Vai trò to lớn của con người - nguồn nhân lực trong điều kiện phát triển kinh tế -xã hội đã được lịch sử khẳng định. Để tạo nguồn lực đáp ứng yêu cầu của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì giáo dục, đào tạo có vai trò trung tâm. Giáo dục đại
học có vai trò là khâu cơ bản phát triển nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao -một trong những nền tảng và động lực quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Tăng cường quản lý tài chính ở các trường đại học theo hướng đa
dạng hoá các nguồn tài chính và nâng cao hiệu quả trong giáo dục đại học vừa là yêu cầu,
vừa là điều kiện để phát triển giáo dục đại học nước ta.
81 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3514 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rộng đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế - xã hội là rất có điều kiện thực hiện
và khả năng tăng nguồn lực tài chính xã hội cho hoạt động của Trường là có cơ sở. Điều
này phù hợp với Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Trường và
Quyết định số 171 của Bộ trưởng Bộ Công an về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy
của Trường: “Đào tạo cán bộ có trình độ đại học và các trình độ thấp hơn về phòng cháy
chữa cháy, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng làm công tác phòng cháy,
chữa cháy trong Công an, các ngành, đoàn thể và các tổ chức kinh tế xã hội theo quy chế
văn bằng của Nhà nước…” [12]. Như vậy, khi triển khai đào tạo chuyên ngành phòng
cháy, chữa cháy cho các đoàn thể, tổ chức kinh tế …thì vấn đề tăng cường thêm nguồn thu học
phí sẽ được chú ý hơn, không chỉ đảm bảo cho chi phí đào tạo trước mắt mà nó còn phải đảm
bảo đầu tư phát triển lâu dài của Trường.
Bên cạnh nguồn thu học phí, với chức năng hiện nay Trường Đại học Phòng cháy,
Chữa cháy, việc thực hiện việc nghiên cứu khoa học về phòng cháy, chữa cháy phục vụ
cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội cũng là một thế mạnh sẵn có của Trường cần được
chú ý phát triển. Hiện nay, nguồn thu này chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng thu ngoài
NSNN của Trường. Trong tương lai, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như dự báo thị
trường này ngày càng phát triển và tăng nguồn thu từ dịch vụ này là rất khả thi.
Ngoài nguồn thu từ các dịch vụ khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy thì
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy còn có thêm nguồn thu từ dịch vụ đào tạo lái xe
ô tô, mô tô cho người dân. Đây là dịch vụ rất có điều kiện phát triển vì nhu cầu người dân
về dịch vụ này ngày càng tăng, bên cạnh đó yêu cầu về điều kiện bắt buộc khi tham gia
giao thông của người dân ngày càng khắt khe hơn.
Nói tóm lại, đa dạng các nguồn thu phục vụ cho công tác đào tạo và phát triển của
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là một xu hướng có triển vọng hiện thực và
mang tính tất yếu. Đây là một cách nhìn mới về quản lý tài chính so với trước đây. Nếu
trước đây chủ yếu dựa vào nguồn thu từ NSNN, thì sau này, thì ngoài nguồn thu từ
NSNN, còn có các nguồn thu khác như: học phí thu của học sinh ngoài ngành công an,
thu từ các hợp đồng thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy chữa cháy, học phí đào tạo lái
xe ô tô… và nhiều nguồn thu khác. Việc tăng nguồn thu sẽ tạo điều kiện để nâng cao chất
lượng cũng như quy mô đào tạo của Trường ngày càng tốt hơn.
3.1.2. Mục đích của tăng cường quản lý tài chính là chi tiêu hiệu quả, tiết
kiệm và nâng cao chất lượng đào tạo
Quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy có mục đích giống
như ở các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung (dưới góc độ vi mô). Do đó, phải đảm bảo
thực hiện nguyên tắc hiệu quả, tiết kiệm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Hoạt động tài
chính ở các nhà trường, khác với các đơn vị sản xuất kinh doanh là không nhằm mục đích
tạo ra lợi nhuận mà phục vụ cho yêu cầu đào tạo với mục đích tạo ra các sản phẩm giáo
dục có chất lượng và được xã hội chấp nhận. Quản lý tài chính trong các trường đại học
công lập yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo.
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy bao gồm hai loại đơn vị thành viên: đơn
vị sự nghiệp có thu và các đơn vị sự nghiệp không có thu. Xét trên hoạt động quản lý tài
chính thì mục tiêu sử dụng hiệu quả, tiết kiệm là mục tiêu chung, nhưng đối với hai hoạt
động sự nghiệp có thu và hoạt động sự nghiệp không có thu có những mục tiêu cụ thể
khác nhau. Đối với hoạt động sự nghiệp không có thu thì mục tiêu sử dụng hiệu quả, tiết
kiệm tài chính nhằm nâng cao chất lượng đào tạo là mục tiêu hàng đầu. Còn đối với hoạt
động sự nghiệp có thu thì mục tiêu hàng đầu là đảm bảo chênh lệch thu – chi được coi là
cao nhất. Xét cụ thể đối với từng hoạt động sự nghiệp không có thu và hoạt động sự
nghiệp có thu đều có chung một mục đích đó là hiệu quả, tiết kiệm và nâng cao chất
lượng đào tạo.
