xây lắp mang tính chất cá biệt: mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây
lắp sau khi đã hoàn thành đều có một giá riêng.
Hơn nữa, khi một doanh nghiệp được nhận thầu một công trình thì giá bán (giá nhận
thầu) đã có ngay trước khi thi công công trình. Tức là giá bán có trước khi xác định giá
thành thực tế của công trình đó. Do đó, giá thành thực tế của một công trình hoàn thành
hay khối lượng lao vụ hoàn thành chỉ quyết định tới lãi hoặc lỗ của doanh nghiệp do
thực hiện thi công công trình đó mà thôi.
Giá thành là một bộ phận giá trị biểu hiện bằng tiền, do đó nó là một phạm trù kinh tế
khách quan bởi sự chuyển dịch của giá trị tư liệu sản xuất và lao động sống đã hao phí
vào sản xuất ra là cần thiết tất yếu.
- Tính vào giá thành một số khoản mục chi phí mà thực chất là thu nhập thuần tuý của
xã hội như: bảo hiểm xã hội, các khoản trích nộp cho cơ quan cấp trên, thuế vốn, thuế
tài nguyên...
- Một số khoản mục chi phí gián tiếp được phân bổ vào giá thành của từng loại sản
phẩm hay từng sản phẩm theo các tiêu thức phù hợp.
2.2. Phân biệt khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
Chi phí sản xuất là cơ sở để hình thành nên giá thành.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có sự khác nhau về phạm vi,
giới hạn và nội dung.
Chi phí sản xuất chỉ tính trong một thời kỳ còn giá thành lại liên quan đến cả chi phí
của khối lượng xây lắp kỳ trước chuyển sang nhưng lại không bao gồm chi phí thực tế
của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ.
Chi phí sản xuất được tập hợp theo từng thời kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm
xây lắp là chi phí sản xuất được tính cho một công trình, hạng mục công trình hay khối
lượng xây lắp hoàn thành.
Tuy nhiên, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp lại có những điểm
giống nhau. Chúng đều phản ánh chi phí lao động trong quá trình sản xuất.
Giá thành sản phẩm xây lắp và chi phí sản xuất của công tác xây lắp thống nhất về
mắt lượng trong trường hợp đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá
thành là một công trình, hạng mục công trình được hoàn thành trong kỳ tính giá thành
hoặc giá trị khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ và đầu kỳ bằng nhau.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Tài liệu kế toán tập hợp chi phí sản xuất là cơ sở và căn cứ để tính giá thành sản phẩm.
Nếu coi như tính giá thành sản phẩm là công việc chủ yếu trong công tác kế toán thì
công tác chi phí sản xuất có tác dụng quyết định đến tính chính xác của tính giá thành
sản phẩm xây lắp.
2.3 Các loại giá thành sản phẩm xây lắp:
2.3.1. Giá thành dự toán công tác xây lắp:
2.3.2.Giá thành kế hoạch công tác xây lắp:
(Tính cho từng công trình, hạng mục công trình)
2.3.3.Giá thành thực tế công tác xây lắp:
Giá thành thực tế công tác xây lắp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các chi phí trực
tiếp thực tế mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra để hoàn thành một đối tượng xây lắp nhất
định và được xác định theo sốliệu kế toán cung cấp.
Giữa ba loại giá thành trên thường có mối quan hệ về mặt lượng như sau:
Giá thành dự toán >=Giá thành kế hoạch >= Giá thành thực tế
Việc so sánh các loại giá thành này được thực hiện trên cùng một đối tượng tính giá
thành (từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành nhất
định).
2.3.4. Giá thành của khối lượng hoàn chỉnh và giá thành khối lượng hoàn thành qui
ước.
Giá thành dự
toán của từng
công trình,
hạng mục công
=
Giá thành
dự toán của
công trình,
hạng mục
+
Lãi
định
mức
Giá thành
kế hoạch
công tác
xây lắp
=
Giá
thành dự
toán
công tác
+
Mức hạ
giá
thành
kế
Giá thành khối lượng hoàn chỉnh là giá thành của những công trình, hạng mục công
trình đã hoàn thành, đảm bảo kỹ thuật, chất lượng đúng thiết kế và hợp đồng, bàn giao,
được bên chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
Tuy nhiên, chỉ tiêu này không đáp ứng được một cách kịp thời các số liệu cần thiết
cho việc quản lý sản xuất và giá thành thi công công trình.
Do đó, để đáp ứng được yêu cầu quản lý và đảm bảo sản xuất kịp thời đòi hỏi phải
xác định giá thành khối lượng hoàn thành qui ước.
