Về phạm vi điều chỉnh: Các khoản chi của các cơ quan Đảng, Công an, Quân
đội không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư 161/TT-BTC của Bộ Tài chính,
song hiện nay các văn bản của cấp có thẩm quyền hướng dẫn riêng cho đối tượng
này rất ít và không rõ ràng đã ảnh lớn đến công tác kiểm soát chi của KBNN nói
chung, KBNN Quảng Trạch nói riêng. Chẳng hạn cơ quan Đảng có những khoản
chi lớn bằng tiền mặt, thường gọi là “đặc biệt chi”, các đơn vị An ninh, Quốc phòng
chi từ tài khoản tiền gửi các khoản chi được gọi là “bảo mật”, các khoản chi này
chưa được quy định rõ ràng, các đơn vị chi mua máy tính, máy in, công cụ, dụng
cụ,.đều ghi nội dung trên ủy nhiệm chi là chi “bảo mật”, KBNN chỉ chấp hành
thanh toán, chi trả mà không được phép kiểm soát chi, qua thực tế do không kiểm
soát khoản chi này nên khối lượng tiền mặt rút rất lớn và đã có trường hợp mất an
toàn xảy ra.
Thứ tư, hệ thống tiêu chuẩn, định mức chi NSNN có nhiều hạn chế:
Hệ thống quy định chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi chưa bao quát hết tất cả
các nội dung chi, những nội dung đã được định mức thì nhanh chóng bị lạc hậu do
lạm phát làm cho các đơn vị thiếu căn cứ để lập dự toán, các cơ quan quản lý thiếu
căn cứ để phê duyệt dự toán, Kho bạc thiếu căn cứ để KSC, cơ quan thanh tra, kiểm
toán thiếu cơ sở để kết luận sự sai phạm của một số khoản chi.
106 trang |
Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 1269 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước tại kho bạc nhà nước Quảng trạch, tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản chi thanh toán cho cá nhân vẫn
chưa thực hiện được.
Hình thức thanh toán đối với khoản chi hàng hóa, dịch vụ qua KBNN đối
với khoản chi mà đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ không thường xuyên,
không có tài khoản thanh toán cơ bản vẫn thực hiện thanh toán bằng tiền mặt.
- Tình trạng chia nhỏ các gói thầu mua sắm tài sản, hàng hóa dịch vụ dùng
cho chuyên môn vẫn còn nhiều. Các đơn vị SDNS để tránh việc thẩm định giá,
tránh đầu thầu nên thường chia nhỏ các gói mua sắm làm cho công tác kiểm
soát chi của KBNN gặp phải không ít khó khăn trong việc kiểm soát, phát hiện
sai phạm, đồng thời làm cho khối lượng công việc của kiểm soát viên KBNN
tăng lên.
- Việc thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc đạt hiệu
quả chưa cao. KBNN Quảng Trạch mặc dù đã có lập được một số biên bản xử phạt
vi phạm hành chính nhưng chủ yếu chỉ ở mức độ cảnh cáo, nhắc nhở. Trong quá
trình thực hiện xử phạt vi phạm hành chính vẫn còn bị ảnh hưởng bởi các mối quan
hệ giữa cán bộ công chức KBNN với các đối tượng bị xử phạt.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
72
2.5.2.2 Nguyên nhân những hạn chế trong công tác kiểm soát chi thường xuyên
NSNN qua KBNN Quảng Trạch
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, thời gian phân bổ và giao dự toán chậm trễ. Theo quy định của Luật
NSNN, việc phân bổ và giao dự toán ngân sách cho các đơn vị SDNS phải hoàn thành
trước ngày 31 tháng 12 năm trước. Dự toán được cấp từ đầu năm nhằm tạo sự chủ động
cho đơn vị sử dụng NSNN trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, khắc phục tình
trạng “xin- cho” trong cơ chế cấp phát bằng hạn mức kinh phí trước kia. Tuy nhiên dự
toán được cơ quan có thẩm quyền quyết định và phân bổ còn chậm. Còn một số Bộ,
ngành ở trung ương và địa phương giao dự toán trễ so với thời gian quy định, cá biệt có
trường hợp đến quý II dự toán mới được giao cho đơn vị SDNS.
Thứ hai, chất lượng dự toán hạn chế. Các đơn vị sử dụng NSNN căn cứ vào
nhiệm vụ được giao và định mức chi tiêu do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định để lập dự toán năm. Do định mức chi tiêu thường không đầy đủ và nhanh
chóng lạc hậu so với thực tế nên các đơn vị sử dụng NSNN luôn tìm cách để nâng
cao dự toán chi dẫn đến lãng phí trong khâu chấp hành dự toán. Do thiếu căn cứ
khoa học và năng lực lập dự toán của một số đơn vị sử dụng NSNN còn hạn chế đặc
biệt là đơn vị ngân sách xã nên dự toán của các đơn vị lập ra có thể thừa hoặc thiếu,
thậm chí vừa thừa, vừa thiếu (thừa ở nội dung này nhưng thiếu ở nội dung khác). Vì
vậy, trong quá trình chấp hành dự toán chi, đơn vị phải xin bổ sung hoặc điều chỉnh
dự toán nhiều lần làm tăng khối lượng công việc của cơ quan Kho bạc, gây lãng phí
thời gian và công sức.
Hiện tượng giao dự toán nhiều lần theo từng quý hoặc chừa lại một khoản dự
phòng để cấp bổ sung nhiều lần trong năm vẫn còn diễn ra ở một số đơn vị gây khó
khăn cho Kho bạc trong việc hạch toán và quản lý dự toán chi.
Thứ ba, về cơ chế chính sách của Nhà nước ban hành thực hiện trong lĩnh
vực chi thường xuyên NSNN còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ. Các văn bản quy định chế
độ KSC thường xuyên còn chồng chéo, đôi khi mâu thuẫn nhau; nội dung quy định
chưa cụ thể, rõ ràng, còn chung chung có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau dẫn
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
73
đến thực hiện thiếu thống nhất. Văn bản chế độ chưa bao quát hết các nội dung chi
nên còn tạo khe hở để cho các đơn vị sử dụng NSNN có cơ hội lợi dụng. Gần đây
các văn bản quy định về chế độ kiểm soát đối với các khoản chi thường xuyên
NSNN mặc dù đã được bổ sung, sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn chưa đầy đủ, chưa
bao hàm, bao quát được hết các lĩnh vực, không đáp ứng kịp thời với những thay
đổi trong thực tế khi thực hiện. Phương thức cấp tạm ứng có phạm vi và đối tượng
rộng, do vậy tình trạng tạm ứng bằng tiền mặt về chi tiêu, không thanh toán trực
tiếp cho người cung cấp hàng hóa, dịch vụ vẫn còn xảy ra ở các đơn vị SDNS.
Về phạm vi điều chỉnh: Các khoản chi của các cơ quan Đảng, Công an, Quân
đội không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư 161/TT-BTC của Bộ Tài chính,
song hiện nay các văn bản của cấp có thẩm quyền hướng dẫn riêng cho đối tượng
này rất ít và không rõ ràng đã ảnh lớn đến công tác kiểm soát chi của KBNN nói
chung, KBNN Quảng Trạch nói riêng. Chẳng hạn cơ quan Đảng có những khoản
chi lớn bằng tiền mặt, thường gọi là “đặc biệt chi”, các đơn vị An ninh, Quốc phòng
chi từ tài khoản tiền gửi các khoản chi được gọi là “bảo mật”, các khoản chi này
chưa được quy định rõ ràng, các đơn vị chi mua máy tính, máy in, công cụ, dụng
cụ,...đều ghi nội dung trên ủy nhiệm chi là chi “bảo mật”, KBNN chỉ chấp hành
thanh toán, chi trả mà không được phép kiểm soát chi, qua thực tế do không kiểm
soát khoản chi này nên khối lượng tiền mặt rút rất lớn và đã có trường hợp mất an
toàn xảy ra.
