Trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự, Chấp hành viên về cơ bản đã thực
hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình; tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập, tồn
tại trong việc thực hiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên.
Trên cơ sở chỉ ra những bất cập, tồn tại và các nguyên nhân của chúng, luận văn đề xuất
các kiến nghị nhằm khắc phục những bất cập, tồn tại đó và tiếp tục hoàn thiện địa vị pháp
lý của Chấp hành viên trong giai đoạn thi hành án dân sự, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả của công tác thi hành án. Các kiến nghị được đặt trong tổng thể các biện pháp
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra, với các phương hướng cơ bản là: nâng cao tính độc
lập của Chấp hành viên; tăng quyền hạn cho Chấp hành viên, đồng thời nâng cao trách
nhiệm của Chấp hành viên đối với các hành vi và quyết định về thi hành án của mình;
tiếp tục mở rộng quyền hạn của Chấp hành viên như quyền khám xét người và tài sản của
người phải thi hành án, để Chấp hành viên thực sự là người bảo vệ các quyền lợi hợp
pháp của đương sự.
120 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4959 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tụng tư pháp hay là hành chính - tư pháp... Vì vậy, dẫn đến hậu quả là đến
nay địa vị pháp lý của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung và địa vị pháp lý của
Chấp hành viên nói riêng chưa được pháp luật quy định rõ, tính độc lập trong khi tổ chức
thi hành án của Chấp hành viên không được bảo đảm. Nhiều bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành, do một số cơ quan, chính quyền các cấp
vì lợi ích cục bộ địa phương đã cản trở, không thi hành, doanh nghiệp nhà nước không tự
nguyện thi hành hoặc có sự can thiệp từ phía các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, gây ra
tình trạng trì trệ trong thi hành án, thậm chí còn có sự can thiệp từ chính Ban chỉ đạo thi
hành án, người có nhiệm vụ phối hợp, chỉ đạo các lực lượng cưỡng chế thi hành án. Vị
thế của Chấp hành viên hiện chưa được xã hội coi trọng so với các chức danh tư pháp
khác như Thẩm phán, Kiểm sát viên... Hầu hết các trường hợp người phải thi hành án và
những người có quyền, nghĩa vụ liên quan (trong đó có cả một số cơ quan nhà nước) sau
khi nhận được giấy triệu tập, quyết định cưỡng chế thi hành án của Chấp hành viên vẫn
tỏ ra thờ ơ, thậm chí còn có những biểu hiện chống đối quyết liệt nhiều hơn. Quyền hạn
của Chấp hành viên còn hạn chế, chưa tương xứng với nhiệm vụ. Công việc rất khó khăn,
phức tạp, nhiều khi nguy hiểm đến tính mạng nhưng chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với
trách nhiệm và rủi ro nghề nghiệp mà họ đảm nhiệm.
Thứ ba, tình trạng quá tải công việc trong các cơ quan thi hành án dân sự. Số
lượng vụ việc mà các cơ quan thi hành án dân sự phải đảm nhiệm ngày càng tăng. Theo
số liệu của Cục Thi hành án dân sự thì, năm 2004, tổng số việc phải thi hành là 511.929
việc (trong đó, số thụ lý mới là 203.351 việc). Năm 2005, tổng số việc phải thi hành là:
533.344 việc, tăng 21.415 việc so với năm 2004 (trong đó, số thụ lý mới là 206.187 việc,
tăng 2.135 việc so với năm 2004). Năm 2006, tổng số vụ việc phải thi hành: 602.059
việc, tăng 40.879 việc so với năm 2005. Năm 2007, tổng số vụ việc phải thi hành là
648.266, tăng 46.207 việc so với năm 2006. Năm 2008, tổng số việc phải thi hành là
663.934 việc tăng 15.668 việc so với cùng kỳ năm 2007 (trong đó số việc thụ lý mới là
325.702 việc) [1,2,3,5]. Như vậy, bình quân mỗi năm lượng việc mà các cơ quan thi hành
án phải đảm nhiệm tăng trung bình hàng năm gần 10%. Số lượng các vụ việc tăng như
vậy, nhưng số biên chế tăng cho các cơ quan thi hành án hàng năm không đáng kể dẫn
đến tình trạng quá tải công việc của Chấp hành viên và cán bộ thi hành án. Sự quá tải này
cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả và chất lượng công việc của cán bộ, Chấp
hành viên cơ quan thi hành án.
Bảng 2.4: Cường độ lao động của Chấp hành viên
Năm
Số việc phải thi
hành
Tổng số Chấp hành
viên trên toàn quốc
Số việc trung bình một
Chấp hành viên phải
giải quyết
2005 533.344 2.144 249
2006 602.059 2.364 257
2007 648.266 2.648 245
2008 663.934 3183 209
Nguồn: Báo cáo thống kê hàng năm của Bộ Tư pháp về công tác thi hành án dân sự.
Số liệu trên cho thấy, trung bình một năm, một Chấp hành viên phải tổ chức thi
hành dứt điểm hơn 200 việc. Điều này không thể thực hiện được trên thực tế vì việc tổ
chức thi hành án phải tiến hành nhiều thủ tục theo quy định của pháp luật, Chấp hành
viên phải xuống tận tận nơi có tài sản hoặc tận nhà của đương sự để xác minh, đôn đốc,
giáo dục, thuyết phục họ thi hành án…, hơn nữa các đương sự không phải ai cũng ở gần
trụ sở cơ quan thi hành án nên mất rất nhiều thời gian, đặc biệt các tỉnh miền núi. Thực
tiễn cho thấy, nếu một Chấp hành viên phải tổ chức thi hành khoảng 20 vụ việc trong một
tháng, thì Chấp hành viên chỉ có đủ thời gian để đôn đốc, xác minh mỗi ngày một vụ
việc, hết một lượt 20 vụ việc này là cũng vừa hết tháng, lại quay lại xác minh, đôn đốc
lượt mới, vì vậy không còn thời gian để thực hiện những công việc khác như hòa giải, kê
biên tài sản, tổ chức cưỡng chế thi hành án… vốn là những việc phải mất rất nhiều thời
gian để chuẩn bị, phối hợp và tổ chức thực hiện. Nếu so sánh với một Thẩm phán trung
bình một tháng chỉ phải giải quyết từ 5 đến 7 vụ việc thì thấy rõ sự quá tải công việc của
Chấp hành viên. Qua nghiên cứu thực tế trong nhiều năm liên tiếp của Cục Thi hành án
dân sự - Bộ Tư pháp cho thấy, bình quân mỗi Chấp hành viên chỉ có thể thi hành xong
được khoảng 70 việc mỗi năm, số lượng công việc này cho phép Chấp hành viên vừa
đảm đương được nhiệm vụ vừa có thể nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và cập nhật các kiến thức mới hoặc các văn bản pháp luật mới để áp dụng trong công
tác chuyên môn.
