Trên cơ sở phương pháp luận chung duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: Thống kê, tổng hợp, phân
tích so sánh để nghiên cứu làm rõ vấn đề liên quan đến quản lý vốn NSNN
trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản của huyện Phúc Thọ, luâṇ văn vớ i đề
tài : “Hoàn thiện công tác quản lý vốn ngân sách nhà nước đầu tư xây
dựng cơ bản của huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội” đã đạt được những
kết quả cụ thể như sau:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận chung nhất về quản lý vốn đầu tư
xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn NSNN.
- Đánh giá thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn NSNN
giai đoạn 2010 - 2014 của huyện Phúc Thọ.
- Đề xuất giải pháp tăng cường quản lý vốn ngân sách nhà nước cho
đầu tư xây dựng cơ bản của huyện Phúc Thọ giai đoạn từ nay đến 2020.
100 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác quản lý vốn NSNN đầu tư xây dựng cơ bản của huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôn của xã để tổ chức quản lý thực hiện dự án.
Dự án có tổng mức đầu tư trên 500 triệu đồng sử dụng vốn ngân sách
xã, UBND xã tổ chức lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật xây dựng công trình, trình
phòng Tài chính –kế hoạch, Phòng quản lý đô thị tổ chức thẩm định làm cơ sở
trình UBND huyện xem xét phê duyệt và giao cho UBND xã làm chủ đầu tư,
UBND xã thành lập Ban QLDA do Chủ tịch, hoặc Phó chủ tịch uỷ ban nhân
dân làm Trưởng ban, sử dụng cán bộ chuyên môn của xã để tổ chức quản lý
thực hiện dự án.
+ Uỷ ban nhân dân huyện làm chủ đầu tư các dự án sử dụng ngân sách
Thành phố hỗ trợ và nguồn vốn ngân sách huyện theo phân cấp quyết định
đầu tư đến dự án nhóm C. Thông thường đây là các dự án quan trọng của
huyện, các công trình có yêu cầu kỹ thuật cao, công trình phục vụ du lịch, văn
hoá...
Các dự án do UBND huyện làm chủ đầu tư được áp dụng hình thức chủ
đầu tư trực tiếp quản lý dự án. Tuỳ theo từng dự án cụ thể mà UBND huyện giao
cho Ban QLDA đầy tư xây dựng chuyên trách thực hiện hoặc thành lập Ban
Thang Long University Libraty
65
QLDA mới sử cán bộ các phòng ban chuyên môn, và cán bộ xã để giúp UBND
huyện quản lý dự án.
Hình thức quản lý dự án trường hợp chủ đầu tư không trực tiếp quản lý
dự án mà thuê tổ chức tư vấn quản lý dự án và trường hợp chủ đầu tư trực tiếp
quản lý dự án nhưng không thành lập Ban QLDA (quy định dự án có tổng mức
đầu tư không quá 7 tỷ đồng) hiện chưa có dự án xây dựng công trình nào áp
dụng trên địa bàn huyện.
Hình thức chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án trong những năm qua ở
các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước đã mang lại những hiệu quả
tích cực nhất định song nó còn tồn tại những hạn chế trong quản lý điều hành
dự án do các nguyên nhân khách quan và có phần do năng lực của các Ban
quản lý dự án còn chưa đáp ứng được theo nhiệm vụ được giao, trong đó chủ
yếu là các ban quản lý dự án cấp xã và một số ban quản lý dự án kiêm nhiệm.
Do đó hiệu quả đầu tư các công trình còn hạn chế, một số dự án chậm tiến độ
làm tăng chi phí đầu tư, chất lượng công trình chưa cao.
Chủ thể tham gia trong một dự án dự án đầu tư xây dựng công trình bao
gồm:
+ Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và xây dựng
+ Người có thẩm quyền quyết định đầu tư
+ Chủ đầu tư
+ Các nhà thầu tư vấn
+ Nhà thầu thi công xây dựng
Trong quá trình đầu tư xây dựng công trình, các chủ thể có vai trò,
trách nhiệm khác nhau nhưng lại cùng có mối liên hệ trong giải quyết các vấn
đề về triển khai thực hiện các công việc của dự án. Có thể mô hình hoá mối
liên hệ giữa các chủ thể tham gia quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình
như sơ đồ dưới đây:
66
Hình 2.2: Mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia dự án đầu tư XDCT
a/ Người có thẩm quyền quyết định đầu tư:
- Chủ tịch UBND các cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án
sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo phân cấp của Thành phố. Các dự án
đầu tư xây dựng công trình trên địa bàn huyện Phúc Thọ do chủ tịch UBND
huyện phê duyệt các dự án có tổng mức đầu tư đến nhóm C (50 tỷ đồng)
xuống đến các dự án có tổng mức đầu tư trên 500 triệu đồng. Các dự án có
tổng mức đầu tư dưới 500triệu đồng do chủ tịch UBND xã quyết định đầu tư.
- Người quyết định đầu tư phê duyệt các nội dung gồm:
+ Phê duyệt chủ trương đầu tư
+ Phê duyệt dự án, Báo cáo kinh tế kỹ thuật xây dựng công trình
+ Phê duyệt kế hoạch đấu thầu
+ Phê duyệt các trường hợp điều chỉnh dự án theo quy định
+ Phê duyệt quyết toán vốn đầu tư
Các dự án do huyện làm chủ đầu tư thì cấp quyết định đầu tư vừa là chủ
đầu tư. Do vậy ngoài các nội dung theo thẩm quyền trên, Chủ tịch UBND
huyện cũng phê duyệt hay uỷ quyền cho Phó chủ tịch huyện phụ trách phê
duyệt các nội dung thuộc thẩm quyền của chủ đầu tư.
Người có thẩm quyền quyết định đầu tư
Chủ đầu tư
Thành lập Ban QLDA
Nhà thầu thi
công xây dựng
Cơ quan quản lý nhà nước
về đầu tư xây dựng
Nhà thầu
tư vấn
Thang Long University Libraty
67
b/ Chủ đầu tư:
Chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng công trình được xác định trong quyết
định phê duyệt chủ trương đầu tư.
Ban quản lý dự án do chủ tịch UBND huyện thành lập và ban QLDA
do chủ tịch UBND các xã thành lập và được uỷ quyền tổ thực hiện các công
việc thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư và báo cáo UBND cùng cấp trực tiếp
phê duyệt.
Ban QLDA có trách nhiệm tổ chức thực hiện các công việc quản lý dự
án từ giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi hoàn thành, nghiệm
thu bàn giao đưa công trình vào khai thác, sử dụng bao gồm: Tổ chức lập Dự
án, lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật xây dựng công trình; tổ chức thẩm tra thiết kế
kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, dự toán xây dựng công trình; tổ chức lựa
chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng; tổ chức bồi thường GPMB, tái định
cư; tổ chức quản lý chất lượng, khối lượng, tiến độ và quản lý chi phí đầu tư
xây dựng công trình; tổ chức đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh môi trường của
công trình; tổ chức kiểm tra chất lượng vật liệu, kiểm định chất lượng công
trình theo yêu cầu của chủ đầu tư; tổ chức kiểm tra và chứng nhận sự phù hợp
về chất lượng công trình; tổ chức nghiệm thu thanh toán, quyết toán hợp
đồng, thanh toán quyết toán vốn đầu tư xây dựng công trình; tổ chức nghiệm
thu, bàn giao công trình; khởi công công trình và một số các công việc quản lý
dự án khác.
Các dự án xây dựng có quy mô và yêu cầu kỹ thuật cao, sử dụng vốn
Thành phố hỗ trợ do UBND huyện làm chủ đầu tư. UBND huyện giao nhiệm
vụ cho Ban QLDA đầu tư xây dựng huyện chuyên trách là đầu mối triển khai
thực hiện các công việc của dự án thuộc thẩm quyền của chủ đầu tư.