Thứ tư, hệ thống tiêu chuẩn, định mức chi NSNN có nhiều hạn chế:
Hệ thống quy định chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi chưa bao quát hết tất cả
các nội dung chi, những nội dung đã được định mức thì nhanh chóng bị lạc hậu do
lạm phát làm cho các đơn vị thiếu căn cứ để lập dự toán, các cơ quan quản lý thiếu
căn cứ để phê duyệt dự toán, Kho bạc thiếu căn cứ để KSC, cơ quan thanh tra, kiểm
toán thiếu cơ sở để kết luận sự sai phạm của một số khoản chi.
Do chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi lạc hậu nên dẫn đến việc chấp hành tiêu
chuẩn, định mức chi của một số đơn vị sử dụng NSNN còn chưa đúng; nhiều khoản
chi được quy định cụ thể về tiêu chuẩn, định mức nhưng các đơn vị sử dụng NSNN
Đại học Kinh tế Huế
Đại học ki
tế Huế
74
rất khó thực hiện, buộc phải tìm những sơ hở của văn bản quy định để “lách luật”
như chi hội nghị, công tác phí, chi tiếp khách hay mua sắm tài sản.
Thời gian qua một số định mức chi tiêu đã được bổ sung, sửa đổi nhưng xét
về tổng thể còn chưa đồng bộ; nhiều loại định mức quá lạc hậu, thậm chí chưa xác
định được trong nhiều lĩnh vực. Tình trạng này dẫn tới việc lập, duyệt dự toán chi
chưa chắc chắn, không phù hợp với thực tế, không sát với nhu cầu chi hay nói một
cách khác là dự toán chất lượng không cao. Từ đó dẫn đến đơn vị sử dụng NSNN
thường phải tìm cách hợp lý hoá chứng từ các khoản chi cho phù hợp với định mức
chi tiêu đã lạc hậu dẫn đến vi phạm kỷ luật tài chính; trong những trường hợp như
vậy KBNN vẫn phải chấp nhận thanh toán vì KBNN chỉ kiểm soát trên chứng từ và
đối chiếu với các chế độ, tiêu chuẩn, định mức mà thôi. Tính thống nhất trong việc
áp dụng các chế độ, tiêu chuẩn, định mức từ trung ương đến địa phương hoặc giữa
các ngành với nhau chưa được thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc bởi vì mỗi
cấp chính quyền, mỗi ngành đều có quyền phê duyệt mức chi, chế độ chi và dự toán
chi cho đơn vị trực thuộc của mình, dẫn đến sự không công bằng trong sử dụng
NSNN và gây khó khăn, phức tạp cho công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN.
Hiện nay cấp phát NSNN chủ yếu dưới 2 hình thức: Cấp phát theo dự
toán và cấp phát bằng lệnh chi tiền. Theo hình thức cấp phát bằng lệnh chi tiền,
Kho bạc chỉ việc xuất quỹ ngân sách, chuyển tiền vào tài khoản hoặc cấp tiền
mặt cho tổ chức, cá nhân được hưởng ngân sách theo lệnh của cơ quan Tài
chính, nhiệm vụ kiểm soát các khoản chi này được giao cho cơ quan Tài chính.
Như vậy, công tác KSC cùng lúc có hai cơ quan đảm trách nên dễ dẫn đến thiếu
thống nhất và không đồng bộ. Trên thực tế hình thức cấp phát này còn bị cơ
quan tài chính lạm dụng để ra lệnh cho Kho bạc cấp phát các khoản chi thường
xuyên mà không muốn gặp phải cơ chế KSC thường xuyên từ phía KBNN.
Hạn chế của hình thức cấp phát bằng lệnh chi tiền còn biểu hiện ở chỗ
khi đã xuất quỹ NSNN rồi nhưng tiền vẫn nằm trên tài khoản của đơn vị SDNS
mở tại KBNN hoặc Ngân hàng, có khi một thời gian dài sau mới được sử dụng,
dẫn đến nguồn vốn NSNN bị phân tán, gây ra sự căng thẳng “giả tạo”, nhất là
thời điểm nguồn thu hạn chế hoặc cuối năm.
Đại học Kinh tế Huế
Đại ọc kinh tế Huế
75
Theo quy định hiện hành cơ quan tài chính thực hiện kiểm soát chi đối với
các khoản chi thực hiện bằng lệnh chi tiền, cơ quan KBNN thực hiện kiểm soát chi
theo dự toán đối với các khoản chi còn lại. Đối tượng áp dụng cho từng hình thức
cấp phát chưa được qui định thực sự cụ thể, nhất là hình thức lệnh chi tiền, tại thông
tư số 161/2012/TT-BTC ngày 02/10/2012 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn chế
độ, kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN, ngoài quy định một số
đối tượng cụ thể như không có quan hệ thường xuyên với NSNN, chi trả nợ, viện
trợ còn có “một số khoản chi khác theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan tài
chính” , vì vậy việc chi trả, thanh toán bằng lệnh chi tiền còn phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của cơ quan tài chính; trên thực tế chi trả, thanh toán NSNN bằng hình
thức này còn khá phổ biến. Từ tình trạng trên dẫn đến sự lạm dụng chi trả, thanh
toán bằng lệnh chi tiền, làm giảm vai trò kiểm soát chi NSNN của KBNN; làm chia
cắt nguồn vốn NSNN ở các dạng khác nhau như tài khoản tiền gửi đơn vị dự toán,
tiền gửi kinh phí uỷ quyền, quỹ NSNN được xuất ra nhưng nằm ở nhiều khâu trung
gian trước khi đến được với các đối tượng thụ hưởng, vì vậy giảm hiệu quả quản lý
nguồn vốn NSNN.
Tình hình phân công kiểm soát chi NSNN như trên còn nặng về “chia việc”
và hài hoà về “lợi ích” giữa các ngành trong hệ thống tài chính, nó đã hạn chế quy
mô, phần việc kiểm soát chi của cơ quan KBNN.
Thứ năm, Các khoản chi thanh toán không dùng tiền mặt vẫn còn nhiều
hạn chế. Huyện Quảng Trạch có diện tích kéo dài, các đơn vị SDNS lại phân bổ
rãi rác trên địa bàn huyện. Tình hình phát triển kinh tế xã hội phát triển chưa
đồng đều. Hệ thống phương tiện thanh toán cá nhân (ATM) của hệ thống ngân
hàng thương mại trên địa bàn huyện phát triển chưa nhiều. Chính vì vậy, ảnh
hưởng đến việc thanh toán chi cho cá nhân, hàng hóa dịch vụ cho đơn vị cung
cấp hàng hóa đang phát triển chậm
Thứ sáu, công tác quản lý, công tác kiểm tra, thanh tra giám sát chưa được
coi trọng đúng mức nhiều khi mang nặng tính hình thức; chưa thực hiện tốt công tác
thanh tra, kiểm tra, chưa kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp khi thấy dấu
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kin tế Huế
76
hiệu chi sai nguyên tắc tài chính. Sự phối hợp thanh tra, kiểm tra công tác quản lý
chi tài chính chưa được tiến hành thường xuyên, chưa xử lý nghiêm minh các
trường hợp vi phạm quản lý chi NSNN một cách đúng mức để làm gương cho
người khác. Đây là một nguyên nhân rất quan trọng. Bởi vì thực tế Chính phủ đã và
đang thực hiện chương trình cải cách hành chính công, làm minh bạch nền tài chính
quốc gia, nhưng hiện nay một bộ phận cán bộ có chức có quyền đang vi phạm trong
quản lý chi tiêu ngân sách ngày càng tăng lên.