Khối lượng xây lắp được hoàn thành là khối lượng xây lắp hoàn thành đến giai đoạn
nhất định và phải thoả mãn các điều kiện sau:
- Phải nằm trong thiết kế và đảm bảo chất lượng kĩ thuật.
- Khối lượng này phải xác định được một cách cụ thể và được bên chủ đầu tư nghiệm
thu chấp nhận thanh toán.
Phải đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý.
Giá thành khối lượng hoàn thành qui ước phản ánh được kịp thời chi phí sản xuất cho
đối tượng xây lắp trong quá trình thi công xây lắp, từ đó giúp cho doanh nghiệp phân
tích kịp thời các chi phí đã chi ra cho từng đối tượng để có biện pháp quản lý thích hợp
và cụ thể.
Nhưng nó lại không phản ánh một cách toàn diện, chính xác giá thành toàn bộ công
trình, hạng mục công trình.
Dó đó, để đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về quản lý giá thành là kịp thời, chính xác,
toàn diện và có hiệu quả thì phải sử dụng cả hai chỉ tiêu trên.
III- Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp.
1. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất.
1.1. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất:
Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn mà các chi phí sản
xuất phát sinh được tập hợp theo phạm vi, giới hạn đó.
Để xác định được đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất ở từng doanh nghiệp
cần phải dựa vào các yếu tố sau:
- Tính chất sản xuất, loại hình sản xuất, đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm qui trình
công nghệ sản xuất sản phẩm...
- Căn cứ vào yêu cầu tính giá thành, yêu cầu quản lý, khả năng trình độ quản lý, trình
độ hạch toán của doanh nghiệp...
Dựa vào những căn cứ trên, đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trong các
doanh nghiệp xây dựng thường được xác định là từng công trình, hạng mục công trình
hay theo từng đơn đặt hàng.
1.2. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất:
Cũng như tất cả các doanh nghiệp sản xuất khác, tuỳ thuộc vào mô hình sản xuất là
lớn, vừa hay nhỏ mà chọn cho mình một trong hai phương pháp kế toán nào cho phù
hợp.
- Phương pháp kê khai thường xuyên.
- Phương pháp kiểm kê định kỳ.
Mỗi doanh nghiệp chỉ được sử dụng một trong hai phương pháp trên, những doanh
nghiệp sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên thường là những doanh nghiệp có
qui mô sản xuất, kinh doanh lớn, tiến hành nhiều loại hoạt động sản xuất kinh doanh
khác nhau. Trái lại, những doanh nghiệp sử dụng phương pháp kiểm kê định kỳ là
những doanh nghiệp có qui mô sản xuất, kinh doanh nhỏ, chỉ tiến hành một loại sản
xuất kinh doanh.
2- Đánh giá sản phẩm làm dở trong doanh nghiệp xây dựng:
Sản phẩm làm dở trong các doanh nghiệp xây dựng có thể là công trình, hạng mục
công trình dở danh chưa hoàn thành hay khối lượng công tác xây lắp dở dang trong kỳ
chưa được bên chủ đầu tư nghiệm thu, chấp nhận thanh toán.
Đánh giá sản phẩm làm dở là việc tính toán, xác định phần chi phí sản xuất trong kỳ
cho khối lượng sản phẩm làm dở cuối kỳ theo những nguyên nhân nhất định.
Để xác định được giá thành sản phẩm một cách chính xác, một trong những điều kiện
quan trọng là phải đánh giá chính xác sản phẩm làm dở cuối kỳ, tức là xác định số chi
phí sản xuất tính cho sản phẩm cuối kỳ phải chịu.
Muốn như vậy phải tổ chức kiểm kê chính xác khối lượng xây lắp dở dang có ảnh
hưởng đến tính chính xác của việc đánh giá sản phẩm làm dở và tính giá thành.
Trong các doanh nghiệp xây dựng, do đặc điểm của sản phẩm xây dựng là có kết cấu
phức tạp, công tác xác định mức độ hoàn thành của nó là rất khó khăn nên khi đánh giá
sản phẩm làm dở, kế toán cần kết hợp chặt chẽ với bộ phận kỹ thuật và bộ phận tổ chức
lao động.
3- Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp:
3.1. Đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp xây dựng:
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản
xuất ra và cần phải tính được giá thành và giá thành đơn vị.
Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính
giá thành. Bộ phận kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của doanh
nghiệp, các loại sản phẩm và lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất, tính chất sản xuất và
cung cấp sử dụng chúng để xác định đối tượng tính giá thành cho thích hợp.
Trong các doanh nghiệp xây dựng, đối tượng tính giá thành thường trùng hợp với đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất, đó có thể là: công trình, hạng mục công trình hay khối
lượng xây lắp hoàn thành bàn giao.