Các dự án cơ cấu vốn chủ yếu là ngân sách huyện hỗ trợ, UBND huyện
thành lập Ban QLDA mới để quản lý thực hiện dự án. Chủ tịch UBND xã
68
được giao làm trưởng Ban, tham gia ban QLDA còn có cán bộ các phòng ban
chuyên môn của huyện và cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn xã.
Cán dự án quy mô nhỏ dưới 500 triệu đồng do xã làm chủ đầu tư, chủ
tịch UBND xã thành lập Ban QLDA gồm Phó chủ tịch xã làm trưởng ban, các
thành viên khác gồm đại diện các ngành, đoàn thể xã và cán bộ chuyên môn xã.
Hiện nay, các Ban QLDA các công trình trong huyện còn hạn chế về
năng lực quản lý điều hành, chuyên môn nghiệp vụ, quy mô tổ chức chưa đáp
ứng theo quy định.
Đối với các Ban QLDA ở các xã, các thành viên Ban QLDA hầu hết
chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý dự án, chưa có nhiều kinh nghiệm,
kiến thức chuyên môn ngành xây dựng hạn chế. Việc nắm rõ các quy định
hiện hành về quản lý dự án còn chưa thật đầy đủ. Các thành viên Ban QLDA
làm kiêm nhiệm không chuyên trách nên thời gian tham gia xử lý các công
việc liên quan đến dự án không được thường xuyên và kịp thời. Do vậy trong
công tác tham mưu về các công việc quản lý dự án cho chủ đầu tư chưa đạt
chất lượng cao. Tuy vậy ban QLDA ở các xã có thuận lợi ở gần công trình,
gắn bó chặt chẽ với địa bàn dân cư nên có những thuận lợi trong công tác nắm
bắt kiến nghị của nhân dân, xử lý những bất cập phát sinh, nhất là trong công
tác bồi thường GPMB phục vụ thi công, công tác đảm bảo an ninh trật tự.
Ban QLDA đầu tư xây dựng huyện và các ban QLDA kiêm nhiệm khác
được UBND huyện thành lập theo từng dự án hiện nay đã cơ bản đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ theo quy định. Trình độ cán bộ chuyên môn phù hợp, đa phần
đều có các kỹ sư chuyên ngành phụ trách, có kinh nghiệm trong công tác quản
lý dự án. Tuy vậy, số lượng cán bộ chuyên môn còn thiếu, phải đảm nhiệm
cùng một lúc nhiều dự án khác nhau và chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý
các dự án quy mô lớn, có yêu cầu kỹ thuật cao, công nghệ mới.
c/ Nhà thầu tư vấn:
Thang Long University Libraty
69
Các nhà thầu tư vấn tham gia trong dự án đầu tư xây dựng công trình
bao gồm: Tư vấn quản lý dự án, Tư vấn khảo sát thiết kế – lập dự án, Tư vấn
lập và đánh giá hồ sơ thầu, Tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình, Tư
vấn quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình. Đây là các tổ chức nghề
nghiệp có tư cách pháp nhân, có đăng ký kinh doanh về lĩnh vực hoạt động
theo quy định.
Nhà thầu tư vấn chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư về thực
hiện đúng thủ tục đầu tư xây dựng, các quy định hiện hành, quy chuẩn xây
dựng, các tiêu chuẩn sử dụng cho dự án, thực hiện đầy đủ các nội dung cam
kết trong hợp đồng. Đảm bảo chất lượng công tác tư vấn đáp ứng theo yêu
cầu của dự án. Nhà thầu tư vấn chịu sự kiểm tra thường xuyên chủ chủ đầu tư
và các cơ quan quản lý nhà nước.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình trên địa bàn huyện Phúc Thọ đều
có sự tham gia các nhà thầu tư vấn giúp chủ đầu tư thực hiện trình tự các bước
dự án, các thủ tục theo quy định và quản lý chất lượng thi công xây dựng
công trình. Các dự án của huyện có quy mô nhỏ (quy mô đến nhóm C, công
trình giao thông) và yêu cầu kỹ thuật không cao, giá trị hợp đồng tư vấn nhỏ,
nên trong những năm gần đây đa số các dự án chủ đầu tư ký hợp đồng với các
Nhà thầu tư vấn địa phương. Điều này thuận lợi cho giao dịch và kiểm tra của
chủ đầu tư đối với các nhà thầu tư vấn và việc tiếp cận những vấn đề cần giải
quyết trong quá trình triển khai dự án của nhà thầu tư vấn nhanh hơn. Song
cũng còn một số hạn chế tồn tại dẫn đến chất lượng dự án và hiệu quả đầu tư
chưa đáp ứng như mong muốn. Có thể thấy điều này ở các nội dung dưới đây:
+ Năng lực các nhà thầu tư vấn địa phương chưa phù hợp với quy định
chung về điều kiện năng lực tổ chức cá nhân tham gia hoạt động xây dựng
trong việc tư vấn lập và thẩm tra dự án đầu tư xây dựng, khảo sát xây dựng,
thiết kế xây dựng, giám sát thi công xây dựng. Số lượng người thực tế của nhà
70
tầu tư vấn có năng lực, trình độ chuyên môn tương ứng chưa đáp ứng theo
quy định, chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động tư vấn vây dựng. Đa
phần các nhà thầu tư vấn địa phương chưa đủ điều kiện phân hạng do dó theo
quy định chỉ được tư vấn hoạt động xây dựng dự án cấp 4, dự án chỉ yêu cầu
lập báo cáo kinh tế kỹ thuật xây dựng công trình. Tuy nhiên ở nhiều dự án
trên địa bàn các nhà thầu tư vấn đó vẫn được chỉ định làm tư vấn khảo sát,
thiết kế lập dự án, giám sát thi công xây dựng công trình đến nhóm C, cấp
công trình đến cấp III, kể cả những dự án có yêu cầu kỹ thuật, công nghệ
phức tạp (như các cầu cọc khoan nhồi, bê tông ứng suất trước...), trong khi
nhà thầu tư vấn khảo sát thiết kế, lập dự án, nhà thầu giám sát thi công chưa
có nhiều kinh nghiệm ở các dự án này. Vì vậy chất lượng công tác tư vấn giúp
cho chủ đầu tư chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến dự án có chất
lượng thấp, chi phí xây dựng chưa sát với giá trị thực công trình, nhiều dự án
phải điều chỉnh dự án, xử lý thay đổi thiết kế phát sinh bổ xung, kéo dài tiến
độ dự án.
Giá trị hợp đồng tư vấn nhỏ, lựa chọn nhà thầu tư vấn nhủ yếu là hình
thức chỉ định thầu, không có bước đánh giá năng lực nhà thầu tư vấn nên tính
cạnh tranh không cao, thường do chủ quan của chủ đầu tư để lựa chọn. Các nhà
thầu tư vấn địa phương có mối liên hệ thường xuyên cùng trong nhiều dự án
khác nhau với các nhà thầu xây dựng địa phương, điều này có nguy cơ dẫn đến
hoạt động tư vấn thiếu lành mạnh, ảnh hưởng đến chất lượng và chi phí dự của
án.
Trong công tác giám sát thi công xây dựng công trình, một số nhà thầu
tư vấn bố trí cán bộ tư vấn chưa thường xuyên bám sát hiện trường do cùng
lúc tham gia giám sát nhiều dự án. Để xẩy ra những thiếu sót, làm sai lệnh về
khói lượng, chất lượng công trình ở một số dự án mà năng lực của ban QLDA
hạn chế, phụ thuộc nhiều vào các tổ chức tư vấn.
Thang Long University Libraty
71
d/ Nhà thầu thi công xây dựng công trình.