Tình trạng quá tải này còn do công tác xã hội hóa về thi hành án dân sự chậm
được thực hiện. Điều này được thể hiện ở việc, một số nhiệm vụ có thể giao cho cá nhân,
tổ chức xã hội thực hiện nhằm giảm tải cho các cơ quan thi hành án, cho Chấp hành viên
nhưng hiện vẫn do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. Ví dụ việc xác minh điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án, việc tống đạt các văn bản, giấy tờ về thi hành án cho
đương sự và những người có liên quan và việc mở các dịch vụ về trông giữ tài sản thi hành
án ...
Thứ tư, do thiếu Chấp hành viên. Hiện nay, tình trạng thiếu Chấp hành viên diễn
ra khá phổ biến, nhưng vẫn chưa thể khắc phục vì nguồn cán bộ có trình độ cử nhân Luật
để bổ sung vào các cơ quan thi hành án dân sự gặp nhiều khó khăn không những ở các
tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, mà ngay cả ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí
Minh, thành phố Hà Nội... Nhiều nơi các cơ quan thi hành án được phân bổ biên chế từ
năm 2007, 2008 nhưng đến nay vẫn chưa tuyển đủ, theo báo cáo công tác thi hành án dân
sự năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009 của Cục thi hành án dân sự thuộc Bộ
Tư pháp đã khẳng định “Nhiều địa phương vẫn chưa tuyển đủ biên chế được giao do đó
tình trạng quá tải trong công việc xảy ra tại nhiều nơi. Cả nước còn 631 chỉ tiêu biên chế
ở các cơ quan thi hành án dân sự chưa được thực hiện, trong đó có một số địa phương
còn từ 15 chỉ tiêu biên chế trở lên như : Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng,
Nghệ An, Gia Lai, Long An, Quảng Ngãi, Đắc Lắc, Cao Bằng, Hà Tĩnh, Bình Định, Sơn
La, Bình Thuận, Tiền Giang, Sóc Trăng, Khánh Hòa, Đắc Nông…Tình trạng Chấp hành
viên, cán bộ thi hành án xin chuyển công tác, xin thôi việc vẫn chưa có chiều hướng giảm
(năm 2008 có 71 trường hợp xin chuyển công tác, 32 trường hợp xin nghỉ thôi việc”
trong hai năm 2006-2007 có 380 công chức xin nghỉ hoặc chuyển công tác, trong đó có
242 người xin chuyển công tác khác, 97 người xin nghỉ thôi việc, chỉ có 31 trường hợp là
nghỉ theo chế độ hưu trí và các lý do khác) [4]. Có đơn vị như Thi hành án dân sự Thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2007 có 19 người xin nghỉ việc hoặc chuyển công tác khác; 2
Trưởng Thi hành án quận, huyện và nhiều Chấp hành viên xin thôi làm nhiệm vụ thi hành
án để được làm công tác hành chính; hàng chục cử nhân Luật xin chấm dứt hợp đồng lao
động trước thời hạn [54]. Tình trạng cơ quan thi hành án dân sự chỉ có một Chấp hành
viên hoặc không có Thủ trưởng cơ quan vẫn chưa khắc phục được. Hiện nay, vẫn còn 01
đơn vị chưa có Trưởng thi hành án dân sự cấp tỉnh đó là thi hành án dân sự tỉnh Lâm
Đồng, 10 đơn vị cấp huyện chưa có Trưởng thi hành án, 13 đơn vị chỉ có 01 Chấp hành
viên, trong đó có một số địa phương còn có từ hai đơn vị thi hành án cấp huyện trở lên
chỉ có 01 Chấp hành viên như, Thi hành án dân sự tỉnh Yên Bái, tỉnh Điện Biên, Sơn La
là 03 đơn vị [5].
Thứ năm, ý thức pháp luật của một bộ phận người dân trong xã hội còn thấp. Để
Chấp hành viên có thể đảm nhận tốt vai trò là người tổ chức thi hành các bản án, quyết
định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định. Chấp hành viên rất cần
đến sự am hiểu pháp luật của nhân dân nói chung và của người phải thi hành án, người
được thi hành án nói riêng. Nhưng do trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn
chế, trong khi đó đội ngũ luật sư chưa có vai trò nhiều trong giai đoạn thi hành án và
cũng chưa có tổ chức Thừa phát lại để giúp đương sự hoàn thành nghĩa vụ xác minh điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án, do đó Chấp hành viên vẫn là người phải tiến
hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án để có thể giải quyết vụ án
được chính xác, hiệu quả. Điều đó chưa phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp mà Đảng
và Nhà nước đã đề ra.
Thứ sáu, cơ sở vật chất cho hoạt động thi hành án của Chấp hành viên còn hạn
chế và chế độ lương bổng của Chấp hành viên cũng chưa hợp lý. Nhiều trụ sở cơ quan thi
hành án dân sự cấp huyện điều kiện vật chất rất khó khăn, trụ sở xuống cấp nghiêm trọng
hoặc vẫn phải đi thuê trụ sở như thi hành án dân sự huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định
phải thuê nhà dân để làm trụ sở làm việc. Trang thiết bị, điều kiện làm việc của các cơ
quan thi hành án nhìn chung chưa đáp ứng đủ yêu cầu công việc. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động thi hành án của Chấp hành viên, nhất là Chấp hành viên Thi
hành án dân sự cấp huyện. Chế độ lương, phụ cấp của Chấp hành viên chưa hợp lý cũng
là nguyên nhân dẫn đến tiêu cực của một số Chấp hành viên. Một Chấp hành viên chỉ có
thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình và thi hành một cách công tâm khi mức lương của
họ đủ để bảo đảm cuộc sống ở mức khá trong xã hội. Tuy nhiên, nhìn chung hiện nay đời
sống của đội ngũ Chấp hành viên nước ta còn gặp nhiều khó khăn, nhất là Chấp hành
viên Thi hành án dân sự cấp huyện, lương và các chế độ ưu đãi không đủ nuôi Chấp hành
viên và gia đình. Trong những năm gần đây, đã có hiện tượng Chấp hành viên, cán bộ cơ
quan thi hành án xin chuyển sang công tác khác, tiêu biểu là ở các cơ quan Thi hành án
dân sự tại thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học luật hệ chính quy,
loại khá, giỏi không tha thiết xin vào làm việc trong ngành thi hành án, nhất là ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa.