3.2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp:
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp sử dụng số liệu về chi phí sản
xuất để tính toán ra tổng giá thành và giá thành đơn vị thực tế của sản phẩm lao vụ đã
hoàn thành theo các yếu tố hoặc khoản mục giá thành trong thời kỳ tính giá thành đã
được xác định.
Kỳ giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần phải tiến hành công việc tính
giá thành cho các đối tượng tính giá thành.
Tuỳ thuộc đặc điểm của từng đối tượng tính giá thành và mối quan hệ giữa đối tượng
tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà kế toán áp dụng một hay nhiều
phương pháp tính giá thành thích hợp.
Phần II
Tình hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp và một số ý
kiến đề xuất
I- Tình hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công
ty.
1. Đặc điểm của Công ty.
Công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân, là đơn vị hạch toán độc lập, có tài khoản tiền
gửi riêng tại Ngân hàng nên công ty hoàn toàn chủ động trong việc liên hệ, ký kết các
hợp đồng kinh tế với khách hàng.
Về đặc điểm tổ chức sản xuất, công ty thống nhất tổ chức bộ máy theo mô hình đứng
đầu là giám đốc, dưới có 2 phó giám đốc, các phòng ban và có 2 đội trưởng lãnh đạo
trực thuộc giám đốc quản lý.
Giám đốc là người đứng đầu: thay mặt Nhà nước quản lý công ty theo chế độ thủ
trưởng chịu trách nhiệm chung về mọi mặt hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Phó giám đốc kỹ thuật: chịu trách nhiệm trước giám đốc, điều hành phòng kế hoạch
kỹ thuật về việc lập kế hoạch và kỹ thuật thi công các công trình và cung cấp thông tin
cho giám đốc.
Phó giám đốc hành chính: phụ trách phòng tổ chức- hành chính giúp giám đốc nắm
được tình hình về nhân sự, cán bộ, đào tạo, lao động, tiền lương, BHXH...
Phòng kế toán tài chính: đứng đầu là kế toán trưởng chịu trách nhiệm trước giám đốc
phụ trách phòng, phân công việc cho kế toán viên, có nhiệm vụ thu thập xử lý và cung
cấp đầy đủ các thông tin về tài chính của công ty cho giám đốc.
Với mô hình tổ chức sản xuất quản lý này, công ty có điều kiện quản lý chặt chẽ về
mặt tài chính tới từng đội, các phòng ban, đồng thời tăng được hiệu quả trong sản xuất.
Bộ máy kế toán được tổ chức theo hình thức tập trung.
Kế toán
trưởng
Kế toán
viên 1
Kế toán
viên 2
Thủ
quỹ
Kế
toá
n
vật
Kế
toá
n
tiề
Kế
toá
n
tiề
Kế
toán
TSCĐ
Kế
toán
than
h
Kế
toá
n
tổn
Đội thi công
công trình
Hiện nay công ty đang áp dụng hình thức sổ kế toán nhật ký chứng từ, một hình thức
đang được các công ty áp dụng rộng rãi vì giảm bớt được khối lượng ghi chép, cung cấp
thông tin được kịp thời lại thuận tiện cho việc phân công công tác.
2. Tình hình thực tế về tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp ở công ty.
a- Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất.
Xuất phát từ đặc điểm của ngành xây dựng, trong quá trình thi công gặp nhiều khó
khăn vì phải xây lắp hoặc sửa chữa trong thời gian không cố định, địa điểm cũng thay
đổi. Vì vậy đối tượng kế toán của ngành xây dựng có đặc điểm riêng, khác với các
ngành khác.
b- Nội dung chi phí và phương pháp kế toán chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất trong công ty được tập hợp theo các khoản mục sau:
- Chi phí NVL trực tiếp
- Chi phí nhân công trực tiếp
- Chi phí sử dụng máy thi công
- Chi phí gián tiếp
Trong đó chi phí gián tiếp bao gồm:
+ Lương chính, lương phụ và BHXH của nhân viên quản lý trong công ty
+ Khấu hao tài sản cố định
+ Chi phí trả trước
+ Chi phí hành chính quản trị
+ Chi phí khác
Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất ở công ty là tập hợp chi phí trực tiếp
kết hợp với phân bổ gián tiếp, trong đó kế toán tập hợp và phân bổ chi phí nhân công,
chi phí sử dụng máy, chi phí quản lý công ty cũng phân bổ theo quý, cuối mỗi quý, dựa
trên các bản phân bổ và tờ kê chi tiết, kế toán ghi vào các bảng kê và các nhật ký chứng
từ có liên quan đồng thời tổng hợp số liệu và lập bảng tổng hợp chi phí sản xuất của
quý làm cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm hoàn thành trong quý.