Đối với hoạt động sự nghiệp không có thu: Tính hiệu quả đối với quản lý tài chính ở
đây thể hiện trên hai mặt: hiệu quả bên trong và hiệu quả bên ngoài.
Hiệu quả bên trong, xét về mặt tài chính là xem xét chi phí tính trên đầu sinh viên,
hay tính trên đầu các nghiên cứu, chi tiết hơn là xem xét trên đầu các đơn vị học trình.
Hoạt động của một trường rất đa dạng và khó đo lường, nhưng hoạt động chính của
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là đào tạo sinh viên và nghiên cứu khoa học, vì
vậy chi phí tính trên đầu sinh viên hay tính theo đầu các nghiên cứu khoa học rõ ràng là
phản ánh tính hiệu quả của hoạt động chính trong trường. Với chất lượng đầu ra là cố
định thì hiệu quả bên trong trong là chi phí tính trên đầu sinh viên hoặc các hoạt động
nghiên cứu khoa học.
Hiệu quả bên ngoài của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là cung cấp đủ
nguồn nhân lực có chất lượng cho công tác phòng cháy, chữa cháy phục vụ sự phát triển
của đất nước. Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là trường độc nhất chuyên ngành
trong toàn quốc do đó, hiệu quả bên ngoài có ý nghĩa to lớn. Hiệu quả bên ngoài đòi hỏi,
với chi phí nhất định, phải đạt tới sự ăn khớp giữa nội dung đào tạo (cái học sinh được
đào tạo) với cái xã hội cần. Như vậy, hoạt động của trường phải hướng tới nhu cầu xã
hội, làm sao để tăng khả năng và hiệu quả đóng góp của Trường cho xã hội.
Để nâng cao hiệu quả trong quản lý tài chính, Trường cần soạn thảo và hoàn
thiện hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật thuộc thẩm quyền của Trường. Cụ thể, đó là
định mức chi giờ giảng, công tác phí, thực tế, định mức sử dụng điện thoại, điện, nước
sinh hoạt, định mức văn phòng phẩm, định mức xăng dầu, phương tiện ô tô, định mức chi
quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi chi cho lễ tết, thăm hỏi các đối tượng theo chính sách.
Đối với hoạt động sự nghiệp có thu, tính hiệu quả phải được đánh giá như một đơn
vị sản xuất, kinh doanh. Hiệu quả tài chính ở đây là chi phí theo đầu học sinh, theo đầu
hạng mục công trình làm sao với chi phí thấp nhất mà vẫn đạt yêu cầu dịch vụ mà thị
trường cần. Chỉ trên hiệu quả tổng hợp ở đây là chênh lệch thu – chi để tạo nguồn phát
triển sự nghiệp. Hiệu quả còn được tính trên khả năng cạnh tranh trên thị trường với các
cơ sở hoạt động cùng ngành nghề. Tuy nhiên, bên cạnh mục tiêu chênh lệch thu - chi thì
các hoạt động cung cấp dịch vụ này còn mang tính kết hợp nghiên cứu khoa học với ứng
dụng thực tiễn, phục vụ lại chính mục đích nâng cao chất lượng đào tạo (khả năng thực
tiễn của học viên). Nhưng xét cho cùng thì mục tiêu tổng hợp và cuối cùng của các hoạt
động dịch vụ này chính là làm sao có chênh lệch thu - chi lớn nhất.
Để đạt hiệu quả trong quản lý tài chính của đơn vị hành chính sự nghiệp có thu,
Trường cần có quy chế quản lý chi tiêu nội bộ và cơ chế giám sát thực hiện những nội
dung cụ thể sau:
- Hệ thống quy định về tổ chức bộ máy, quy chế tuyển dụng, hệ thống thang bảng
lương cụ thể. Bởi vì, nếu không có quy định cụ thể thì sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động
như một công ty tư nhân từ khâu tuyển dụng, chi lương…do một mình ban giám đốc
quyết định, đơn vị có thu như một “ vương quốc” riêng, làm mất công bằng trong nhiều
vấn đề, nhất là vấn đề thu nhập giữa các đơn vị trong nội bộ nhà trường.
- Đối với từng đơn vị, cần xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật chi tiêu cụ thể, vì
càng ở đơn vị có thu sự tự chủ trong quản lý tài chính đôi khi lại là cơ hội sử dụng tài
chính thiếu kế hoạch, không thống nhất.
- Quy chế phối hợp và mức chi cho việc sử dụng cán bộ, giáo viên trong thực hiện
các hợp đồng thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy, chữa cháy. Hiện nay, tình trạng
không thống nhất, không cụ thể trong thực hiện các hợp đồng này đã, đang xảy ra dẫn
đến tình trạng không thu hút được cán bộ, giáo viên tham gia trực tiếp vào các hợp đồng
kinh tế này. Để đạt được tính hiệu quả, tiết kiệm thì các chi phí phải được tính toán theo
hướng tinh giảm các khoản chi không cần thiết nhưng không làm ảnh hưởng tới chất
lượng đào tạo. Nhà trường cần xác định được cơ cấu chi một cách hợp lý. Cơ cấu chi hợp
lý ở đây là phần chi trực tiếp cho công tác giảng dạy, học tập sẽ chiếm tỷ trọng lớn, được
thực hiện theo một kế hoạch vạch sẵn nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo.
