Hoạt động cho thuế tài chính mới ra đời tuy có khả năng loại trừ rủi ro
lớn hơn hoạt động tín dụng ngân hàng và được xem là một trong những kênh
dẫn vốn hiệu quả nhưng cũng không thể không chú trọng công tác thẩm định
tài chính dự án. Thực hiện tốt công tác này một mặt tạo đà rất lớn cho sự phát
triển riêng của nghiệp vụ cho thuê tài chính, mặt khác thúc đẩy mạnh hoạt
động đầu tư trong nền kinh tế, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của
đất nước.
87 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2395 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dựán tại công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng nông nghiệp & Phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
= rtt x Grt x N1 (đ/cảng)
Tại Cảng Hải Phòng
1.275 đồng x 2.016 = 2.570.400 đ/Cảng
Tại Cảng Sài Gòn:
1.275 đồng x 2.500 = 2.570.400 đ/Cảng
Tại Cảng Thanh Hoá:
1.000 đồng x 2.016 = 2.015.000 đ/Cảng
Vậy trọng tải phí 01 năm là:
Rtt = (2.570.400đ + 2.570.400đ + 2.016.000đ) x 16 lượt =
114.508.800đ/năm
* Phí bảo đảm hàng hải
Là khoản tiền mà chủ tàu cho Cảng khi tàu ra, vào Cảng đi qua luồng
để Cảng đầu tư cho nạo vét luồng lạch, đèn đảo, phao tiêu và được xác định
như sau:
Rbd = GRT x Đơn giá phí tại Cảng
Phí bảo đảm hàng hải tại Hải Phòng, Sài Gòn, Thanh Hoá 01 năm là:
1.950 đ/cảng x 2.016 GRT x 16 x 3 = 188.697.600 đồng/năm
Vậy phí bảo đảm hàng hải tàu phải chịu trong 01 năm là:
Rbd = 188.697.600 đồng/năm
* Phí hoa tiêu
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
56
Là khoản tiền mà chủ tàu trả cho Cảng khi tàu ra, vào đi qua luồng để
Cảng đầu tư nạo vét luồng lạch, đèn đảo, phao tiêu được xác định theo công
thức:
Rht = Rht x Grt x L x N1
Như vậy, phí hoa tiêu tại Cảng Hải Phòng (19 hải lý) 01 năm của tàu là:
Rht = 19 x 43,65 đ x 2,016 x 2 x 16 = 53.503.027 đồng
Phí hoa tiêu tại Cảng Sài Gòn 01 năm của tàu là:
Rht = 50 x 40đ x 2.016 x 2 x 16 = 129.024.000 đồng
Vậy hoa tiêu 01 năm tàu phải trả là:
Rht = 53.503.027 + 129.024.000 = 182.527.027 đồng/năm
* Phí buộc cởi dây
Là khoản tiền chủ tàu phải trả cho Cảng khi thuê công nhân cảng buộc
cởi dây khi tàu cập cầu hoặc dời cầu.
Rbc = rbc x N1 (đ/cảng)
Trong đó:
Rbc : là đơn giá buộc cởi dây phụ thuộc vào loại tàu, vị trí buộc cởi dây
(ở cầu hoặc ở phao).
Vậy buộc cởi dây 01 năm tại Cảng Hải Phòng và Sài Gòn, Thanh
Hoá là:
Rbc = 33 USD x 3 x 16 = 1.584 USD/năm =23.760.000 đồng/năm
* Phí cầu tàu
Khi tàu cập cầu, buộc vào phao hay neo tại vùng, vịnh đều phải trả.
Như vậy phí này phụ thuộc vào vị trí tàu đậu.
Ở đây ta tính trường hợp cập cầu. Phí này tính theo công thức:
Rct = rct x Grt x t (đ/Cảng)
Trong đó:
Rct : đơn giá phí tại cầu
T: thời gian tàu đậu tại cầu tàu
Chi phí cầu tàu tại cảng Hải Phòng, Sài Gòn và Thanh Hoá 01 năm là:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
57
Rct = 12,5 đ/GRT/h x 2.016 GRT x 24h x 194 ngày = 117.331.200
đồng/năm
* Vệ sinh hầm hàng
Là khoản chi phí mà chủ tầu phải trả cho công nhân cảng khi thuê họ
quét dọn vệ sinh hầm hàng khi tàu dỡ xong hàng. Phí này được tính theo công
thức:
Rvs = rvs x nh (đ/chuyến)
Rvs: Đơn giá vệ sinh hầm hàng (đ/hầm)
nh: Số hầm tàu
Tại cảng Hải Phòng
Rvs : 495.000 (đ/hầm) x 8 (hầm) x 16 (chuyến) = 63.360.000 (đ/năm)
Tại cảng Sài Gòn
Rvs : 495.000 (đ/hầm) x 8 (hầm) x 16 (chuyến) = 63.360.000 (đ/năm)
Vậy phí vệ sinh 01 năm tàu phải chịu là :
Rvs = 63.360.000 x 2 = 126.720.000 đồng/năm
* Phí cung cấp nước ngọt
Được tính khi tàu nhận cung cấp nước ngọt của Cảng và các đơn vị
khác được tính theo công thức:
Rnn = Rnn x Qnn (đ/chuyến)
Trong đó:
Rnn : đơn giá nước ngọt
Qnn : Khối lượng nước ngọt cần phải cung cấp
Theo định mức tiêu thụ của thuyền viên trên tàu và công suất nồi hơi
của tàu trong 01 ngày
- Nước dùng cho sinh hoạt phí phụ thuộc vào tàu: 0,12 (tấn/người) x 20
người
- Nước cho nồi hơi: 0,7 tấn/ngày
- Nước cho máy chính và máy đèn: 0,7 tấn/ngày
- Nước rửa ca bin: 0,3 tấn/ngày
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
58
Vậy chi phí nước ngọt là:
Rnn = 4 tấn/ngày x 22.000 đ/tấn x 290 ngày = 25.520.000đ/năm
* Phí giao nhận hàng hoá
Là khoản phí chủ tàu phải trả khi thuê nhâ viên giao nhận kiểm đếm
hàng hoá khi nhận hoặc giao hàng.
Ở đây ta chỉ tính phí nhận hàng hoá cho chủ tàu theo công thức:
Rgn = rgn x Q (đ/ngày)
Trong đó:
Rgn : Đơn giá kiểm đếm giao nhận hàng (đ/tấn). Nó phụ thuộc vào loại
hàng
Q: Khối lượng hàng cần kiểm đếm (tấn)
Vậy chi phí giao nhận hàng 01 năm là:
1.325 (đ/tấn) x 3.500 (tấn/chuyến) x 16 = 74.200.000 (đ/năm)
1.325 (đ/tấn) x 3.000 (tấn/chuyến) x 16 = 63.600.000 (đ/năm)
* Đại lý phí tàu biển
Là khoản phí chủ tàu phải trả cho Đại lý tàu biển khi tàu ra vào Cảng
phải làm thủ tục cần thiết.
Đối với tàu 2016 GRT thì giá thủ tục phí là 1.000.000đ/Cảng
Do đó một năm tàu phải chi phí hết:
Rđl = 1.000.000đ/cảng x 3 cảng x 16 chuyến = 48.000.000đ
* Phí đổ rác:
Theo quy định thì tàu biển đỗ tại cầu, vũng, vịnh phải đổ rác tối thiểu
01 lần trong 02 ngày và trả tiền một lần đổ rác theo đơn giá đỗ tại cầu là:
200.000 (đ/tầu)
Rđr = 200.000 (đ/tàu) x 5 (lần/chuyến) x 16 chuyến = 16.000.000
(đ/năm)
* Chi phí vật rẻ mau hỏng
Trong quá trình khai thác các dụng cụ, vật liệu bị hao mòn, hư hỏng,
hàng năm phải mua sắm để trang bị cho tàu hoạt động bình thường. Các loại
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
59
vật liệu, vật rẻ mau hỏng bao gồm: Sơn, dây neo… chi phí này lập theo kế
hoạch dự toán nó phụ thuộc vào từng tàu.