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, đội ngũ công chức kiểm soát chi thường xuyên NSNN của KBNN
Quảng Trạch, nhìn chung đã được nâng lên về nhận thức và nghiệp vụ, song so với
yêu cầu nhiệm vụ còn một số hạn chế do nguyên nhân:
+ Công việc kiểm soát chi NSNN đòi hỏi phải tinh thông về nghiệp vụ, nắm
vững các chế độ, định mức, tiêu chuẩn nhà nước qui định, trong khi đó có một số
cán bộ mới vào ngành do đó còn thiếu kinh nghiệm trong việc xử lý nghiệp vụ
kiểm soát chi thường xuyên do đó cũng đã ảnh hưởng đến chất lượng công tác
kiểm soát chi.
+ Một vài công chức nhận thức chưa đầy đủ trách nhiệm và đòi hỏi ngày càng
cao về nghiệp vụ KBNN trong quá trình đổi mới, nghiên cứu học tập hời hợt, thiếu
sâu sắc. Do đó trong quá trình thực hiện vận dụng tuỳ tiện, không đúng nguyên tắc
chế độ hoặc chấp hành không đầy đủ quy trình nghiệp vụ quy định; vẫn còn có công
chức tư tưởng bình quân chủ nghĩa, thiếu tinh thần chủ động, sáng tạo trong công
tác, chưa có ý thức tích cực vươn lên để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, năng
suất, hiệu quả công tác chưa cao.
Thứ hai, công tác tự kiểm tra việc chấp hành các qui định về KSC thường
xuyên NSNN qua KBNN còn chưa thường xuyên, chất lượng chưa cao: Do thực tế
khối lượng công việc nhiều, phải thường xuyên giao dịch với khách hàng, biên chế
có hạn nên việc tự kiểm tra công tác KSC thường xuyên NSNN chưa được tiến
hành thường xuyên, thường tiến hành ở mức độ đối phó, chất lượng chưa cao.
Thứ ba, trong giai đoạn hiện nay KBNN đang thực hiện các dự án tin học như
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
77
dự án Hệ thống thông tin quản lý Ngân sách và Kho bạc (TABMIS), Hệ thống
thanh toán song phương (TTSP), Chương trình hiện đại hóa thu ngân sách (TCS-
TT)... vai trò tin học vô cùng quan trọng, trong thời gian qua đã góp phần vào thành
công của các dự án, tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ một số hạn
chế, trở ngại do chương trình áp dụng trên toàn hệ thống trong cả nước, có sự phối
hợp của Kho bạc, Cơ quan tài chính, Thuế, Hải quan, Ngân hàng... nên hiện tượng
lỗi hệ thống, lỗi đường truyền, hệ thống mạng chậm vẫn thường xảy ra đặc biệt là
vào các thời điểm cuối tháng, cuối năm. Điều đó làm ảnh hưởng đến thời gian xử lý
công việc, nhập liệu chứng từ vào chương trình của cán bộ kiểm soát chi KBNN,
ảnh hưởng đến chất lượng truyền dữ liệu, khai thác báo cáo trong chương trình cho
các đơn vị phối hợp như Tài chính, Thuế... chậm hơn, mất nhiều thời gian hơn.
Thứ tư, trình độ năng lực của cán bộ kế toán, chủ tài khoản (người thực hiện
ngân sách) ở một số đơn vị SDNS chưa cao, còn hạn chế, yếu về năng lực chuyên
môn nhất là đối với cán bộ kế toán xã, huyện. Khả năng nhận thức hiểu Luật và
các văn bản chế độ về quản lý chi NSNN của cán bộ còn hạn chế, không thường
xuyên cập nhật những thay đổi của chế độ chính sách, ý thức chấp hành pháp luật
của đơn vị sử dụng chưa cao, khả năng tham mưu cho thủ trưởng đơn vị trong việc
xây dựng dự toán chi của đơn vị hàng năm và các chế độ tiêu chuẩn định mức chi
tiêu nội bộ phù hợp với chế độ hiện hành còn thấp, đội ngũ kế toán ở các đơn vị
trực thuộc ủy ban huyện thường phải kiêm nhiệm làm việc chuyên môn và làm kế
toán do đó hiệu quả, chất lượng trong công tác kế toán chưa cao, thiếu sự tập
trung, chuyên trách. Việc kiểm soát các khoản chi tại đơn vị đúng chế độ còn
nhiều bất cập và kém hiệu quả
Thứ năm, việc thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc
đạt hiệu quả chưa cao.
Xử phạt vi phạm hành chính là một hoạt động mới và rất khó trong lĩnh vực
KBNN, công chức của ngành trước vẫn luôn quen với kiểm soát – chấp nhận – từ
chối nhưng chưa quen với phạt và kết luận vốn có tính ràng buộc pháp lý trong xử
phạt . Năm 2015 là năm đầu tiên áp dụng việc xử phạt vi phạm hành chính trong
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
78
lĩnh vực Kho bạc nên nhiều trường hợp đơn vị SDNS vi phạm các quy định tại
Thông tư 54/2014/TT-BTC và Nghị định 192/2013/NĐ-CP, KBNN chỉ dừng lại ở
việc nhắc nhở, cảnh cáo, nhiều trường hợp đang còn nể nang nên chưa nghiêm túc
thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính.
2.5.3 Nguyên nhân dẫn tới hạn chế
Công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN Quảng Trạch đạt
những kết quả nêu trên do các nguyên nhân sau đây:
- Trong điều kiện biên chế có hạn, căn cứ vào khối lượng công việc KBNN
Quảng Trạch đã quan tâm bố trí cán bộ làm công tác kiểm soát chi đầy đủ, thường
xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác kiểm soát chi; nhìn chung đội
ngũ cán bộ làm công tác kiểm soát chi đều cần cù, chịu khó, có tinh thần học hỏi để
vươn lên, nắm vững chế độ;
- Đề cao trách nhiệm của từng cán bộ, công chức trước công việc được giao,
có hình thức khen thưởng thích đáng cả về tinh thần và vật chất đối với những cán
bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ đồng thời có biện pháp xử lý kỷ luật đối với các trường
hợp vi phạm chế độ qui định. Từ đó động viên được cán bộ công chức hăng say với
công việc, uốn nắn các đơn vị sử dụng NSNN thực hiện theo đúng chế độ qui định,
đảm bảo kiểm soát chi chặt chẽ.
- Thường xuyên phối hợp với cơ quan tài chính, cơ quan chủ quản và các
đơn vị sử dụng NSNN, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình kiểm
soát chi NSNN.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
79
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KIỂM SOÁT
CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
3.1 Mục tiêu và định hướng hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN tại
KBNN Quảng Trạch
3.1.1 Mục tiêu, chiến lược phát triển hệ thống KBNN đến năm 2020
3.1.1.1 Mục tiêu tổng quát
Quyết định số 138/2008/QĐ–TTg ngày 21/08/2007 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt mục tiêu tổng quát chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020 là: “Xây
dựng KBNN hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển ổn định vững
chắc trên cơ sở cải cách thể chế chính sách, hoàn thiện tổ chức bộ máy, gắn với
hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực để thực hiện tốt các chức
năng: quản lý quỹ NSNN và các quỹ tài chính nhà nước; quản lý ngân quỹ và
quản lý nợ chính phủ; tổng kế toán nhà nước nhằm tăng cường năng lực, hiệu
quả và tính công khai minh bạch trong quản lý các nguồn tài chính nhà nước. Đến
năm 2020, các hoạt động của KBNN được thực hiện trên nền tảng công nghệ thông
tin hiện đại và hình thành Kho bạc điện tử”.