* Kế toán chi phí NVL trực tiếp.
Do chi phí NVL thường chiếm khoảng 50%- 70% trong giá thành sản phẩm, do vậy
việc quản lý chặt chữ, tiết kiệm vật tư là một biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm.
Vật liệu chính của công ty bao gồm nhiều chủng loại và được chia thành:
- NVL chính (TK 1521): đá hộc, xi măng, rọ thép...
- Vật liệu phụ (TK 1522): bao gồm ván khuôn, lưới chắn...
- Phụ tùng thay thế (TK 1524).
- Thuốc, y tế (TK 1526).
- Phế liệu thu hồi (TK 1527).
Khi vật liệu về kho, phiếu nhập kho được lập 2 bản, một bên thủ kho công trình giữ
theo dõi trên sổ riêng của công trình, một bên gửi phòng kế toán kèm theo hoá đơn của
người bán và phiếu đề nghị thanh toán của người mua vật liệu.
Kế toán Công ty sử dụng phương pháp nhập trước, xuất trước để xác định giá trị
hàng xuất. Giá ở đây bao gồm giá mua và chi phí thực tế thu mua. Căn cứ vào nhiệm vụ
sản xuất và định mức sử dụng vật liệu, chủ nhiệm công trình cho lập phiếu xuất vật tư,
phòng kinh tế kỹ thuật xác nhận. Phiếu xuất kho lập thành 2 bên, một bên do người lĩnh
vật tư, một bên thủ kho giữ để theo dõi và nộp cho Ban quản lý vật tư, sau đó chuyển
cho kế toán vật tư để lấy số liệu ghi vào bảng tổng hợp vật tư.
Công ty sử dụng tài khoản 621 "Chi phí NVL trực tiếp" để tập hợp chi phí NVL xuất
dùng trực tiếp cho sản xuất, sau đó các chi phí NVL trực tiếp dùng được kết chuyển vào
TK 154, dùng cho quản lý công ty kết chuyển vào TK 642, dùng cho xây dựng cơ bản
kết chuyển vào TK 241
Công ty chỉ sử dụng giá thực tế mua NVL, không theo dõi giá hạch toán, và sử dụng
phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO) để tính giá vật liệu xuất dùng.
Trường hợp xuất vật tư thừa so với sử dụng thì số vật tư thừa đó được nhập lại kho.
Trên sổ chi tiết TK 152, loại vật liệu nào nhập lại kho thì ghi tăng cho loại vật liệu đó.
Đồng thời ghi giảm chi phí cho công trình có xuất thừa vật liệu.
Số liệu ở các bảng tổng hợp xuất vật tư được dùng để ghi vào bảng phân bổ vật liệu
và công cụ dụng cụ từng quý (Biểu 1)
STT Ghi có
TK
Ghi nợ TK
1521 1522 1523 1524 Cộng
1 TK 621 206475,
7
25643,1 10558 242676,
8
Phú Thọ 26844,6 13407,3 40251,9
2 TK 241 10167 10167
3 TK 642 6320,7 6320,7
Tổng cộng 243487,
3
45371,1 10558 2994164
Trường hợp có thể sử dụng vật liệu được giám đốc cho phép chủ nhiệm công trình
mua vật liệu tại chỗ và quyết toán về cơ quan chức năng của Công ty là phòng kinh tế
kỹ thuật và phòng Tài chính kế toán.
Khi quyết toán được phê chuẩn, kế toán thanh toán căn cứ vào số liệu quyết toán đã
phê chuẩn, đồng thời ghi vào các nhật ký có liên quan và gửi bảng kê chi tiết cho kế
toán tập hợp chi phí sản xuất.
* Kế toán chi phí nhân công trực tiếp.
Vì đặc điểm của ngành xây dựng là phải làm việc ở nhiều nơi, số công nhân cũng
thay đổi tuỳ theo quy mô công trình nên công ty phải thuê thêm người, tuỳ vào mỗi
công trình.Vì vậy việc tính toán chi phí nhân công trực tiếp góp phần đảm bảo tính
chính xác giá thành sản phẩm.
Công trường được chia nhiều tổ thực hiện những việc nhất định, nhưng quản lý
chung vẫn là đội trưởng. Đội trưởng có trách nhiệm đôn đốc công nhân đảm bảo đúng
tiến độ và yêu cầu kỹ thuật, đồng thời theo dõi công nhân trong tổ làm căn cứ cho việc
thanh toán tiền lương sau này.
Căn cứ bảng chấm công (xác nhận khối lượng công việc đã được nghiệm thu), quy
chế lương khoán và các quy định khác, ban lao động tiền lương lập bảng tính lương gửi
cho phòng tài chính kế toán.