Chi phí vật rẻ mau hỏng cho chuyến đi 01 năm là:
Rvr = 0,2% x 27.107.374.019 đ = 54.214.748 đồng/năm (3.8)
* Khấu hao sửa chữa lớn
Trong quá trình sử dụng, tàu bị hư hỏng cho nên phải sửa chữa để thay
thế những bộ phận hỏng đó. Chi phí để dùng cho sửa chữa lớn đại tu và trung
tu gọi là khấu hao sửa chữa lớn. Chi phí này phụ thuộc vào tuổi tàu, thời gian
khai thác trong năm và vùng tàu khai thác.
Khấu hao sửa chữa lớn hàng năm của tàu mới đóng hoạt động tuyến
Đông Nam Á (tính trung bình mỗi năm) là: Rkhscl = i% x Kt
Rkhscl = 2% x 27.107.374.019 đ = 516.586.610 đồng (3.9)
* Chi phí sử dụng vốn
- Tổng lãi thuê tài chính dự kiến 5 năm = 6.605.626.505đ
Lãi bình quân 1 năm là:
Rlv = 6.605.626.505 đ/5 năm = 1.321.125.301 đồng/năm (3.10)
Như vậy:
Tổng chi phí khai thác tàu trong 1 năm gồm cả lãi vay vốn (lãi thuê tài
chính) (từ 3.1 3.10) = 9.374.082.701 đồng/năm.
Hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư
- Tổng doanh thu: 14.160.000.000
- Thuế GTGT (5%): 674.285.714đ
- Doanh thu thuần: 13.845.714.286đ
- Tổng chi phí: 9.374.082.701đ
- Lợi nhuận trước thuế: 4.111.631.584 đ
- Thuế TNDN (28%): 1.151.256.843đ
- Lợi nhuận ròng: 2.960.374.741đ
Kỳ hoàn vốn đầu tư
= Error!
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
60
= Error! = 4,89 năm = 5 năm
Để dự phòng về thời gian sửa chữa tàu định kỳ và những rủi ro bất khả
kháng như sửa chữa, mưa, bão kéo dài…, theo đề nghị của khách hàng, thời
hạn xin thuê 05 năm là hợp lý.
Hiệu quả kinh tế, xã hội:
Tạo việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu cho doanh nghiệp,
tăng nguồn thu cho NSNN địa phương.
d) Nguồn vốn dùng để trả nợ
- Từ nguồn vốn khấu hao tài sản cố định thuê tài chính:
2.582.933.049đ/năm
- Lợi nhuận của dự án: 2.960.374.741 đ/năm
- Lãi thuê tài chính đã được dự tính trong chi phí: 1.321.125.301 đ/năm
e) Kế hoạch thuê và trả nợ:
- Thời gian thuê: 05 năm (60 tháng)
- Phân kỳ trả nợ: 20 kỳ
Trong đó:
+ Thời gian ân hạn: 2 kỳ (trả lãi 03 tháng/1 kỳ)
+ Sau thời gian ân hạn: 18 kỳ (trả nợ theo quý - 03 tháng/01 kỳ)
- Lãi suất cho thuê: 1,00%/tháng (3,03%/quý)
- Kế hoạch thu nợ gốc và lãi tiền thuê:
+ Thu nợ gốc theo quý (03 tháng/1 kỳ)
+ Thu lãi tiền thuê theo quý (03 tháng/1 kỳ).
f) Các hình thức đảm bảo hợp đồng cho thuê tài chính:
Số tiền đặt cọc: 9.382.629.525 đồng, Tỷ lệ: 35 % giá trị tài sản cho thuê
Số tiền ký cược: 600.000.000 đồng, Tỷ lệ: 2% giá trị tài sản cho thuê
Hình thức khác: 0 đồng
g) Bảo hiểm tài sản thuê
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
61
Tài sản cho thuê được bảo hiểm tại một công ty bán bảo hiểm. Phí bảo
hiểm được nộp tại công ty bảo hiểm đó, mức phí bảo hiểm theo thoả thuận
giữa Bên thuê với cơ quan bảo hiểm.
i) Đánh giá chung về dự án:
Dự án đầu tư có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn đảm bảo trả nợ tiền
thuê phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp
với định hướng phát triển kinh doanh của Công ty và địa phương nơi doanh
nghiệp hoạt động.
2.3. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI
CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH I
2.3.1. Những kết quả đạt được
Công ty cho thuê tài chính I thông qua việc thẩm định tài chính dự án
đã có được những quyết định chính xác trong việc lựa chọn hay loại bỏ những
dự án. Mặc dù vẫn có những hợp đồng bị huỷ ngang và tài sản thuê phải thu
về trước thời hạn nhưng đó chỉ là những số liệu cá biệt. Nhìn chung, các dự
án công ty tài trợ đang hoạt động có hiệu quả và đảm bảo đúng tiến độ thanh
toán tiền thuê. Công tác thẩm định tài chính dự án còn giúp các cán bộ tín
dụng của phòng kinh doanh công ty phát hiện được những sai sót trong khâu
định giá tài sản thuê, thẩm tra được nguồn gốc hợp pháp của tài sản; thẩm
định tài sản chính dự án trên cơ sở những biến động trong thời gian gần cảu
giá cả và thị trường sẽ dự tính lại doanh thu cũng như chi phí của dự án chính
xác hơn; tránh được việc giảm chi phí và nâng cao doanh thu so với thực tế để
khả thi hoá dự án. Thẩm định dự án còn giúp công ty tránh được sự thông
đồng nâng giá của bên thuê với người cung ứng.
Công tác thẩm định đã có những tiến bộ vượt bậc. Điều này thể hiện ở
việc vận dụng những phương pháp khoa học hơn đồng thời công tác thẩm
định đã được tiến hành kỹ lưỡng hơn. Công ty không vì tài sản tài trợ vấn
thuộc quyền sở hữu mà không xem xét kỹ lưỡng hồ sơ xin thuê. Quy trình
thẩm định đã được thực hiện kỹ lưỡng hơn; Từ chỗ chỉ tính đến mức sinh lời
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
62
vsà khả năng thanh toán quy trình thẩm định đã bao gồm cả việc thẩm định
các tư cách pháp lý bên thuê; khía cạnh thị trường như khả năng cạnh tranh,
khả năng tiêu thụ; hiệu quả xã hội; ảnh hưởng đến môi trường… của dự án.
Và quan trọng là việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, thực
hiện công việc này là điều được chú trọng ở Công ty cho thuê tài chính I .
Công ty cho rằng các dự án luôn gắn với doanh nghiệp và việc thực hiện tốt
dự án cũng như khả năng thanh toán nợ của dự án phụ thuộc lớn vào tình
hình hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy các cán bộ của phòng kinh doanh
luôn luôn chú trọng xem xét tình hình kinh doanh gần đây và thẩm định lỹ
lưỡng giá trị tài sản của doanh nghiệp mỗi khi doanh nghiệp đề xuất thuê tài
chính.
Về trang thiết bị phục vụ quy trình thẩm định, công ty đã đạt được
những kết quả nhất định trong việc áp dụng công nghệ vào công tác thẩm
định dự án. Hệ thống vi tính được kết nối Internet đã giúp lưu trữ hồ sơ, số
liệu cũng như cập nhật các thông tin cần thiết về môi trường kinh tế, giá cả,
pháp luật… phục vụ cho công tác thẩm định một cách hiệu quả. Các phần
mềm chuyên dụng về thành toán, lưu trữ, tính toán đã giúp cán bộ tín dụng có
thể lưu trữ mọi hồ sơ dự án, theo dõi giám sát quá trình thanh toán tiền thuê
dễ dàng; tránh những hoạt động bất lợi đối với tài sản thuê và giảm được tỷ lệ
nợ quá hạn, nợ khó đòi.