3.1.3. Quản lý tài chính gắn với hoàn thiện các chính sách, tăng cường tính tự
chủ của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy
Quản lý tài chính là một lĩnh vực rất nhạy cảm, đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt
các quy định về tài chính, đặc biệt là những định mức, tiêu chuẩn, chế độ tài chính, liên
quan đến thu - chi. Trong quá trình đổi mới hiện nay, các quy định, hướng dẫn về chế độ
quản lý tài chính càng đầy đủ, chi tiết làm cho công tác quản lý tài chính càng thuận lợi
trong các công việc nghiệp vụ. Tài chính vừa là một trong những công cụ quản lý của
Nhà nước đối với các trường học, vừa là công cụ quản lý của chính các trường đối với
các đơn vị trực thuộc mình nhằm thực hiện tốt các mục tiêu của đơn vị. Trong điều kiện
hiện nay, sự chuyển đổi của nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động giáo dục đào tạo, trong đó có giáo dục đại học cũng
phát triển đa dạng, thích nghi với cơ chế mới, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, nghiên
cứu khoa học và cung ứng dịch vụ. Tài chính chỉ có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình,
khi không ngừng hoàn thiện các chính sách, chế độ bao gồm cả trong nội bộ của các
trường cũng như của Nhà nước.
Theo tinh thần của Luật Giáo dục , việc hoàn thiện các chính sách chế độ tài chính
phải dựa trên cơ sở “đề cao trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ, Sở Giáo dục và Đào
tạo, đồng thời tăng quyền tự chủ của cơ sở, nhất là các trường đại học, mở rộng dân chủ
trong nhà trường” [21]. Trước đây, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tính độc lập, chủ
động, sáng tạo của nhà trường bị thu hẹp, trường hoàn toàn thụ động trong đào tạo. Cơ
chế đó làm cho hoạt động giáo dục trì trệ. Trong xu hướng đổi mới quản lý giáo dục sắp
tới, các trường đại học được tăng cường quyền tự chủ gắn liền với trách nhiệm. Các
trường phải có chính sách thích hợp phục vụ mục tiêu phát triển của mình. Trường Đại
học Phòng cháy, Chữa cháy có đội ngũ cán bộ khoa học rất mạnh trong lĩnh vực khoa
học phòng cháy, chữa cháy, nhưng lực lượng này đến nay vẫn không phát huy được khả
năng của mình do cơ chế quản lý vẫn theo nếp cũ. Nhưng nếu buông lỏng việc giám sát,
quản lý và điều tiết thì dẫn đến việc các đơn vị bung ra không kiểm soát được, các đơn vị
sẽ có xu hướng bung ra theo hướng tự phát, chạy theo lợi ích trước mắt, cục bộ, cá nhân.
Vì vậy, cơ chế mới sẽ phải theo nguyên tắc tập trung - dân chủ thay vì trực tiếp can thiệp
vào công việc sự vụ của nhà trường thì Bộ sẽ chuyển sang tư cách thực hiện chức năng
quản lý nhà nước, tức là ban hành các chính sách, chế độ, tạo môi trường cạnh tranh về
chất lượng đào tạo, kiểm tra, kiểm soát đầu vào, đầu ra…Phương châm quản lý nhà nước
là thông qua chính sách, chế độ ban hành, thực hiện các mục tiêu quản lý của mình là
nâng cao chất lượng đào tạo, tăng số lượng và công bằng trong đào tạo. Đối với Trường
Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, sau khi giao quyền chủ động toàn diện, trong đó có
tự chủ tài chính, Trường sẽ có quyền chủ động trong việc sử dụng các nguồn kinh phí,
trên cơ sở đó, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học tốt hơn
so với cơ chế hiện nay. Tự chủ tài chính chính là Nhà nước giao quyền chủ động cao
trong quản lý về lao động và quản lý tài chính cho nhà trường. Trách nhiệm của
Trường trong tự chủ tài chính là chủ động trong công tác tổ chức quản lý đào tạo,
nghiên cứu khoa học đảm bảo sẽ sử dụng tốt nhân lực và các nguồn lực khác có hiệu
quả, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường. Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày
25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, về tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
công lập.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ VỀ ĐẢM BẢO CÁC NGUỒN TÀI CHÍNH
3.2.1. Đối với nguồn ngân sách nhà nước
Như phần trên đã phân tích, nguồn NSNN cấp cho Trường Đại học Phòng cháy,
Chữa cháy gồm các khoản chi thường xuyên, các khoản chi không thường xuyên (gồm
chi đầu tư XDCB, chi nghiên cứu khoa học, chi cho các chương trình mục tiêu, chi mua
sắm trang thiết bị dạy học), chiếm tới 73% tổng các nguồn thu của Trường.
Đối với nguồn chi thường xuyên: NSNN cấp chi thường xuyên để đảm bảo các
hoạt động của nhà trường, không bao gồm các khoản chi có tính chất đầu tư phát triển.