Nhà thầu thi công là doanh nghiệp xây dựng được thành lập theo quy
định của pháp luật, có đăng ký kinh doanh về xây dựng. Nhà thầu thi công
xây dựng chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư về việc chấp hành
các quy định của nhà nước về đầu tư và xây dựng, các yêu cầu của hồ sơ thiết
kế được phê duyệt. Thực hiện đầy đủ các nội dung theo hợp đồng ký kết với
chủ đầu tư bao gồm thi công xây dựng công trình đảm bảo khối lượng, chất
lượng, thời gian thực hiện hợp đồng, các tiêu chuẩn, quy phạm áp dụng cho
dự án, và các điều khoản khác quy định trong hợp đồng. Nhà thầu thi công
xâu dựng có trách nhiệm tổ chức hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với
yêu cầu gói thầu. Nhà thầu thi công xây dựng công trình chịu sự giám sát,
kiểm tra thường xuyên về chất lượng công trình của chủ đầu tư, nhà thầu tư
vấn giám sát, nhà thầu tư vấn thiết kế và các cơ quan quản lý nhà nước về đầu
tư và xây dựng.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp xây dựng địa phương trên địa
bàn huyện Phúc Thọ có sự phát triển nhanh về số lượng, đảm nhiệm phần lớn
các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện. Hiện nay có khoảng 20 doanh
nghệp xây dựng địa phương. Đa số các doanh nghiệp này có số năm kinh
nghiệm tham gia hoạt động xây dựng từ 1 -5 năm, một số ít các doanh nghiệp
xây dựng có kinh nghiệm từ 5-10 năm.
Năng lực hoạt động của một số doanh nghiệp địa phương còn yếu cả về
vốn, con người, thiết bị phục vụ thi công, về kinh nghệm quản lý điều hành
dự án do đó khi triển khai thi công xây dựng công trình giao thông, đa phần
các dự án còn chậm tiến độ, chất lượng thi công các hạng mục công trình
chưa cao, một số dự án xuống cấp nhanh sau khi bàn giao đưa vào khai thác
sử dụng.
Hệ thống quản lý chất lượng nội bộ của nhà thầu mỏng về lực lượng,
72
trình độ cán bộ chỉ huy công trường, cán bộ kỹ thuật thi công hạn chế, đa số
có trình độ cao đẳng, trung cấp, số lượng kỹ sư chuyên ngành rất ít.
Quá trình lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng của chủ đầu tư còn chưa
thật sự nghiêm túc, nhất là các dự án chỉ định thầu xây lắp, dẫn đến chưa đánh
giá đầy đủ về năng lực nhà thầu. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc các nhà
thầu khi triển khai thi công không đáp ứng năng lực phù hợp với hồ sơ thầu.
Các dự án quy mô lớn đòi hỏi năng lực tài chính, kinh nghiệm cao, có
yêu cầu nhà thầu tham gia đã thi công một số công trình có quy mô, yêu cầu
kỹ thuật, công nghệ thi công tương tự, phần lớn nhà thầu địa phương không
đáp ứng được. Khi đó các nhà thầu có năng lực tài chính thấp và ít kinh
nghiệm dùng hình thức liên kết với một doanh nghiệp xây dựng khác có năng
lực, tài chính, kinh nghiệm tốt để tạo thành một liên danh đáp ứng các yêu cầu
của gói thầu. Việc liên danh này ở các công trình trên địa bàn huyện còn
mang tính hình thức nhằm hợp thức hoá cho các doanh nghiệp địa phương
trúng thầu. Đây cũng là một tồn tại trong quản lý đầu tư xây dựng ở huyện
Phúc Thọ.
2.3.3. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế chủ yếu trong quản
lý đầu tư XDCB bằng nguồn vốn NSNN của huyện Phúc Thọ.:
2.3.3.1. Những hạn chế:
a. Văn bản pháp lý:
- Tính khả thi của một số quy định: Đã có nhiều văn bản ban hành để
điều chỉnh, hướng dẫn hoạt động các chủ thể tham gia vào công tác đầu tư
xây dựng, nhưng trên thực tế tính phù hợp là chưa cao, biểu hiện của nó là
việc vận dụng các văn bản còn lúng túng, nên chưa mang lại hiệu quả như
mong muốn.
- Tính đồng bộ của các văn bản: Việc thiếu đồng bộ giữa các văn bản;
ban hành chưa kịp thời, có nội dung chưa nhất quán. Đây là vấn đề gây rất
Thang Long University Libraty
73
nhiều khó khăn cho người thực hiện, vì vậy để quản lý có hiệu quả cao, thuận
tiện cho người thực hiện, thống nhất quản lý một cách đồng bộ về mặt định
hướng của các văn bản là hết sức cần thiết.
- Tính cụ thể và chi tiết của các văn bản: Các văn bản ban hành thiếu
cụ thể và chi tiết, có biên độ vận dụng lớn gây khó khăn cho CĐT khi thực
hiện chức năng quản lý của mình. Với việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật thiếu tính cụ thể và chi tiết sẽ tạo ra nhiều kẽ hở dẫn đến tính hiệu lực và
hiệu quả các văn bản là rất hạn chế và gây khó khăn cho người thực hiện cũng
như người quản lý.
- Sự thay đổi thường xuyên của các văn bản: Việc điều chỉnh sửa đổi
các văn bản nhiều lần trong thời gian ngắn làm ảnh hưởng đến công tác quản
lý của CĐT (công tác quản lý đơn giá, định mức, quản lý chi phí, ...) cũng
như nhà thầu. Với đặc điểm của các dự án đầu tư xây dựng là có thời gian
thực hiện dài, giá trị lớn trong khi tính ổn định của các văn bản hướng dẫn
thực hiện thấp sẽ có ảnh hưởng xấu đến chất lượng và hiệu quả của các dự án
đầu tư. Do vậy, các nhà hoạch định chính sách khi ban hành các văn bản mới
cần phải có sự phân tích, đánh giá thực trạng và xu hướng phát triển một cách
cụ thể chính xác để nâng cao tính ổn định và hiệu quả của các văn bản pháp
luật.
b. Công tác quản lý đầu tư XDCB:
Mặc dù trong những năm gần đây công tác quản lý Nhà nước về đầu tư
XDCB đã có một số tiến bộ và đạt được những thành quả nhất định... Tuy
nhiên, công tác quản lý đầu tư XDCB nói chung và đầu tư XDCB từ nguồn
vốn NSNN nói riêng còn tồn tại nhiều bức xúc: quy hoạch, kế hoạch đầu tư
chưa đồng bộ, chất lượng chưa cao; quy hoạch, kế hoạch đầu tư theo ngành
chưa gắn chặt với vùng địa phương; một số quyết định chủ trương đầu tư
thiếu chính xác; tình trạng đầu tư dàn trải còn phổ biến; thất thoát lãng phí
74
xảy ra ở nhiều ngành, lĩnh vực, trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư, từ
chủ trương đầu tư, quy hoạch, lập, thẩm định dự án, khảo sát thiết kế đến thực
hiện đầu tư, đấu thầu, nghiệm thu, điều chỉnh tăng dự toán, thanh quyết toán
và đưa công trình vào khai thác sử dụng; nợ tồn đọng vốn đầu tư XDCB ở
mức cao và có xu hướng ngày càng tăng; hiệu quả đầu tư thấp...
Đi sâu vào từng giai đoạn, từng khâu, từng chủ thể của đầu tư XDCB
có thể thấy được còn rất nhiều bất cập, tồn tại cần giải quyết. Cụ thể như sau:
Công tác quy hoạch và chuẩn bị đầu tư còn nhiều hạn chế: Đối với các
dự án quy hoạch mang tính định hướng như quy hoạch phát triển kinh tế xã
hội trong thời gian tới của huyện và các ngành sau khi đã hoàn thành thì ít
được quan tâm sử dụng. Đối với các quy hoạch xây dựng cho các dự án, các
công trình thì chưa được quan tâm đúng mức, trên địa bàn huyện trong thời
gian qua mới chỉ đề cập đến công tác quy hoạch của các khu công nghiệp và
cụm công nghiệp và công tác quy hoạch này nhiều khi được lập sau khi đã
có một số các dự án công trình cụ thể đã được đầu tư như : khu công nghiệp
thị trấn Phúc Thọ...