3.1.1.2 Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020
- Về công tác quản lý quỹ NSNN và các quỹ tài chính nhà nước: Đổi mới
công tác quản lý, KSC qua KBNN trên cơ sở xây dựng cơ chế, quy trình quản lý,
kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN phù hợp với Thông lệ quốc
tế để vận hành Hệ thống Tabmis; thực hiện KSC theo kết quả đầu ra, theo nhiệm
vụ và chương trình ngân sách; thực hiện phân loại các khoản chi NSNN nội dung
và giá trị để xây dựng quy trình KSC hiệu quả trên nguyên tắc quản lý theo rủi ro;
phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan Tài chính, cơ quan chủ quản,
KBNN và các đơn vị sử dụng NSNN; có chế tài xử phạt hành chính đối với cá
nhân, tổ chức sai phạm hành chính về sử dụng NSNN; thống nhất quy trình và đầu
mối kiểm soát các khoản chi của NSNN; tăng cường cải cách thủ tục hành chính
Đại học Kinh tế Huế
Đại ọc kinh tế Huế
80
trong công tác KSC, bảo đảm đơn giản, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, chứng từ, nội
dung kiểm soát, tiến tới thực hiện quy trình KSC điện tử.
- Về công tác quản lý ngân quỹ và nợ chính phủ: Đổi mới công tác quản lý
ngân quỹ KBNN nhằm quản lý ngân quỹ KBNN an toàn và hiệu quả; thực hiện
mô hình thanh toán tập trung theo hướng KBNN mở tài khoản thanh toán tập trung
tại Ngân hàng Nhà nước Trung ương để quản lý tập trung ngân quỹ của toàn hệ
thống KBNN; phát triển hệ thống các công cụ phục vụ công tác quản lý ngân quỹ
và quản lý nợ chính phủ;
- Công tác kế toán nhà nước: Xây dựng hệ thống kế toán nhà nước
thống nhất, hiện đại theo nguyên tắc dồn tích, phục vụ yêu cầu quản lý ngân sách
và tài chính công bảo đảm tính công khai, minh bạch; phát triển kế toán quản trị
phục vụ cho yêu cầu phân bổ ngân sách theo kết quả đầu ra, bảo đảm khả năng
phân tích và tính toán được chi phí, hiệu quả của chi tiêu NSNN cũng như yêu
cầu lập ngân sách trên cơ sở dồn tích; thực hiện hội nhập quốc tế về kế toán nhà
nước, xây dựng chuẩn mực kế toán nhà nước phù hợp với hệ thống kế toán công;
Xây dựng mô hình KBNN thực hiện chức năng tổng kế toán nhà nước.
- Về hệ thống thanh toán ngành KBNN: Hiện đại hóa công tác thanh toán
của KBNN trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại theo hướng tự động
hóa; tham gia hệ thống thanh toán điện tử song phương, thanh toán điện tử liên
ngân hàng, thanh toán bù trừ điện tử với các ngân hàng; ứng dụng có hiệu quả công
nghệ, phương tiện và hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tiên tiến của quốc
tế. Đến năm 2020, về cơ bản KBNN không thực hiện giao dịch bằng tiền mặt;
nghiên cứu triển khai thực hiện mô hình thanh toán tập trung, theo hướng mọi giao
dịch của NSNN và các quỹ tài chính nhà nước đều được thực hiện qua tài khoản
thanh toán tập trung.
3.1.2 Định hướng hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN tại KBNN
Quảng Trạch
3.1.2.1 Mục tiêu của KBNN Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình:
Với mục tiêu tổng quát là xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, công
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
81
khai, minh bạch, được quản lý và kiểm toán chặt chẽ, hiện đại hoá công tác quản lý
ngân sách từ khâu lập kế hoạch, thực hiện NS, báo cáo NS và tăng cường trách
nhiệm NS của Bộ Tài chính; nâng cao tính minh bạch trong quản lý tài chính công;
Hạn chế tiêu cực trong quản lý sử dụng NS; đảm bảo an ninh tài chính trong quá
trình phát triển và hội nhập quốc gia, việc xây dựng và hoàn thiện quy trình KSC
thường xuyên NSNN tại KBNN Quảng Trạch phải đảm bảo các mục tiêu sau:
- Đảm bảo tính bao quát về phạm vi, đối tượng và mức độ KSC theo đúng tinh
thần của Luật NSNN, đảm bảo tất cả các khoản chi của NSNN đều được kiểm tra,
kiểm soát một cách chặt chẽ qua hệ thống KBNN, phù hợp với xu hướng cải cách
hành chính trong quản lý chi NSNN. Đồng thời phải đảm bảo tính minh bạch của thông
tin; tăng cường trách nhiệm của cơ quan, đơn vị liên quan đến quá trình lập, chấp hành
và quyết toán NSNN.
- Bảo đảm sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, đúng mục đích tiền của Nhà nước
để góp phần loại bỏ tiêu cực, chống tham ô, tham nhũng, chống phiền hà sách
nhiễu, nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí của NSNN.
- Cần làm cho các cơ quan, đơn vị SDNS thấy được quyền và nghĩa vụ trách
nhiệm trong việc quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách cấp đúng mục đích, đúng
luật pháp và có hiệu quả. Đặc biệt là phân biệt rõ trách nhiệm, quyền hạn của người
chuẩn chi, KBNN và cơ quan tài chính trong việc quản lý, kiểm soát chi NSNN.
- Quy trình KSC NSNN phải đảm bảo tính khoa học, đơn giản, rõ ràng, công
khai và minh bạch, thuận lợi cho người kiểm soát, người được kiểm soát; đồng
thời, phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu quản lý thực tế tại địa phương.
- Áp dụng các phương tiện thông tin hiện đại, các điều kiện sẵn có về cơ sở
hạ tầng truyền thông và công nghệ thông tin để thực hiện công khai hóa thủ tục
KSC NSNN qua KBNN. Kết quả của cải cách hành chính phải hướng tới đối
tượng là đơn vị SDNS và các nhà cung cấp cho lĩnh vực công, một mặt đảm bảo
yêu cầu công khai minh bạch, mặt khác đảm bảo thanh toán cho nhà cung cấp
dịch vụ.
Đại học Kinh tế Huế
Đại họ ki
tế Huế
82
3.1.2.2 Định hướng hoàn thiện công tác KSC thường xuyên KBNN Quảng Trạch,
tỉnh Quảng Bình:
- Xây dựng cơ chế, quy trình quản lý, kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN
tại KBNN phù hợp với Thông lệ quốc tế để vận hành Hệ thống thông tin quản lý ngân
sách và Kho bạc như: Thực hiện triệt để nguyên tắc thanh toán trực tiếp cho người
cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho Chính phủ; kiểm soát cam kết chi, thanh toán theo lô
từng bước chuyển dần việc quản lý, KSC NSNN theo yếu tố đầu vào sang thực hiện
quản lý, KSC theo yếu tố đầu ra, theo các nhiệm vụ và chương trình ngân sách; thực
hiện phân loại các khoản chi theo nội dung và giá trị để xây dựng quy trình KSC hiệu
quả trên nguyên tắc quản lý theo rủi ro.
- Cải cách công tác KSC thường xuyên NSNN theo hướng thống nhất quy
trình và tập trung đầu mối, gắn với việc phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của
cơ quan Tài chính, cơ quan chủ quản, KBNN và các đơn vị sử dụng kinh phí
NSNN. Tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong công tác KSC, đảm bảo
đơn giản, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, chứng từ, nội dung kiểm soát... Thực
hiện KSC NSNN theo cơ chế thống nhất đầu mối và xây dựng chuẩn ISO 9001-
2000 để áp dụng trong hoạt động này.