Nhà nước sẽ không cấp và không quyết toán vào chi thường xuyên các khoản mang tính
chất đầu tư, XDCB, sửa chữa lớn tài sản cố định, mua sắm tài sản có giá trị lớn, thiết bị
dạy học.
Để đảm bảo sử dụng có hiệu quả chi thường xuyên, NSNN cấp cho chi thường
xuyên của Trường phải được xây dựng căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn, định mức, chế độ
rõ ràng, công khai. Cụ thể như sau:
- Căn cứ vào mức độ ưu tiên của ngành đào tạo, căn cứ vào ngành đào tạo mà
NSNN định mức nhiều hay ít cho các ngành nghề đào tạo mà Nhà nước thấy cần khuyến
khích hay không trong từng thời kỳ nhất định. Mức chi cho đào tạo học viên phòng cháy,
chữa cháy phải được nâng lên so với hiện nay do đây là ngành phục vụ an toàn xã hội.
- Mức cấp NSNN cần căn cứ vào chi phí đào tạo thực tế theo chỉ tiêu của nhà
trường. Việc cấp NSNN dựa vào chi phí đào tạo, Trường sẽ đảm bảo cho nhà trường có
đủ chi phí đào tạo mà không phải cắt giảm các khoản chi. So với các trường công an nhân
dân thì Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là một trường quy mô nhỏ, nhưng mang
tính đặc thù là trường khoa học kỹ thuật (các trường công an nhân dân khác chủ yếu là
chuyên ngành quản lý, xã hội), nên chi phí đào tạo đơn vị cao, mặt khác do là trường
khoa học kỹ thuật cho nên chí phí cho thực hành, thí nghiệm cao hơn, quy mô đầu học
sinh trên lớp học ít hơn, cho nên chi phí đơn vị càng cao hơn. Do vậy, NSNN cần nghiên
cứu định mức cấp cho Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy cao hơn các trường bình
thường khác. Mức cao hơn phải ở mức 30 - 50% mới đáp ứng đủ yêu cầu chi phí cho các
nội dung đào tạo.
- Hàng năm, cần có nguồn NSNN thường xuyên bổ sung để duy trì hoạt động của
các trang thiết bị đã được mua sắm từ nguồn NSNN không thường xuyên. Một thực tế
nhiều năm qua cho thấy, trong khi các trang thiết bị ngày càng tăng cả về số lượng và tần
suất sử dụng, dẫn đến tiêu hao nhiên liệu, năng lượng điện…ngày càng tăng thì kinh phí
thường xuyên hầu như không tăng.
Đối với nguồn NSNN không thường xuyên như XDCB, sửa chữa lớn, đầu tư mua
sắm tài sản cố định có giá trị lớn theo các hướng, giải pháp đổi mới quản lý bao gồm:
- Áp dụng chặt chẽ các định mức của Nhà nước về XDCB, đảm bảo tốc độ đầu tư
tương ứng với tốc độ tăng đầu tư cho toàn ngành. Đối với đầu tư XDCB hiện nay định
mức áp dụng trong Bộ Công an là thấp so với các bộ khác, trong khi đó, định mức cho
XDCB đối với các trường công an nhân dân lại càng thấp hơn. Định mức áp dụng cho
XDCB của các trường công an nhân dân thấp làm cho các công trình có trang thiết bị
lạc hậu, kém chất lượng, nhanh xuống cấp, trong khi công suất sử dụng cao hơn càng
làm cho các công trình XDCB có tuổi thọ thấp và thường xuyên phải duy tu, bảo
dưỡng, nâng cấp.
- Nguồn kinh phí cấp cho mua sắm tài sản cố định có giá trị lớn hiện nay chủ yếu
thông qua thực hiện các dự án. Nguồn kinh phí này hiện nay rất hạn chế vì quy mô các dự
án đã được thực hiện cũng ở mức độ rất nhỏ, do vậy khó thực hiện được các nhu cầu
tương lai của công tác đào tạo chuyên ngành phòng cháy, chữa cháy. Ví dụ, mức đầu tư
cho một dự án lớn nhất của nhà trường từ trước tới nay là 11 tỷ đồng, thì nếu với nhu cầu
đáp ứng mua một số ô tô chuyên dụng trong thực hành huấn luyện phòng cháy, chữa
cháy thôi cũng phải cần tới 50 tỷ, như vậy với quy mô đầu tư theo dự án hiện nay thì
không thể đáp ứng được hoạt động đào tạo cho tương lai. Mặt khác, đối với NSNN cấp
cho các dự án cũng mang tính bình quân, mỗi đơn vị thường chỉ được thực hiện một đến
hai dự án trong một thời điểm (thường là một năm), cho nên khả năng nâng cao năng lực,
chất lượng đào tạo đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là rất khó khăn. Như
vậy trong tương lai, Trường sẽ phải có kế hoạch đầu tư theo dự án theo hướng đầu tư
đồng bộ và các cơ quan quản lý NSNN cần ủng hộ hướng phát triển này.
- Nguồn NSNN mua sắm trang thiết bị dạy học hàng năm cho các trường thường
rất nhỏ. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, nguồn này chưa đạt 1 tỷ trong
một năm. Với mức độ cấp như vậy càng làm cho việc mua sắm thiết bị khó khăn. Việc
tính toán nguồn NSNN cho mua sắm thiết bị phải đươc chú ý đặc biệt.
