Từ sau đổi mới 1986 đến nay, Nhà nước ta đã có những thành tựu trong việc xây dựng khung pháp lý cho sự vân hành của cơ chế kinh tế thị trường. Khung pháp lý này cũng đã từng bước đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường như thực hiện quyền tự do kinh doanh, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự vận hành trôi chảy của các yếu tố sản xuất là vốn, lao động, hàng hóa, đất đai. Hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM vừa là một bộ phận của khung pháp lý đó nên thực trạng của việc ban hành các quy định pháp luật cho tín dụng NHTM cũng ở tình trạng giống như việc xây dựng khung pháp lý cho sự vận hành cơ chế thị trường. NHNN Việt nam trong những năm qua đã có những cố gắng trong việc ban hành, chỉnh sửa, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến huy động vốn và cho vay của các NHTM. Tuy nhiên, hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM đòi hỏi tính hệ thống , đồng bộ , nhất quán. Vấn đề này đòi hỏi sự phối hợp của nhiều cơ quan có thẩm quyền mà NHNN Việt Nam phải phát huy hơn nữa vai trò trung gian giữa Nhà nước và nền kinh tế. Các giải pháp, kiến nghị được nêu ở đây được xuất phát từ chính thực trạng còn bất cập của khung pháp lý cho tín dụng NHTM.
91 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2318 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NN Việt Nam số 46/2010/QH12 và Luật Các TCTD số 47/2010/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011.Thế nhưng đến nay Quy chế cho vay 1627 vẫn còn hiệu lực thi hành dù các quy định trong quy chế này đã lạc hậu so với Luật Các TCTD số 47/2010/QH12.
Thứ ba, theo quy định của điều 35 Luật Phá sản số 21/2004/QH11 ngày 15/6/2004 và cũng theo quy định tại Luật Dân sự 2005 thì các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó. Đối với doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp nợ lương công nhân rồi bỏ trốn , các NH không thể thu hồi tài sản bảo đảm ( ví dụ máy móc thiết bị ) để xử lý thu hồi nợ vay vì các công nhân chống đối quyết liệt . Tại TPHCM các cơ quan chức năng như ngành Lao động thương binh xã hội, Kế hoạch đầu tư, cơ quan thi hành án đã xử lý các vụ việc theo quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày 23 tháng 02 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ đối với người lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế và công văn 1490/TTg-KGVX của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ người lao động không đủ điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp bị mất việc làm trong doanh nghiệp có chủ bỏ trốn . Theo đó Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ứng ngân sách địa phương trả cho người lao động có trong danh sách trả lương của doanh nghiệp khoản tiền lương mà doanh nghiệp còn nợ người lao động. Nguồn tạm ứng từ ngân sách địa phương được hoàn trả từ nguồn thu khi thực hiện xử lý tài sản của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Trường hợp nguồn xử lý tài sản không đủ thì báo cáo Thủ tướng xem xét, quyết định. Đầu tháng 1-2009, Công ty Sin B (vốn Hàn Quốc, quận 12) đã ngừng hoạt động do ông Lee Tae Hee, chủ DN, đã rời khỏi Việt Nam trong khi tiền lương của 93 lao động chưa thanh toán là 303 triệu đồng. Công ty cũng vay tại một chi nhánh BIDV tại TPHCM một số tiền, tài sản bảo đảm là lô máy móc thiết bị thêu. UBND TP HCM đã tạm ứng ngân sách để thanh toán lương cho công nhân. Thực tế sau khi bán xong tài sản bảo đảm của DN (trong đó có cả tài sản bảo đảm nợ vay là của BIDV) , ngân sách đã thu hồi ngay số tiền 342 triệu đồng ngân sách đã tạm ứng để trả lương công nhân trước khi chuyển phần còn lại để NH thu nợ, với lý lẽ là nếu ngân sách không tạm ứng thì ngân hàng cũng không thể xử lý tài sản để thu hồi nợ vay. Như vậy quyền lợi của Ngân hàng cho vay có tài sản bảo đảm đã bị xâm hại. Luật pháp đã không được tôn trọng trong trường hợp này. Theo báo Pháp luật thành phố ngày 21/02/2014 Ngày 20-2, UBND TP.HCM có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Tài chính đề xuất hướng xử lý tình trạng doanh nghiệp nợ lương người lao động về quy định tiêu chí xác định “Doanh nghiệp có chủ bỏ trốn” để làm cơ sở thực hiện việc tạm ứng ngân sách địa phương hỗ trợ khoản nợ lương cho người lao động. Đồng thời, hướng dẫn quy trình xử lý nhanh tài sản của các doanh nghiệp có chủ bỏ trốn không phụ thuộc vào quy trình xử lý theo Luật Phá sản hiện hành.
Sự chưa thống nhất, mâu thuẫn của các quy định
Trong hành lang pháp lý cho TDNHTM còn rất nhiều quy định chưa thống nhất thậm chí mâu thuẫn với nhau.
Thứ nhất , Khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở quy định: Quyền sở hữu nhà được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hợp đồng mua bán được công chứng. Khoản 1 Điều 64 Nghị định 71/2010 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở cũng tính thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà sau khi công chứng. Theo điều 168 Bộ luật Dân sự thì việc chuyển quyền sở hữu bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu. Luật Đất đai cũng có quy định tương tự đối với việc chuyển quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Mặc dù vẫn biết khi các luật có các quy định khác nhau thì các cơ quan chức năng phải ưu tiên luật chuyên ngành. Nhưng đây rõ ràng là các quy định luật pháp của chúng ta mâu thuẫn với nhau. Điều này ảnh hưởng đến việc giải ngân của NH khi khách hàng vay mua nhà.
Thứ hai, Điều 114 Luật nhà ở 2005 “chủ sở hữu nhà ở được thế chấp nhà ở để đảm bảo thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ nếu giá trị nhà ở đó lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ nhưng chỉ được thế chấp ở tại một tổ chức tín dụng” mâu thuẫn với Điều 5 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 về giao dịch bảo đảm : “Giá trị tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự : Trường hợp bên bảo đảm dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự ...thì có thể dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác . Mặc dù điều 3 Luật Nhà ở 2005 đã nêu: giao dịch về nhà ở thì áp dụng quy định của Luật này. Nhưng trong bài “Luật chuyên ngành phải né Bộ luật dân sự ? ” đăng trên báo Pháp luật thành phố HCM ngày 08/10/2013 có nêu : Tại hội thảo góp ý về Bộ luật Dân sự 2005 do Trường Đâị học Luật TP.HCM phối hợp cùng Hội Luật gia Việt Nam tổ chức, một số ý kiến cho rằng BLDS cần lược bớt các quy định mà luật chuyên ngành đã điều chỉnh để tránh tình trạng chồng chéo. Tuy nhiên, PGS-TS-Luật sư Chu Hồng Thanh, phó Tổng thư ký Hội Luật Gia Việt Nam lại có quan điểm ngược lại. Ông cho rằng BLDS là luật gốc, là nền tảng cho các luật khác. Vì vậy, nếu vấn đề nào BLDS đã quy định rõ thì luật chuyên ngành không được điều chỉnh nữa.