Cùng với bảng tính lương cho khối quản lý (bằng 15% khối sản xuất) cũng do ban
lao động tiền lương thực hiện. Hai bảng lương là căn cứ để thủ quỹ và phòng tài chính
kế toán phát lương. Đây là lương chính của công nhân viên. Đến cuối quý, kế toán lập
bảng tính và phân bổ lương (biểu 2) bao gồm lương chính, lương phụ, BHXH của công
nhân viên toàn Công ty
Biểu 2:
Bảng phân bổ tiền lương và BHXH
Quý 1/2001 Đơn vị tính: nghìn đồng.
STT
Ghi có TK
Ghi nợ TK
TK 334 "Phải trả công nhân viên"
Lương chính Lương phụ Cộng có
TK 334
TK 338
1 TK 622 270337 48468 318805 47820,7
5
- công trình sông
Thao
24636 2378 27014
- công trình Nống
Cống
17249 1236 18485
- công trình Vĩnh Bảo 78507 10157 88664
2 TK 642 92768 92768 13915,2
Cộng 363105 48468 411573 61735,9
5
BHXH được trích bằng 15% tổng lương, nộp hết về phòng BHXH nơi công ty
đặt trụ sở là Thanh Xuân
Nếu dưới đội có đề nghị thưởng hoặc thanh toán tièn làm thêm cho công nhân thì đội
trưởng sẽ viết giấy, thủ trưởng đơn vị duyệt và chuyển trưởng phòng kế toán tài chính
nhận tiền từ thủ quỹ.
* Kế toán chi phí sử dụng máy.
Trong thi công, máy móc đóng vai trò quan trọng.Nếu thiết bị máy móc được tăng
cường đầu tư thì hiệu quả sẽ nâng cao, giảm được thuê công nhân lao động trực tiếp,
nâng cao chất lượng công trình.
Chi phí vật liệu, nhân công sử dụng máy móc được tập hợp hàng tháng vào TK 621
và TK 622 theo chi tiết.
Công ty sử dụng phương pháp khấu hao tuyến tính để tính mức khấu hao TSCĐ. Dựa
vào nguyên giá TSCĐ và tỷ lệ khấu hao, mức khấu hao hàng tháng, hàng quý để tính
vào chi phí sản xuất cho từng đối tượng.
STT Tên TSCĐ Nguyên giá
Tỷ lệ khấu
hao
Mức khấu hao quý
1
1 Cần cẩu 629952 11% 69294,74
2 Búa máy 63000 10% 6300
3 Máy hút bùn 42000 15% 6300
Cộng 2153168 125485,17
Chi phí của loại TSCĐ dùng trực tiếp cho sản xuất thì tập hợp vào TK 627, chi phí
khấu hao dùng trong quản lý của công ty tập hợp vào TK 642.
Biểu 3:
Bảng phân bổ khấu hao tài sản cố định
Quý 1/2001 Đơn vị tính: nghìn đồng
STT Chỉ tiêu
Tỷ lệ
KH
Mức KH
02/2001
627 642
1 Số KH trích quỹ trước
2 Số KH trích quỹ này 79694,342 63460,732 16233,610
3 Máy móc thiết bị 47907,200 46370,200 1537,000
4 Phương tiện vận tải 13685,010 12747,634 937,376
5 Nhà cửa 11307,239 11307,239
6 Số KH tăng quỹ này
7 Số KH giảm quỹ này
* Kế toán chi phí quản lý.
Đây là một loại chi phí gián tiếp được chia thành các khoản:
- Lương chính, lương phụ và BHXH của nhân viên quản lý của Công ty
- Lương và BHXH của công nhân trực tiếp sản xuất
- Khấu hao TSCĐ (đồ dùng văn phòng)
- Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ
- Chi phí hành chính
- Chi phí khác
Khi các nghiệp vụ kinh tế phát minh đến chi phí phải trả phát sinh, kế toán tổng hợp
sẽ căn cứ vào các số liệu chứng từ để ghi vào bảng kê 6 (biểu 4)
Biểu 4.
Bảng kê 6
Quý 1/2001 Đơn vị tính: nghìn đồng
STT Chi tiết
Số dư
ĐK
Ghi nợ TK 335
Cố TK khác
Ghi có TK
335
Nợ TK khác
Số dư
Cuối kỳ
N C 331 Cộng 642 Cộng N C
1 Lương CN nghỉ
phép
3600 3600
2 Bảo hộ lao động 4700 4700
3 Sửa chữa TSCĐ 1920 1920
4 Chi phí sửa chữa ô
tô
1537 1537
Cộng 1022
0
1022
0
Các số liệu trên bảng kê 6 phần tính vào chi phí sản xuất trong kỳ tiếp tục được ghi
vào nhật ký chứng từ số 7.