3.2.2. Nguồn ngoài ngân sách nhà nước
Đối với nguồn thu học phí: Đối tượng thu học phí hiện nay ở Trường Đại học
Phòng cháy, Chữa cháy không nhiều. Tuy nhiên, nếu được phép đào tạo học sinh ngành
ngoài công an nhân dân thì nguồn thu này có tiềm năng khá lớn. Để tăng dần nguồn thu
này, Trường cần áp dựng thực hiện một số biện pháp
- Xây dựng mức đóng học phí hợp lý để đảm bảo các chi phí trong quá trình đào
tạo tại Trường. Hiện nay mức học phí này mới chỉ tính đủ cho các chi phí cơ bản, hầu
như không có tích luỹ để đầu tư phát triển. Trong tương lai, đối tượng sinh viên sẽ được
mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu của các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội thì việc xác định
mức thu học phí hợp lý càng đặt ra một cách cấp thiết hơn.
- Cần thực hiện thu học phí đối với đối tượng đào tạo hệ tại chức, liên kết, vừa học
vừa làm, vì các đối tượng này có thu nhập bằng lương, mặt khác đây là nhu cầu tự thân,
cần bớt gánh nặng bao cấp từ NSNN.
Đối với nguồn thu từ các hoạt động ứng dụng khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa
cháy: Đây là hoạt động cung cấp ứng dụng kết quả nghiên cứu và thực hiện các phần việc
như một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ phòng cháy, chữa cháy. Tuy
nhiên, nhân lực tham gia vào hoạt động này chủ yếu mang tính kiêm nhiệm. Hiện nay,
Trường thường khuyến khích cán bộ, giáo viên tham gia theo dạng đi thực tế theo kế
hoạch hàng năm. Để tăng nguồn thu này cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Đề xuất mở rộng ngành nghề kinh doanh so với hiện nay. Ví dụ, cần đăng ký
kinh doanh các lĩnh vực kiểm định trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy, tư vấn thiết kế,
giám sát thi công các hệ thống phòng cháy, chữa cháy. Hiện nay, Trường Đại học Phòng
cháy, Chữa cháy đã được đầu tư trang thiết bị hiện đại, sử dụng rất tốt trong kiểm định
độ an toàn cho các thiết bị, nhưng đến nay chỉ mới phục vụ đào tạo, chưa được phép thực
hiện dịch vụ trên thị trường. Bên cạnh đó, dịch vụ tư vấn về thiết kế, giám sát hiện nay
trong hoạt động đầu tư là rất cần thiết, trong khi đó, Trường Đại học Phòng cháy, Chữa
cháy có thế mạnh về đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ cao về lĩnh vực này.
- Tăng cường khâu quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để chính thức
tham gia thị trường cung cấp dịch vụ này. Trong những năm qua, hầu như Trường không có
quảng cáo, giới thiệu để thu hút hợp đồng kinh tế mà chủ yếu do các quan hệ quen biết cá
nhân và thông qua một số công ty hoạt động trong lĩnh vực này hợp tác. Nếu chú ý đến khâu
quảng cáo, chắc chắn sẽ đẩy mạnh số lượng hợp đồng và sẽ tạo được nguồn thu lớn cho
trường.
- Phải có lộ trình và giải pháp xây dựng thương hiệu cho Trung tâm Ứng dụng
Khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy để nhằm khẳng định uy tín cung ứng, khả năng
thực hiện các hợp đồng kinh tế. Hiện nay Trung tâm hoạt động chủ yếu dựa vào uy tín
của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy chứ thực chất chưa có thương hiệu riêng của
mình. Có thể xây dựng Trung tâm thành Công ty trực thuộc Trường như mô hình công ty
của một số trường như : Đại học Bách khoa Hà nội, Đại học Xây dựng, Đại học Kiến
trúc…
- Cần mở rộng lĩnh vực hoạt động khoa học, công nghệ từ ba lĩnh vực: nghiên cứu
ứng dụng , nghiên cứu thiết kế, thi công, bảo hành, bảo trì, huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp
vụ phòng cháy, chữa cháy, lên nhiều lĩnh vực theo hướng bổ sung các lĩnh vực như: tư
vấn, giám sát; kiểm định trang thiết bị an toàn phòng cháy, chữa cháy. Đây là thế mạnh
của nhà trường cả về con người và trang thiết bị.
- Cần xây dựng thống nhất, công khai cơ chế sử dụng cán bộ, giáo viên tham gia
kiêm nhiệm tại Trung tâm. Vấn đề chủ yếu vẫn là đổi mới cơ chế tài chính trong việc sử
dụng nguồn nhân lực này.
Đối với nguồn thu từ đào tạo lái xe ô tô, mô tô: Đây là hoạt động có nguồn thu
tương đối ổn định và có xu hướng ngày càng tăng. Nguồn thu này chủ yếu thu từ các
cá nhân cho nên nguồn thu ổn định, tin cậy, đúng kế hoạch. Tuy vậy, để đảm bảo
nguồn thu này cũng cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Cần có kế hoạch và tiến hành xây dựng cơ sở vật chất theo hướng chuẩn hoá và
hiện đại bao gồm: sân bãi, phương tiện, đội ngũ giáo viên dạy lái…Đây chính là điều kiện để
phát triển hoạt động này để có nguồn thu ổn định.