Sự chưa hợp lý, thiếu khả thi của các quy định
Thứ nhất, điều kiện vay vốn thứ hai được quy định tại điều 7 Quy chế cho vay 1627 : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Đối với các doanh nghiệp thì hợp pháp là một khái niệm rất gò bó nếu căn cứ vào quy định tại khoản 1 điều 9 Luật doanh nghiệp 2005 : Nghĩa vụ của doanh nghiệp : Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Nếu đăng ký kinh doanh ngành nghề nào thì phải kinh doanh ngành nghề đó. Trên giấy đăng ký kinh doanh hiện nay thường ghi ngành nghề theo ngành cấp 4 (gồm 437 ngành; mỗi ngành được mã hoá bằng bốn số theo từng ngành cấp 3 tương ứng). Nếu doanh nghiệp kinh doanh một ngành nghề mới tương tự ( tức là không theo đúng) với ngành nghề được ghi trong giấy đăng ký kinh doanh, vậy có xem như kinh doanh không hợp pháp không ? Và lúc đó NH có dám cho vay ngành nghề mới này không ? Ví dụ : Một công ty trước đây chuyên trồng mía nên trong giấy đăng ký kinh doanh ghi ngành nghề kinh doanh là trồng cây mía ( mã ngành 0114), nay muốn chuyển sang trồng cây có lợi ích kinh tế cao hơn là cây ngô (mã ngành 0112). Khi đến vay để trồng ngô, ngân hàng sẽ từ chối cho vay vì công ty không đăng ký kinh doanh ngành nghề trồng ngô.
Thứ hai, theo quy định tại điều 21 Quy chế cho vay ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì : “Tổ chức tín dụng xây dựng quy trình và thực hiện kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng phù hợp với đặc điểm hoạt động của tổ chức tín dụng và tính chất của khoản vay, nhằm đảm bảo hiệu quả và khả năng thu hồi vốn vay. Tuy nhiên có những phương thức cho vay NH không thể kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay như phương thức thấu chi hay phát hành thẻ tín dụng. Do đó việc đảm bảo mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp theo khoản 2 điều 7 quy chế này là ngoài tầm tay của các NH và nó phụ thuộc vào ý chí của khách hàng vay.
Thứ ba, việc giải ngân bằng tiền mặt hiện nay đang phải tuân theo những quy định có phần bất tiện cho người vay vốn. Theo TT 09/2012/TT-NHNN thì NH Nhà nước quy định các khoản vay từ 100 triệu đồng trở lên phải chuyển khoản trực tiếp cho bên bán hàng. Mục đích của quy định này là nhằm kiểm soát được mục đích của khoản vay vì qua chuyển khoản NH mới biết tiền đi đến đâu. Việc này cũng nằm trong chiến lược đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt. Chịu tác động nhiều nhất là các khoản vay sửa nhà vì có rất nhiều chi phí lặt vặt phát sinh mà khoản nào cũng đòi chuyển khoản thì quá khó. NH tách ra làm nhiều khoản cho vay nhỏ như vậy nên khách hàng phải ký giấy tờ nhiều hơn, dù số tiền vay vẫn vậy.
Thứ tư, quy định thế nào là DN vừa và nhỏ cũng có điều cần bàn. Theo quy định tại khoản 1 điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ : Về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thì : “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)” Ở đây đưa ra hai tiêu chí . Tiêu chí này hoặc tiêu chí kia nhưng lại ưu tiên cho tiêu chí vốn . Điều này sẽ gây khó khăn và không thống nhất cho các NH khi quy định doanh nghiệp nào là nhỏ và vừa để có thể áp dụng các chính sách ưu đãi về lãi suất, nguồn vốn ...
Thứ năm, Luật các TCTD 2010 có quy định về “người có liên quan” tại khoản 28 điều 4 Giải thích từ ngữ và khoản 1, khoản 7 điều 128 Giới hạn cấp tín dụng. Theo đó : “ tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của NHTM...” . Tính theo vốn tự có hiện nay của BIDV thì con số 25% này khoảng 7.700 tỷ đồng là một số vốn tương đối lớn nhưng trong thực tế sẽ có nhóm khách hàng có liên quan đạt đến dư nợ cấp tín dụng này . Vấn đề là các Ngân hàng có đủ công cụ , phương pháp để nhận biết nhóm khách hàng liên quan được hay không. Nếu dựa vào sự nhận biết của mỗi cán bộ làm công tác quan hệ khách hàng sẽ rất khó. Các Ngân hàng phải có chương trình điện toán nhận diện mới có thể phát hiện nhóm khách hàng liên quan.
Sự thiếu ổn định
Từ năm 1986 đến nay ta thấy quy chế cho vay được thay thế liên tục. Cứ 2,3 năm thay đổi hoặc ban hành mới một lần. Có văn bản được ban hành năm trước, đến năm sau đã thay đổi như Quy chế cho vay được ban hành kèn theo Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 thì đến hơn một năm sau đã được thay bằng Quy chế cho vay 1627. Quy chế cho vay 1627có thời gian tồn tại lâu nhất chẳng qua là vì NHNN chưa ban hành Quy chế cho vay mới vì thực ra nhiều điểm trong Quy chế cho vay 1627 đã không còn hiệu lực nếu so với Luật các TCTD 2010. Một ví dụ khác là quy định về việc cho vay ngoại tệ của các TCTD, CN NH nước ngoài đối với người cư trú cũng thay đổi liên tục : chưa đến 2 năm, từ tháng 3 năm 2011 đến tháng 12 năm 2012, Thống đốc NHNN đã ban hành 3 thông tư về cùng vấn đề : TT số 07/2011/TT-NHNN ngày 24/3/2011, TT số 03/2012/TT-NHNN ngày 8/3/2012 và TT số 37/2012/TT-NHNN ngày 28 /12 / 2012.