Trong hình thức kế toán nhật ký chứng từ mà công ty đã áp dụng từ trước tới nay, chi
phí gián tiếp được coi là một khoản mục giá thành. Số liệu tổng chi phí quản lý Công ty
được ghi theo định khoản.
Nợ TK 627
Có TK 642 (chi tiết cho từng công trình)
Sau đó kết chuyển sang TK
Nợ TK 154
Có TK 627
Tập hợp chi phí sản xuất để tính giá thành.
* Tập hợp chi phí sản xuất cuối quý.
Cuối quý, kế toán tập hợp chi phí sản xuất, cộng tất cả các chi phí thực tế phát sinh
trong quý đã được phân bổ cho từng công trình vào sổ chi tiết chi phí cho từng công
trình.
Sổ chi tiết chi phí
Công trình Vĩnh Bảo Quý 1/2001 Đơn vị tính: nghìn đồng
Diến
giải
TK
đối
ứng
Ghi nợ TK 154
Chia ra theo các khoản mục
Tổng số tiền NVL Nhân công Máy Quản lý CT
P/S 152 16510,4 16510,4
Q1 153 9503,5
331 44297,3
141 1427,1
214 18331,7
642 56837,9 56837,9
622 30370,6
621 73370,1
334 52504,0 52504,0
338 6997,3
627 36496,6 36496,6
346647,0 16510,4 52504,0 36496,6 56837,9
Đồng thời, từ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kế toán tiến hành ghi vào sổ cái các tài
khoản liên quan.
c- Tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Toàn bộ công tác tính giá thành thực tế sản phẩm xây lắp hoàn thành ở
công ty được thực hiện trên bảng giá thành sản phẩm xây lắp.
* Tính giá thành thực tế khối lượng xây lắp hoàn thành
Giá thành thực tế KL = Chi phí sản xuất + CP sản xuất thực + CP sản xuất dở
hoàn thành bàn giao dở dang đầu kỳ tế PS trong kỳ dang cuối kỳ
Ví dụ: Công trình Nông Cống Q1/2001.
- CP sản xuất dở dang đầu kỳ: 136837243 đ
- CP sản xuất trực tiếp trong kỳ: 126917842 đ
- CP sản xuất dở dang cuối kỳ: 112206300 đ
Thì giá thành thực tế khối lượng xây lắp hoàn thành trong quý 1/2001 là:
136837243+126917842-112206300=151548785
* Xác định giá thành bàn giao
Theo khối lượng thực tế đã thực hiện, thời điểm dừng như hợp đồng kinh tế đã ký
kết, công ty và bên A tiến hành nghiệm thu khối lượng và chất lượng công trình.
- Đối với công ty đấu thầu: gtrị bàn giao=đơn giá đấu thầu*khối lượng nghiệm thu
- Đối với chỉ tiêu chỉ định thầu:
Giá trị bàn giao=đơn giá chi tiết được duyệt*khối lượng hoàn thành
* Xác định thuế doanh thu
Số thuế doanh thu công ty phải nộp được xác định theo luật thuế và biểu thuế suất do
Nhà nước quy định
Thuế doanh thu=giá trị bàn giao*thuế suất (%)
*Xác định lãi, lỗ
Lãi (lỗ)=giá trị bàn giao-giá thành thực tế- thuế doanh thu
II- Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng Licogi.
Qua quá trình tìm hiểu về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm ở Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng Licogi.
Công ty đã xây dựng được một mô hình quản lý kế toán hợp lý và có hiệu quả. Trước
hết Công ty có bộ máy quản lý hết sức gọn nhẹ, các phòng, ban phục vụ tốt giúp lãnh
đạo Công ty giám sát thi công, tổ chức sản xuất, quản lý kinh tế, tổ chức kế toán kịp
thời. Công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành nhìn chung đã đi tìm vào nề
nếp. Việc xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành là từng
công trình, hạng mục công trình theo từng quý là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với điều
kiện sản xuất thi công công trình, giúp cho việc quản lý giá thành và phân tích hoạt
động được thuận lợi
Công ty cũng hết sức chặt chẽ trong việc quản lý vật tư nên hiện tượng hao hụt mất
mát vật tư ít. Công ty cũng quản lý chặt chẽ số lượng công nhân và giờ giấc làm việc
giảm được chi phí thiệt hại.
Việc tính giá thành theo phương pháp trực tiếp là phù hợp với điều kiện sản xuất, qua
đó việc hạch toán kế toán cũng đỡ phức tạp hơn một bước.