Công tác phân bổ kế hoạch vốn đầu tư, lập báo cáo kinh tế kỹ thuật,
lập dự án đầu tư còn nhiều hạn chế, nhiều dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật đã
phải điều chỉnh trong quá trình thực hiện: đó là điều chỉnh bổ sung các hạng
mục công trình, công trình trong dự án, thay đổi điều chỉnh tăng tổng mức
đầu tư vì khi lập dự án các chủ đầu tư, các tư vấn thiết kế chưa lường hết
được những công việc phát sinh trong thực tế làm cho quá trình thực hiện
các dự án bị kéo dài... Ngoài ra tình trạng “chạy dự án - lại quả” trong đầu tư
XDCB nói chung và đầu tư XDCB trên địa bàn huyện Phúc Thọ nói riêng
vẫn còn, có những khi nhiều phòng, ban, địa phương muốn ghi kế hoạch vốn
đầu tư từ NSNN vì những lý do ngoài kinh tế. Có khá nhiều trường hợp
người ta vẽ ra hiệu quả tính toán hấp dẫn trong dự án đầu tư để trình cấp trên
Thang Long University Libraty
75
phê duyệt, và cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án vẫn xét duyệt theo đúng
quy chế... Khi công trình đưa vào sử dụng mới lộ rõ những sai sót, thậm chí
gian dối trong tình toán. Tình trạng đầu tư tràn lan vẫn xảy ra, có những
trường hợp nể nang, kể cả ở những cơ quan có trách nhiệm quản lý quy
hoạch và cấp vốn đầu tư xây dựng.
Về công tác giải phóng mặt bằng: Đối với một số dự án đầu tư XDCB
trên địa bàn huyện Phúc Thọ, công tác giải phóng mặt bằng đang thực sự gặp
rất nhiều khó khăn: vốn đền bù giải phóng mặt bằng chiếm tỷ trọng lớn, công
tác giải phóng mặt bằng của nhiều dự án chưa được các chủ đầu tư triển khai
một cách quyết liệt, còn có nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách do liên quan
đến nhiều phòng, ban, thủ tục đền bù giải phóng mặt bằng chưa đồng bộ, giá
đền bù và phương thức đền bù chưa được người dân ủng hộ... điển hình là các
dự án phải sử dụng đất nông nghiệp như thuỷ sản, chăn nuôi, hạ tầng khu
công nghiệp, cụm công nghiệp, các dự án mở rộng đường giao thông...
Về công tác lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán công trình còn
yếu: việc lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán hiện nay đều do chủ đầu
tư thực hiện. Tuy nhiên, đa số các chủ đầu tư, ban quản lý dự án sử dụng vốn
NSNN trên địa bàn huyện Phúc Thọ hầu như không thể tự thực hiện công việc
này. Do đó công việc này được các chủ đầu tư thuê các tổ chức, công ty tư
vấn thiết kế thực hiện. Phí thiết kế dự toán được trích theo tỷ lệ phần trăm của
giá trị xây lắp. Vì thế nhiều tư vấn thiết kế dự toán muốn có quy mô dự án lớn
để nhận thiết kế phí nhiều hơn, dẫn tới thiết kế quá mức an toàn, sử dụng vật
liệu, vật tư quá đắt so với yêu cầu gây lãng phí NSNN, một số công trình thiết
kế kiến trúc chưa đẹp, chỗ thừa, chỗ thiếu phải sửa chữa nhiều lần, không phù
hợp với thực tế gây khó khăn cho công tác lập dự toán và thi công công trình.
Do vậy khi thi công các công trình, hạng mục công trình phải điều chỉnh làm
cho thời gian thi công luôn phải kéo dài chờ đợi các thủ tục để điều chỉnh
76
thiết kế và dự toán.
Công tác đấu thầu, chỉ định thầu còn nhiều bất cập.
2.3.3.2. Nguyên nhân của tồn tại:
Không chỉ riêng ở huyện Phúc Thọ, trên toàn lãnh thổ Việt Nam quản
lý đầu tư XDCB còn vô số những vướng mắc cần giải quyết; thất thoát, lãng
phí NSNN trong đầu tư XDCB vẫn chiếm tỷ trọng lớn; sai phạm trong lĩnh
vực này vẫn đang gia tăng; ... Để có thể giải quyết các tồn tại, hạn chế trong
đầu tư XDCB cần thẳng thắn và nhận thức một cách toàn diện, sâu sắc các
nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế đó. Có thể kể ra một số nguyên
nhân quan trọng và trực tiếp như sau:
* Thứ nhất: Việc chấp hành pháp luật trong đầu tư XDCB chưa
nghiêm, sai phạm xảy ra trong nhiều khâu của quá trình đầu tư dưới nhiều
hình thức khác nhau, đối tượng tham gia vào đầu tư XDCB đa dạng về ngành
nghề và hình thức cho nên rất khó kiểm soát; trong quản lý nhà nước về đầu
tư XDCB cũng còn rất nhiều vấn đề, không ít cán bộ quản lý, điều hành thiếu
trách nhiệm, phẩm chất đạo đức yếu kém, lợi dụng chức trách, nhiệm vụ bớt
xén, tham nhũng... Đây chính là nguyên nhân quan trọng và trực tiếp nhất dẫn
đến hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư XDCB thấp, đặc biệt là đầu tư
XDCB từ NSNN.
* Thứ hai: Do trình độ phát triển kinh tế của Phúc Thọ nói chung còn
thấp; cơ sở vật chất còn thiếu thốn nên tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với GDP
còn hạn hẹp. Khối lượng vốn đầu tư huy động được còn rất hạn chế, không
đáp ứng được nhu cầu đầu tư; hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh
còn thấp. Đầu tư vẫn còn tình trạng dàn trải chưa hợp lý. Chưa xác định chính
xác và tập trung đầu tư cho những ngành sản phẩm mũi nhọn của Phúc Thọ.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài thấp, dịch vụ chất lượng cao còn chậm phát
triển, hiệu quả hạn chế, lĩnh vực tài chính ngân hàng chậm đổi mới, sản xuất
Thang Long University Libraty
77
chưa kịp gắn kết với nhu cầu thị trường, hoạt động của hợp tác xã sau chuyển
đổi còn nhiều lúng túng. .
* Thứ ba: Chưa thực sự làm tốt công tác quy hoạch, quy hoạch không
phù hợp với thực tế, chất lượng quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội thấp, quy
hoạch chủ yếu là để đủ thủ tục phê duyệt dự án dẫn đến thường phải điều
chỉnh quy hoạch khi dự án đi vào thực hiện, việc điều chỉnh, bổ sung quy
hoạch nhiều khi không đúng thẩm quyền.
* Thứ tư: Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chưa thường xuyên,
diện còn rất hẹp, chưa sâu, chất lượng còn hạn chế, báo cáo kết quả thanh tra,
kiểm tra, chưa chỉ rõ trách nhiệm thuộc về ai, xử lý trách nhiệm của tổ chức,
cá nhân vi phạm chưa triệt để và còn kéo dài sau thanh tra, kiểm tra.
* Thứ năm: Văn bản pháp luật về đầu tư XDCB tuy nhiều nhưng chưa
đủ, dàn trải nhưng chưa cụ thể, nhiều quy định nhưng thiếu những chế tài đủ
mạnh để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật về đầu tư XDCB. Cơ chế quản lý
đầu tư xây dựng và tổ chức đầu tư chưa đồng bộ và còn bộc lộ nhiều bất cập.