Quá trình thẩm định dự án tạo điều kiện cho cán bộ phòng kinh doanh
có điều kiện tiếp cận với nhiều tổ chức kinh tế liên quan đến dự án, thiết lập
được quan hệ rộng trong kinh doanh, có thể quảng bá hoạt động cho thuê tài
chính; Qua đó có thể thúc đẩy hoạt động của công ty.
Từ công tác thẩm định đến việc ra quyết định cho thuê được phân cấp
rõ ràng giữa nhân viên, trưởng phòng kinh doanh, kế toán trưởng và giám đốc
công ty. Điều này vừa tạo ra quá trình xem xét kỹ lưỡng từ nhiều cách đánh
giá vừa tránh được sự rủi ro đạo đức (nếu có) của các nhân viên tín dụng. Mặt
khác, côngtác thẩm định tài chính dự án đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
63
nghiên cứu, học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn bản thân. Kết quả sẽ tạo
nên một đội ngũ nhân viên có trình độ và năng lực, là tiềm năng phát triển của
công ty.
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân
Trong những năm đầu thành lập, công ty cho thuê tài chính I đã có
những cố gắng nhất định trong việc thẩm định dự án và thực tế đã có những
thành quả nhất định. Tuy nhiên, đánh giá một cách nghiêm túc thì công tác
thẩm định tại Công ty vẫn còn nhiều hạn chế.
- Thứ nhất: Do quá trình kinh doanh mới chỉ thực hiện trong thời gian
gần đây, lại ra đời chậm hơn các công ty cho thuê khác nên việc cạnh tranh để
chiếm lĩnh thị trường cũng như tạo mối quan hệ rộng với khách hàng là
nguyên nhân khiến cho công tác thẩm định dự án đầu tư bị xem nhẹ. Một số
dự án đưa đến công ty chỉ cần đảm bảo tính pháp lý của chủ đầu tư là có thể
được duyệt cho thuê. Thực tế không thể phủ nhận là công việc thẩm định dự
án sẽ khiến quá trình ra quyết định cho thuê dài hơn, phức tạp hơn và vì thế,
đôi khi khách hàng bị lỡ mất cơ hội kinh doanh. Như vậy có thể tạo ấn tượng
không tốt của khách hàng đối với công ty.
Mặt khác, do là đơn vị trực thuộc ngân hàng nông nghiệp nên các yêu
cầu về dư nợ tín dụng từ trên đưa xuống cũng là nguyên nhân của việc bỏ qua
giai đoạn thẩm định. Mặt khác, do đặc thù nghiệp vụ cho thuê tài chính ít xảy
ra rủi ro hơn các hoạt động tín dụng ngân hàng; nhân viên tín dụng của công
ty cũng vì vậy mà nảy sinh tâm lý chủ quan, xem nhẹ việc xác định độ chính
xác của các dữ liệu trong hồ sơ xin thuê.
- Thứ hai: Phương pháp phân tích tài chính trong quá trình thẩm định
còn nhiều hạn chế. Thông tin làm căn cứ để đánh giá độ tin cậy của khách
hàng và làm cơ sở của công tác thẩm định thường không đầy đủ. Một phần là
do một số các doanh nghiệp đến với công ty là những doanh nghiệp mới
thành lập, quan hệ tín dụng chưa rộng rãi; Mặt khác thông tin do ngân hàng
nông nghiệp cung cấp thường chậm cập nhật.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
64
Đối với các dự án xin thuê phương tiện vận tải và chuyên chở điển hình
là ô tô du lịch và các loại ô tô vânạ tải với giá trị nhỏ, việc phân tích tài chính
tại công ty chưa được thực hiện.
Đối với những dự án tương đối lớn, việc thẩm định chủ yếu được tiến
hành tập trung vào việc đánh giá giá trị tài sản của doanh nghiệp mà không
chú trọng nhiều vào tính khả thi hay không khả thi của dự án, tuy nhiên, ngay
cả việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp cũng thường không
chính xác. Nguyên nhân là những khách hàng chủ yếu của công ty là những
công ty trách nhiệm hữu hạn và tư nhân. Đây là những đối tượng thường tồn
tại 2 hệ thống báo cáo tài chính để đối phó với cơ quan thuế cũng như các tổ
chức tín dụng. Vì vậy việc xác định chính xác giá trị doanh nghiệp là điều khó
khăn ngay cả khi nhân viên tín dụng của công ty trực tiếp xuống địa bàn để
thẩm tra giá trị doanh nghiệp xin thuê.
Việc đánh giá giá trị của tài sản xin thuê tại công ty chỉ nhận định dựa
vào hợp đồng giữa nhà cung ứng với bên thuê. Mặc dù nhân viên thẩm định
cũng có tham khảo giá cả thị trường nhưng việc xem xét này dường như chỉ
tính đến sự chênh lệch trong giá cả chứ chưa chú trọng đến tương quan giữa
giá cả và chất lượng. Lấy ví dụ trong hồ sơ thẩm định của công ty Phú An, giá
cả của việc thực hiện thi công chiếc tàu do xí nghiệp đóng tàu Hạ Long được
thoả thuận trong hồ sơ kinh tế so với một số bảng khái toán giá cả của các
công ty đóng tàu cùng địa bàn có nhiều điểm không hợp lý.
Các chi phí không được liệt kê cụ thể, rõ ràng trong hợp đồng. Những
hạng mục được liệt kê bao gồm cả chi phí về vật tư và chi phí dịch vụ; chi phí
nguyên liệu sản xuất rẻ hơn liệu có đảm bảo chất lượng thành phẩm trong khi
các chi phí về dịch vụ lại đắt hơn những đơn vị khác. Theo sự nhận xét về
tương quan giữa giá cả và chất lượng, việc công ty Phú An chọn xí nghiệp
Hạ Long làm đối tác thực hiện hợp đồng chưa hẳn đã là một giải pháp tối ưu.
Tuy nhiên, thực tế dự án vẫn được triển khai.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
65
Việc hình thức hoá công tác thẩm định trong một số dự án là một nhược
điểm của công ty. Các dữ liệu đề cập đến trong dự án thường không được
thẩm định với con mắt khách quan mà vẫn được xem như là những thông số
tin cậy. Nhưng trên thực tế, các khoản mục chi phí cũng như doanh thu đề cập
đến trong dự án thường mang tính chủ quan của người lập. Các dòng tiền dự
tính thường không xét đến những biến động của thị trường vì vậy thường
không chính xác.
Hơn nữa, giá trị thời gian của tiền thường không được xem xét đến
trong các dự án đề xuất. Các nhân viên cũng không sử dụng các phương pháp
phân tích giá trị thời gian của tiền để đánh giá dự án cần thẩm định; phương
pháp chủ yếu sử dụng là điểm hoà vốn và những chỉ tiêu về khả năng thanh
toán cũng như các tỷ số nợ trên vốn…
Như vậy các nhân viên tín dụng mới chỉ xem xét các dự án có tính cố
định mà không xem xét đến sự thay đổi các giá trị về doanh thu, chi phí và
những dòng tiền trong tương lai - là khi dự án đã được thực hiện, là lúc quan
trọng đảm bảo khả năng thu hồi vốn đầu tư cũng như hoàn trả tiền thuê. Vì
vậy độ tin cậy của các dự án được đề xuất là rất thấp. Thực tế này làm công
tác thẩm định tài chính dự án tại công ty dễ phát sinh sai sót, nhầm lẫn khi
thực hiện.
- Thứ ba: trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên của công ty cũng
là điểm cần phải xét đến.