Những vấn đề đặt ra cho hành lang pháp lý trong mối quan hệ với thực tiễn tín dụng NHTM
Thứ nhất, chưa có một quan điểm xuyên suốt đề cao nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận của bộ Luật Dân sự để tạo điều kiện cho TD NHTM phát triển, bằng chứng là vẫn còn nhiều quy định gò bó, chưa thực sự tạo quyền tự chủ cho NHTM và khách hàng tự chịu trách nhiệm trong quan hệ tín dụng. Ví dụ như các bất cập về việc áp dụng điều 179 bộ luật hình sự đã được đề cập tại mục 2.2.2.1 chương này. Nguyên nhân là do điều luật này nằm trong bộ luật hình sự ra đời từ năm 1999, khi mà các quan điểm về rủi ro tác nghiệp vẫn chưa được phổ biến rộng rãi, vấn đề quản trị rủi ro trong chính bản thân các NH vẫn chưa được xem trọng như bây giờ. Hoặc ví dụ khác là điều kiện khi vay vốn là khách hàng phải có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Đây là biểu hiện chưa đề cao nguyên tắc tự nguyện cam kết khi khách hàng và ngân hàng thiết lập quan hệ tín dụng. Bởi kinh doanh có khi lời, khi lỗ . Nhiều khi những phương án, dự án khả thi vẫn chưa đủ khắc phục được lỗ. Vậy, những doanh nghiệp đang trong cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay muốn vay vốn để tiếp tục sản xuất kinh doanh cũng sẽ gặp khó khăn. Nguyên nhân do quy định trong các quy chế cho vay trước đây thời kỳ bắt đầu đổi mới thường yêu cầu khách hàng phải ”sản xuất , kinh doanh có lãi”. Do đó cần nhanh chóng phải thay đổi các quy định gò bó, trói buộc với cách nghĩ mới là phải tôn trọng các nguyên tắc của Bộ luật dân sự . Việc quản trị rủi ro phải được giao cho các NHTM, chế tài cũng nên giao cho các NHTM trong việc quy trách nhiệm vật chất hoặc kỷ luật đối với các nhân viên làm tín dụng. Nếu các quy định này được sửa lại theo tư duy mới đã nêu sẽ giúp các nhân viên tín dụng cởi bỏ tâm lý e ngại trong cho vay, việc cho vay diễn ra bình đẳng hơn, các NHTM phải tìm mọi cách nâng cao khả năng quản trị rủi ro của chính tổ chức mình.
Thứ hai, Nhà nước chưa có một chiến lược xây dựng pháp luật hoàn chỉnh và các kế hoạch chỉnh sửa đồng bộ các luật, các văn bản. Cách hiểu về một vấn đề pháp lý của các cơ quan soạn thảo có khi khác nhau nên có sự xung đột về quan điểm giữa các bộ luật, các quy định giữa các luật nhiều khi chưa đồng bộ, chồng chéo , mâu thuẫn nhau, do đó đã ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng NHTM. Như các ví dụ về mâu thuẫn giữa Luật Nhà ở 2005 với các luật khác đã được chỉ ra trong mục 2.2.2.3. Hoặc quy định quyền sử dụng đất không phải là tài sản hình thành trong tương lai tại NĐ 11/2012/NĐ-CP như đã phân tích trong mục 2.2.2.1 . Nguyên nhân rõ ràng là do mỗi luật ở nước ta là do mỗi bộ ngành liên quan soạn thảo, trong quá trình soạn thảo dù có tham khảo ý kiến hoặc là có qua các bước thẩm định của các ủy ban của Quốc hội nhưng tư duy cục bộ của mỗi bộ ngành đều in đậm dấu trên các luật, chưa nói đến việc bị lợi ích nhóm chi phối các quy định. Việc các luật ra đời vào các thời điểm khác nhau còn bị chi phối bởi nhận thức, tư duy, dư luận xã hội trong từng thời kỳ nên chưa có sự đồng bộ là tất yếu. Nên chăng phải có những tiền đề lý luận, pháp lý được xác định trước, thì việc soạn luật mới không rơi vào tình trạng chồng chéo, không đồng bộ hiện nay. Nếu không giải quyết các vấn đề thuộc về trách nhiệm xây dựng luật giao cho các bộ ngành khác nhau, cũng như việc xây dựng các luật diễn ra vào nhiều thời kỳ khác nhau thì các luật vẫn còn có sự khác biệt, không đồng bộ thậm chí mâu thuẫn nhau.
Thứ ba, về kỹ thuật xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan soạn thảo còn chưa xác định chính xác ranh giới phạm vi điều chỉnh của các văn bản dẫn đến cùng một việc nhưng lại có nhiều luật cùng điều chỉnh, lời văn trong luật còn chưa chính xác . Các luật phải được đặt trong một mối quan hệ lẫn nhau nhưng giữa chúng phải có ranh giới. Ví dụ việc thế chấp tài sản của bên thứ ba để bảo đảm nợ vay nhưng Luật đất đai gọi là bảo lãnh của bên thứ ba, Luật dân sự gọi là thế chấp tài sản của bên thứ ba. Đúng ra, Luật đất đai chỉ xác định quyền sử dụng đất có là tài sản hay không, còn thế chấp hay bảo lãnh thuộc về phạm vi điều chỉnh của Luật Dân sự. Thế mới là đúng ranh giới. Nguyên nhân của hiện tượng này là do chưa có một cơ quan trung tâm điều phối việc xây dựng pháp luật. Trung tâm này không chỉ là việc phân công nhiệm vụ, đôn đốc việc soạn thảo mà còn phải giữ được sự thống nhất về quan điểm xây dựng luật, sự nhất quán trong việc thể hiện trên các quy định, không để sự mâu thuẫn chồng chéo giữa các luật xảy ra. Sẽ mất nhiều thời gian và công sức để chỉnh sửa khi thực tiễn cuộc sống phát hiện và đào thải bằng các hiện tượng như nhờn luật, thi hành một cách đối phó...
Thứ tư, NHNN chưa phát huy hết vai trò là trung tâm tham mưu, phản biện cho các cơ quan có thẩm quyền là Quốc hội, Chính phủ, Tòa án , các Bộ ngành trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, để xảy ra sự chồng chéo, mâu thuẫn gữa các văn bản diễn ra quá nhiều, chưa phát huy vai trò là cầu nối giữa các NHTM , hiệp hội NH với các cơ quan có thẩm quyền để các cơ quan này có những quyết định phù hợp, chưa có kế hoạch rà soát các khiếm khuyết, hạn chế trong hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động tín dụng NHTM để từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện dứt điểm những khiếm khuyết hạn chế này. Đơn cử là NHNN Việt Nam đã ban hành công văn 3947/NHNN-CSTT ngày 20/5/2011 về đánh giá tình hình thực hiện quy chế cho vay 1627 nhưng dã gần 3 năm trôi qua mà vẫn chưa thấy động thái nào của NHNN đối với việc sửa chữa, bổ sung hay thay thế quy chế cho vay 1627. Nguyên nhân là do NHNN chưa xem trọng đúng mức vai trò của hành lang pháp lý trong hoạt động tín dụng NHTM, chưa theo dõi sát sao các vướng mắc trong hoạt động tín dụng của các NHTM thường xuyên được phản ảnh trên các phương tiện truyền thông đại chúng, chưa làm tốt công tác dự báo, phán đoán sự phát triển của các nghiệp vụ ngân hàng cũng như chưa có các động thái điều chỉnh kịp thời các hiện tượng lệch lạc trong hoạt động của các NHTM
CHƯƠNG III : ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ HOÀN THIỆN HÀNH LANG PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC TA.
Yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM ở nước ta
Bối cảnh kinh tế :
Về kinh tế thế giới : Kinh tế thế giới nhìn chung vẫn còn trong cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu diễn ra từ năm 2008. Đến năm 2010, có phục hồi đôi chút .Sau thời gian chủ yếu đi xuống kể từ đỉnh cao 2010, tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2013 có xu hướng mạnh lên. Theo dự đoán đầu năm kinh tế thế giới năm 2013 có thể đạt mức tăng trưởng 3,3%, nhưng đến hết năm chỉ có thể tăng trưởng ở mức từ 2,7% - 3,1%, thấp hơn mức dự đoán 3,3% - 3,5% hồi đầu năm.Trong đó, đóng góp của tất cả nhóm nước (gồm Mỹ, Trung Quốc, các nước phát triển khác và các nước mới nổi khác) đều tăng. Ông Paul Mild, Trưởng ban kinh tế của Standard & Poor cho rằng bên cạnh yếu tố bất lợi, kinh tế thế giới năm 2014 có thể đạt mức 3,6% - 3,8%. Kinh tế Mỹ có thể đạt mức từ 2,7% - 2,9%. Kinh tế Trung Quốc đạt mức 7,5%, thấp hơn những năm trước. Kinh tế EU có thể ngoi lên khỏi mặt đất đạt mức taăng trưởng xấp xỉ 1%. Kinh tế Nhật Bản vẫn duy trì được đà năm 2013, nếu thuyết “Kinh tế Abe” có tác dụng thì Nhật Bản có thể đạt mức tăng trưởng 1,2% - 1,5%. Kinh tế Nga có thể lạc quan hơn, nhưng chỉ đạt khoảng trên 2%.
Năm 2014, Khu vực Đông Nam Á, nhất là các nước ASEAN vẫn dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng và có thể đạt từ 6,6% - 7%. Kinh tế các nước Châu Phi vẫn duy trì được mức của năm 2013 và có thể nhích lên, đạt từ 5% -5,3%. Mỹ - Latinh vẫn chưa có gì biến chuyển lớn, nên dự kiến có thể đạt mức 3,6% - 3,8%.
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định Mỹ sẽ tăng trưởng mạnh hơn trong năm 2014, do những dấu hiệu lạc quan về kinh tế và các thỏa thuận của Quốc hội. Ông Jean-Claude Trichet - Cựu chủ tịch Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) cũng cho rằng 2014 sẽ là năm tăng trưởng toàn cầu nhờ chính sách nới lỏng của nhiều nước và sự phục hồi của khu vực eurozone. ( theo tamnhin.net 19/12/2013 và vnexpress.net 25/12/2013 )
Về kinh tế trong nước : Đáng chú ý nhất trong năm 2013 là chỉ số lạm phát thấp nhất trong 10 năm trở lại đây, đạt 6,04% và thấp hơn mức kế hoạch 8% thông qua hồi đầu năm. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ước tăng trưởng 5,42%. Mức tăng này tuy thấp hơn mục tiêu 5,5% đề ra nhưng lại cao hơn mức tăng 5,25% của 2012. Tăng trưởng tín dụng 2013 ước tăng 8,83%, tuy thấp hơn kế hoạch là 12% nhưng vẫn cao hơn 2012... Mặt bằng lãi suất cũng giảm 2-5%/năm so với năm 2012 và trở về mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006. Đến cuối năm, lãi suất các khoản vay cũ đã về dưới 13%/năm, lãi suất cho vay các khoản mới kỳ hạn ngắn chỉ còn 8 - 9%/năm. Thị trường chứng khoán đã có một năm phục hồi và tăng trưởng khá mạnh. Tính đến ngày 24-12-2013, chỉ số VN-Index tăng 22,2% trong khi HNX-Index là 19,32%. Dòng vốn nước ngoài luân chuyển tăng 54% (Báo Tuổi trẻ 31/12/2013)
Triển vọng kinh tế 2014 của kinh tế Việt Nam, theo Ủy ban giám sát tài chính quốc gia dự đoán và đề xuất các chỉ tiêu chủ yếu cho kế hoạch phát triển kinh tế năm 2014 như sau: tăng trưởng GDP 5,6 - 5.8 %, CPI tăng 7 %, tổng vốn đầu tư ở mức 30-31 % GDP, tín dụng tăng 15 %, Xuất khẩu tăng 12-14 %. ( theo tapchitaichinh.vn ngày 3/9/2013)
Theo TS Nguyên Minh Phong Ban tuyên truyền lý luận – Báo Nhân Dân, năm 2014 kinh tế Việt Nam cũng có nhiều yếu tố thuận lợi từ cả bên ngoài lẫn bên trong.
Bên ngoài, kinh tế thế giới năm 2014 sẽ ghi nhận sự chuyển biến tiến tới ổn định hơn, an toàn và phục hồi bền vững hơn xoay quanh ba trụ cột chính: Sự tăng trưởng nhanh hơn của các nền kinh tế phát triển, sự ổn định của các nước mới nổi và tiếp tục các chính sách kích thích kinh tế của Ngân hàng Trung ương các nước.
Trong khi đó, môi trường đầu tư của Việt Nam cũng sẽ tiếp tục được cải thiện nhờ những thuận lợi đến từ những cơ hội gia tăng xuất khẩu và đón nhận dòng vốn từ nước ngoài gắn với xu hướng hồi phục kinh tế thế giới nêu trên.Đặc biệt, cơ hội kinh doanh trong nước cũng sẽ nhiều hơn nhờ việc giảm lãi suất, tiếp tục nới lỏng linh hoạt tài chính và tín dụng, trong đó có mở rộng và tăng tốc giải ngân đầu tư công cho các dự án trong kế hoạch. Bên cạnh đó, niềm tin tiền đồng sẽ tiếp tục được giữ vững; lạm phát sẽ được kiểm soát...
Xuất khẩu cũng được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt vì phần lớn các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn thuộc hàng tiêu dùng thiết yếu, nên ít thuộc diện cắt giảm tại các thị trường chủ chốt (Mỹ, EU...) khi người tiêu dùng tại các thị trường này tiết giảm chi tiêu.(Báo Thời báo Ngân hàng ngày 8/3/2014)
Tuy nhiên , thời gian gần đây việc các NHTM khó cho vay ra được là điều đáng lo ngại . Ngoài mặt tích cực là sự thận trọng của cả khách hàng vay và phía ngân hàng thì còn lý do chính là do khủng hoảng kinh tế vẫn còn, tổng cầu giảm sút, vấn đề lớn nhất hiện nay là hàng tồn kho chưa xử lý hết, thị trường đầu ra chưa khởi sắc nên doanh nghiệp vẫn đắn đo cân nhắc vì thấy không có cơ hội, nên không quyết định vay vốn. Tín dụng có ảnh hưởng to lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, nếu tín dụng NHTM không tăng hoặc giảm sẽ làm giảm tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế.
Chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước những năm vừa qua, Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam đã có các quan điểm, chiến lược về phát triển kinh tế trong năm 2014 và những năm sau . Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020. Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 53/2013/QH13 ngày 11/11/2013 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014. Chính phủ cũng ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 có nêu : ” Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. ... Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội.... Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao động xã hội.
Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực.
Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỉ lệ đô thị hoá đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.”
Nghị quyết số 53/2013/QH13 ngày 11/11/2013 của Quốc hội và Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ cũng nêu lại các quan điểm của quốc hội và nêu các chỉ tiêu kinh tế năm 2014 : Phấn đấu đạt tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 5,8%; kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; tỷ lệ nhập siêu khoảng 6% kim ngạch xuất khẩu; tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 7%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 30% GDP; tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước 5,3% GDP
Cũng theo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, các đột phá chiến lược của Kinh tế Việt nam trong giai đoạn trước mắt sẽ là : Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chínhtrong đó có môi trường pháp luật.
Chính sách tín dụng của Nhà nước
Ngày 15/01/2014, NHNN Việt Nam đã ban hành chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn , hiệu quả năm 2014, nêu rõ : Chính sách tín dụng của NHNN trong năm 2014 vẫn là mở rộng tín dụng hiệu quả, tập trung vốn đầu tư cho các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao; cho vay để thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, giảm tồn kho, đầu tư cho các dự án trọng điểm tạo ra sự lan tỏa và phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ tiêu tín dụng tăng khoảng 12-14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. ... Điều hành lãi suất và tỷ giá ở mức phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đặc biệt là diễn biến của lạm phát..tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn vay ngân hàng; Kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay bằng ngoại tệ phù hợp với chủ trương của Chính phủ về hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế. Tiếp tục rà soát, đánh giá đầy đủ thực trạng, tình hình và mức độ nợ xấu của các tổ chức tín dụng để chỉ đạo xử lý kiên quyết, đồng bộ bằng các biện pháp tại Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng được ban hành kèm theo Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ; đẩy mạnh việc mua bán và xử lý nợ xấu qua Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
Các định hướng cho tín dụng NHTM
Trong chỉ thị số 01/CT-NHNN , NHNN cũng đã đưa ra các định hướng cho các NHTM :
- Thực hiện các giải pháp mở rộng tín dụng có hiệu quả để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh
- Thực hiện việc kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng trong năm 2014 phù hợp với chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng (12-14 %) ưu tiên tập trung vốn cho vay các lĩnh vực đã nêu.
- Tổ chức, triển khai các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ
- Tiếp tục triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng NH cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giảm lãi suất của các khoản vay cũ; xem xét miễn giảm lãi vốn vay
- Chủ động triển khai các gói sản phẩm tín dụng dựa trên các chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ
- Về lãi suất huy động và cho vay: Thực hiện nghiêm túc các quy định và chỉ đạo của NHNN Việt Nam về lãi suất; áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý ; tiết kiệm chi phí, giảm tối đa các chi phí quản lý, quảng cáo, khuyến mại và chi phí hoạt động để có điều kiện giảm lãi suất cho vay
- Kiểm soát chất lượng tín dụng, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với quy mô, cơ cấu nguồn vốn;
- Chấp hành nghiêm các quy định của NHNN Việt Nam về hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, phân loại nợ, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ; tăng cường giám sát chặt chẽ mọi hoạt động kinh doanh để phòng ngừa và kịp thời xử lý các sai phạm.
- Chủ động triển khai các giải pháp tự xử lý nợ xấu ; đồng thời, triển khai các giải pháp hạn chế nợ xấu phát sinh trong tương lai,
-Tăng cường thông tin, hướng dẫn về sản phẩm dịch vụ ngân hàng để người dân hiểu và dễ dàng tiếp cận.
Các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện hành lang pháp lý
Từ thực trạng của hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của các NHTM có nhiều bất cập như đã nêu , tôi xin nêu ra một số giải pháp và các kiến nghị về quá trình xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của các NHTM như sau :
Nhóm giải pháp cụ thể về các quy định pháp luật
Ban hành các quy định :
- Phải ban hành các quy định về đảo nợ, nhu cầu đảo nợ là có thật và dịch vụ đảo nợ trên thực tế vẫn diễn ra. Khi mà đảo nợ bị xử phạt hành chính, NHNN hoặc Chính phủ phải có hướng dẫn cụ thể, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh tế suy thoái, sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, bất động sản trầm lắng, nhu cầu đảo nợ trái luật tăng đột biến và lan rộng làm lung lay nhiều định chế tài chính nơi mà ý thức đạo đức nghề nghiệp, các chuẩn mực quản trị còn non và chưa đủ sức chống lại lại những cám dỗ. Có thể định nghĩa đảo nợ như thế này : “Đảo nợ là việc dùng toàn bộ, một phần khoản vay tổ chức tín dụng để trả nợ cho một phần hoặc toàn bộ khoản vay hiện có hoặc nhiều khoản vay khác nhau tại một hoặc nhiều tổ thức tín dụng khác nhau ”. Rủi ro từ đảo nợ là có thật và làm sai lệch số liệu về chất lượng tín dụng ngân hàng. Nhà nước phải định nghĩa rõ ràng thì mới có căn cứ để xử phạt hành vi đảo nợ, néu không thì rõ ràng là việc xử phạt sẽ không có tính thuyết phục .
- Ban hành các quy định về bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai: Trong đó cần thiết phải quy định các tài sản hình thành trong tương lai đủ điều kiện bảo đảm phải là các tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu như: Nhà ở, quyền sử dụng đất , xe , tàu thuyền...Về bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai là nhà chung cư. trường hợp thế chấp nhà hình thành trong tương lai thì người mua nhà thế chấp khi chung cư có đủ các điều kiện sau đây: Đã có dự án, có thiết kế kỹ thuật nhà ở được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và phải có Giấy phép xây dựng (nếu thuộc diện phải có Giấy phép xây dựng); Nhà ở đã hoàn thành việc xây dựng xong phần móng theo quy định của pháp luật về xây dựng; Đã có văn bản thông báo của cơ quan quản lý nhà nước ở cấp tỉnh nơi có nhà ở về việc nhà ở đó đã đủ điều kiện được bán; Đã đóng phí bảo lãnh nhà ở cho đơn vị được giao thực hiện bảo lãnh theo quy định của Chính phủ. Viêc vay vốn để thi công nhà chung cư của chủ đầu tư và việc vay vốn của người mua nhà chỉ được vay tại một chi nhánh ngân hàng hoặc TCTD để NHTM hoặc TCTD quản lý được dòng tiền của dự án, tránh trường hợp chủ đầu tư dùng tiền của khách hàng mua nhà vào việc khác. Trong trường hợp này, để đảm bảo tính đồng bộ, Quốc hội cũng cần chỉnh sửa các quy định liên quan tại các luật như điều 91 Luật Nhà ở 2005 chẳng hạn.