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, đó là việc Chấp hành viên không thường xuyên cập nhật pháp luật, không
tự nghiên cứu để tiếp thu những kiến thức mới mà chỉ làm theo kinh nghiệm dẫn đến vi
phạm pháp luật; hoặc sa sút về phẩm chất đạo đức, cố tình vi phạm pháp luật trong khi tổ
chức thi hành án làm cho các cơ quan chức năng và cơ quan chủ quản phải xử lý bằng biện
pháp hành chính thậm chí phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Một số Chấp hành viên còn
có tâm lý bình quân chủ nghĩa, ngại va chạm, sợ bị kiện cáo, bản lĩnh nghề nghiệp kém,
ngại khó, ngại khổ... nên chỉ giải quyết những vụ việc đơn giản, số lượng tiền và tài sản
phải thi hành nhỏ, người phải thi hành án có ý thức chấp hành pháp luật tốt với mục đích
chỉ cần hoàn thành số lượng công việc mà cơ quan đã định mức mà không muốn tập
trung giải quyết những vụ việc khó khăn, phức tạp theo đúng nghĩa vụ của Chấp hành
viên là phải kịp thời tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định
của Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Một số Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự chưa thực sự tích cực thực
hiện nhiệm vụ, chưa có kế hoạch cụ thể trong việc tổ chức việc thi hành án, thậm chí có
trường hợp ngại va chạm, không kiên quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế khi người phải
thi hành án có điều kiện thi hành. Có trường hợp Chấp hành viên, cán bộ thi hành án
chưa nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật trong tác nghiệp thi hành án còn thể hiện tính
cẩu thả, tùy tiện dẫn đến sai phạm. Chập hành viên chưa thực sự tích cực, chủ động trong
công việc, còn trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên hoặc chỉ tiến hành các vụ việc thi
hành án khi có người nhắc nhở…Trong công tác thi hành án vẫn còn tình trạng nhiều cán
bộ chưa thực hiện tốt quy định về kỷ luật, kỷ cương hành chính trong công tác. Năm
2008, đã xử lý kỷ luật 30 trường hợp (tăng 4 trường hợp so với cùng kỳ năm 2007) với
các hình thức: khiển trách 7 trường hợp, cảnh cáo 14 trường hợp, hạ bậc lương 01 trường
hợp, hạ bậc lương 01 trường hợp, cách chức 03 trường hợp, buộc thôi việc 03 trường hợp
và sa thải 01 trường hợp [6].
Thứ hai, do lịch sử để lại, trước đây, khi công tác thi hành án dân sự còn là một bộ
phận của các Tòa án nhân dân địa phương, công tác thi hành án dân sự chưa được chú
trọng đúng mức nên chất lượng đội ngũ Chấp hành viên ít được quan tâm. Hơn nữa, do
họ đã công tác nhiều năm trong thời kỳ bao cấp nên những kiến thức được trang bị không
còn phù hợp, nhưng họ lại không có tư tưởng trau dồi kiến thức để hoàn thành nhiệm vụ.
Và khi công tác thi hành án dân sự được chuyển giao sang các cơ quan thuộc Chính phủ,
phần lớn đội ngũ Chấp hành viên được bàn giao là những người đã nhiều tuổi, kiến thức
lại không được hình thành một cách có hệ thống nên họ thường làm theo kinh nghiệm
nhiều hơn là áp dụng các quy định của pháp luật nên đã gặp nhiều khó khăn khi phải giải
quyết những loại vụ việc có tính chất phức tạp và mới phát sinh trong nền kinh tế thị
trường.
Những vấn đề trên là vấn đề dẫn đến những hạn chế hiệu quả hoạt động của
Chấp hành viên làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong thời gian
qua và đã không đáp ứng được sự mong đợi của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vì vậy,
cần phải có những giải pháp để khắc phục những hạn chế này để bảo đảm hiệu quả hoạt
động của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự, nhất là khi Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TẠI VIỆT NAM
3.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH
VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM THEO YÊU CẦU CẢI
CÁCH TƯ PHÁP
Để thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng ta về cải cách tư pháp trong những năm tới. Mục tiêu
của cải cách tư pháp là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 cũng chỉ rõ: xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách
tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý của từng cơ quan, chức
danh tư pháp. …Hai Nghị quyết trên đã nhấn mạnh “Xây dựng Bộ luật thi hành án điều
chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án; xác định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ
quản lý nhà nước thống nhất công tác thi hành án; từng bước xã hội hoá hoạt động thi
hành án” và chỉ rõ lộ trình cụ thể từ nay đến năm 2010 phải “Chuẩn bị các điều kiện về
cán bộ, cơ sở vật chất để thực hiện việc chuyển giao tổ chức và công tác thi hành án cho
Bộ Tư pháp”.
Vấn đề hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên
vừa là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của Chiến lược cải cách tư pháp, vừa là nhiệm
vụ của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Căn cứ vào chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, việc hoàn thiện
các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án
nói chung, trong hoạt động thi hành án dân sự nói riêng cần tuân theo những phương
hướng cơ bản sau đây:
Một là, nâng cao tính độc lập, chủ động của Chấp hành viên trong việc việc tổ chức
thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh và các quyết định khác do pháp luật quy định.
Hai là, tăng quyền hạn cho Chấp hành viên, đồng thời nâng cao trách nhiệm của
Chấp hành viên đối với các hành vi và quyết định về thi hành án của mình.
Ba là, tiếp tục mở rộng các quyền năng cho Chấp hành viên để Chấp hành viên
hoàn toàn chủ động và độc lập trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của
Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định.