Đặc thù của ngành cho thuê tài chính đòi hỏi sự hiểu biết rất đa dạng về
thị trường, về khoa học công nghệ và những kiến thức khác vì tài sản cho thuê
thường rất phong phú, thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất với những thị trường
riêng biệt. Mặc dù các nhân viên của công ty đã được dào tạo chuyên ngành
nhưng mỗi khi tiếp cận một dự án phức tạp, đòi hỏi sự thẩm định kỹ càng và
có bài bản vẫn còn có sự e ngại. Nguyên nhân là chưa có một sự đào tạo
chuyên sâu về nghiệp vụ thẩm định dự án tại công ty, ngân hàng nông nghiệp
cũng có những lớp bồi dưỡng nhưng lại không đủ rộng để những cán bộ tiếp
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
66
cận trực tiếp với cơ sở có điều kiện tham gia; các nhân viên của công ty vẫn
hủ yếu dựa vào kinh nghiệm và dự tự tìm hiểu qua sách vở để tiến hành trong
thực tiễn.
Đó là riêng về những công việc chuyên môn của nghiệp vụ tín dụng,
còn đối với những công việc ngoài phạm vi của ngành như việc thẩm định giá
trị và giá trị sử dụng của tài sản thuê, tính mùa vụ trong hoạt động của một số
loại hình phương tiện, tài sản … các nhân viên công ty chủ yếu phải dựa vào
kinh nghiệm bản thân để tiến hành đánh giá. Nhưng với một đội ngũ nhân
viên trẻ của công ty điều này là khó thực hiện.
- Thứ tư: Hiện nay hoạt động cho thuê của công ty ngày càng phát triển,
số lượng các dự án ngày càng nhiều, quy mô của các dự án rất khác biệt. Số
lượng nhân viên trong công ty lại không nhiều. Điều này đòi hỏi sự phân
công công việc của các nhân viên trong việc quản lý dự án phải có sự chuyển
đổi. Việc phân vùng quản lý các dự án như hiện nay của công ty có nhiều ưu
điểm tiết kiệm được chi phí giao dịch và tận dụng được mối quan hệ của nhân
viên với các doanh nghiệp trong vùng nhưng vướng phải một nhược điểm lớn
cần được giải quyết là sự khác biệt về quy mô của từng dự án trong một vùng
và số lượng các dự án trong các vùng.
Với những địa phương số lượng khách hàng đông, một nhân viên tín
dụng có thể không đáp ứng được yêu cầu của khối lượng công việc. Mặt khác,
với những dự án lớn, quy mô cũng như tính chất phức tạp trong khi trình độ
của nhân viên không phù hợp sẽ gây ra những sai lệch trong quá trình xem xét
hồ sơ và ra quyết định cho thuê.
Cũng do quá trình hoạt động chưa lâu, chưa phát sinh những trục trặc
trong việc thực hiện những dự án lớn nên các nhân viên khó có điều kiện rút
kinh nghiệm từ quá trình thẩm định trước đó.
- Thứ năm: Về trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ cho việc thẩm định
vẫn cần được sự quan tâm của các cơ quan có thẩm quyền. Trụ sở làm việ của
công ty chưa được ngân hàng nông nghiệp cấp, phòng kinh doanh hoạt động
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
67
tạm trong hội trường nhà khách của ngân hàng, các nhân viên tín dụng làm
việc trong một không gian chật. Máy móc vẫn chưa đảm bảo mỗi cán bộ tín
dụng đều được trang bị riêng 1 người trên 1 máy vi tính.
Những điểm hạn chế trong công tác thẩm định tín dụng ngoài những
nguyên nhân từ phía công ty đã trình bày ở trên, những nguyên nhân khách
quan cũng cần phải được đề cập đến để có thể tìm giải pháp xử lý.
Môi trường kinh doanh hiện tại ngoài mặt tích cực luôn có những đơn
vị kinh tế hoạt động không hiệu quả luôn tìm những thủ đoạn để chiếm dụng
tài sản, vốn của những tổ chức khác, đặc biệt là các ngân hàng và các tổ chức
tín dụng. Chính những đơn vị này luôn tìm cách được hưởng sự ưu tiên của
các tổ chức tín dụng. Họ tìm cách tạo ra những hồ sơ dự án có tính khả thi rất
cao. Xuất phát từ những dữ liệu giả nên công tác thẩm định rất khó phát hiện
ra nếu không được tiến hành một cách kĩ lưỡng. Mặt khác, ngay cả những đơn
vị hoạt động hợp pháp cũng nảy sinh những hồ sơ dự án rất khó kiểm soát đối
với nhân viên tín dụng công ty do hạn chế về trình độ của chủ đầu tư.
Các cơ chế của ngân hàng nhà nước và ngân hàng nông nghiệp về thẩm
định dự án và những chỉ tiêu yêu cầu được sử dụng chưa được rõ ràng. Năng
lực quản lý dự án của một số ngành còn hạn chế. Việc ban hành các chính
sách có liên quan của nhà nước hay thay đổi đặc biệt trong thời gian mới áp
dụng nghiệp vụ cho thuê. Hơn nữa, các chỉ tiêu hiệu quả bình quân và những
định mức kĩ thuật từng ngành làm căn cứ so sánh còn thiếu. Điều này gây khó
khăn không chỉ đối với nhân viên của công ty cho thuê tài chính 1 trong việc
tính các chỉ tiêu phục vụ thẩm định dự án.
Hệ thống ngân hàng của nước ta vẫn chưa thể coi là vững mạnh và hoạt
động hiệu quả. Công ty cho thuê tài chính lại chưa được coi là một ngành
riêng biệt nên không thể không gặp phải những khó khăn khi phải ở trong một
"vỏ bọc" không được coi là "khoẻ mạnh".
Như vậy, hoạt động thẩm định dự án đầu tư của công ty cho thuê tài
chính 1 - NHNo&PTNT mặc dù đã có những thành quả nhất định trong
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
68
những năm hoạt động vừa qua nhưng không thể phủ nhận những hạn chế mà
công tác này còn mắc phải. Tìm ra nguyên nhân để có những giải pháp thích
hợp là một trong những điều có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của công ty.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
69
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI CÔNG TY CHO THUÊ
TÀI CHÍNH 1 - NHNo&PTNT
3.1. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ
Vai trò của công tác thẩm định tài chính dự án đối với hoạt động của
các tổ chức tín dụng nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung - khi mà
hoạt động đầu tư đang được Chính phủ khuyến khích thực hiện - là hết sức
quan trọng. Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dứan luôn là một yêu cầu
đặt ra đối với mọi tổ chức tín dụng hoạt động trong nền kinh tế. Công tác
thẩm định tài chính dự án thực hiện tốt sẽ hạn chế đến mức tối thiểu những rủi
ro có thể xảy ra trong quá trình triển khai một dự án đầu tư. Riêng loại hình
cho thuê tài chính, dù không chứa đựng nhiều rủi ro như hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại nhưng cũng cần có những định hướng phù hợp
để có thể hoàn thiện công tác thẩm định các dự án xin thuê, góp phần vào việc
phát triển một loại hình tín dụng mới trong nền kinh tế đất nước.
Xuất phát từ mục đích và yêu cầu của hoạt động thẩm định tài chính dự
án đã đề cập đến ở chương I cũng như những điểm hạn chế của hoạt động này
đã đề cập ở chương 2 ta có thể có một số định hướng cho công tác thẩm định
tại công ty cho thuê tài chính I như sau:
- Công tác thẩm định phải được xây dựng thành quy trình phù hợp với
đặc điểm của hoạt động cho thuê tài chính, phù hợp với cơ sở vật chất cũng
như trình độ của nhân viên tín dụng của công ty.
- Phải xuất phát từ quan điểm của người tài trợ cho dự án để tiến hành
thẩm định dự án; tức là việc thẩm định các dòng tiền phải xem xét đến hiệu
quả của lượng vốn đã tài trợ thông qua việc sử dụng có hiệu quả tài sản thuê,
nhưng cũng cần quan tâm đến những giá trị còn lại sau dự án để lựa chọn đầu
tư cho những dự án vừa đảm bảo khả năng thanh toán phí thuê vừa có lợi cho
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
70
chủ đầu tư. Điều đó thể hiện được sự gắn bó lợi ích của công ty cho thuê với
lợi ích của chủ đầu tư.