- Có kế hoạch và chính sách phát triển đội ngũ giáo viên dạy lái chất lượng cao, có
đạo đức nghề nghiệp, tay nghề, trình độ sư phạm cao. Đây là điều kiện để tạo ra thương
hiệu cho Trung tâm Đào tạo lái xe của trường. Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ giáo viên
thì cần có cơ chế sử dụng hợp lý số lao động này.
- Khi tuyển dụng, cần công khai hoá tiêu chuẩn, nhu cầu tuyển dụng, đối tượng
cần tuyển dụng để khắc phục tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nhân lực: thừa nhân lực có
trình độ thấp, thiếu nhân lực có trình độ cao, nể nang tiếp nhận tuyển dụng người nhà,
người quen thiếu tiêu chuẩn.
Đối với nguồn tài trợ từ nước ngoài: Đây là nguồn thu được xác định có tiền năng
lớn trong tương lai vì khả năng hợp tác trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy là rất lớn.
Nguồn thu này không chỉ trong lĩnh vực đào tạo mà còn cả trong hợp tác nghiên cứu,
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật… Hiện nay, Trường Đại học Phòng cháy, Chữa
cháy được phép hợp tác với tổ chức JICA của Nhật Bản với dự án: “Nâng cao năng lực
đào tạo chuyên ngành phòng cháy, chữa cháy”. Với từng giai đoạn thực hiện của dự án,
nếu được triển khai thì đây không chỉ là nguồn tài chính lớn mà còn là nguồn công nghệ
kỹ thuật, công nghệ đào tạo. Ngoài ra, cần có hợp tác, trao đổi với các nước khác, nhất là
với Trung quốc, Mỹ… Bởi vì, trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy hiện nay chủ yếu là
nhập khẩu từ Trung Quốc và Mỹ. Việc tăng cường hợp tác đào tạo và dịch vụ phòng
cháy, chữa cháy với Lào cũng là hướng đi đúng đắn và rất có tiềm năng. Trường cần có
các biện pháp cụ thể khai thác hướng hợp tác này.
Đối với việc sử dụng các nguồn thu, cần linh hoạt và hỗ trợ thu chi trong quá trình
hoạt động. Vì thực tế các hoạt động tạo ra nguồn thu có tính chất sử dụng vồn khác nhau.
Ví dụ như đào tạo lái xe thường tồn đọng tiền mặt lớn có thể khai thác thu nhập thêm
bằng cách gửi tiết kiệm tại ngân hàng; ngoài ra, cần đầu tư vào hoạt động thi công lắp đặt
hệ thống phòng cháy, chữa cháy, đối với hoạt động này, như vậy có thể hỗ trợ các hoạt
động hợp đồng về nguồn tài chính.
Đối với các nguồn thu dịch vụ khác: Với số lượng học viên trên 1000 như hiện
nay, việc tổ chức các dịch vụ phục vụ học sinh hầu như không có. Nguyên nhân dẫn đến
tình trạng trên là ngay từ nhận thức, cho rằng học sinh sinh hoạt nội trú thì mọi nhu cầu
sinh hoạt đã đáp ứng theo qui định của lực lượng vũ trang, tính chất quản lý ký túc xá
theo hình thức trại lính… Nhưng trong thực tế, đối tượng học viên tại Trường khác hẳn
so với đối tượng chiến sỹ nghĩa vụ, nhiều nhu cầu chính đáng khác của học viên chưa
được đáp ứng, điều đó làm ảnh hưởng tới cuộc sống, chất lượng sinh hoạt và kết quả học
tập của học viên. Với 1000 học viên, nhưng toàn bộ khu ký túc xá khép kín không có các
dịch vụ cung cấp văn phòng phẩm, dịch vụ giải khát, dịch vụ internet, điện thoại…thì
thực sự không còn phù hợp với tương lai. Do vậy, cần tổ chức các dịch vụ theo nhu cầu
của học viên. Nếu tổ chức tốt dịch vụ này thì không những có nguồn thu không nhỏ về
mặt tài chính mà còn có tác dụng rất lớn đối với công tác quản lý, giáo dục học viên trong
Trường.