Để thực hiện các phương hướng nói trên, luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn
thiện sau đây:
3.2. GIẢI PHÁP VỀ HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN
3.2.1. Hoàn thiện về pháp luật có liên quan đến công tác thi hành án dân sự
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự:
Đó làquyền của Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của người
phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án. Hiện nay điều 74 Luật
thi hành án dân sự năm 2008 đã quy định “Chấp hành viên có quyền yêu cầu Tòa án xác
định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm đảm thi
hành án”. Đây là một quy định rất hữu hiệu trong việc thi hành án về tài sản chung của
Chấp hành viên nói riêng và của cơ quan thi hành án dân sự nói chung, nhưng tại Khoản
3 Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 thì lại quy định “Cơ quan, tổ chức trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa
án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”. Theo
Bộ luật tố tụng dân sự, Chấp hành viên chỉ được khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi
ích công cộng, lợi ích Nhà nước chứ không phải để bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong khi đó, Luật thi hành án dân sự năm 2008 lại quy định Chấp hành viên có quyền
yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
để thi hành án. Như vậy giữa các quy định của Luật thi hành án dân sự và Bộ luật tố tụng
dân sự chưa có sự thống nhất. Do đó, nhiều vụ việc thi hành án, Chấp hành viên đã thực
hiện quyền yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án để thi dứt
điểm vụ việc nhưng Tòa án đã căn cứ vào Khoản 3 Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự đã từ
chối không thụ lý yêu cầu của Chấp hành viên. Do đó các vụ án kê biên tài sản chung (trừ
trường hợp xác định tài sản chung của vợ chồng thì được giải quyết theo Luật hôn nhân
và gia đình) không thể tiếp tục thi hành được mà phải dừng lại ở đó. Và vụ việc coi như
không thể thi hành án được vì người phải thi hành án không còn tài sản nào khác nhưng
không biết đến bao giờ mới kết thúc được. Vì vậy, các quyền hạn của Chấp hành viên
được khả thi thì các cơ quan có thẩm quyền cần sớm sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 162
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 để phù hợp với Điều 74 Luật thi hành án dân sự năm
2008, cụ thể như sau: nên quy định Chấp hành viên có quyền khởi kiện vụ án dân sự
trong trường hợp cần thiết để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, người
phải thi hành án.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự.
+ Bổ sung quy định về điều kiện xét miễn, giảm thời gian chấp hành hình phạt
theo hướng coi thái độ và kết quả thi hành nghĩa vụ dân sự là một trong những điều kiện
xét ưu tiên miễn giảm thời gian chấp hành hình phạt.
+ Sửa đổi quy định về tội không chấp hành án (Điều 304 BLHS năm 1999) theo
hướng thay điều kiện “đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết” bằng điều kiện “đã
bị phạt tiền” nhằm phù hợp với thực tiễn và đặc thù của THADS.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về quyền hạn cho Chấp hành viên trong công
tác thi hành án dân sự
Thứ nhất, bổ sung cho Chấp hành viên một số quyền hạn.
Để bảo đảm các cơ sở pháp lý hữu hiệu cho Chấp hành viên thực thi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình một cách hiệu quả thì pháp luật thi hành án dân sự cần bổ sung cho
Chấp hành viên quyền khám xét người, nơi ở, nơi cất dấu tài sản, tài liệu của người phải
thi hành án. Bổ sung quyền bắt người chống người thi hành công vụ khi cần thiết.
Thứ hai, để bảo vệ cán bộ, Chấp hành viên cơ quant hi hành án dân sự cũng như
các lực lượng tham gia cưỡng chế, cần sớm có những quy định cụ thể hơn về trách nhiệm
của cơ quan công an trong việc xây dựng kế hoạch cưỡng chế, bảo vệ người và tài sản
trong quá trình tổ chức cưỡng chế. Cần đưa nhiệm vụ này vào nhiệm vụ chính trị của cơ
quan công an
Thứ ba, quy định những chế tài để bảo đảm quyền hạn và tính độc lập, chỉ tuân theo
pháp luật của Chấp hành viên trong khi tổ chức thi hành án, cụ thể là:
- Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi
hành án, Chấp hành viên đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Người nào lợi dụng
chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án hoặc ép buộc Chấp hành viên thi hành
án trái pháp luật, phá hủy niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu,
hủy hoại tài sản bị kê biên thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ
quan thi hành án, Chấp hành viên trong khi tổ chức thi hành án. Nếu những cơ quan, tổ
chức này không thực hiện các yêu cầu của Chấp hành viên thì tùy theo tính chất và mức
độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường; nếu
là cá nhân thì có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Thứ tư, giảm bớt sự can thiệp không cần thiết của các cơ quan, tổ chức vào hoạt
động thi hành án dân sự
Hiện nay ở Việt Nam, có rất nhiều các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ
chức chính trị - xã hội được tham gia vào một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào công tác
thi hành án, ví dụ Ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc, Ban chỉ đạo thi hành án các cấp, các hiệp hội, đoàn thể… Do đó, phần
nào đã làm giảm tính độc lập, chủ động, tự quyết và tự chịu trách nhiệm của các Chấp
hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án. Ví dụ, quy định về quyền của Ủy ban nhân
dân các cấp trong việc chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế, yêu cầu báo cáo công tác thi hành
án… đôi lúc bị lạm dụng, thậm chí, đôi khi đã trở thành sự can thiệp, yêu cầu trì hoãn thi
hành án không đúng pháp luật (đã phân tích ở trên). Hay sự can thiệp quá sâu, rộng của
các cơ quan khác vào hoạt động thi hành án đã dẫn đến nhiều trường hợp bản án đã có
hiệu lực pháp luật, đã được đưa ra thi hành án hoặc đang tổ chức cưỡng chế, nhưng vẫn
có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hoãn hoặc kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm; giải pháp cho trường hợp bản án, quyết định của tòa án đã được thi hành
xong nhưng bị hủy do quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên xử theo kết quả ngược
lại và trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong các trường hợp này được xác định
như thế nào cũng chưa được quy định rõ. Chính những hạn chế này đã làm cho các cơ
quan thi hành án, các Chấp hành viên gặp rất nhiều lúng túng dẫn đến nhiều trường hợp
phán quyết của tòa án bị kéo dài, chậm trễ thi hành hoặc không thi hành được.
Để giải quyết vấn đề này, hệ thống pháp luật cần được sửa đổi theo hướng quy
định các cơ quan như Ủy ban nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc, Viện Kiểm sát nhân
dân... có nhiệm vụ hỗ trợ thi hành án khi có yêu cầu của cơ quan thi hành án, chứ không
nên có các quyền mang tính chất quyết định và chỉ đạo công tác thi hành án như hiện nay.