- Công tác thẩm định tài chính dự án phải được tiến hành nghiêm túc
đầy đủ ngay cả khi dụ án đã được triển khai thực hiện. Công tác này phải
được xây dựng thành một công cụ cạnh tranh đối với những đơn vị khác;
thành một yếu tố thu hút khách hàng và tạo uy tín của những đơn vị. Mặt
khác, thẩm định tài chính dự án cần phải đảm trách được vai trò tham mưu
cho việc ra quyết định lựa chọn chính xác dự án cần tài trợ.
Có thể đề xuất một số giải pháp theo định hướng trên,.
3.1.1. Giải pháp về nghiệp vụ
3.1.1.1. Xác định nhiệm vụ của nhân viên tín dụng trong thẩm định
dự án đầu tư
Việc thẩm định hiệu quả dự án của các tổ chức tín dụng khi tiến hành tổ
chức cho thuê thường do những nhân viên tín dụng phụ trách. Chính nhiệm
vụ xem xét để đánh giá có nên tài trợ cho dự án này không, mà vai trò của
nhân viên tín dụng của công ty trở nên rất quan trọng, trách nhiệm này có thể
dẫn tới tình huống chuyên viên thẩm định của công ty cho thuê tài chính I
đồng ý cho thuê mà yếu tố kỹ thuật không khả thi, hoặc là bác một dự án vì
không tin tưởng phương án sản xuất trong dự án có thể thực hiện được.
Việc thẩm định phải quan tâm nhiều đến các tình huống xấu để xem xét
mức độ hoàn vốn và trả nợ của dự án. Thông thường một dự án có độ rủi ro
cao thì mới có khả năng sinh lời cao và ngược lại, do vậy tuỳ mong muốn về
khả năng sinh lợi của đồng vốn so với mức độ chấp nhận rủi ro mà người đầu
tư sẽ lựa chọn dự án phù hợp. Khi thẩm định, nếu đứng trên quan điểm phân
tích hiệu quả để quyết định tham gia đầu tư hay không, thì người thẩm định
cùng cái nhìn và đánh giá như người lập dự án, nhưng nếu đứng trên nhiệm
vụ xem xét cho vay hay không, thì người thẩm định phải luôn đứng trên quan
điểm toàn của đồng vốn để phân tích, kết luận.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
71
Có những dự án, người thẩm định nhận thấy nếu giữ nguyên các
phương án như đã lập sẽ kém hiệu quả, nhưng điều chỉnh phương án một chút
(giảm mức độ đầu tư, giảm tiến độ đầu tư…) thì dự án sẽ trở nên hiệu quả. Do
vậy, chuyên viên thẩm định có thể tư vấn, đề xuất cho chủ đầu tư, để đảm bảo
tính khả thi trong việc cho thuê tài chính. Nhưng quyền quyết định vẫn thuộc
về người chủ đầu tư, bởi vì họ mới là người quyết định nên sử dụng đồng vốn
như thế nào trong đầu tư, cũng như trong quá trình điều hành sản xuất kinh
doanh. Họ sẽ là người hưởng kết quả hoặc nhận lãnh thiết hoặc nhiều nhất
trong việc thành công hay thất bại của dự án. Điều này cũng giải thích vì sao
thông thường các tổ chức tín dụng chỉ cho vay khong quá 70% tổng vốn đầu
tư, và người chủ đầu tư phải thế chấp bằng toàn bộ tài sản đầu tư, đôi khi phải
kèm thêm những tài sản có tính thanh khoản cao khác, tất nhiên trừ một số
trường hợp nhà cho thuê quyết định tham gia đầu tư vào các dự án mạo hiểm.
Sau cùng thì tiêu chí quan trọng nhất của chuyên viên tài chính trong
việc thẩm định tài chính dự án đầu tư, đó là phải hết sức khách quan trong
vịêc thu thập và đánh giá số liệu đối với những số liệu mà dự án thu thập
không đủ do nguyên nhân khách quan trong việc thu thập và đánh giá số liệu,
đối với những dự án thu thập không đủ do nguyên nhân khách quan thì phải
đánh giá theo nhiều tình huống có khả năng xảy ra xuất phát từ việc thiếu các
thông tin đó.
3.1.1.2. Hoàn thiện phương pháp tiến hành thẩm định
Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án bao gồm việc hoàn thiện
phương pháp, quy trình và nâng cao chất lượng thực hiện các nội dung của
công tác thẩm định.
Về phương pháp, công ty hiện nay chủ yếu sử dụng những phương pháp
phân tích tài chính theo trạng thái "tĩnh" của tiền, hệ thống chỉ tiêu áp dụng
chủ yếu là những số liệu tính gộp. Công ty cần phải sử dụng những phương
pháp phân tích tài chính dựa vào giá trị thời gian của tiền - là những phương
pháp phổ biến trong nền kinh tế hiện đại - kết hợp với những phương pháp
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
72
hiện đại đang được thực hiện tại công ty để thẩm định một cách chính xác dự
án đề xuất.
Sử dụng kết hợp được các phương pháp này, hệ thống chỉ tiêu thẩm
định tại công ty phải bao gồm cả những số liệu tương đối - là kết quả của việc
dự đoán khả năng thanh toán, phân tích cơ cấu vốn, tỷ suất nội hoàn - và
những số liệu tuyệt đối - kết quả của các phương pháp điểm hoà vốn, giá trị
hiện tại ròng. Những kết luận rút ra từ hệ thống chỉ tiêu đó sẽ tránh được
những khiếm khuyết của từng phương pháp phân tích riêng biệt.
Riêng đối với phương pháp phân tích dựa vào giá trị thời gian của tiền,
cần chú ý đến sự thay đổi của chi phí cũng như lợi ích trong suốt thời kỳ thực
hiện dự án.
Yếu tố cần quan tâm nhất ở đây là việc xác định chính xác dòng tiền
cũng như tỷ suất chiết khấu hợp lý. Dòng tiền thường được xem xét như sự
chênh lệch của tổng doanh thu và tổng chi phí của dự án. Trong trường hợp
xác định được chính xác chi phí và lợi ích, dòng tiền đó có thể chấp nhận.
Tuy nhiên, đứng trên góc độ nhà tài trợ, công ty nên xác định dòng tiền gồm
cả dòng tiền của chủ đầu tư và dòng nợ của người thuê - là dòng thanh toán
lãi thuê và nợ gốc.
Về việc xác định tỷ suất chiết khấu, đây không phải là việc dễ dàng và
thực tế là cũng chưa có một quy định nào giúp xác định một tỷ lệ chiết khấu
chính xác. Tuỳ vào chi phí vốn đối với từng chủ thể tiến hành phân tích mà tỷ
lệ chiết khấu được tính khác nhau với mỗi dự án cụ thể. Đã có những ý kiến
đề xuất đối với ngân hàng nông nghiệp về việc chọn lãi suất trung dài hạn của
kho bạc nhà nước làm lãi suất chuẩn để tính toán. Tuy nhiên, chi phí vốn đối
với công ty không hề giống nhau ở mọi thời điểm cũng như trong mọi dự án.
Vì vậy, thiết nghĩ, tuỳ vào dự án cụ thể và khả năng huy động vốn trong mỗi
thời điểm của công ty để có những lựa chọn thích hợp về tỷ suất chiết khấu.
Việc lựa chọn này hoàn toàn không được dựa vào sự quyết định chủ quan của
nhân viên tín dụng cũng như không nên cố định theo các văn bản của cơ quan
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
73
cấp trên. Công ty có thể áp dụng mô hình định giá tài sản vốn để có những
tính toán tương đối chính xác hoặc dựa vào chi phí trung bình của vốn để rút
ra tỷ suất chiết khấu thích hợp.