- Từng bước xây dựng và áp dụng thí điểm qui trình, thủ tục KSC điện tử.
- Thực hiện trao đổi thông tin với các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN và
xây dựng, quản lý danh mục đơn vị cung cấp hàng hoá dịch vụ phù hợp với
TABMIS nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chi NSNN.
3.2 Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN tại KBNN Quảng Trạch
3.2.1 Xây dựng đội ngũ, nâng cao trình độ, năng lực cán bộ, công chức kiểm soát
chi thường xuyên NSNN
- Nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ, công chức KSC thường
xuyên NSNN.
Nhân tố nguồn lực con người là nhân tố quyết định đến sự thành công của một
tổ chức. Nhằm góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển KBNN đến năm
2020, KBNN Quảng Trạch phải nâng cao hiệu quả về tổ chức bộ máy và chất lượng
Đại học Kinh tế Huế
Đại họ kinh tế Huế
83
nguồn nhân lực, hoàn thiện chính sách và quy trình quản lý đội ngũ cán bộ công
chức trong đơn vị.
Trong KSC thường xuyên NSNN qua KBNN, phải tiêu chuẩn hóa và chuyên
môn hóa đội ngũ cán bộ công chức. Yêu cầu đối với mỗi cán bộ là phải có năng lực
chuyên môn cao, được đào tạo và bồi dưỡng, am hiểu và nắm vững tình hình kinh tế
cã hội cũng như cơ chế chính sách của Nhà nước. Đồng thời có tư cách phẩm chất
đạo đức tốt, có trách nhiệm, tâm huyết với công việc được giao. Để thực hiện được
những điều kiện trên, hằng năm đơn vị phải rà soát và phân loại cán bộ làm công tác
kiểm soát chi theo các tiêu chuẩn đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý.
Từ đó có kế hoạch bồi dưỡng sắp xếp, phân công công tác theo đúng năng lực và
trình độ của từng người. Thực hiện chế độ khen thưởng công bằng, hợp lý. Bên
cạnh đó, cũng cần xử phạt một cách nghiêm minh đối với những cán bộ cố tình làm
trái chính sách chế độ, sai quy trình nghiệp vụ gây thất thoát vốn KBNN. Kiên
quyết loại bỏ những cán bộ thoái hoá, biến chất hoặc không đủ năng lực, trình độ.
- Phát triển nguồn lực của đội ngũ cán bộ công chức KBNN.
Nói đến phát triển nguồn nhân lực, không thể không nói đến việc duy trì và
phát triển sức lao động của đội ngũ cán bộ. Do vậy cùng với việc thực hiện đổi mới
chính sách tiền lương của nhà nước, hệ thống KBNN nói chung, KBNN Quảng
Trạch nói riêng cần phải luôn quan tâm đến việc nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho đội ngũ cán bộ, công chức của mình, cũng như tạo ra môi trường lành
mạnh, trong sạch cho tất cả các cán bộ có điều kiện, cơ hội bình đẳng để thể hiện và
cống hiến cho sự phát triển của ngành.
3.2.2 Tăng cường tự kiểm tra công tác kiểm soát chi thường xuyên
Định kỳ hàng quý, KBNN Quảng Trạch tự kiểm tra việc triển khai, tổ chức
thực hiện các cơ chế, chính sách mới ban hành (theo danh mục văn bản, chế độ,
chính sách mới liên quan đến kho bạc) trong từng phần hành nghiệp vụ cụ thể của
đơn vị tổng hợp kết quả báo cáo KBNN cấp trên trực tiếp.
Định kỳ sáu tháng, KBNN cấp trên thành lập đoàn kiểm tra, kiểm tra việc
triển khai, tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách mới ban hành; và việc tự kiểm
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
84
tra triển khai, tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách mới ban hành, tại các đơn vị
KBNN trực thuộc.
Qua quá trình kiểm tra và tự kiểm tra đánh giá được những đơn vị làm tốt
chuyên môn, thường xuyên cập nhật thông tin về các văn bản chế độ mới, tổ chức
triển khai ứng dụng kịp thời vào công tác kiểm soát chi ngân sách thường xuyên tại
đơn vị mình; tập trung được các khó khăn vướng mắc trong thực hiện từng phần
hành nghiệp vụ cụ thể; Nâng cao trách nhiệm của đơn vị ở địa phương trong triển
khai thực hiện cơ chế chính sách mới ban hành liên quan đến kiểm soát chi thường
xuyên qua KBNN.
Đối với KBNN Quảng Trạch, những nội dung chưa nắm được thông tin về
một số văn bản chế độ mới, qua kiểm tra và tự kiểm tra sẽ giúp đơn vị tiếp cận
thông tin, tổ chức thực hiện đầy đủ các cơ chế, chính sách mới ban hành, không
ngừng nâng cao chất lượng kiểm soát chi ngân sách thường xuyên qua KBNN.
Thông qua kiểm tra và tự kiểm tra việc triển khai thực hiện các văn bản, chế độ mới
ban hành, KBNN cấp trên sẽ xác định những khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ,
những cơ chế, chính sách cần phải đẩy mạnh việc triển khai thực hiện.
Qua công tác tự kiểm tra sẽ thấy được chất lượng công tác kiểm soát chi
thường xuyên NSNN tại đơn vị và việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương, quy trình
nghiệp vụ, chế độ trong thực hiện KSC, từ đó phát hiện những sai phạm để kịp thời
chấn chỉnh, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ làm công tác KSC. Do đó, công
tác tự kiểm tra cần phải được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên đối với từng cán
bộ, từng bộ phận trong đơn vị, bên cạnh đó phải có cơ chế thưởng phạt nghiêm
minh; thực hiện khen thưởng kịp thời, hợp lý sẽ có tác dụng động viên cán bộ phấn
đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, kích thích phong trào thi đua trong đơn vị.
Trên cơ sở kết quả công tác tự kiểm tra đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ
sung chế độ chính sách, quy trình nghiệp vụ để hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp
luật có liên quan làm căn cứ pháp lý để thực hiện chức năng nhiệm vụ KSC thường
xuyên NSNN qua KBNN ngày càng tốt hơn.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
85
3.2.3 Hiện đại hóa, nâng cao chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin
Hiện đại hoá công nghệ thông tin trong quản lý là một trong những điều kiện
hết sức quan trọng để rút ngắn về mặt thời gian trong thao tác nghiệp vụ đảm bảo
tính chính xác, nhanh chóng kịp thời; từ đó không ngừng nâng cao chất lượng hoạt
động của KBNN nói chung và chất lượng KSC thường xuyên NSNN qua KBNN
Quảng Trạch nói riêng. Vì vậy, vấn đề trọng tâm và có ý nghĩa cấp bách là phải ứng
dụng và vận hành tốt được hệ thống mạng thông tin nhanh nhạy, ổn định đủ sức
truyền tải mọi thông tin hoạt động cần thiết, phục vụ công tác quản lý, điều hành.
Thực hiện tốt các các ứng dụng tin học hiện đại vào hoạt động nghiệp vụ
KBNN theo hướng tập trung và tích hợp với hệ thống thông tin quản lý NSNN và
Kho bạc; phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tiên tiến, đáp ứng mục tiêu, hiện đại hóa
công nghệ thông tin của KBNN.