Ban Chỉ đạo thi hành án các cấp cần thực hiện đúng chức năng của mình là làm tốt công
tác tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và cấp trên tăng cường sự chỉ đạo
phối hợp trong công tác thi hành án dân sự. Các cơ quan, tổ chức phải gương mẫu trong việc
thi hành bản án, quyết định của Tòa án, nếu cố tình dây dưa, cản trở hoặc can thiệp vào hoạt
động thi hành án cần được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Đồng thời, phải
nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của Tòa án trong quá trình xét xử, nhằm bảo đảm
nguyên tắc Tòa án phải chịu trách nhiệm đến cùng đối với các phán quyết mà tòa án đã
tuyên. Nâng cao trình độ chuyên môn và chất lượng xét xử của Thẩm phán nhằm hạn chế tới
mức tối đa sự sai lầm trong các phán quyết của tòa án do thẩm phán bị hạn chế năng lực,
trình độ chuyên môn, qua đó hạn chế tới mức cao nhất khả năng một bản án, quyết định của
Tòa án phải xét xử đi, xét xử lại nhiều lần, tăng cường tính chung thẩm của bản án. Làm tốt
được điều này sẽ bảo đảm đảm rằng, phán quyết của Tòa án, ngay cả ở cấp sơ thẩm, đã đi
đến kết luận xứng đáng, có giá trị ràng buộc và có thể thi hành ngay lập tức, trừ khi có lệnh
của Tòa án có thẩm quyền về việc hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án chứ không phải
hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án của bất kỳ cơ quan nào khác. Thực hiện tốt giải pháp
này, sẽ là cơ sở bảo đảm việc thi hành án ở Việt Nam được nhanh chóng, hiệu quả, góp phần
giảm dần tình trạng án dân sự tồn đọng như hiện nay.
Thứ năm, các văn bản hướng dẫn Luật thi hành án dân sự cần có những quy định
cụ thể hơn về một số vấn đề như, thời gian ra quyết định cưỡng chế. Thời gian định giá
tài sản kê biên...Hiện nay, Luật thi hành án dân sự năm 2008 chưa có quy định cụ thể về
thời gian ra quyết định cưỡng chế do đó các Chấp hành viên đã thực hiện việc ra quyết
định cưỡng chế rất khác nhau thiếu sự thống nhất. Vì vậy, pháp luật về thi hành án cần có
quy định cụ thể hơn chẳng hạn, trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày hết thời gian tự nguyện
thi hành án mà người phải thi hành án có điều kiện thi hành án thì Chấp hành viên phải ra
quyết định cưỡng chế thi hành án. Trừ trường hợp cần cưỡng chế ngay. Tuy nhiên, trong
quyết định cưỡng chế không nên quy định thời gian tổ chức cưỡng chế vì, việc tổ chức
cưỡng chế còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khách quan khác như sự ủng hộ, hợp
tác của chính quyền địa phương, Ban chỉ đạo thi hành án, cơ quan công an…; quy định
cụ thể hơn về thời gian định giá, xác định giá của Chấp hành viên trong trường hợp
không thực hiện được việc ký kết Hợp đồng thẩm định giá….; Quy định rõ ràng hơn về
thời gian cơ quan công an xây dựng kế hoạch bảo vệ cưỡng chế….
3.2.3. Cần sớm xây dựng Bộ luật thi hành án
Quán triệt và thể chế hoá chủ trương “sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi
hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý Nhà nước về công tác thi hành án
vào Bộ Tư pháp” (Nghị quyết Trung ương tám khoá VII) và để “Kiện toàn các tổ chức thi
hành án, bảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các bản án và quyết định của Tòa án, của
tổ chức trọng tài và của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; chấn chỉnh các trại giam để
giáo dục cải tạo tốt phạm nhân. Chuẩn bị điều kiện để tiến tới giao cho một cơ quan quản lý
tập trung thống nhất công tác thi hành án” (Nghị quyết Trung ương ba khoá VIII) cũng như
các Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị liên quan đến
công tác thi hành án; thực hiện việc đổi mới tổ chức, hoạt động của cơ quan thi hành án, tăng
cường hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức. Việc giao cho một cơ quan chức năng giúp Chính phủ quản lý tập
trung, thống nhất công tác thi hành án là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với yêu cầu sắp xếp
lại bộ máy Nhà nước theo hướng gọn nhẹ, hợp lý và có hiệu quả. Mục tiêu là nhằm bảo đảm
thực hiện nghiêm chỉnh tất cả các bản án hình sự của Tòa án, cũng như các bản án dân sự,
kinh tế, lao động, hành chính và các quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam và Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Vì vậy, Bộ luật thi hành án cần sớm được xây dựng để điều
chỉnh tất cả các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thi hành án, gồm thi hành án hình sự và thi
hành án dân sự. Trên cơ sở đó khi xây dựng Bộ luật thi hành án cần phải tạo ra một cơ chế
phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa các cơ quan tư pháp, Tòa án, Kiểm sát, Công an và chính
quyền địa phương trong việc tổ chức thi hành án. Các chế định pháp luật thi hành án là chuẩn
mực cho toàn bộ tổ chức và hoạt động thi hành án, bảo đảm tính dân chủ, công bằng, góp
phần ổn định các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tập thể,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và Bộ luật thi hành án phải thể hiện rõ quan điểm cải
cách hành chính, cải cách tư pháp, vừa phải kế thừa, vừa phải phát triển một bước căn bản
pháp luật thi hành án của nước ta trong những năm qua, vừa phải chọn lọc các kinh nghiệm
của thế giới để kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác thi hành án, đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
3.2.4. Kiến nghị về các biện pháp bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa
vụ của Chấp hành viên
Để Chấp hành viên thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật, thì cần phải có những biện pháp đồng bộ bảo đảm cho hoạt động của Chấp hành
viên về nhiều mặt. Các biện pháp này ở nước ta tuy đã có nhưng chưa đầy đủ, chưa được thực
hiện tốt. Do đó, học viên xin kiến nghị các biện pháp sau đây để bảo đảm thực hiện quyền và
nghĩa vụ của Chấp hành viên.