Trong nhiều năm qua tuy đã xác định được vai trò và vị trí của XDCB nhưng
Đảng ta chưa có nghị quyết riêng về lĩnh vực quan trọng và đặc thù này, mà
thường đặt chung trong lĩnh vực công nghiệp. Đặc biệt là việc đầu tư vốn
trong lĩnh vực XDCB cũng rất khác so với vốn trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp. Mặt khác, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng trong thời gian qua liên
tục thay đổi do những quy định có tính chất pháp lý cao nhất vẫn tạo ra nhiều
khe hở và bất cập dẫn đến tình trạng tỷ lệ thất thoát vốn ngày một gia tăng.
* Thứ sáu: Năng lực của một số chủ đầu tư tuy đã có chuyển biến,
nhưng chưa theo kịp yêu cầu của nhiệm vụ được giao, thiếu những cán bộ có
năng lực, có trình độ chuyên môn, nên triển khai các thủ tục XDCB còn lúng
túng mất nhiều thời gian trong khâu thủ tục hành chính. Một số chủ đầu tư
thiếu tinh thần trách nhiệm, có hiện tượng giao phó bỏ mặc cho đơn vị tư vấn
78
triển khai chuẩn bị dự án. Mặt khác khi nói đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
từ NSNN không thể bỏ qua yếu tố trình độ chuyên môn trong quản lý đầu tư
XDCB. Đây là vấn đề cần quan tâm nhất trong tất cả các khâu của quá trình
đầu tư XDCB.
* Thứ bảy: Chất lượng công tác tư vấn còn thấp. Mặc dù đã có nhiều
biến chuyển nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Hầu hết dự án trình
thẩm định xét duyệt đều phải chỉnh sửa, bổ sung. Nhiều dự án trong quá trình
tổ chức thực hiện “thậm chí chưa khởi công” đã phải phê duyệt điều chỉnh,
dẫn tới kéo dài thời gian triển khai thủ tục chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị phê duyệt
dự án.
* Thứ tám: Môi trường đầu tư trên địa bàn huyện Phúc Thọ chưa thực
sự được cải thiện, cơ chế chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều
bất cập, chưa tạo nên một hành lang pháp lý thông thoáng, tạo điều kiện thuận
lợi góp vốn đầu tư. Mặt khác, do thủ tục hành chính chồng chéo gây cản trở
cho doanh nghiệp và cá nhân trong và ngoài nước góp vốn đầu tư.
Trên địa bàn huyện Phúc Thọ trong thời gian qua, riêng lĩnh vực đầu tư
còn bộc lộ nhiều nhược điểm làm giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế, gây
lãng phí thất thoát vốn đầu tư, làm giảm hiệu quả vốn đầu tư đặc biệt là vốn
đầu tư từ NSNN. Việc phân tích đánh giá một cách đầy đủ về các nguyên
nhân chủ quan, khách quan của những thành công và những hạn chế trong
lĩnh vực đầu tư XDCB từ NSNN sẽ là những căn cứ thực tiễn quan trọng cho
những giải pháp có tính khả thi cao, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư XDCB từ NSNN trên địa bàn huyện Phúc Thọ trong thời gian tới.
Thang Long University Libraty
79
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VỐN NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CỦA
HUYỆN PHÚC THỌ ĐẾN NĂM 2020
3.1. Định hướng và nhu cầu đầu tư XDCB huyện Phúc Thọ từ nay
đến 2020
3.1.1. Định hướng đầu tư XDCB huyện Phúc Thọ giai đoạn từ nay
đến 2020.
Giai đoạn đến 2020, với nhiệm vụ quan trọng của huyện là tiếp tục đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. Vì vậy cần tiếp tục tập trung cao cho đầu tư
XDCB; từng bước hiện đại hoá kết cấu hạ tầng công trình đầu tư XDCB để
thúc đẩy sản xuất tạo tiền đề đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá. Nội dung đầu tư XDCB giai đoạn này là:
- Huy động nguồn lực trong đầu tư XDCB theo quan điểm phát huy nội
lực, động viên, sự tham gia đóng góp của nhân dân với nhiều hình thức đa
dạng, như đóng góp bằng tiền, bằng công sức, vật liệu và hiến đất cho xây
dựng các công trình (mở rộng đường) làm kênh mương, làm trường học, trạm
xá kêu gọi sự hỗ trợ của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, sự đóng góp
xây dựng quê hương của con em trong xã công tác ở các vùng trong cả
nước Đồng thời, sự hỗ trợ ban đầu của ngân sách tạo đà cho việc thực hiện
chương trình.
- Nâng cao tầm nhìn và tính đồng bộ của công tác quy hoạch đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng công trình.
- Xây dựng mục tiêu đầu tư cụ thể cho từng lĩnh vực, trong đó xác định
các công trình đầu tư trọng điểm theo quy hoạch.
- Hoàn thiện đường giao thông đến trụ sở UBND xã và hệ thống giao
80
thông trên địa bàn xã. Đến năm 2020 có 100% số xã đạt chuẩn (các trục
đường xã được nhựa hoá, hoặc bê tông hoá).
- Hoàn thiện hệ thống các công trình đảm bảo cung cấp điện phục vụ
sinh hoạt và sản xuất trên địa bàn xã. Đến năm 2020 có 100% số xã đạt.
- Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn
hoá thể thao trên địa bàn xã, đến năm 2020 có 70% số xã có nhà văn hoá xã,
thôn đạt chuẩn.
- Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ việc chuẩn hoá về y tế
trên địa bàn xã. Đến năm 2020 có 100% số xã đạt chuẩn.
- Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ việc chuẩn hoá về giáo
dục trên địa bàn xã, đến năm 2020 có 100% số xã đạt tiêu chí.
- Hoàn thiện trụ sở và các công trình phụ trợ đến năm 2015 có 100% số
xã đạt tiêu chí.
- Cải tạo, xây mới hệ thống thuỷ lợi trên địa bàn xã. Đến năm 2020 có
100% số xã đạt chuẩn (có 70% kênh cấp 3 trở lên được kiên cố hoá).
3.1.2. Dự báo nhu cầu về vốn đầu tư XDCB của huyện Phúc Thọ giai
đoạn đến 2020
Để thực hiện được mục tiêu kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ
sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ cần phải huy động và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung cũng
như có cơ chế chính sách phù hợp nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư
phát triển, quản lý chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư, chống thất thoát lãng phí.
Trong giai đoạn đến 2020, nhu cầu vốn đầu tư XDCB là 2.700.752 triệu
đồng:
Thang Long University Libraty
81
Bảng 3.1. Dự kiến vốn đầu tư huy động
Đơn vị: Triệu đồng
Hạng mục 2013 - 2020 % cơ cấu vốn
Tổng nhu cầu vốn đầu tư 2.700.752 100
Ngân sách thành phố 965.125 36
Ngân sách huyện 1.585.376 59
Ngân sách xã 150.251 6
(Nguồn: Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Phúc Thọ)
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý vốn NSNN đầu tư XDCB của
huyện phúc thọ giai đoạn từ nay đến 2020
3.2.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch huy động vốn đầu tư XDCB
- Quy hoạch cho đầu tư XDCB là một trong những nội dung cơ bản và
là bước đi đầu tiên, quan trọng, là điều kiện tiên quyết, là cơ sở cho đầu tư
xây dựng các công trình. Do đó, để đầu tư XDCB đạt hiệu quả thì công tác lập
quy hoạch xây dựng NTM cần được quan tâm đặc biệt. Khi công tác quy
haọch được chú trọng đúng mức sẽ tạo ra sự thống nhất giữa quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng hạ tầng và quy hoạch sử
dụng đất; gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng,
ngành và địa phương. Đồng thời, quy hoạch là một công cụ chủ yếu để quản
lý, xây dựng công trình theo hướng văn minh, hiện đại. Quy hoạch chính xác,
khoa học, càng bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Quy hoạch XDCB
được thực hiện tại đơn vị hành chính cơ sở là cấp xã.