- Ban hành các quy định bảo đảm bằng hàng hóa luân chuyển. Trong đó phải có các quy định cụ thể về các trách nhiệm của các doanh nghiệp cho thuê kho, bãi, quyền và trách nhiệm của các bên NH và khách hàng trong quan hệ này. Nhất thiết phải có các quy định như thế nào đó để khách hàng không thể dùng một lô hàng, kho hàng mà thế chấp, cầm cố cho nhiều NH khác nhau ví dụ như doanh nghiệp nếu bảo đảm theo hình thức này thì chỉ được vay vốn tại một NH hoặc TCTD, trách nhiệm của bên giám định, kiểm kê, trách nhiệm của bảo hiểm ...
- Về việc xét xử theo điều 179 bộ luật hình sự, các cơ quan có thẩm quyền cần phải ban hành các quy định hướng dẫn việc xét xử. Như quy định về mức độ gây hậu quả, cần phải có quy định rõ ràng cho riêng tội danh này về số tiền cho doanh nghiệp vay bị thất thoát là bao nhiêu, cho cá nhân vay bị thất thoát là bao nhiêu thì được xem là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Nếu quy định như hiện nay thì rõ ràng quá nguy hiểm cho những người làm công tác cho vay. Nếu vì trình độ non kém, vô tình mà vi phạm thì có bị truy tố không. Nếu bắt buộc phải biết và tuân thủ thì rõ ràng khái niệm rủi ro tác nghiệp không có ý nghĩa gì .
Bổ sung các quy định :
- Nhà nước cần phải ban hành bổ sung các quy định về xử lý tài sản bảo đảm cho riêng các TCTD . Cần phải trao quyền cho các TCTD trong xử lý TSBĐ để thu hồi nợ xấu . Quan điểm này đang được thể hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay hiện nay nhưng quy định cụ thể thì lại thiếu nên không mang tính khả thi trong thực tế. Đơn cử như Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định rõ: Người xử lý tài sản bảo đảm (sau đây gọi chung là người xử lý tài sản) là bên nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy quyền, trừ trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo đảm có thỏa thuận khác. Người xử lý tài sản căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tiến hành xử lý tài sản bảo đảm mà không cần phải có văn bản ủy quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm.
Việc xử lý tài sản của bên bảo lãnh theo quy định tại Điều 369 Bộ luật Dân sự cũng được sửa đổi như sau: Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì tài sản cầm cố, thế chấp được xử lý theo quy định tại Chương IV của Nghị định này.Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận bảo lãnh xử lý theo yêu cầu của bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu bên bảo lãnh không giao tài sản thì bên nhận bảo lãnh có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật.Tại thời điểm xử lý tài sản của bên bảo lãnh nếu bên bảo lãnh không có tài sản để xử lý hoặc khoản tiền thu được từ việc xử lý tài sản không đủ thanh toán nghĩa vụ được bảo lãnh thì trong phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải giao tài sản có được sau thời điểm xử lý cho mình để tiếp tục xử lý. Tuy nhiên, Nghị định số 11 là văn bản pháp luật về giao dịch bảo đảm nói chung chứ không phải riêng về bảo đảm tiền vay trong lĩnh vực tín dụng. Do đó, cần kịp thời có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn và riêng về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng để giúp cho các TCTD, các cơ quan Nhà nước có cơ sở pháp lý và chủ động hơn trong việc áp dụng pháp luật có liên quan đến tài sản bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Để đạt được yêu cầu kinh tế, yêu cầu đảm bảo tính an toàn trong hoạt động của các TCTD thì việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay cần có những quy định riêng, trao những đặc quyền nhất định cho TCTD trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Chỉ nên đưa ra tòa khi xét thấy có những tranh chấp nhất định như bị lừa đảo chẳng hạn. Nên có quy định về các phiên tòa rút gọn , giảm bớt các thủ tục hòa giải , hoãn...Còn nếu người thế chấp, bảo lãnh không khiếu nại, tố cáo gì thì cần giao tài sản đó cho các TCTD bán để thu hồi nợ .Việc bán đấu giá hay không, bán với giá nào , cao hơn hay thấp hơn giá trị được định giá lúc vay cũng nên được quy định. Nếu người bảo đảm tài sản không chịu giao tài sản bảo đảm cho TCTD thì tổ chức cưỡng chế như thé nào, thành phần ra sao, cơ quan nào là cơ quan cưỡng chế hoặc đầu mối thành lập hội đồng... Nếu không nhanh chóng ban hành bổ sung các quy định này, các chủ TSBĐ sẽ lợi dụng để chây ì, không giao tài sản để các cơ quan xử lý. Mặt khác , các TCTD không còn tin tưởng vào việc tố tụng vì thời gian dài, tốn kém mà hiệu quả xử lý nợ không cao. Các TCTD sẽ nhờ các lực lượng khác ngoài chính quyền để cưỡng chế hoặc đòi nợ thì xã hội sẽ rối loạn .
- Đối với doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp nợ lương công nhân rồi bỏ trốn, Nhà nước cần ban hành các quy định bổ sung để các cơ quan chức năng cũng như ngân hàng không còn lúng túng khi xử lý tài sản của doanh nghiệp để trả nợ cho ngân hàng cũng như giải quyết quyền lợi cho công nhân còn bị nợ lương và các quyền lợi khác . nên chăng , Quốc hội nên ban hành bổ sung quy định về trường hợp chủ doanh nghiệp không có mặt khi công ty lâm vào tình cảnh bị tuyên bố phá sản khi sửa đổi Luật phá sản. Mặt khác cũng cần có các quy định chặt chẽ hơn để tránh hiện tượng các chủ doanh nghiệp lợi dụng nợ tiền lương công nhân rồi bỏ trốn . Hoặc có các quy định chặt chẽ hơn đối với các NHTM khi cho vay đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
Chỉnh sửa, hoàn thiện các quy định :
- Nhà nước cần hợp nhất 3 hệ thống ngành nghề kinh tế quốc dân được quy định tại Hệ thống ngành kinh tế quốc dân theo QĐ số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23-1-2007 của Thủ tướng chính phủ; Quyết định số 143/TCTK-PPCĐ ngày 22-12-1993 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế cấp II, III và cấp IV và TT liên tịch Số 07/2001/TTLT/BKH-TCTK ngày 01 tháng 11 năm 2001của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổng Cục Thống kê thành một hệ thống duy nhất. Hệ thống này có thể cập nhật theo định kỳ và chỉ nên có tác dụng làm căn cứ để thống kê các chỉ tiêu theo ngành kinh tế đoồng bộ với giải pháp chỉnh sửa Luật Doanh nghiệp dưới đây.