Thứ nhất: nâng cao trình độ, năng lực của Chấp hành viên
Trình độ, năng lực chuyên môn là một trong những yếu tố rất quan trọng bảo
đảm cho Chấp hành viên có thể tự tin độc lập tổ chức thi hành các bán án, quyết định. Để
nâng cao trình độ, năng lực của Chấp hành viên, một mặt cần chăm lo bồi dưỡng Chấp
hành viên đương nhiệm theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật,
kinh tế-xã hội, hội nhập quốc tế, bồi dưỡng kỹ năng thi hành án và kiến thức thực tiễn,
mặt khác chú trọng đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ
nguồn để bổ nhiệm Chấp hành viên. Đào tạo Chấp hành viên phải theo hướng ưu tiên bồi
dưỡng kỹ năng như kỹ năng đọc, phân tích bản án, quyết định được đưa ra thi hành, kỹ
năng xác minh điều kiện thi hành án, xác minh tài sản thi hành án của người phải thi hành
án, kỹ năng cưỡng chế thi hành án.... theo hướng “cầm tay chỉ việc” “tăng cường thực
hành trên lớp”, không đào tạo theo phương pháp thuyết trình, đặc biệt tránh việc đào tạo
theo bằng cấp, học vị.
Thứ hai: đổi mới chế độ đãi ngộ đối với Chấp hành viên và bảo đảm cơ sở vật
chất cho hoạt động thi hành án của Chấp hành viên
Để bảo đảm cho Chấp hành viên chuyên tâm thực hiện tốt công việc tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án, của Trọng tài và của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh một cách độc lập, công bằng, đúng pháp luật, một vấn đề rất quan trọng là
phải có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Chấp hành viên, phù hợp với đặc thù của hoạt
động thi hành án. Nếu lương Chấp hành viên cao sẽ bảo đảm cho người Chấp hành viên
có thể yên tâm hoàn thành tốt công việc được giao, giúp họ phát huy được tính độc lập,
chủ động của mình trong việc thi hành án. Ngược lại, chỉ riêng việc trả lương thấp cũng
đã làm tổn hại đến tính độc lập và công tâm của Chấp hành viên. Ở các nước có nền tư
pháp phát triển như Nhật Bản, Singapore, lương của Chấp hành viên được xếp vào các
thang bậc đặc biệt và trong suốt nhiệm kỳ, thu nhập bằng lương của họ không bị cắt giảm
vì bất kỳ lý do nào; cùng với đó là một chế độ hưu trí thỏa đáng. Đây là kinh nghiệm mà
Việt Nam có thể tham khảo.
Thứ ba: Tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn cho Chấp hành viên thi
hành nhiệm vụ.
Cho đến nay, pháp luật hiện hành của nước ta chưa có quy định cụ thể về các
biện pháp bảo đảm an toàn cho Chấp hành viên, trong khi đó nhiều quốc gia có quy định
các biện pháp bảo vệ cần thiết để bảo đảm cho hoạt động của Chấp hành viên. Có thể nói,
vấn đề bảo đảm an toàn cho Chấp hành viên ở nước ta đang trong tình trạng báo động.
Có nhiều vụ việc thi hành án nhất là các vụ việc ở vùng Tây Nam bộ có nhiều Chấp hành
viên đã bị hăm dọa sẽ cho người xô xe máy vào Chấp hành viên, dọa giết...Kể cả những
trường hợp đi xác minh điều kiện thi hành án của Chấp hành viên khi đến nhà đương sự
cũng đã bị đương sự tấn công như chửi rủa, đe dọa “nếu mày bước vào cổng nhà tao tao
sẽ giết chết ngay”. Nhiều Chấp hành viên, nhất là Chấp hành viên nữ đành bỏ về không
thực hiện được nhiệm vụ xác minh của mình...Vì vậy, một việc cấp bách hiện nay là cần
nghiên cứu áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn cho Chấp hành viên bao gồm cả các
biện pháp an ninh, các biện pháp pháp lý (ví dụ: quy định tăng nặng trách nhiệm pháp lý
đối với các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của Chấp hanh viên và người
thân thích của Chấp hành viên) và các biện pháp xã hội (chẳng hạn như bảo hiểm nghề
nghiệp)...
Thứ tư: hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp và đẩy mạnh hơn nữa công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân
dân
Trong điều kiện mở rộng nghĩa vụ xác minh tài sản của đương sự, đặc biệt quy
định về nghĩa vụ chứng minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án đối với
người được thi hành án khi làm đơn yêu cầu thi hành án. Việc thỏa thuận thi hành án của
các đương sự...thì việc hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng và
thừa phát lại có ý nghĩa rất quan trọng, tạo điều kiện cho người được thi hành án chủ
động thu thập các thông tin về tài sản hoặc nhờ các tổ chức có thẩm quyền xác minh điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án khi họ không có điều kiện xác minh để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, giảm bớt gánh nặng cho Chấp hành viên trong việc
xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng
cao ý thức pháp luật cho các thành viên trong xã hội, bởi công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật không những góp phần hình thành ở người dân thái độ, ý thức chấp hành pháp
luật, mà còn giúp họ biết sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, khi ý thức pháp luật của các đương sự được
nâng cao thì họ sẽ tích cực, chủ động thi hành án hơn kể cả người được thi hành án và
người phải thi hành án, các đương sự dễ ràng đi đến việc thỏa thuận với nhau hơn. Đặc
biệt người phải thi hành án sẽ có ý thức tự nguyện thi hành các nghĩa vụ của mình khi đã
được Tòa án xét xử một cách công tâm. Không những thế, ý thức pháp luật của người
dân được nâng lên sẽ góp phần phát huy được vai trò giám sát của họ đối với hoạt động
thi hành án của Chấp hành viên, buộc Chấp hành viên phải có trách nhiệm hơn đối với
mọi việc làm của mình.
Chấp hành viên về cơ bản đã thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình trong
hoạt động thi hành án dân sự. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định pháp luật về địa vị
pháp lý của Chấp hành viên trong thực tiễn thi hành án dân sự vẫn còn nhiều bất cập, tồn
tại. Một số điều luật của Luật tố tụng dân sự không được thực hiện đầy đủ, làm ảnh
hưởng đến chất lượng, hiệu quả thi hành án. Hoạt động của Chấp hành viên trong việc tổ
chức cưỡng chế thi hành án chưa thực sự đáp ứng được sự mong đợi của Chấp hành viên
cũng như của xã hội. Đó là sự chủ động và độc lập của chấp hành viên trong việc tổ chức
cưỡng chế từ khâu ra quyết định cưỡng chế dến khâu thực hiện cưỡng chế. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, bao gồm cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan.