Sau khi đã có những tính toán chính xác về dòng tiền và tỷ suất chiết
khấu, công ty nên tính đến độ nhạy của dứan. Đây là điều cần thiết vì các giá
trị hiện tại và tỷ suất nội hoàn được tính toán dù là đã tính đến giá trị thời gian
của tiền nhưng vẫn sử dụng những yếu tố có tính thời điểm. Các yếu tố này
mỗi khi thay đổi trong khi dự án được tiến hành có thể sẽ dẫn đến những thay
đổi bất lợi của các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư. Cũng tuỳ vào những
nhân tố mà mức thay đổi so với tính toán sẽ khác nhau như giá cả, tỷ giá…
Việc áp dụng riêng từng khoảng biến động sẽ có được những kết luận chính
xác về ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu hiệu quả dự án. Từ đó, công
ty và bên thuê sẽ cùng đưa ra những biện pháp hạn chế rủi ro.
3.1.1.3. Hoàn thiện quy trình và nội dung thẩm định tài chính
Quy trình thẩm định
Về quy trình thực hiện các chỉ tiêu thẩm định, công ty nên đưa ra mẫu
chuẩn quy định đầy đủ các bước và nhiệm vụ của từng bước để nhân viên có
thể thực hiện đầy đủ từ việc đánh giá hiệu qảu dự án đến phân tích tài chính
kỹ lưỡng dự án. Quy trình thẩm định tài chính phải đảm bảo đủ từ việc dự
toán được chính xác giá trị tài sản dự kiến đầu tư đến việc đánh giá đầy đủ
những số liệu của bảng phân tích chi phí và doanh thu của dự án.
3.1.1.4. Yêu cầu về nội dụng của thẩm định tài chính
- Về nội dung của việc đánh giá hiệu quả của dự án cũng cần phải có
những điểm lưu ý. Đối với những dự án đầu tư mới, tài sản xin thuê cần được
đánh giá kỹ lưỡng về công nghệ; đối với những dự án đầu tư bổ xung, tài sản
thuê cần phải được xem xét tới khả năng thúc đẩy những dự án đang tiến hành
tới đâu đồng thời phải đánh giá thị trường cũng như khả năng cạnh tranh của
sản phẩm.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
74
- Về yêu cầu nâng cao chất lượng phân tích tài chính dự án. Một mặt
cần phân tích kỹ lưỡng những hạng mục trong các bảng dự kiến chi phí doanh
thu của chủ đầu tư, đồng thời nhân viên tín dụng cần phải quan tâm đến một
số yếu tố thuộc về khả năng tài chính hiện tại của doanh nghiệp. Kết hợp giữa
việc phân tích tài chính dự án với tình trạng tài chính hiện tại của doanh
nghiệp là điều thiết nghĩ nhân viên tín dụng của công ty cần phải thực hiện.
Nguyên nhân là mặc dù một số doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng khó
khăn về mặt tài chính nhưng dự án của họ lại có tính khả thi rất cao. Nếu dự
án đó được thực hiện, doanh nghiệp đó sẽ cải thiện được tình hình. Khi đó, dự
án nên được xem xét tài trợ.
Mặt khác, để có chất lượng tốt trong công tác thẩm định tài chính, vấn
đề cần quan tâm ở đây là việc công ty phải xác định chính xác những dữ liệu
ảnh hưởng đến việc tính toán hệ thống chỉ tiêu thẩm định. Các chỉ tiêu này
chủ yếu được tính toán dựa vào những lợi ích và chi phí của dự án. Vì vậy
nhiệm vụ đặt ra là phải xác định chính xác chi phí và lợi chính xác chi phí và
lợi ích của dự án. Việc này đòi hỏi nhân viên của công ty phải có những
nghiên cứu chi tiết đối với thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường vật tư cấu
thành giá trị dự án, thị trường nguyên nhiên liệu phục vụ quá trình sản xuất
của dự án. Đồng thời trong việc tham khảo giá cả thị trường, nhân viên tín
dụng cần phải chú trọng đến mối tương quan giữa chất lượng với giá cả.
Tránh việc định giá tài sản không đúng giá trị cần có của nó. Công việc này sẽ
tốn thời gian và chi phí, đồng thời yêu cầu nhân viên tín dụng phải có kinh
nghiệm và thành thạo trong phương pháp.
Một điểm cần lưu ý nữa trong khi tính toán các sô liệu ảnh hưởng đến
hệ thống chỉ tiêu là phải xem xét đối chiếu với những văn bản quy phạm pháp
của bộ tài chính và của chính phủ. Loại trừ khả năng tính toán có lợi cho bản
thân mà bỏ qua sự điều chỉnh của pháp luật của các đơn vị đầu tư.
Hoàn thiện quy trình thu thập dữ liệu phục vụ cho việc thẩm định tài
chính dự án.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
75
Thông tin và dữ liệu phục vụ cho hoạt động thẩm định là tối quan trọng.
Quá trình thẩm định có thành công hay không phụ thuộc lớn vào điều này.
Làm sao để có được những dữ liệu và thông tin chính xác, cập nhật phục vụ
cho quá trình thẩm định là điều không dễ dàng, tốn thời gian cũng như chi
phí. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà công ty không tiến hành thu thập xây
dựng 1 hệ thống thông tin riêng. Những chi phí của hệ thống thông tin sẽ
được bù đắp bởi những lợi ích thu được từ việc giảm những rủi ro khi thực
hiện những dự án không đảm bảo những yêu cầu đặt ra. Một số giải pháp
khuyến nghị như sau:
- Thu thập thông tin trên từng phương diện của dự án, bao gồm thị
trường, công nghệ, môi trường…
Về thị trường của sản phẩm dự án, phải năm được số lượng đối thủ
cạnh tranh của sản phẩm trên cùng thị trường; nắm được mức cầu và mức
cung thực tế của sản phẩm trong những năm gần đây đồng thời bám sát được
giá cả trong nước cũng như quốc tế của loại sản phẩm đó nếu có khả năng
xuất khẩu. Điều này góp phần chính xác hoá việc tính các luồng doanh thu và
chi phí.
Về phương diện công nghệ, phải thu thập thông tin về giá trị công nghệ
tại thời điểm thực hiện dự án của loại tài sản xin thuê, mức hao mòn vô hình
của tài sản cũng là điểm cần được chú ý. Tránh việc mua phải những tài sản
đã quá lạc hậu về mặt công nghệ hay những tài sản có mức hao mòn vô hình
quá lớn do thiếu thông tin cần thiết.
Về ảnh hưởng đối với môi trường của loại tài sản thuê. Công ty cần cập
nhật các mức ảnh hưởng môi trường cho phép được quy định từ các cơ sở
khoa học công nghệ môi trường để làm căn cứ trong việc mua tài sản xin
thuê.
- Đảm bảo một hệ thống cung cấp và xử lý thông tin báo cáo nội bộ
chính xác. Hệ thống thông tin không thể thông suốt và chính xác khi ngay ở
trong nội bộ, sự cung cấp dã sai lệch. Việc cung cấp thông tin nội bộ này phụ
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
76
thuộc vào sự phân tích của các phòng ban liên quan trong công ty; phải đảm
bảo được sự đánh giá toàn diện khi tiếp nhận được thông tin từ bên ngoài,
tránh việc xem xét chủ quan phiến diện trên một mặt nào đó.
- Xây dựng một hệ thống lưu trữ những thông tin đã qua xử lý cũng như
thông tin mới tiếp nhận một cách khoa học để có thể truy cập khi cần. Hệ
thống này cần được cập nhật liên tục và phân loại khoa học theo từng lĩnh vực
cũng như từng ngành. Điều này hết sức cần thiết vì khách hàng của công ty
không giới hạn trong một ngành kinh doanh nào và những hoạt động của họ
liên quan đến thông tin trong rất nhiều lĩnh vực. Để làm được điều này, công
ty ngoài việc trang bị một hệ thống máy tính hiện đại cùng những phần mềm
chuyên dụng còn phải đào tạo những nhân viên có khả năng quản lý tốt hệ
thống đo. Tránh trường hợp làm hỏng hóc dẫn đến thất thoát thông tin.