- Khi nói đến việc quy hoạch, kế hoạch cần phải xét về mặt tổ chức
không gian tổng thể của cơ cấu hạ tầng, không gian lãnh thổ trong vùng. Quy
hoạch kết cấu hạ tầng là đối tượng quy hoạch lãnh thể và quy hoạch vùng ở
từng địa phương. Bởi vậy, công tác quy hoạch sẽ gắn liền với trách nhiệm cao
82
của UBND các cấp về công tác quy hoạch hạ tầng của địa phương mình.
- Yêu cầu cơ bản đối với quy hoạch không gian tổng thể chính vì lẽ đó
toàn xã gồm:
+ Quy hoạch không gian tổng thể toàn xã cần nghiên cứu các phương
án cơ cấu tổ chức không gian, lựa chọn giải pháp phù hợp với điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội và hiện trạng của xã. Quy hoạch không gian tổng thể
toàn xã là căn cứ để triển khai các quy hoạch sản xuất, quy hoạch hạ tầng kinh
tế - xã hội và quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn.
+ Quy hoạch không gian tổng thể toàn xã xác định hướng tổ chức hệ
thống các công trình công cộng, bảo tồn công trình văn hoá lịch sử, xác định
vị trí, quy mô, định hướng kiến trúc cho các công trình công cộng cấp xã; các
khu vực có tính đặc thù khác.
+ Quy hoạch không gian tổng thể toàn xã xác định hướng tổ chức hệ
thống khu dân cư mới và cải tạo thôn xóm cũ: Xác định quy mô dân số, chỉ
tiêu đất cho từng nhóm hộ, quy mô chiếm đất và nhu cầu đất của toàn thôn.
Đối với vùng nhiều sự cố thiên tai cần cảnh báo và nêu rõ các giải pháp phòng
chống cho người và gia súc.
+ Quy hoạch không gian tổng thể toàn xã xác định hướng tổ chức hệ
thống các công trình hạ tầng kỹ thuật toàn xã kết nối các thôn với vùng sản
xuất, với trung tâm xã và vùng liên xã (gồm hạ tầng phục vụ sản xuất và phục
vụ đời sống).
- Để làm tốt công tác quy hoạch huyện Phúc Thọ cần tập trung vào
những vấn đề chủ yếu sau:
Một là, đẩy mạnh việc gắn kế hoạch với quy hoạch xây dựng nhằm thu
hút vốn đầu tư XDCB, nhà ở đất đai, bảo vệ môi trường, đặc biệt phải quy
hoạch nông thôn theo hướng đô thị hoá. Tức là trong quy hoạch đảm bảo phân
bố công trình kết cấu hạ tầng phù hợp với phân bố mật độ sản xuất và dân cư.
Thang Long University Libraty
83
Cần xây dựng chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư và giải pháp vốn cho
công tác khảo sát, quy hoạch và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị. Đây là
một trong những giải pháp sẽ tạo điều kiện huy động được nhiều nguồn vốn
đầu tư XDCB trên địa bàn huyện.
Hai là, quy hoạch hoàn chỉnh các hạng mục hạ tầng xã hội trên toàn
địa bàn huyện. Khi có một quy hoạch, kế hoạch phù hợp với các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội sẽ góp phần đẩy mạnh sản xuất, giảm bớt chi phí,
giá thành và tăng khả năng phục vụ của hạ tầng kỹ thuật cho sản xuất và đời
sống sinh hoạt của nhân dân. Để nâng cao mức sống của nhân dân, các mục
tiêu phải được cụ thể hoá hơn khu xác định tỷ lệ cân đối cho từng hạ tầng
công trình của toàn huyện và từng địa phương xã, thị trấn.
Ba là, nâng cao chất lượng lập và giao kế hoạch vốn đầu tư XDCB từ
NSNN.
- Việc lập và giao kế hoạch vốn đầu tư phải đảm bảo đúng quy định của
Nhà nước. Giao kế hoạch vốn đầu tư phải gắn với nhu cầu thực tế của công
trình phù hợp với tiến độ thi công của các hạng mục công trình, tránh tình
trạng cấp phát vốn tràn lan dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn không cao. Việc
giao kế hoạch vốn tràn lan thừa so với yêu cầu vốn để thực hiện xây dựng
công trình đó, nhưng lại thiếu vốn cho công triìn khác, qua đó dẫn đến tình
trạng chỗ thiếu chỗ thừa, nơi thì thất thoát vốn. Nghiêm cấm việc ứng vốn nợ
khối lượng dẫn đến quản lý vốn không chặt chẽ. Đây là hiện tượng xin ứng
vốn trước vốn khi mà khối lượng công triìn thực hiện chưa đảm bảo, chưa
thực hiện nghiệm thu.
- Công tác giao kế hoạch vốn đầu tư có thể theo hướng cụ thể như sau
để đảm bảo vốn cho các công trình có thể thực hiện theo đúng tiến độ: Dành
40% để thanh toán nợ XDCB hoàn thành; dành 45% để phân bổ cho các công
trình chuyển tiếp; dành 15% để phân bổ cho các công trình mới đã đủ thủ tục
84
đầu tư theo quy định. Đảm bảo đủ vốn để hoàn thành công trình nhóm C
trong 3 năm công trình nhóm B trong 5 năm kể từ khi khởi công.
Bốn là, đẩy mạnh công tác thông tin và xúc tiến đầu tư. Sau khi quy
hoạch XDCB và các kế hoạch đầu tư XDCB của xã được cấp có thẩm quyền
thông qua, thì việc làm tiếp theo là cần phải coi trọng công tác thông tin tuyên
truyền rộng rãi về các quy hoạch và kế hoạch đó. Đặc biệt, cần lập danh mục
dự án kêu gọi đầu tư với nội dung cụ thể để tổ chức xúc tiến đầu tư (vận động
theo từng dự án và hướng tới từng nhóm đối tác, tiềm năng có lực chọn, định
hướng phù hợp).
- Công khai, minh bạch, tăng cường công tác giám sát, tham gia của cộng
đồng với quy hoạch, kế hoạch. Các báo cáo quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm cần có sự tham gia của
các tầng lớp dân cư nhằm tập hợp trí tuệ tập thể, hạn chế sai sót. Công khai bản
đồ quy hoạch để chủ đầu tư dễ dàng tiếp cận, sử dụng trong quá trình lập dự án
đầu tư XDCB.
- Gắn trách nhiệm kinh tế, chính trị với chất lượng quyết định phê duyệt
quy hoạch của người có thẩm quyền: cách chức, đền bù vật chất, hoặc thậm chí
truy cứu trách nhiệm hình sự tuỳ từng hậu quả của mỗi dự án đầu tư xây dựng;
xoá bỏ tư tưởng làm quy hoạch theo nhiệm kỳ, theo ý đồ cá nhân, cục bộ của
người có thẩm quyền.
- Ngân sách huyện cố gắng bố trí đủ cho công tác lập quy hoạch, kế
hoạch. Chủ trương đầu tư đối với mỗi dự án xây dựng cơ bản là đúng hay sai
phụ thuộc vào chất lượng công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch xây dựng. Vì vậy, chính quyền địa phương cần bố trí hợp lý vốn NSNN
cho công tác quy hoạch, kế hoạch. Đội ngũ cán bộ tham gia vào công tác quy
hoạch, kế hoạch đều phải nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác quy
hoạch, kế hoạch nhằm tránh tình trạng vốn NSNN không giải ngân được vì
Thang Long University Libraty
85
không có khối lượng công tác quy hoạch hoàn thành.
Năm là, thực hiện tiến độ các công trình XDCB. Trước mắt, tập trung rà
soát, đánh giá các dự án phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng (như: giao thông,
điện, thuỷ lợi). Triển khai lập danh mục các dự án ưu tiên đầu tư; tập trung
nguồn lực để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng.