Việc đánh giá đúng các nguyên nhân là cơ sở quan trọng của các kiến nghị nhằm khắc
phục những bất cập, tồn tại hiện nay và tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về địa
vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án nói chung và trong thi hành án dân sự
nói riêng, bao gồm các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật và các kiến nghị bảo đảm thực
hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên.
KẾT LUẬN
1. Trong thể chế tư pháp, ở lĩnh vực thi hành án dân sự, Chấp hành viên và chỉ có
Chấp hành viên mới là người được Nhà nước trao cho quyền tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án, các quyết định của Trọng tài và của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh. Tổng thể các quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên phát sinh trong quá trình tổ
chức thi hành án do pháp luật quy định, thể hiện vị trí của Chấp hành viên trong mối
quan hệ với các chủ thể khác của quan hệ pháp luật, với những nét đặc trưng của thi hành
án dân sự đã tạo thành địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Việc
xác định địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự nói riêng và trong thi
hành án nói chung chịu sự quy định và chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như quan
niệm về thi hành án dân sự, đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự, đặc điểm và tính
chất của hoạt động thi hành án dân sự. Điều đó cho thấy việc hoàn thiện pháp luật về địa
vị pháp lý của Chấp hành viên liên quan đến việc cải cách toàn bộ hệ thống tư pháp, chứ
không chỉ đơn thuần là sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật cụ thể.
2. Địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự đã được xác định
khá đầy đủ trong các quy định pháp luật hiện hành, từ nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp
hành viên, điều kiện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chấp hành viên, đến các quy định
về thủ tục tiến hành từng khâu của tiến trình thi hành các bản án, quyết định. Tuy nhiên,
các quy định này cần tiếp tục được hoàn thiện để xác định đúng và rõ hơn địa vị pháp lý
của Chấp hành viên với tư cách là người trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định
của Tòa án và các quyết định của Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
3. Trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự, Chấp hành viên về cơ bản đã thực
hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình; tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập, tồn
tại trong việc thực hiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên.
Trên cơ sở chỉ ra những bất cập, tồn tại và các nguyên nhân của chúng, luận văn đề xuất
các kiến nghị nhằm khắc phục những bất cập, tồn tại đó và tiếp tục hoàn thiện địa vị pháp
lý của Chấp hành viên trong giai đoạn thi hành án dân sự, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả của công tác thi hành án. Các kiến nghị được đặt trong tổng thể các biện pháp
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra, với các phương hướng cơ bản là: nâng cao tính độc
lập của Chấp hành viên; tăng quyền hạn cho Chấp hành viên, đồng thời nâng cao trách
nhiệm của Chấp hành viên đối với các hành vi và quyết định về thi hành án của mình;
tiếp tục mở rộng quyền hạn của Chấp hành viên như quyền khám xét người và tài sản của
người phải thi hành án, để Chấp hành viên thực sự là người bảo vệ các quyền lợi hợp
pháp của đương sự.
4. Các kiến nghị bao gồm sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật tố
tụng hình sự và Bộ luật hình sự như:
Quyền khởi kiện của Chấp hành viên trong việc xác định tài sản của người phải thi
hành án; bổ sung quy định về điều kiện xét miễn, giảm thời gian chấp hành hình phạt
theo hướng coi thái độ và kết quả thi hành nghĩa vụ dân sự là một trong những điều kiện
xét ưu tiên miễn giảm thời gian chấp hành hình phạt; sửa đổi quy định về tội không chấp
hành án (Điều 304 Bộ luật hình sự năm 1999) theo hướng thay điều kiện “đã bị áp dụng
biện pháp cưỡng chế cần thiết” bằng điều kiện “đã bị phạt tiền” nhằm phù hợp với thực
tiễn và đặc thù của thi hành án dân sự.
NHỮNG BÀI BÁO ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ NĂM 2008-2009
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1. Nguyễn Thị Phíp (2008), "Bảo quản tài sản kê biên thi hành án", Tạp chí nghề luật -
Học viện Tư pháp, (3).
2. Nguyễn Thị Phíp (2009), "Tổng quan về những điểm mới của Luật thi hành án dân sự
năm 2008", Tạp chí nghề luật - Học viện Tư pháp, (2), tr.4-10.
3. Nguyễn Thị Phíp (2009), "Phí thi hành án theo Luật thi hành án dân sự năm 2008-
một số vưỡng mắc cần được bổ sung hướng dẫn", Tạp chí nghề luật - Học viện
Tư pháp, (2), tr.49-54.
4. Nguyễn Thị Phíp (2009), "Các biện pháp bảo đảm thi hành án", Tạp chí nghề luật -
Học viện Tư pháp, (2), tr.61-65.
5. Nguyễn Thị Phíp (2009), "Định giá tài sản kê biên theo Luật thi hành án dân sự năm
2008", Tạp chí nghề luật - Học viện Tư pháp, (2), tr.71-75.
6. Nguyễn Thị Phíp (2009), Hướng dẫn việc thu phí thi hành án dân sự, Sổ tay Chấp
hành viên năm 2009 của Học viện Tư pháp.
7. Nguyễn Thị Phíp (2009), Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự, Sổ tay Chấp hành viên
năm 2009 của Học viện Tư pháp.
8. Nguyễn Thị Phíp (2009), Kỹ năng ủy thác thi hành án dân sự, Sổ tay Chấp hành viên
năm 2009 của Học viện Tư pháp.
9. Nguyễn Thị Phíp (2009), Kỹ năng cưỡng chế bằng biện pháp kê biên, xử lý tài sản
của người phải thi hành án, Sổ tay Chấp hành viên năm 2009 của Học viện Tư
pháp.
10. Nguyễn Thị Phíp (2009), Kỹ năng thi hành án phần dân sự trong bản án, quyết định
hình sự, Sổ tay Chấp hành viên năm 2009 của Học viện Tư pháp.