- Nhân viên tín dụng của công ty thông qua những dự án đã và đang
thực hiện sẽ có nhiệm vụ và điều kiện tiếp cận những thông tin mới. Khi đó,
những thông tin đó cần được cập nhật và lưu trữ vào hệ thống thông tin của
công ty để làm cơ sở tham khảo cho những dự án sau. Việc thu thập thông tin
từ những mối quan hệ bạn hàng của người thuê và những đơn vị tín dụng
khác cũng là một kênh quan trọng bởi tốn ít chi phí mà chất lượng lại đảm
bảo.
3.1.2. Những giải pháp gián tiếp
Ngoài những giải pháp trực tiếp nhằm nâng cao chất lượng nghiệp vụ
thẩm định tài chính dự án, công ty không thể bỏ qua những yếu tố có vai trò
quan trọng quyết định đến chất lượng của công tác thẩm định.
3.1.2.1. Nâng cao trình độ và phẩm chất của nhân viên tín dụng công ty
Nhân viên của công ty là yếu tố đầu tiên cần đề cấp đến. ở đây, ngoài
khía cạnh trình độ nhân viên còn phải chú trọng đến phẩm chất của họ.
- Về trình độ của nhân viên tín dụng. Đây là yếu tố quan trọng vì tất cả
kết quả thẩm định phần nhiều dựa vào đánh giá chủ quan của người thẩm
định, người thẩm định là người lựa chọn những khía cạnh cần xem xét của dự
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
77
án và là người rút ra kết luận về tính khả thi của dự án. Vì vậy, dù quy trình
và phương pháp thẩm định tốt nếu như nhân viên tiến hành thẩm định không
đủ trình độ cần thiết.
- Về phẩm chất của nhân viên tín dụng. Khẳng định được phẩm chất tốt
của nhân viên thẩm định sẽ tránh được những rủi ro trong quá trình thẩm
định dự án xuất phát từ sự không trung thực, kém nhiệt tình của người thẩm
định.
Như vậy, để có được đội ngũ nhân viên thẩm định đảm bảo yêu cầu của
thời điểm hiện nay, công ty cần chú trọng vào một số giải pháp.
- Một mặt, tổ chức các lớp tập huấn chuyên môn công tác thẩm định
như công ty đã làm trong thời gian đầu đối với nghiệp vụ cho thuê tài chính,
mặt khác tổ chức tuyển chọn những nhân viên trẻ, có chuyên môn từ những
trường đào tạo chuyên ngành. Thực hiện việc bổ sung nhân viên có trình độ
để tránh tình trạng quá tải tín dụng có thể xảy ra nhưng cũng tránh việc điều
chuyển người không đúng chuyên môn vào những vị trí không phù hợp.
- Thường xuyên bồi dưỡng những kiến thức hỗ trợ có liên quan của
nhiều lĩnh vực; rà soát lại những cán bộ tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu
công việc, xem xét điều chuyển họ sang cương vị mới.
- Đối với những nhân viên ưu tú trong công ty, cần có chính sách
khuyến khích khen thưởng thoả đáng đồng thời nghiêm túc kỉ luật những
nhân viên có vi phạm tới quy chế công ty.
- Xây dựng những quy chuẩn về trình độ của nhân viên tín dụng để có
thể lựa chọn được người có năng lực đồng thời khuyến khích việc tự đào tạo
nâng cao trình độ thông qua việc hỗ trợ học phí, tạo điều kiện về thời gian.
Mặt khác, khuyến khích việc nghiên cứu, đề xuất sáng kiến trong công tác
thẩm định tài chính dự án.
3.1.2.2. Nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức điều hành
Hiện nay, công ty thực hiện việc quy trách nhiệm về từng nhân viên tín
dụng. Điều này có nghĩa là mỗi khi công ty nhận được hồ sơ dự án xin thuê
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
78
của khách hàng, dự án này sẽ được giao cho 1 nhân viên tín dụng và người
này sẽ phải tiến hành độc lập từ việc hướng dẫn làm hồ sơ hợp lệ đến việc
thẩm định dự án và giám sát việc thực hiện dự án. Việc này có ưu điểm nâng
cao tinh thần trách nhiệm của nhân viên công ty. Tuy nhiên, việc này cũng có
bất lợi vì một nhân viên kinh doanh không thể kiêm quá nhiều công việc và
đương nhiên kết quả thẩm định sẽ sơ sài.
Vì vậy, ngoài việc thực hiện phân quyền phán quyết như quy định của
ngân hàng nông nghiệp đối với những dự án đầu tư; giải pháp khuyến nghị là
công ty nên chuyên môn hoá công tác thẩm định dự án bằng một bộ phận
nhân viên riêng. Những nhân viên chuyên trách công việc này phải là những
người có phẩm chất cũng như trình độ. Như vậy, thời gian tiến hành thẩm
định là đủ ngắn, chi phí thẩm định không quá lớn để có thể thực hiện đồng
thời do chuyên trách nên công tác này sẽ được những nhân viên tiến hành kĩ
lưỡng.
3.1.2.3. Tăng cường đầu tư trang thiết bị cần thiết
Yêu cầu của xu thế cạnh tranh và ưu thế của thông tin trong cạnh tranh
đòi hỏi công ty phải đảm bảo hệ thống máy tính kết nối sẵn có hoạt động có
hiệu quả, đòng thời phải nâng cấp để tránh lạc hậu. Tếp tục ứng dụng những
phần mềm tin học quản lý, lưu trữ để có thể truy cập khi cần, tính toán số liệu,
chỉ tiêu tài chính và đưa vào những chương trình tin học để giảm những công
đoạn tính toán thủ công cho những nhân viên thẩm định.
3.2. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI CÁC CẤP HỮU QUAN NHẰM HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
3.2.1. Đối với NHNo&PTNT
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn là một đơn vị quản lý
trực tiếp của công ty cho thuê tài chính I nên những quyết định về phương
hướng hoạt động có ảnh hưởng lớn đến công tác nghiệp vụ của công ty. Vì
vậy, để một trong những hoạt động nghiệp vụ đó là việc thẩm định tài chính
các dự án xin thuê, ngân hàng nên:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
79
- Xây dựng một hệ thống thông tin đầy đủ về quản lý, lưu trữ những hồ
sơ của những khách hàng trước đây để làm căn cứ tham khảo khi cần của
những đơn vị trực thuộc trong đó có công ty cho thuê tài chính.
- Quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển loại hình tín dụng mới này,
phải dành những ưu đãi để cho thuê tài chính có thể phát triển tương xứng với
tiềm năng của nó. Biểu hiện cụ thể là cung ứng một cơ sở vật chất hoàn thiện
bao gồm cả trụ sở và trang thiết bị cần thiết; sự điều chuyển nhân viên của
ngân hàng sang công ty cho thuê cần phải đảm bảo về năng lực thực sự của
họ, tránh việc coi công ty cho thuê như một địa chỉ chính sách để xếp đặt
nhân viên.
- Riêng những văn bản và quy chế có ảnh hưởng trực tiếp đối với hoạt
động của công ty cho thuê tài chính như quy chế về dư nợ mới, chính sách lãi
xuất cấp vốn cho công ty từ trung tâm điều hoà… nên có những ưu đãi nhất
định để tạo điều kiện cho công ty phát triển.