- Nhà nước cần sửa luật doanh nghiệp theo hướng không phải đăng ký trước ngành nghề để ghi trong giấy đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được kinh doanh các ngành nghề mà luật, pháp lệnh, nghị định không cấm. Hiện nay, ở nước ta, muốn kinh doanh ngành nghề gì phải đăng ký. Cho dù ngành nghề đó pháp luật không cấm, nhưng kinh doanh ngoài giấy phép kinh doanh là phi pháp. Nhiều khi chớp được cơ hội kinh doanh, doanh nhân lại phải chờ xin điều chỉnh giấy đăng ký kinh doanh, xong thì có thể cơ hội đã qua. Người dân phải được quyền kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm, chứ không chỉ trong những lĩnh vực giấy phép nêu. Điều này tạo tính linh hoạt cho doanh nhân, giảm được nhiều chi phí về đăng ký bổ sung, giảm được chi phí giao dịch và rủi ro. Giải pháp là sửa đổi khoản 1 điều 9 Luật doanh nghiệp 2005 theo hướng doanh nghiệp được phép kinh doanh tất cả các ngành nghề mà luật pháp không cấm chứ không nhất thiết phải hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- NHNN cần ban hành thông tư sửa đổi hoặc thay thế quy chế cho vay theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN. Đây là văn bản quy phạm pháp luật trung tâm trong hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM do đó việc sửa đổi văn bản này cần phải đồng bộ cùng với các quy định khác của pháp luật. Về việc này, NHNN Việt Nam đã ban hành công văn 3947/NHNN-CSTT ngày 20/5/2011 về đánh giá tình hình thực hiện quy chế cho vay 1627 nhưng dã gần 3 năm trôi qua mà vẫn chưa thấy động thái nào của NHNN đối với quy chế cho vay 1627/2001/QĐ-NHNN. Ngoài việc ban hành các quy định về đảo nợ đã nêu trong phần 3.2.1 chương này, các điểm sửa đổi cần tập trung các điểm sau đây:
Về điều kiện cho vay, khách hàng cam kết sử dụng đúng mục đích và hợp pháp
Ngân hàng không cần phải căn cứ vào các ngành nghề kinh doanh để xem thử mục đích cho vay cho vay hợp pháp hay không mà khách hàng cam kết và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và hợp pháp.
Về việc kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ, cần loại trừ trách nhiệm kiểm tra, giám sát của ngân hàng đối với các phương thức cho vay mà ngân hàng gần như không thể kiểm tra giám sát được việc sử dụng vốn vay.
Về những quy định đã lạc hậu nếu đối chiếu giữa Quy chế cho vay theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN và Luật các TCTD 2010 thì NHNN nên cập nhật vào quy chế cho vay mới .
- NHNN cần sửa đổi một số điểm chưa phù hợp đối với TT 09/2012/TT-NHNN về việc giải ngân bằng tiền mặt. Việc hạn chế giải ngân bằng tiền mặt là việc phù hợp với đề án thanh toán không dùng tiền mặt của NHNN. Các NH cũng ý thức được điều này và không muốn giải ngân bằng tiền mặt nhưng phải nhìn vào thực tế đời sống người dân, chứ nếu quy định quá cứng nhắc thì không thể đi vào đời sống mà ngược lại còn sinh ra thêm nhiều thủ tục. Nhiều NH đã lách bằng cách giải ngân mỗi lần 99 triệu cho nhu cầu xây, sửa nhà hoặc bắt buộc người vay vốn ký cam kết là người hưởng thụ tiền vay không có tài khoản tại bất kỳ ngân hàng nào.Trước tiên là tạo ý thức, khi người dân quen dần thì các đơn vị bán hàng sẽ buộc phải nhận các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt (Báo Tuổi trẻ 24/11/2013). Do đó, kiến nghị NH Nhà nước nên có những quy định riêng với các khoản vay tiêu dùng phục vụ đời sống mà cụ thể là vay xây, sửa nhà chứ nếu áp dụng chung một quy chế với các khoản vay khác nhau như hiện nay thì không phù hợp.
- Nhà nước nên có kế hoạch khắc phục sự chồng chéo giữa Luật Nhà ở và Luật dân sự như đã nêu tại phần 2.2.3 chương II : Luật Nhà ở quy định: Quyền sở hữu nhà được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hợp đồng mua bán được công chứng. Bộ luật Dân sự thì việc chuyển quyền sở hữu bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu. Giải pháp là nên sửa đổi Luật nhà ở cho phù hợp với quy định tai Bộ luật dân sự vì nhà ở là bất động sản nên bắt buộc phải đăng ký chủ sở hữu , việc xác lập quyền sở hữu bất động sản chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu. Đối với điều 114 Luật nhà ở 2005 “chủ sở hữu nhà ở được thế chấp nhà ở để đảm bảo thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ nếu giá trị nhà ở đó lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ nhưng chỉ được thế chấp ở tại một tổ chức tín dụng” nên hủy bỏ điều này để đồng bộ với các quy định tại điều 164 Bộ luật Dân sự “Chủ sở hữu là cá nhân có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản” vì Bộ luật Dân sự là luật gốc, là nền tảng cho các luật khác .Việc hủy bỏ này cũng phù hợp với khoản 7 Điều 113 Luật đát đai 2003 “Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê được thế chấp quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế hoặc cá nhân”, khắc phục hiện tượng một điều luật hai cách hiểu như đã nêu ở phần 1.2 chương II.
- Về quy định thế nào là DN vừa và nhỏ theo quy định tại khoản 1 điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ, Chính phủ nên bỏ cụm từ “(tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)” vì hiện nay , trong chính sách lãi suất, NHNN vẫn quy định trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao và doanh nghiệp nhỏ và vừa, nếu không sửa đổi điều này, mỗi NHTM lại đưa ra các tiêu chí khác nhau về vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, làm chính sách ưu đãi lãi suất mỗi NHTM vận dụng mỗi kiểu khác nhau.
- Đối với nhóm khách hàng có liên quan, NHNN nên có quy định các NHTM phải xây dựng được các chương trình điện toán để nhận diện và phát hiện ra nhóm các khách hàng có liên quan chứ không thể dựa váo nhận biết của cán bộ tín dụng bởi các cá nhân , tổ chức kinh tế của nhóm khách hàng có liên quan có thể có mối quan hệ vay mượn ở nhiều chi nhánh trong cùng một ngân hàng. Chỉ có những chương trình điện toán mới phát hiện ra dựa vào một cơ sở dữ liệu được lưu trữ với đầy đủ thông tin cần thiết.