Thực hiện chỉ đạo của KBNN triển khai hệ thống an toàn, bảo mật, tường lửa
cho hệ thống thông tin của ngành của đơn vị; thực hiện ứng dụng hệ thống dự
phòng khắc phục thảm họa; tăng cường đầu tư cho công nghệ thông tin, bảo đảm
phát triển nhanh và vững chắc; trong đó, đặc biệt quan tâm đến một số yếu tố trong
đầu tư như: Cơ cấu và chất lượng thiết bị, công nghệ thông tin; dự phòng về trang
thiết bị; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, đồng bộ và chuyên nghiệp vào mọi
hoạt động nghiệp vụ KBNN. Để thực hiện các ứng dụng khoa học công nghệ thông
tin của ngành vào công tác quản lý, kiểm soát, thanh toán, KBNN Quảng Trạch cần
có kế hoạch đào tạo và thường xuyên cử cán bộ đi đào đạo các lớp tin học chuyên
sâu của ngành tổ chức, cập nhật kiến thức cho cán bộ tin học cơ sở và cán bộ làm
công tác KSC trong đơn vị để thực hiện tốt quản lý kiểm soát chi thường xuyên
NSNN ngày càng tốt hơn.
- Triển khai cơ chế kiểm soát cam kết chi trong điều kiện áp dụng hệ
thống TABMIS cho các đơn vị quan hệ ngân sách
Theo quy định tại công văn số 17927/BTC-KBNN ngày 26/12/2012 của Bộ
Tài chính về triển khai quản lý và kiểm soát cam kết chi NSNN tại KBNN, thì cơ
chế quản lý, kiểm soát cam kết chi NSNN được chính thức thực hiện từ 1/6/2013.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
86
Qua một năm thực hiện, nhìn chung các ĐVSDNS vẫn chưa hiểu và chưa thấy được
tầm quan trọng của việc thực hiện cơ chế quản lý, kiểm soát cam kết chi NSNN.
Kiểm soát cam kết chi NSNN là một bước tiến quan trọng trong quá trình
hoàn thiện cơ chế, quy trình quản lý chi NSNN. Theo đó, việc kiểm soát, giám
sát các khoản chi tiêu NSNN đã từng bước thực hiện được mục tiêu "kiểm tra
trước" đối với hoạt động chi NSNN của ĐVSDNS. Nếu khoản chi NSNN bị từ
chối từ khâu thực hiện cam kết, ĐVSDNS sẽ bắt buộc phải điều chỉnh lại hợp
đồng, hoặc thực hiện bổ sung dự toán. Kiểm soát cam kết chi NSNN tại KBNN
đã góp phần đảm bảo các khoản chi NSNN đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu
quả. Kiểm soát cam kết chi sẽ góp phần ngăn chặn được tình trạng nợ đọng của
lĩnh vực công vốn dai dẳng và thường xuyên trong thời gian qua. Việc áp dụng
kiểm soát cam kết chi sẽ góp phần minh bạch hoá hoạt động quản lý chi tiêu
công, đồng thời thúc đẩy quá trình lành mạnh hoá các hoạt động giao dịch
trong nền kinh tế. Thực hiện quản lý và kiểm soát cam kết chi là một trong
những cơ sở để có thể chuyển từ kế toán trên cơ sở tiền mặt sang kế toán dồn
tích (khi cam kết chi được thực hiện KTKB hạch toán tài khoản phải trả cho
nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ).
3.2.4 Tăng cường sự phối hợp nhằm tuyên truyền, giáo dục để nâng cao tính
tự giác và trách nhiệm của đơn vị sử dụng ngân sách
Việc nâng cao chất lượng của từng đơn vị SDNS, có ý nghĩa quan trọng
trong việc góp phần nâng cao chất lượng công tác KSC thường xuyên qua
KBNN, đó chính là nâng cao chất lượng đầu vào cho quy trình KSC ngân sách
thường xuyên qua KBNN. Vì vậy, KBNN Quảng Trạch cần có sự phối hợp chặt
chẽ với các cấp chính quyền địa phương, cơ quan thông tin tuyên truyền đại
chúng một cách thường xuyên, liên tục như tiến hành soạn thảo, phổ biến rộng
rãi các tài liệu, lập trang web, thiết lập các cầu nối để giải thích, tuyên truyền
cho đơn vị sử dụng NSNN cập nhật đầy đủ chế độ, chính sách văn bản liên
quan đến chính sách Nhà nước từ đó nâng cao nhận thức, hiểu biết của các đối
tượng liên quan về cơ chế và kiểm soát chi thường xuyên qua KBNN.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
87
KBNN Quảng Trạch cần phối hợp với cơ quan Tài chính tổ chức hội nghị
khách hàng định kỳ để nắm bắt những vướng mắc của đơn vị trong quá trình sử
dụng kinh phí NSNN, qua đó phản ánh kịp thời lên cơ quan quản lý cấp trên để
có những sữa đổi, bổ sung nhằm làm cho cơ chế, chính sách chi thường xuyên
NSNN ngày càng hoàn thiện, từ đó khoản chi tiêu ngày càng tiết kiệm, hiệu quả
và đúng mục đích.
3.2.5 Nâng cao hiệu quả xử phạt VPHC
KSC là một hoạt động nghiệp vụ quan trọng trong hệ thống Kho bạc Nhà
nước, đây là một hoạt động cực kỳ khó khăn và nhạy cảm. Việc áp dụng các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính đối với các nội dung xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực KBNN có tác dụng thúc đẩy tinh thần trách nhiệm của chủ tài khoản
và kế toán của đơn vị trong việc tiếp nhận, sử dụng kinh phí tiết kiệm, hiệu quả
đảm bảo đúng mục đích, đối tượng, chế độ định mức nhà nước ban hành, đặc biệt
là không để tình trạng lợi dụng, xâm tiêu kinh phí do tạm ứng kéo dài nhiều năm
nhưng không có biện pháp khắc phục. Bên cạnh đó, đối với cán bộ KBNN việc áp
dụng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KBNN sẽ góp phần nâng cao trình
độ, năng lực nghiệp vụ và trách nhiệm nghề nghiệp khi thực thi công vụ đồng thời
khẳng định vị trí và vai trò ngày càng to lớn của KBNN trong hoạt động tài chính
ngân sách của quốc gia.
Do đó, cần có những biện pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực KBNN như sau:
- Chỉ đạo công tác triển khai, tuyên truyền đến từng cán bộ công chức, các
đơn vị dự toán, chủ đầu tư .. về các quy định xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị
định 192/2013/NĐ-CP ngày 21/1/2013 quy định việc xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước.
- Cần quy định chế độ giám sát công tác xử phạt vi phạm hành chính tại đơn
vị nhằm phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai sót trong thực hiện xử phạt, tổng
hợp các vấn đề có liên quan đến chế độ để điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học ki h tế Huế
88
PHẦN III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước tại Kho
bạc Nhà nước là một trong những vấn đề rất cần thiết và quan trọng góp phần sử
dụng hiệu quả, đúng mục đích ngân sách nhà nước. Đồng thời làm lành mạnh nền
tài chính, nâng cao tính công khai, minh bạch, dân chủ trong việc sử dụng nguồn
lực tài chính quốc gia nói chung và ngân sách nhà nước nói riêng, đáp ứng được
nhu cầu trong quá trình đổi mới chính sách tài chính của nước ta khi hội nhập với
nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định công tác kiểm soát cần
phải có những giải pháp hoàn thiện. Bằng phương pháp thích hợp, luận văn đã
nghiên cứu, rút ra một số vấn đề:
- Hệ thống hóa những cơ sở lý luận về kiểm soát chi thường xuyên ngân sách
nhà nước tại Kho bạc Nhà nước
- Phân tích thực trạng công tác kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà
nước tại Kho bạc Nhà nước Quảng Trạch giai đoạn 2014-2016. Từ đó nêu những
mặt đạt được và hạn chế của công tác kiểm soát chi thường xuyên, đồng thời đã chỉ
rõ nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Trên cơ sở quan điểm, mục tiêu phát triển từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện
công tác kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước tại KBNN Quảng Trạch.
- Kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền về các giải pháp để hoàn thiện
công tác kiểm soát chi thường xuyên tại KBNN Quảng Trạch.
Mặc dù đã rất cố gắng trong nghiên cứu, song những kết quả nghiên cứu không
thể tránh khỏi những thiếu sót hạn chế. Ngoài những đóng góp của luận văn, chắc chắn
rằng sẽ có những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu rộng thêm để không ngừng
cải tiến và hoàn thiện việc quản lý NSNN và công tác KSC NSNN qua KBNN ở nước
ta. Tác giả rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp bổ sung của các thầy giáo, cô
giáo, nhà khoa học và các đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
89
2. Đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên tại
KBNN Quảng Trạch
2.1 Kiến nghị Chính phủ về quy định hành lang pháp lý và cơ chế chính sách
* Về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính:
Cần phải điều chỉnh cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập theo hướng tăng cường trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
khuyến khích các đơn vị có điều kiện vươn lên tự chủ ở mức cao. Việc phân loại
đơn vị sự nghiệp công lập phải dựa trên mức độ tự chủ về tài chính của các đơn vị
cả về chi thường xuyên và chi đầu tư. Theo đó, căn cứ vào mức độ tự đảm bảo kinh
phí chi đầu tư và chi thường xuyên, đơn vị sự nghiệp công lập được phân chia thành
4 loại: (i) đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, (ii)
đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên, (iii) đơn vị sự nghiệp công tự
bảo đảm một phần chi thường xuyên, (iv) đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo
đảm chi thường xuyên.
+ Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm rõ ràng và rộng hơn
Việc tự chủ của các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy nhân
sự và tài chính phải được quy định tương ứng với từng loại hình đơn vị sự nghiệp
công lập, trên nguyên tắc các đơn vị tự đảm bảo kinh phí hoạt động càng nhiều thì
mức độ tự chủ càng cao để khuyến khích các đơn vị tăng thu, giảm dần bao cấp từ
ngân sách nhà nước, trong đó có bao cấp tiền lương tăng thêm để dần chuyển sang
các loại hình đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên, đơn vị tự đảm bảo chi thường
xuyên và chi đầu tư. Các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi
đầu tư được giao quyền tự chủ khá rộng như được quyết định số lượng người làm
việc, được vay vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước hoặc được hỗ trợ lãi suất cho các
dự án đầu tư sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng theo quy định, được tự quyết
định mức trích quỹ bổ sung thu nhập mà không bị không chế mức trích Quỹ bổ
sung thu nhập như các loại hình đơn vị sự nghiệp khác (đơn vị tự đảm bảo chi
thường xuyên bị khống chế không quá 3 lần quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ và
các khoản phụ cấp lương do nhà nước quy định; đơn vị tự đảm bảo một phần chi
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
90
thường xuyên bị khống chế không quá 2 lần, đơn vị do nhà nước bảo đảm chi
thường xuyên bị khống chế không quá 1 lần).
* Hoàn thiện chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi thường xuyên ngân sách nhà nước
Hệ thống chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi NSNN là một trong những căn cứ
quan trọng để xây dựng, phân bổ dự toán và thực hiện KSC NSNN. Đồng thời, cũng
là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng quản lý và điều hành quỹ
NSNN. Tuy nhiên, cho đến nay các tiêu chuẩn, định mức chi NSNN còn nhiều bất
cập, có nhiều khoản chi chưa có định mức như chi lễ kỷ niệm, lễ hội,... Do đó, trong
thời gian tới cần phải đẩy mạnh việc xây dựng, cập nhật, hoàn thiện các định mức
và tiêu chuẩn chi tiêu từ NSNN.
Đây là công việc khá khó khăn và phức tạp. Bởi lẽ, quy mô hoạt động và tính
chất công việc của các ĐVSDNS rất đa dạng, đồng thời chúng lại chịu ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố như lạm phát, tăng trưởng kinh tế,... Do vậy, trước mắt cần quy
định thống nhất các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi trong những lĩnh vực cụ thể.
Về lâu dài, để đối phó với tình trạng các nội dung, định mức chi tiêu của NSNN
luôn bị lạc hậu và thấp hơn nhu cầu chi thực tế của nền kinh tế (ví dụ chi công tác
phí, thuê phòng nghỉ, hội nghị,...), cần nghiên cứu định mức chi theo tỷ lệ (%) với
mức lương cơ bản. Đối với những khoản chi chưa ban hành được tiêu chuẩn định
mức chi tiêu, áp dụng phương pháp quản lý theo đầu ra của công việc.
2.2 Kiến nghị với Bộ Tài chính
2.2.1 Hiện đại hóa công nghệ thông tin và triển khai thành công hệ thống TABMIS
Hiện đại hoá công nghệ thông tin KBNN là một trong những điều kiện hết sức
quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động của KBNN nói chung và công tác
KSC NSNN tại KBNN nói riêng. Vì vậy, vấn đề trọng tâm và có ý nghĩa cấp bách
là phải xây dựng được hệ thống mạng truyền thông có tốc độ và băng thông tốt, ổn
định từ trung ương đến cơ sở, đủ sức truyền tải mọi thông tin hoạt động cần thiết,
phục vụ công tác quản lý, điều hành NSNN. Trong những điều kiện cho phép, Bộ
Tài chính cần hoạch định những bước đi thích hợp để đẩy nhanh tốc độ tin học hoá.
Hiện nay, hệ thống TABMIS đang được triển khai trong các đơn vị ngành Tài
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
91
chính (cơ quan Tài chính và KBNN), việc triển khai hệ thống này rất phức tạp, liên
quan đến nhiều đơn vị. Vì vậy, Ban triển khai TABMIS - Bộ Tài chính cần triển
khai TABMIS đúng kế hoạch, triển khai đầy đủ các chức năng góp phần đưa các
quy trình phân bổ ngân sách, kiểm soát cam kết chi vào thực hiện trong thời gian
sớm nhất.
2.2.2 Về công tác tuyển dụng, đào tạo cán bộ
Bộ Tài chính sớm sửa đổi chính sách tuyển dụng, sử dụng đội ngũ cán bộ
công chức hưởng lương từ NSNN sao cho đảm bảo theo hướng: Tuyển dụng - đào
tạo và giữ được người giỏi để làm việc. Đồng thời cần có chính sách thu hút những
người giỏi về lĩnh vực tài chính về công tác tại địa phương nhất là cấp xã, phường;
có cam kết phục vụ dài hạn trong ngành (ít nhất là 5 năm) hạn chế tối đa tình trạng
bố trí nhân sự trái chuyên môn hoặc thay đổi liên tục không theo công tác quy
hoạch cán bộ được cấp thẩm quyền phê duyệt.
2.2.3 Một số quy định về chi mua sắm tài sản, chi sửa chữa lớn, nhỏ
Về chi mua sắm tài sản, công cụ, chi sửa chữa lớn và nhỏ tài sản cố định. Cần
có quy định cụ thể từng loại tài sản sau thời gian bảo hành, dùng bao nhiêu năm,
bao nhiêu giờ thì mới được sửa chữa, đồng thời khi sửa chữa phải có cơ quan
chuyên môn kiểm định tài sản cần sửa, khi đó mới được sửa chữa. Cần quy định
mức giá trị liên quan đến chi sửa chữa thường xuyên, mua sắm tài sản, công cụ để
quy định hồ sơ chứng từ, quy định chào hàng hay chỉ định nhà cung ứng.