3.3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
3.3.1. Công tác lập dự toán, xây dựng kế hoạch
Lập dự toán thu chi là nền tảng của kế hoạch tài chính trong nhà trường. Thời gian
trước đây, do nguồn NSNN là chủ yếu, việc lập kế hoạch chỉ tập trung vào các yêu cầu
của nguồn NSNN, chưa chú ý tới các nguồn thu, chi khác. Trong bối cảnh sắp tới, hoạt
động tài chính trong Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy không chỉ có nguồn NSNN,
do vậy yêu cầu lập kế hoạch tài chính là phải phản ánh đầy đủ các nguồn tài chính và chi
tiêu từ các nguồn này. Lập kế hoạch tài chính chi tiết giúp cho công tác tổ chức thực hiện
được thuận lợi, có căn cứ đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính. Công tác xây
dựng kế hoạch tài chính thời gian tới cần hoàn thiện theo bốn nội dung sau:
Một là, kế hoạch hoạt động tài chính hàng năm phải được thể hiện trong dự toán
thu chi của đơn vị. Dự toán thu chi của đơn vị cần lập có căn cứ và sát thực tế. Lập dự
toán tài chính không chỉ quan niệm đó là công việc của riêng Phòng Hậu cần, mà cần coi
đó là hoạt động quan trọng trong quản lý của tất cả các đơn vị, do vậy phải là công việc
chung đòi hỏi sự phối hợp, tham gia của nhiều bộ phận, phòng, bộ môn trong Trường.
Như vậy, phải đổi mới công tác lập kế hoạch tài chính theo hướng Phòng Hậu cần là đầu
mối, các phòng, bộ môn khác có nhiệm vụ phải tham gia, đặc biệt là Phòng Đào tạo có
một vai trò quan trọng. Nếu trong các doanh nghiệp, bộ phận kinh doanh đóng vai trò
quan trọng mang lại công ăn việc làm, thu nhập cho doanh nghiệp và có vai trò rất quan
trọng trong công tác lập kế hoạch sản xuất tài chính, thì vai trò của Phòng Đào tạo trong
Trường cũng tương tự như vậy.
Hai là, lập kế hoạch tài chính đối với các nguồn thu cần chi tiết cho từng nguồn
thu, trên cơ sở tính toán, phương pháp tính toán các nguồn thu để có căn cứ theo dõi và
quản lý các nguồn thu.
Ba là, đối với các khoản chi tiêu thường xuyên, lập chi tiết cho từng khoản chi
tiêu, trong đó tách bạch chi tiêu cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và các khoản chi
hành chính quản lý. Xây dựng kế hoạch tài chính đối với các khoản chi thường xuyên phải
xác định được cơ cấu chi tiêu trong nhà trường, có như vậy, kế hoạch mới thực sự là công cụ
quản lý tài chính.
Bốn là, riêng các khoản chi tiêu đầu tư XDCB, sửa chữa lớn, mua sắm tài sản cố
định có giá trị lớn, cần lập dưới dạng dự án trên cơ sở căn cứ vào nhu cầu phát triển của
Trường.
3.3.2. Tăng cường quản lý thu - chi
Tăng cường quản lý các nguồn thu cần thực hiện các giải pháp cả đối với nguồn
NSNN và nguồn ngoài NSNN.
Đối với nguồn NSNN, Trường cần lập dự toán theo tháng, quý, dựa vào nhu cầu
chi tiêu của đơn vị làm căn cứ để tiếp nhận ngân sách do cấp trên cấp. Kiến nghị với Nhà
nước chuyển việc cấp phát NSNN quá chi tiết theo nhiều “mục” hiện nay sang việc cấp
phát tổng hợp theo hướng ít “mục" hơn. Cụ thể trong dự toán cần giảm xuống còn 7
“mục”:
i) Chi tiền lương và các khoản chi cho cá nhân (tiền lương, tiền công, phụ cấp,
học bổng, tiền thưởng, phúc lợi tập thể, các khoản thanh toán cho
cá nhân).
ii) Chi về hàng hoá dịch vụ (thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư, văn phòng,
thông tin, tuyên truyền, liên lạc, công tác phí, chi thuê mướn, sửa chữa thường xuyên,
bảo dưỡng định kỳ tài sản cố định).
iii) Chi nghiệp vụ chuyên môn từng ngành (chi cho y tế, trang phục, văn hoá văn
nghệ, thể dục thể thao).
iv) Chi cho đào tạo (đào tạo tập trung, đào tạo tại chức)
v) Chi cho nghiên cứu khoa học (nghiên cứu khoa học theo các đề tài, hội thảo);.
vi) Chi hỗ trợ (công tác xã hôi, chi viện trợ).
vii) Chi đầu tư phát triển (mua sắm tài sản cố định dùng cho công tác chuyên
môn, trang thiết bị chuyên ngành).
Việc quản lý các khoản chi nguồn NSNN phải đảm bảo đúng định mức, chế độ,
tiêu chuẩn và theo quy định theo Luật NSNN.
Đối với nguồn ngoài NSNN: Thực hiện quản lý tập trung về Phòng Hậu cần đối
với tất cả các khoản thu liên quan đến hoạt động đào tạo, dịch vụ và các hoạt động khác
thuộc trách nhiệm quản lý Trường. Chấm dứt việc phân cấp chi tiêu cho cấp dưới theo
hình thức “tọa chi”.
Các giải pháp hoàn thiện công tác chi tiêu tài chính bao gồm:
- Hoàn thiện cơ chế và tổ chức quản lý tiền lương, chế độ thanh toán cho đội ngũ
cán bộ, giảng viên gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, thống nhất một hệ thống, chế độ thanh toán tiền lương cho cán bộ, giảng
viên không phân biệt nguồn thu, hay cụ thể không phân biệt là khoá chính quy hay khoá
tại chức. Xây dựng định mức chi hợp lý cho giảng viên và cán bộ quản lý, chấm dứt tình
trạng giảm tiền giờ giảng của giảng viên để chi thêm cho công tác quản lý.