- Tiến hành rà soát, kiểm tra, xác minh các khoản nợ đọng vốn đầu tư
xây dựng, trên cơ sở đó bố trí nguồn vốn để thanh toán dứt điểm đối với các
công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng chưa được thanh toán. Kho
bạc nhà nước cần thường xuyên chuẩn bị, sẵn sàng các nguồn vốn để có thể
thanh toán ngay khi khối lượng XDCB hoàn thành đủ điều kiện thanh toán,
đảm bảo tiến độ công trình.
Sáu là, tăng cường năng lực quản lý cho chính quyền, cán bộ chuyên
môn trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước, tham gia lập nhiệm vụ thiết kế
và phê duyệt quy hoạch, quản lý xây dựng theo quy hoạch; quản lý nhà đất; quản
lý đầu tư và xây dựng; quản lý khai thác sử dụng các công trình đô thị.
3.2.2. Tăng cường tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền
địa phương về công tác đầu tư XDCB
Để việc đầu tư XDCB đạt kết quả tốt, trước tiên phải làm tốt công tác
tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, tạo được sự thống nhất cao về nhận thức
trong đảng, trong nhân dân các xã về quan điểm, nội dung, phương pháp, cách
làm, cơ chế chính sách của Nhà nước về xây dựng cơ bản, để cả hệ thống
chính trị ở cơ sở và mỗi người dân hiểu rõ, từ đó đồng tâm, chung sức, tạ
giác, chủ động tham gia.
Đầu tư XDCB có sự tham gia trực tiếp của người dân với vai trò chủ
thể và các tầng lớp, các tổ chức xã hội. Việc đó sẽ bảo đảm một không gian
kinh tế, văn hoá, xã hội ổn định, môi trường sinh thái bền vững.
Sự chủ động, sáng tạo của các địa phương, từ lãnh đạo các cấp, các
86
ngành đến quần chúng là yếu tốt quyết định cho sự thành công. Cần có sự chỉ
đạo tập trung, sâu sát, cụ thể, thường xuyên kiểm tra đôn đốc và thu hút được
sự tham gia chủ động, tích cực của cả hệ thống chính trị và nhân dân trên địa
bàn. Cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trên Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở
phải xem đây là một nhiệm vụ chính trị quan trọng và thường xuyên của
mình. Trên cơ sở mục tiêu, nội dung chung của chương trình, các cơ chế
chính sách chung của Nhà nước, mỗi địa phương phải căn cứ vào đặc điểm,
lợi thế và yêu cầu bức thiết của người dân, cần phát huy dân chủ rộng rãi, tiếp
thu ý kiến của nhân dân, có cách làm chủ động, sáng tạo, lựa chọn những nội
dung bức thiết cần làm trước, cần tập trung đầu tư, những nội dung có thể làm
sau, cách thức huy động nguồn lực tổng hợp.
3.2.3. Huy động các nguồn lực đầu tư XDCB
Nhu cầu vốn đầu tư XDCB là rất lớn, vì vậy, cần huy động đa dạng vốn
đầu tư từ các nguồn, nhưng theo tư tưởng chung là phát huy nội lực của địa
phương là chính, khai thác các nguồn thu tại chỗ từ giao đất có thu tiền sử
dụng đất, đấu giá quyền sử dụng đất để tạo vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng.Giải pháp thu hút vốn từ NSNN chủ yếu là tăng nguồn thu ngân sách (tăng
nguồn thu thuế, thu phí, nguồn thu từ quỹ sử dụng đất) và thực hiện tiết kiệm
chi ngân sách nhằm tạo ra nguồn vốn cho đầu tư XDCB. Chính vì vậy, cần
phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động tăng cường ý thức trách nhiệm
của người dân về nghĩa vụ nộp thuế và có những biện pháp, chế tài nghiêm
khắc đối với những hành vi trốn lậu thuế. Tuy nhiên cần coi trọng giải quyết
hài hoà về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội khi ban hành
các chính sách, chế độ động viên vào NSNN thông qua thuế và phí. Đây là một
nguồn thu lớn nếu làm tốt sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc thu hút và sử dụng
vốn cho đầu tư XDCB của huyện.
Thang Long University Libraty
87
3.2.4. Nâng cao năng lực bộ máy và cán bộ quản lý vốn đầu tư
XDCB.
- Đổi mới tổ chức bộ máy và xác định chức năng quản lý của các cơ
quan chuyên trách và phối hợp, đảm bảo sự phối kết hợp chặt chẽ, nhịp
nhàng, thống nhất giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện chức
năng quản lý, hạn chế thấp nhất những chồng chéo, lấn sân lẫn nhau.
- Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý vốn đầu tư XDCB; chú trọng
công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý. Cần trang bị cho đội ngũ
cán bộ quản lý đầy đủ kiến thức về lý thuyết và thực tiễn về quản lý, vừa có kiến
thức về xã hội vừa có kiến thức về kinh tế, kỹ thuật; đồng thời có phẩm chất đạo
đức tốt; phân bổ hợp lý nguồn cán bộ quản lý phù hợp với trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ
Để thực hiện nội dung này, cần phải rà soát lại đội ngũ cán bộ, công
chức hiện có, kiên quyết xử lý những cán bộ yếu về năng lực, kém về phẩm
chất đạo đức; đồng thời có kế hoạch cụ thể về tuyển dụng, đào tạo và đào tạo
lại, bố trí sắp xếp hợp lý đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy QLNN. Tăng
cường hơn nữa đội ngũ cán bộ quản lý và làm công tác chuyên môn trên các
lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng.
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với vốn đầu tư
XDCB.
Một là, nâng cao chất lượng công tác thanh tra của các cơ quan thanh tra.
- Nâng cao chất lượng thanh tra, tránh nể nang, khép kín, thiếu khách
quan khi thực hiện thanh tra các dự án XDCB do chính nội bộ ngành thực
hiện. Có chế tài xử lý nghiêm đối với trưởng đoàn thanh tra và thanh tra viên
trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thanh tra nếu có hành vi dung túng cho các sai
phạm.
- Tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm
88
tra của các cơ quan thanh tra, từ đó nâng cao công tác thanh tra. Uỷ ban nhân
dân huyện cần phải kiện toàn lực lượng thanh tra, kiểm tra công tác đầu tư
xây dựng đủ mạnh, có chuyên môn nghiệp vụ và là những chuyên gia giỏi của
các lĩnh vực đầu tư xây dựng cán bộ phải có phẩm chất đạo đức có uy tín và
trung thực.
Hai là, phát huy vai trò giám sát của cộng đồng
- Các xã, thị trấn cần thực hiện nghiêm túc các quy định về công khai,
minh bạch hoạt động tại các dự án đầu tư XDCB của mình. Xử lý vi phạm
hành chính đối với các chủ đầu tư và nhà thầu không treo biển báo hoặc biển
báo thiếu thông tin theo quy định của Luật Xây dựng năm 2014có hiệu lực từ
1/1/2015, đạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giám sát của mọi tầng lớp
dân cư.
- Cơ quan mặt trận Tổ quốc chỉ đạo ban thanh tra nhân dân xã, thị trấn
tuyên truyền vận động các tổ chức, công dân tham gia giám sát việc triển khai
thực hiện các dự án đầu tư XDCB.
- Có cơ chế khuyến khích, khen thưởng và bảo vệ, đề cao vai trò giám
sát của cộng đồng (đại diện là Mặt trận Tổ quốc), các đoàn thể, hiệp hội, các
cơ quan báo chí đối với hoạt động tại các dự án đầu tư XDCB, nhằm phát
hiện, ngăn chặn, phòng, chống, tham nhũng, thất thoát, lãng phí ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý vốn
đầu tư XDCB.