3.2.2. Đối với ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Nhà nước cũng là địa chỉ tin cậy với các công ty cho thuê tài
chính trong việc truy nhập mạng thông tin về lịch sử các doanh nghiệp, ngành
nghề kinh doanh, biến động của doanh nghiệp như sát nhập, giải thể hoặc thay
thế lãnh đạo qua trung tâm phòng ngừa rủi ro (CIC). Vì vậy NHNN nên
thường xuyên đa dạng thông tin và cập nhật thường xuyên để công tác thẩm
định của các đơn vị trực thuộc ngành có thể được hoàn thiện.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ thiết lập một hệ thống chuẩn về công
tác thẩm định tài chính dự án trong ngành dọc bao gồm những văn bản hướng
dẫn chi tiết quy trình cũng như nội dung thẩm định để các tổ chức tín dụng có
thể lấy làm mẫu. Ngân hàng nhà nước cũng đồng thời là người quy định
những chính sách về tỷ giá, lãi suất… ảnh hưởng trực tiếp đến những công
đoạn tính toán của nghiệp vụ thẩm định vì vậy cần có những điều chỉnh thích
hợp.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
80
Về chính sách đối với cán bộ tín dụng trong ngành, ngân hàng nhà nước
nên có những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định để nâng cao trình độ và
thống nhất về phương pháp và quy trình thẩm định dự án đầu tư.
3.2.3. Kiến nghị của Chính phủ
Như đã nêu trên, việc các công ty cho thuê tài chính vẫn phải hoạt động
trực thuộc ngân hàng là một trở ngại cho sự phát triển của hoạt động cho thuê
tài chính nói chung và theo đó, hoạt động thẩm định dự án tại những công ty
cho thuê này cũng có những vướng mắc. Thiết nghĩ, theo xu thế phát triển
mạnh mẽ của loại hình tín dụng này trong những năm gần đây, Chính phủ nên
ban hành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ làm hành lang
pháp lý cho việc tách hoạt động cho thuê tài chính ra khỏi các ngân hàng
thương mại. Việc này sẽ tạo ra một kênh huy động và cấp vốn đầu tư mới hữu
hiệu và là một lực lượng cạnh tranh mạnh mẽ đối với hoạt động tín dụng của
ngân hàng, góp phần thúc đẩy sự hoàn thiện cho hệ thống tài chính quốc gia.
Đến lúc đó, với một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, một hệ thống thông tin đầy
đủ cùng một đội ngũ giáo viên có trình độ, hoạt động thẩm định các dự án đầu
tư tại các công ty cho thuê tài chính nói chung và công ty cho thuê tài chính 1
nói riêng chắc chắn sẽ được thực hiện tốt hơn.
Mặt khác, Chính phủ cũng cần phải xây dựng một hệ thống chính sách
và quy chế đầu tư phù hợp đi kèm với khung pháp luật nghiêm minh, tránh để
các cán bộ quan chức của từng địa phương áp dụng một cách tuỳ tiện các quy
chế về giấy phép đầu tư cũng như giấy tờ pháp lý. Việc này vừa tạo ra khả
năng chống tham nhũng vừa hỗ trợ cho việc thẩm định tính pháp lý của dự án
được chính xác, loại bỏ khả năng thông đồng giữa chủ đầu tư với những
người có thẩm quyền chứng nhận hồ sơ dự án.
Một khía cạnh nữa cần được Chính phủ xem xét là hệ thống quy chế về
môi trường kinh doanh. Việc dành cho các doanh nghiệp nhà nước sự ưu đãi
quá lớn đã tạo ra tâm lý thiên lệch khi các nhân viên tín dụng thực hiện thẩm
định tài chính các dự án đề xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Trong khi
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
81
thực tế đã chứng tỏ rất nhiều các doanh nghiệp nhà nước cũng có những dự án
kém hiệu quả, hoạt động thua lỗ dẫn đến việc huỷ ngang hợp đồng thuê do
không đảm bảo thanh tán tiền thuê đúng hạn.
Về các văn bản luật và dưới luật áp dụng cho những tổ chức tín dụng và
những chính sách liên quan như chính sách tỷ giá, lãi suất… cũng cần phải
được quan tâm hoàn thiện trong thời gian tới.
Hiện nay, công tác kiểm toán ở Việt Nam đã được một số công ty kiểm
toán nhà nước và quốc tế thực hiện nhưng hầu hết là đối với các doanh nghiệp
quốc doanh và những doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vị thế và tiềm lực
lớn. Còn lại hầu hết các doanh nghiệp chưa thực hiện một chế độ kiểm toán
nghiêm chỉnh. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho nhân viên tín dụng trong
việc thẩm định giá trị và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp xin thuê qua
các số liệu trong báo cáo tài chính. Để chấn chỉnh điều này, ngoài việc áp
dụng một hệ thống kế toán đồng bộ, các cơ quan hữu quan thuộc Chính phủ
cần phải thanh tra kiểm soát thường xuyên và xử lý nghiêm các doanh nghiệp
vi phạm.
Để đảm bảo những thông tin cần thiết cho quá trình thẩm định tín dụng,
các bộ ngành trực thuộc Chính phủ cần phải hệ thống hoá những dữ liệu và
thông tin liên quan đến lĩnh vực mình phụ trách và cập nhật lên các tài liệu
tạp chi chuyên ngành cũng như mạng máy tính để có thể tham khảo kịp thời.
Mặt khác, Chính phủ nên tạo điều kiện khuyến khích những công ty chuyên
hoạt động trong lĩnh vực thu thập, tư vấn thông tin về nhiều khía cạnh thị
trường, đầu tư, tư vấn tài chính, tư vấn rủi ro… để tạo thêm một kênh cung
cấp thông tin trong nền kinh tế.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
82
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng nước ta đã có những bước
chuyển lớn, thu hút được đông đảo lượng tiền dư thừa trong nhân dân nhưng
vẫn không đảm bảo được nhu cầu lớn về vốn của công cuộc phát triển đất
nước. Nguyên nhân là sự thiếu hoàn thiện trong công tác thẩm định dự án dẫn
đến việc ra quyết định cấp tín dụng rất khó khăn. Sự thiếu hiệu quả trong
nhiều dự án đầu tư cũng như sự thất thoát lớn vốn đầu tư trong hệ thống ngân
hàng những năm qua đã chứng thực điều đó.
Hoạt động cho thuế tài chính mới ra đời tuy có khả năng loại trừ rủi ro
lớn hơn hoạt động tín dụng ngân hàng và được xem là một trong những kênh
dẫn vốn hiệu quả nhưng cũng không thể không chú trọng công tác thẩm định
tài chính dự án. Thực hiện tốt công tác này một mặt tạo đà rất lớn cho sự phát
triển riêng của nghiệp vụ cho thuê tài chính, mặt khác thúc đẩy mạnh hoạt
động đầu tư trong nền kinh tế, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của
đất nước.
Trong thời gian thực tập tại Công ty cho thuê tài chính I -
NHNo&PTNT Việt Nam, trên cơ sở những nhận thức về tầm quan trọng của
công tác thẩm định tài chính dự án đồng thời tìm hiểu thực trạng của việc thực
hiện công tác này em đã đề xuất một số kiến nghị, giải pháp và hi vọng rằng:
trong chừng mực nào đó, những kiến nghị này sẽ được công ty cho thuê tài
chính I quan tâm và như vậy sẽ góp phần hoàn thiện từng bước công tác thẩm
định dự án tại công ty.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Hồng Minh
và sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của cán bộ, nhân viên Công ty cho thuê tài
chính I để em có thể hoàn thành chuyên đề này.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua - Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản
2. Nghị định số 64/CP và Nghị định số 16/CP về việc ban hành quy chế
về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam.
3. Quy chế và các báo cáo tài chính năm 1995-2004 của Công ty cho thuê
tài chính I - NHNo & PTNT Việt Nam
4. Quyết định dự toán vốn đầu tư - Harold Bierman, JR. Seymour Smidt
5. Một số hồ sơ dự án thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính I
6. Giáo trình Kinh tế đầu tư - TS. Từ Quang Phương - TS. Nguyễn Bạch
Nguyệt.
7. Tài liệu tập huấn thẩm định dự án đầu tư - ThS. Lê Kim Thạch.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại công ty cho thuê tài chính I - NHN0 & PTNT.pdf