Những ưu điểm về quản lý và kế toán chi phí sản xuất giá thành ở trên đã tác động
tích cực đến việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm xây lắp, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Tuy vậy, công tác kế toán ở Công ty vẫn còn
một số tồn tại nhất định. Cụ thể là:
1- Nội dung của giá thành sản phẩm xây lắp.
Theo quan điểm hiện hành, chi phí quản lý doanh nghiệp được coi là chi phí thời kỳ,
không nằm trong cơ cấu giá thành sản phẩm. Chi phí này chỉ được dùng để xác định kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (tức là xác định lãi, lỗ)
Thế nhưng Công ty không theo chế độ kế toán hiện hành: chi phí quản lý doanh
nghiệp lại được coi là một khoản mục của giá thành.
Trong bảng giá thành sản phẩm xây lắp quý 1/2001 của Công ty xây dựng và phát
triển hạ tầng Licogi, khoản mục chi phí quản lý Công ty tập hợp được là: 251465,7
nghìn đồng
Trong đó:- Công trình sông Thao: 35165,762 nghìn đồng
- Công trình Nông Cống: 131352,486 nghìn đồng
Thực tế Công ty đã gộp các chi phí phục vụ trực tiếp với chi phí gián tiếp phục vụ
chung trong toàn bộ Công ty. Do vậy việc tính giá thành thực tế của sản phẩm xây lắp
hoàn thành tăng không phản ánh đúng thực chất của giá thành như chế độ kế toán mới
quy định.
Từ đó, phương án mà tôi đề xuất là phải tách bóc toàn bộ chi phí sản xuất chung ra
khỏi chi phí quản lý doanh nghiệp hiện nay của Công ty. Như vậy, chi phí sản xuất
chung trong chi phí quản lý doanh nghiệp sẽ bao gồm chi phí vật liệu, chi phí khấu hao
TSCĐ, chi phí hành chính, chi phí khác bằng tiền (ngoài chi phí nhân viên quản lý đội)
Chúng ta lại tiếp tục phải tách bóc chi phí nhân viên quản lý từ chi phí nhân công
trực tiếp sản xuất, BHXH, kinh phí công đoàn, BHYT từ chi phí quản lý doanh nghiệp
để hạch toán vào TK chi phí sản xuất chung.
Hiện nay chi phí nhân viên quản lý đội ở Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng
Licogi thuộc khoản mục chi phí nhân công trực tiếp. Cách hạch toán này không phù
hợp, khoản này phải hạch toán vào chi phí sản xuất chung, đảm bảo tính chính xác cơ
cấu trong giá thành sản phẩm. Mặt khác, cũng theo chế độ kế toán mới hiện nay toàn bộ
những khoản lương chính, phụ, BHXH, BHYT, kinh phí công đoàn nếu trả cho công
nhân viên thì phải được phản ánh đúng thực chất thu nhập của người lao động và phù
hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường.
2- Kế toán tài chính và hạch toán chi phí để tính giá thành.
Hiện nay tại Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng Licogi, việc hạch toán chi phí
vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp được hạch toán rõ ràng cho từng công trình rất tiện
lợi cho việc theo dõi tập hợp chi phí sản xuất tính giá thành sản phẩm xây lắp (thông
qua TK 621,622,627 sau khi kết chuyển vào TK 154)
Lẽ ra lúc tập hợp chi phí sản xuất, phòng kế toán cần phải theo dõi chi tiết chi phí
sản xuất chung cho từng công trình, không hạch toán chung với chi phí quản lý doanh
nghiệp, đảm bảo theo dõi chi phí từng công trình được chính xác thuận tiện cho việc
tính giá thành sản phẩm xây lắp từng công trình.
Còn khi tính giá thành sản phẩm xây lắp, kế toán lại không tập hợp chi phí quản lý
doanh nghiệp vào giá thành sản phẩm xây lắp của Công ty mà chỉ tập hợp vào kết quả
hoạt động của Công ty (xác định lãi, lỗ)
Vậy tôi đề xuất Công ty nên có phương pháp tính chi phí, giá thành trên các đối
tượng hạch toán hợp lý hơn để hạch toán thật chính xác.
3- Kế toán theo dõi tập hợp vật tư để tính giá thành.
Tại Công ty toàn bộ vật tư là do Ban cơ điện quản lý tình hình nhập xuất tồn kho. Vì
Ban cơ điện chỉ có nhiệm vụ theo dõi tình hình máy móc thiết bị là chủ yếu, đội ngũ cán
bộ không có trình độ chuyên sâu về kế toán, do đó việc theo dõi sử dụng vật tư còn lãng
phí, thể hiện ở đây là vật tư ở các công trình nhập về có xuất đưa ra sử dụng, nhưng
xong công trình Ban cơ điện chẳng quyết toán toàn công trình để biết vật tư còn thừa
nhiều hay ít.Để giá thành sản phẩm xây lắp của Công ty hạ thấp thì việc quản lý vật tư
cần phải chặt chẽ, sau đó mỗi công trình cần phải giải quyết rõ ràng vật tư xuất ra thừa
không dùng phải thu hồi lại, tránh tình trạng thất thoát vật tư, Ban cơ điện cần phải kết
hợp chặt chẽ với kế toán đầu tư của Công ty.