Ba là, tăng cường hoạt động giám sát các dự án đầu tư XDCB
Luật NSNN cũng như các văn bản pháp quy có liên quan đến đầu tư từ
nguồn vốn NSNN đã quy định rất chặt chẽ quy trình, cơ chế quản lý đầu tư từ
khâu lập kế hoạch, xét duyệt, thẩm định kế hoạch, dự án đến khâu cấp phát
quản lý vốn và quyết toán. Nói chung quy trình thủ tục đại bộ phận các cơ
quan đơn vị liên quan đều tuân thủ một cách nghiêm ngặt, nhưng nhiều khi
Thang Long University Libraty
89
còn mang tính chất hình thức, đầu tư còn dàn trải theo cảm tính, thất thoát còn
lớn, hiện tượng tiêu cực, tham nhũng còn xẩy ra, nguồn vốn NSNN chưa
được sử dụng có hiệu quả. Do đó, cần hoàn thiện cơ chế giám sát vốn đầu tư
từ NSNN như sau:
- Tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp theo
hướng: có kế hoạch giám sát thường xuyên hàng năm theo nhiệm kỳ Hội
đồng nhân dân, kết hợp giám sát định kỳ với giám sát đột xuất đối với một số
dự án trọng điểm của Huyện, giám sát hoạt động tại các dự án đầu tư XDCB
trong những trường hợp cụ thể nhằm tạo ra yêu cầu, áp lực cao cho các cơ
quan chức năng trong quá trình thực thi quản lý vốn đầu tư XDCB.
- Tăng cường chế độ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư gắn trách nhiệm
của người có thẩm quyền với trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo giám sát,
đánh giá đầu tư tại các phòng, ngành. Quy định trách nhiệm cá nhân đối với
người có thẩm quyền quyết định đầu tư, xử lý kỷ luật đồng thời xử phạt hành
chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư nếu không chấp hành nghiêm túc chế
độ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư. Việc thực hiện nghiêm túc chế độ báo
cáo giám sát, đánh giá đầu tư giúp các phòng, ngành phân tích đánh giá đúng
tình hình đầu tư XDCB nhằm có phương án chỉ đạo điều hành một cách phù
hợp, để sửa đổi, bổ sung kịp thời cơ chế, chính sách quản lý đối với lĩnh vực
này.
90
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trên cơ sở phương pháp luận chung duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: Thống kê, tổng hợp, phân
tích so sánh để nghiên cứu làm rõ vấn đề liên quan đến quản lý vốn NSNN
trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản của huyện Phúc Thọ, luâṇ văn với đề
tài : “Hoàn thiện công tác quản lý vốn ngân sách nhà nước đầu tư xây
dựng cơ bản của huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội” đã đạt được những
kết quả cụ thể như sau:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận chung nhất về quản lý vốn đầu tư
xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn NSNN.
- Đánh giá thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn NSNN
giai đoạn 2010 - 2014 của huyện Phúc Thọ.
- Đề xuất giải pháp tăng cường quản lý vốn ngân sách nhà nước cho
đầu tư xây dựng cơ bản của huyện Phúc Thọ giai đoạn từ nay đến 2020.
Trong phaṃ vi nghiên cứu của đề tài, do kiến thức, thời gian và kinh
nghiêṃ còn haṇ chế, luâṇ văn không tránh khỏi những sai sót, rất mong đươc̣
sư ̣đóng góp ý kiến của các Thầy, Cô giáo và những nhà chuyên môn để luâṇ
văn đươc̣ hoàn thiêṇ hơn.
Trong quá trình nghiên cứu và thưc̣ hiêṇ đề tài, tác giả xin đươc̣ trân
troṇg gửi lời cảm ơn đến các Thầy, Cô giáo, các đồng nghiêp̣, các chuyên gia
và baṇ bè đã giúp đỡ tôi hoàn thành luâṇ văn này. Đăc̣ biêṭ xin gửi lời biết ơn
sâu sắc đến giáo viên hướng dâñ – Thầy PGS.TS Nguyễn Văn Áng đã hướng
dâñ, giúp đỡ em rất nhiêṭ tình và tâṇ tâm trong suốt quá trình thưc̣ hiêṇ luâṇ
văn này.
Xin trân troṇg cảm ơn!
Thang Long University Libraty
TÀI LIÊỤ THAM KHẢO
[1] Các văn bản báo cáo hàng năm (2010-2015) của Thành ủy – HĐND –
UBND Thành phố Hà Nội và Huyện uỷ - HĐND – UBND huyện Phúc
Thọ về Kinh tế - Xã hội – ANQP – CCHC – Xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị.
[2] Luâṭ Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Quốc
hôị.
[3] Luâṭ Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Quốc
hôị.
[4] Luâṭ sửa đổi bổ sung môṭ số điều của các luâṭ liên quan đến đầu tư xây
dưṇg cơ bản số 38/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 của Quốc hôị
[5] Luâṭ Xây dưṇg số 16/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc
hôị.
[6] Nghị định 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính Phủ về quản lý
chất lượng công trình.
[7] Nghi ̣điṇh số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 của Chính phủ về quản
lý chi phí đầu tư đầu tư xây dưṇg công trình.
[8] Nghi ̣điṇh số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 và đươc̣ sửa đổi, bổ sung
môṭ số điều taị Nghi ̣ điṇh số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của
Chính phủ về quản lý dư ̣án đầu tư xây dưṇg công trình.
[9] Nghi ̣ điṇh số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của Chính phủ về hơp̣
đồng trong hoaṭ đôṇg xây dưṇg.
[10] Nghi ̣ điṇh số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ Hướng
dâñ thi hành Luâṭ Đấu thầu và lưạ choṇ nhà thầu xây dưṇg theo Luâṭ
Đấu thầu.
[11] Quyết định số 09/2012/QĐ-UBND ngày 21/05/2012 của UBND Thành
phố Hà Nội thay thế Quyết định số 37/2010/QĐ-UBND ngày 20/8/2010
ban hành qui định một số nội dung về quản lý đầu tư và xây dựng đối với
các dự án đầu tư trên địa bàn Thành phố Hà Nội
[12] Quyết định số 37/2010/QĐ-UBND ngày 20/8/2010 của UBND Thành
phố Hà Nội ban hành qui định một số nội dung về quản lý đầu tư và xây
dựng đối với các dự án đầu tư trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
[13] Lê Văn Thiṇh, Nguyêñ Viêṭ Hùng, Nguyêñ Kim Thuâṇ, Nguyêñ Huy
Thanh, Vũ Văn Liên (2010), Tài liêụ nghiêp̣ vu ̣quản lý dư ̣án đầu tư xây
dưṇg công trình, Công ty cổ phần đào taọ tư vấn đấu thầu và phát triển
doanh nghiêp̣ Viêṭ Nam, Hà Nôị.
[14] Thông tư số 04/2010/TT-BXD của Bô ̣Xây dưṇg hướng dâñ lâp̣ và quản
lý chi phí đầu tư xây dưṇg công trình.
[15] Thông tư số 19/2011/TT-BTC ngày 14/02/2011 của Bộ Tài Chính quy
định quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn nhà nước.
[16] Thông tư số 27/2009/TT-BXD ngày 31/7/2009 của Bô ̣Xây dưṇg hướng
dâñ môṭ số nôị dung về quản lý chất lươṇg công trình xây dưṇg.
[17] Uỷ ban nhân dân huyện Phúc Thọ (2010-2014), Báo cáo quyết toán ngân
sách các năm 2010-2014..
[18] Phaṃ Văn Vaṇg (2012), Giáo trình quản tri ̣dư ̣án đầu tư, Hà Nôị.
[19] Trang thông tin điêṇ tử Bô ̣Kế hoac̣h và đầu tư, Bô ̣Xây dưṇg, Bô ̣Tài
chính, Tổng cuc̣ thống kê,
Thang Long University Libraty
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50_1061_8605.pdf