Nhóm kiến nghị đối với các cơ quan có thẩm quyền về quá trình xây dựng hành lang pháp lý
Từ thực trạng của hành lang pháp lý điều chỉnh các quan hệ trong nền kinh tế thị trường có nhiều bất cập như đã nêu ở mục 1 chương II , tôi xin nêu ra một số kiến nghị đến Quốc hội, Chính phủ, NHNN và các bộ ngành về quá trình xây dựng pháp luật ở nước ta như sau :
Về quy trình xây dựng hành lang pháp lý :
- Các cơ quan ban hành văn bản pháp quy phải xây dựng chiến lược, chương trình dài hạn, kế hoạch về soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, không tuỳ tiện trong việc quyết định dừng việc soạn thảo, ban hành văn bản trong kế hoạch cũng như phải hết sức cân nhắc khi bổ sung những văn bản mới.
- Kiên quyết thực hiện đúng quy trình soạn thảo, góp ý, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nhất thiết phải có các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học về thực trạng quan hệ xã hội cần điều chỉnh trước khi soạn thảo và ban hành . Đối với việc ban hành hoặc sửa đổi văn bản luật, phải có tổng kết thực tiễn thi hành và kiểm tra, theo dõi, đánh giá việc thi hành pháp luật theo quy định. Phải có cơ chế tiếp nhận, thu thập, xử lý lưu trữ toàn bộ các phản ánh của tất cả các tầng lớp dân cư, các tổ chức, những người chịu tác động điều chỉnh trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật. Chú trọng ý kiến phản ánh của các tổ chức hội nghề nghiệp về việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các quy định không còn phù hợp vì đây là các ý kiến mang tính chuyên nghiệp cao.
- Tăng cường công tác phối hợp và xác định đúng vai trò và trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan phối hợp soạn thảo, cơ quan có thẩm quyền như các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Chính phủ, khắc phục sự chậm trễ ở khâu lấy ý kiến góp ý đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
-NHNN cần phát huy mạnh mẽ vai trò là cơ quan trung gian giữa Nhà nước và nền kinh tế cần phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và xử lý các vướng mắc liên quan đến hoạt động tín dụng, chính sách hỗ trợ xử lý khó khăn cho các doanh nghiệp, xử lý các khó khăn, vướng mắc của hoạt động tín dụng. Đưa ra các dự báo về tình hình kinh tế của đất nước, các tình huống pháp lý sẽ nảy sinh khi đưa vào thực hiện một luật, văn bản dưới luật. Phân tích mối quan hệ pháp lý trong việc thực hiện các luật , văn bản dưới luật khác nhau.NHNN Việt Nam cần rút ngăn quá trình rà soát , ban hành các văn bản mới hoặc chỉnh sửa, bổ sung tránhtrường hợp như đã ban hành công văn 3947/NHNN-CSTT ngày 20/5/2011.
Về nhân lực trong xây dựng hành lang pháp lý
- Thu hút trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia giỏi (đặc biệt chú trọng đến cán bộ có học vị thạc sỹ, tiến sỹ, giáo sư và các nhà khoa học thực tiễn có nhiều công trình được nghiệm thu hoặc được công bố trên tạp chí, công chức có nhiều kinh nghiệm xây dựng văn bản pháp luật...). cần phải đưa kết quả của mỗi công trình nghiên cứu khoa học vào thực tiễn xây dựng pháp luật.
- Tăng cường hơn nữa công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học pháp luật, từng bước bảo đảm đủ về số lượng, bảo đảm về bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
- Xây dựng cơ chế đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với cán bộ, công chức làm công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, như: Có chế độ đãi ngộ, khen thưởng kịp đối với đơn vị, cá nhân công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực và cập nhật kiến thức về soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức với các yêu cầu như mang tính ứng dụng, sát thực tiễn, phù hợp với trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; kết hợp chặt chẽ giữa trang bị kiến thức lý luận và rèn luyện kỹ năng thực hành; thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ, công chức.
- Đào tạo các kỹ năng cơ bản cho cán bộ , công chức trực tiếp làm công tác xây dựng văn bản quy phạm phápluật như : kỹ năng nghiên cứu, phân tích chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kỹ năng lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật dài hạn và hằng năm; đánh giá tác động kinh tế - xã hội của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; kỹ năng sử dụng luật học so sánh trong công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật; kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật; kỹ năng kiểm tra, rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật.
Bảo đảm các điều kiện vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật :
- Xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ soạn thảo văn bản cho cán bộ, công chức trực tiếp tham gia xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật ;
- Cung cấp đầy đủ các thông tin lý luận và thực tiễn về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, về cơ sở dữ liệu pháp luật ;
- Bố trí đầy đủ kinh phí xây dựng văn bản, các dự án, đề án, kinh phí nghiên cứu khoa học từ ngân sách và các nguồn khác để hỗ trợ công tác soạn thảo văn bản. Tập trung kinh phí, nhân lực cho những dự thảo văn bản khó, yêu cầu cao và thời gian thực hiện gấp;
- Hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của công chức trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Bảo đảm phương tiện làm việc cho công chức trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
PHẦN KẾT LUẬN
Từ sau đổi mới 1986 đến nay, Nhà nước ta đã có những thành tựu trong việc xây dựng khung pháp lý cho sự vân hành của cơ chế kinh tế thị trường. Khung pháp lý này cũng đã từng bước đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường như thực hiện quyền tự do kinh doanh, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự vận hành trôi chảy của các yếu tố sản xuất là vốn, lao động, hàng hóa, đất đai.... Hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM vừa là một bộ phận của khung pháp lý đó nên thực trạng của việc ban hành các quy định pháp luật cho tín dụng NHTM cũng ở tình trạng giống như việc xây dựng khung pháp lý cho sự vận hành cơ chế thị trường. NHNN Việt nam trong những năm qua đã có những cố gắng trong việc ban hành, chỉnh sửa, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến huy động vốn và cho vay của các NHTM. Tuy nhiên, hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM đòi hỏi tính hệ thống , đồng bộ , nhất quán. Vấn đề này đòi hỏi sự phối hợp của nhiều cơ quan có thẩm quyền mà NHNN Việt Nam phải phát huy hơn nữa vai trò trung gian giữa Nhà nước và nền kinh tế. Các giải pháp, kiến nghị được nêu ở đây được xuất phát từ chính thực trạng còn bất cập của khung pháp lý cho tín dụng NHTM.
Quá trình viết và bảo vệ luận văn này, bản thân người viết phải tập hợp tư liệu và viết trong thời gian khá dài. Do đó có thể có một vài vấn đề đã không còn tính thời sự hoặc đã được Nhà nước xử lý xong. Đó là thiếu sót không thể tránh khỏi của luận văn.
Xin chân thành cám ơn Quý Thầy Cô Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy và hướng dẫn trong suốt khóa học với rất nhiều các kiến thức, thông tin bổ ích, thiết thực. Xin cám ơn Thầy Nguyễn Văn Sáng, người đã hết lòng giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luanvanrut_5978.doc