4- Kế toán tập hợp chứng từ công nợ để đảm bảo cho việc tính giá thành sản phẩm
xây lắp.
Việc thu hồi chứng từ của các công trình của Công ty còn rất chậm nguyên nhân là
tất cả các chứng từ do thống kê đội tập hợp ở các công trình là chậm vì không có trình
độ chuyên môn nên gặp nhiều khó khăn trong việc hoàn chứng từ.
Để đảm bảo công tác hoàn chứng từ được nhanh chóng, phòng kế toán phải cử kế
toán viên xuống công trường theo dõi đôn đốc cá nhân và thống kê phải nhanh chóng
hoàn chứng từ tại công trình để bảo đảm tốt cho việc quyết toán công trình có hiệu quả
đồng thời đảm bảo cho phòng kế toán của Công ty tập hợp chi phí tính giá thành sản
phẩm xây lắp và lập các báo biểu báo cáo tài chính được thuận tiện nhanh chóng kịp với
niên độ kế toán.
5- Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán tập hợp chi phí.
Để phù hợp với đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và đảm bảo cho việc ghi chép
số liệu từ bảng tổng hợp chi phí sản xuất và bảng tính giá thành được chính xác, tạo
điều kiện cho việc tính toán và phân tích giá thành sản phẩm xây lắp của Công ty, theo
tôi việc hạch toán chi phí sản xuất vào TK 621,622,627 là đúng theo chế độ hạch toán
mới, nhưng cần phải ghi chi tiết cho từng công trình theo kết quả sau:
+ TK 621:"Chi phí NVL trực tiếp" dùng để tập hợp chi phí NVL chính, vật liệu phụ
Tài khoản này sẽ được phân chia ra 2 tài khoản cấp 2
TK 6211: NVL dùng cho máy thi công
TK 3212: vật liệu khác
+ TK 622:"Chi phí nhân công trực tiếp" dùng để tập hợp chi phí tiền lương, tiền công
của công nhân trực tiếp sản xuất kể cả công nhân sử dụng máy thi công
Tài khoản này sẽ được phân chia ra 2 tài khoản cấp 2
TK 6221: Chi phí nhân công điều khiển máy
TK 6222: Chi phí nhân công trực tiếp sản xuất
+ TK 627:"Chi phí sản xuất chung" dùng để tập hợp các chi phí có liên quan đến nhiều
công trình, hạng mục công trình cần phải tiết khoản theo tài khoản cấp 2 để phản ánh
từng yếu tố chi phí.
TK 6271:"Chi phí sản xuất chung" dùng để phản ánh tiền lương chính, phụ, chi phí bảo
hiểm, y tế... của công nhân trực tiếp sản xuất
TK 6272:"Chi phí vật liệu"
TK 6273:"Chi phí khấu hao TSCĐ". Tài khoản này cần chia ra 2 tài khoản cấp 3
TK 62741:"Chi phí máy móc thi công"
TK 62742:"Chi phí khấu hao TSCĐ khác"
TK 6277:"Chi phí dịch vụ mua ngoài"
TK 6278:"Chi phí bằng tiền khác"
Như vậy trong bảng tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành ở các khoản mục đều
chia ra thành các cột nhỏ, thể hiện chi phí ở từng công trình
Bảng tổng hợp chi phí sản xuất
Quý...../........
Đơn vị tính: nghìn đồng
Kết luận
Hệ thống kế toán là một công cụ quản lý sắc bén và rất nhạy cảm đối với các doanh
nghiệp. Nhìn vào đó mà doanh nghiệp thấy để tìm cách tiết kiệm chi phí, hạ giá thành
sản phẩm. Do vậy, công tác tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm phải được cập nhật và thay đổi sao cho doanh nghiệp có thể tính chính xác nhất
mà mất ít công sức vào công tác này.
Trong chuyên đề này đã đề cập tới những vấn đề chủ yếu của công tác tập hợp chi
phí và tính giá thành sản phẩm ở các công ty xây lắp nói chung và Công ty Xây dựng và
phát triển hạ tầng LICOGI nói riêng. Tôi xin trình bày một số ý kiến nhỏ với nguyện
vọng giúp công ty tính chính xác hơn chi phí và giá thành sản phẩm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100090_9286.pdf