Ngoài ra, còn nhiều công trình trong tập bài giảng Kỹ năng thi hành án dân sự
của Học viện Tư pháp đã được đưa vào giảng dạy cho lớp đào tạo nghiệp vụ thi hành án
khóa VIII/2009.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư pháp (2003), Báo cáo tổng kết 10 năm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp (2008), Báo cáo Tổng kết thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 và thực hiện việc chuyển giao một số vụ việc thi hành án dân sự có giá trị
không quá 500.000 đồng cho Ủy ban nhân dân cấp xã trực tiếp đôn đốc thi
hành, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2008), Báo cáo Tổng kết công tác tư pháp năm 2007 và phương hướng,
nhiệm vụ công tác năm 2008, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2008), Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm tra của Uỷ ban Tư pháp
về dự án Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (2009), Báo cáo tổng kết công tác tư pháp năm 2008 và phương hướng,
nhiệm vụ công tác năm 2009.
6. Bộ Tư pháp (2009), Tài liệu tập huấn Luật thi hành án dân sự năm 2008.
7. Chính phủ (2004), Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ
quy định thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án
dân sự.
8. Chính phủ (2005), Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ về cơ
quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức
làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
9. Chính phủ (2005), Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về
bán đấu giá tài sản, Hà Nội.
10. Chính phủ (2009), Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục
thi hành án dân sự .
11. Chính phủ (2009), Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí
Minh.
12. Cục Quản lý Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (1986), Sổ tay Chấp hành viên, Tài
liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số vấn đề trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà
Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 1/8/2007 của Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, Hà Nội.
20. Hồ Chí Minh (1950), Bài nói tại hội nghị cán bộ ngành Tư pháp, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật – Bộ Tư pháp, Số chuyên đề Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và
tư pháp, Hà Nội, 2004.
21. Học viện Tư pháp (2005), Kỹ năng thi hành án dân sự, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
22. Học viện Tư pháp (2009), Sổ tay Chấp hành viên, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
23. Hội đồng Nhà nước (1989), Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989
24. Jean-Francois Blarel, Đại sứ Cộng hòa Pháp tại Việt Nam (2006), Diễn văn khai mạc
Hội thảo quốc tế "Các mô hình tổ chức thi hành án trên thế giới", Hà Nội ngày
17 và 18/4/2006, Kỷ yếu Hội thảo Nhà pháp luật Việt Pháp, Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Mạnh (2007), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân, vì dân trong công cuộc đổi mới, Tài liệu học tập và
nghiên cứu môn Lý luận về Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
26. Nguyễn Hiền Nhân (2001), Xác định loại tố tụng của thi hành án dân sự, Tin thi
hành án dân sự - số 5, Cục Quản lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Hà Nội.
27. Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam
hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
28. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
29. Quốc hội (2001), Luật 32/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về Tổ chức Chính phủ, Hà
Nội.
30. Quốc hội (2002), Luật 33/2002/QH10 ngày 2/4/2002 về tổ chức Tòa án nhân dân, Hà
Nội.
31. Quốc hội (2002), Luật 34/2002/QH10 ngày 2/4/2002 về tổ chức Viện Kiểm sát nhân
dân, Hà Nội.
32. Quốc hội (2003), Luật 11/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
33. Quốc hội (2008), Luật 26/2008/QH12 ngày 14/11/2008 Luật thi hành án dân sự, Hà
Nội.
34. Quốc hội (2008), Nghị quyết của Quốc hội Khoá XII, kỳ họp thứ 4 ngày 14/11/2008
về việc thi hành Luật thi hành án dân sự.
35. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp (2005), Số chuyên đề về Bộ luật Thi hành
án (dự thảo), Hà Nội.
36. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp (2007), Số chuyên đề về Cải cách tư
pháp, Hà Nội.
37. Tạp chí nghề luật - Học viện Tư pháp (2009), số 01/2009;
38. Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định: Công văn số 177/BC-THA ngày 03/5/2007;
39. Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định: Công văn số 16/BC-THA ngày 10/5/2007;
40. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 về việc tiếp
tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
41. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), tập 3, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
42. Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa – Nxb Tư pháp, Hà Nội.
43. Từ điển Tiếng Việt (2005), Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà
Nẵng.
44. Trung tâm tin học – Văn phòng Quốc hội (2008), Bản tổng hợp thảo luận tại hội
trường về dự án Luật Thi hành án dân sự, ngày 23 và 24/5/2008 (ghi theo băng
ghi âm), Hà Nội.
45. Uông Chu Lưu (chủ nhiệm đề tài, 2006), Đề tài KX.04.06 về Cải cách các cơ quan
tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực
xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, Hà Nội.
46. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.
47. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh 13/2004/PL-UBTVQH11 này
14/01/2004 về Thi hành án dân sự, Hà Nội.
48. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2000), Tổng hợp các kiến nghị khoa học góp
phần đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, Thông tin khoa
học pháp lý, Hà Nội.
49. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2002), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động
thi hành án hiện nay, Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội
50. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi
mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, Báo cáo
phúc trình đề tài cấp nhà nước độc lập, Hà Nội.
51. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2008), Thông tin khoa học pháp lý, tháng
4/2008 trang 123.
52. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kết luận số 125/KL-VKSTC-V10 ngày 21/10/2006 về
việc kiểm tra, thẩm định một số nội dung báo cáo tự kiểm tra của Thi hành án
dân sự thành phố Hồ Chí Minh.
53. Nguyễn Văn Yểu – Lê Hữu Nghĩa (đồng chủ biên, 2006), Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
54. Website www.vnexpess.vn, Nhiều nhân viên bỏ việc, án TP HCM bị đình trệ, Tin
nhanh Việt nam, ngày 01/11/2007.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP
HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI
VIỆT NAM
8
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự
tại Việt Nam
8
1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của Chấp hành viên 30
1.3. Tiêu chí hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành
án dân sự tại Việt Nam
33
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
CHẤP HÀNH VIÊN VÀ VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY
ĐỊNH ĐÓ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT
NAM
36
2.1. Quá trình hình thành và phát triển công tác thi hành án dân sự ở Việt
Nam
36
2.2. Pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự tại Việt Nam
45
2.3. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự từ năm 2004 đến nay
78
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ
PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
114
3.1. Quan điểm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự tại Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp
114
3.2. Giải pháp về hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên 115
KẾT LUẬN 125
NHỮNG BÀI BÁO ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ NĂM 2008-2009 LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
127
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 128
Danh môc c¸c b¶ng
Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự (về số việc) 81
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự (về tiền) 81
Bảng 2.3: Kết quả tự nguyện thi hành án qua các năm 93
Bảng 2.4: Cường độ lao động của Chấp hành viên 108
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22_4681.pdf