2.3 Kiến nghị với KBNN Trung ương
Cùng với việc nối mạng trong toàn hệ thống, KBNN cần phối hợp chặt chẽ với
các đơn vị có liên quan trong ngành tài chính, xây dựng, kế hoạch đầu tư và sớm
đưa vào hoạt động chương trình dùng chung cở sở dữ liệu của ngành tài chính,
thông qua chương trình này, nâng cao chất lượng công tác quản lý và kiểm soát các
khoản chi NSNN, trước mắt là phối hợp theo dõi, đối chiếu và thống nhất các nguồn
số liệu, đáp ứng yêu cầu quản lý và điều hành NSNN.
Mặt khác, khi triển khai quy trình thực hiện phân bổ dự toán và kiểm soát cam
kết chi NSNN trên hệ thống TABMIS đòi hỏi KBNN phải kết nối mạng với các
Đại học Kinh tế Huế
Đạ học kinh tế Huế
92
ĐVSDNS. Do vậy, KBNN cần sớm xây dựng kế hoạch, lộ trình kết nối mạng
truyền thông đến các ĐVSDNS để đáp ứng được sự đổi mới về quy trình nghiệp vụ
trong thời gian tới.
Từng bước đưa dần các nhà cung cấp hàng hoá cho khu vực công (Công ty
nhà nước, đơn vị hạch toán hoá đơn đầu vào đầu ra) và hình thành khung giá hàng
hoá vào trong hệ thống quản lý TABMIS, có chế tài buộc nhà cung cấp cam kết giá
bán phù hợp theo cơ chế quản lý giá, từ đó ĐVSDNS quan hệ giao dịch trên cơ sở
đấu thầu, chọn nhà thầu theo quy định, có như thế sẽ hạn chế tối đa tình trạng mua
hoá đơn hiện nay và thống nhất được giá thanh toán trong thời gian tới.
2.4 Kiến nghị HĐND, UBND
- Tăng cường việc chỉ đạo, xây dựng các văn bản hướng dẫn các nghiệp vụ,
quy định quản lý tài chính - ngân sách theo thẩm quyền cấp huyện, đúng chế độ,
chính sách hiện hành của Nhà nước, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương
nhằm chỉ đạo thực hiện thống nhất trên toàn huyện như quy định về hồ sơ, chứng từ
thanh toán chi ngân sách thường xuyên của chính quyền địa phương theo giá trị
thanh toán, hướng dẫn, quy định về mua sắm hàng hóa chuyên môn, quy định tiêu
chuẩn ghi nhận tài sản
- Tăng cường việc kiểm tra thực hiện dự toán, quyết toán ngân sách huyện,
kiên quyết yêu cầu hoàn thiện hồ sơ, thủ tục hoặc xuất toán đối với các khoản chi
thường xuyên chưa đủ hồ sơ thủ tục theo quy định đối với từng khoản chi hoặc
phạm vi chế độ, định mức tiêu chuẩn NSNN.
- Chủ động bổ sung dự toán ngân sách cuối năm nhất là các khoản chi mua
sắm, sữa chữa khi bổ sung phải tính đến thời gian cho đơn vị đủ để thực hiện việc
mua sắm sữa chữa. Cụ thể các khoản sửa chữa phải bổ sung chậm nhất là cuối quý
III, các khoản mua sắm chậm nhất là cuối tháng 11 của năm ngân sách, có như vậy
đơn vị mới có thời gian thực hiện mua sắm sữa chữa theo chế độ được.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 342/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Luật ngân sách nhà nước.
2. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 18/2006/TT-BTC ngày 13/3/2006, hướng
dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các cơ quan nhà nước thực hiện chế độ tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính.
3. Bộ Tài chính (2012), Thông tư số 161/2012/TT-BTC ngày 02 tháng 10 năm
2012 quy định chế độ, kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN tại KBNN
4. Bộ Tài Chính (2016) Thông tư 39/2016/TT-BTC ngày 01/3/2016 của Bộ Tài
Chính quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 161/2012/TT-
BTC ngày 02/10/2012 của Bộ Tài Chính quy định chế độ kiểm soát, thanh
toán các khoản chi ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước.
5. Bộ Tài Chính (2016) Thông tư 40/2016/TT-TC ngày 01/3/2016 sửa đổi, bổ
sung một số điều của thông tư số 113/2008/TT-BTC ngày 27 tháng 11 năm
2008 của Bộ Tài Chính hướng dẫn quản lý và kiểm soát cam kết chi ngân sách
nhà nước qua kho bạc nhà nước và một số biểu mẫu kèm theo thông tư số
08/2013/TT-BTC ngày 10 tháng 01 năm 2013 của Bộ Tài Chính hướng dẫn
thực hiện kế toán nhà nước áp dụng cho hệ thống thông tin quản lý ngân sách
và kho bạc nhà nước (Tabmis).
6. Bộ Tài chính (2010), Quyết định số 362/QĐ-BTC ngày 11 tháng 02 năm 2010
của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
7. Bộ Tài chính (2010),Thông tư số 97/2010/TT-BTC ngày 06/72010 Quy định
chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan
nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.
8. Bộ Tài Chính (2017), Thông tư 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài
Chính quy định về chế độ công tác phí, chế độ chi hội nghị.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
94
9. Bộ Tài chính (2016),Thông tư 58/2016/TT-BTC ngày 29 tháng 03 năm 2016
của Bộ Tài chính quy định chi tiết việc sử dụng vốn nhà nước để mua sắm
nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp thay thế Thông tư số 68/2012/TT-BTC ngày
26/04/2012 của Bộ Tài Chính quy định việc đấu thầu để mua sắm tài sản nhằm
duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân.
10. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 06/2011/TT-BTC ngày 14/01/2011 sửa đổi,
bổ sung Thông tư số 103/2007/TT-BTC ngày 29/8/2007 về việc Hướng dẫn
thực hiện Quyết định số 59/2007/QĐ-TTg ngày 07/05/2007 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng
phương tiện đi lại trong cơ quan nhà nước.
11. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 164/2011/TT-BTC ngày 17/11/2011 quy
định quản lý thu chi bằng tiền mặt qua hệ thống Kho bạc Nhà nước.
12. Bộ Tài Chính (2017) Thông tư số 13/2017/TT-BTC ngày 15/2/2017 của Bộ
Tài chính về việc quy định quản lý thu, chi bằng tiền mặt qua hệ thống KBNN
(Hiệu lực 01/4/2017).
13. Quốc hội (2015), Luật NSNN số 83/2015/QH13 ngày 25 tháng 6 năm 2015
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp
thứ 9 thông qua ngày 25 tháng 6 năm 2015.
14. Chính phủ (2016), Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước.
15. Chính phủ (2013) Nghị định 192/2013/NĐ-CP ngày 21/01/2013 quy định việc
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
95
16. Kho bạc Nhà nước (2017) Quyết định số 4377/QĐ-KBNN ngày 15/9/2017 của
Tổng Giám đốc KBNN về việc ban hành quy trình nghiệp vụ thống nhất đầu
mối kiểm soát các khoản chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước.
17. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 138/2007/QĐ-TTg, ngày 21
tháng 8 năm 2007 phê duyệt Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020.
18. Thủ tướng Chính phủ (2007), Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg ngày 24/08/2007 về
việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ NSNN
19. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 108/2009/QĐ-TTg ngày 26 tháng
8 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của KBNN trực thuộc Bộ Tài chính.
Đại học Kinh tế Huế
Đại học kinh tế Huế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_cong_tac_kiem_soat_chi_thuong_xuyen_ngan_sach_nha_nuoc_tai_kho_bac_nha_nuoc_quang_trach_t.pdf