Thứ hai, có chính sách chế độ quy định cụ thể đối với cán bộ giảng dạy làm công
tác kiêm nhiệm. Quy định về hệ số lương, phụ cấp, tỷ lệ đảm nhận các công việc giảng
dạy, quản lý để có thể thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ, tiến tới chuyên nghiệp hoá công tác
quản lý.
Thứ ba, tuyển dụng tăng thêm đội ngũ giáo viên để giảm việc chi trả tiền vượt giờ
quá lớn hiện nay (tăng biên chế cho các bộ môn giáo dục theo định mức chung nhưng
phải tính toán là đơn vị có tính đặc thù : là một trường đơn ngành, đa hệ, quy mô học sinh
nhỏ), mặt khác phải có chính sách, chế độ thù lao khuyến khích giảng viên tham gia công
tác nghiên cứu khoa học.
Thứ tư, đối với những đối tượng hợp đồng lao động ngắn hạn làm công tác nhà ăn,
phục vụ điện nước đã ổn định nhiều năm, đề nghị được chuyển sang hợp đồng không xác
định thời hạn để được hưởng chế độ thang bậc lương theo năm và được tham gia bảo
hiểm theo đúng quy định của Nhà nước, làm giảm thiệt thòi cho những đối tượng này.
- Các giải pháp hoàn thiện cơ chế chi trả học bổng cho sinh viên theo ba hướng nội
dung:
Thứ nhất, thực hiện chi trả học bổng cho học sinh theo tháng, việc trả như vậy
giúp cho học viên có một khoản thu nhập ổn định hơn để trang trải cho các chi tiêu hàng
ngày.
Thứ hai, dành một phần quỹ phúc lợi để mở rộng tài trợ cho những học sinh
thuộc diện có hoàn cảnh khó khăn, gia đình nghèo, thực hiện tốt công bằng xã hội,
giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo do tác động của nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, xây dựng cơ chế phân phối học bổng theo thời gian từng năm học cùng
với có chế độ khen thưởng thích hợp để khuyến khích học sinh khá giỏi tiếp tục phấn đấu
để có kết quả cao hơn.
- Giải pháp đối với khoản chi văn phòng phẩm, điện nước, điện thoại, công tác
phí: một mặt quản lý chi theo định mức của nhà nước, mặt khác cần quản lý theo cơ chế
khoán chi để đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả. Kiến nghị với Bộ Công an thống nhất định
mức khoán chi trong Bộ Công an, kiến nghị với Nhà nước sửa đổi các chế độ, định mức
đã không còn phù hợp với tình hình hiện nay.
- Giải pháp đối với đầu tư XDCB, sửa chữa lớn có giá trị cao: quy định phải đấu
thầu thì cần thuê tư vấn trong lập dự án, tổ chức đấu thầu xét thầu, theo dõi, giám sát thi công
để bảo đảm tính hiệu quả của công tác đầu tư XDCB. Kiến nghị với cơ quan Bộ Công an
tăng mức đầu tư cho sửa chữa lớn, tài sản cố định có giá trị, trong thực tế nhiều năm gần
đây kinh phí này không có.
- Giải pháp trong công tác quản lý mua sắm tài sản cố định: cùng với việc chấp
hành các quy định hiện hành của Nhà nước về thủ tục, thì trong quá trình thực hiện cần
tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn, chuyên gia và xem đó như là thủ tục trong
việc mua sắm, đảm bảo cho đầu tư có hiệu quả. Thực hiện đầy đủ quy trình đấu thầu,
trong đó chú trọng đấu thầu rộng rãi để có nhiều cơ hội lựa chọn nhà thầu trong mua sắm
tài sản cố định.
- Giải pháp về quản lý trong quá trình khai thác sử dụng tài sản cố định: xây dựng
chế độ tiêu chuẩn về tài sản cố định cho từng bộ phận, trên cơ sở đó có kế hoạch trang bị
tài sản, đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ở từng bộ phận. Quá trình quản lý tài sản bắt
đầu từ khi mua sắm cho đến khi tài sản không còn sử dụng được phải thanh lý, trong đó
quản lý quá trình sử dụng tài sản là khâu quan trọng. Đầu tư trang thiết bị đúng, nhưng sử
dụng không hợp lý, không phát huy hết hiệu quả của tài sản đó chính là một sự lãng phí.
Do vậy, đi đôi với quản lý mua sắm tài sản cố định cần theo dõi, quản lý quá trình sử
dụng của tài sản cố định, đảm bảo phát huy hiệu suất cao nhất của tài sản cố định trong
quá trình hoạt động của đơn vị.
3.3.3. Tăng cường hạch toán kế toán, kiểm toán, thanh tra đi đôi với công
khai tài chính
Tăng cường quản lý tài chính không thể không tính đến công tác hạch toán kế
toán. Hạch toán kế toán thực hiện việc thu nhận và sử lý thông tin về các hoạt động kinh
tế tài chính một cách thường xuyên liên tục, toàn diện và có hệ thống. Trường cần xây
dựng chế độ định kỳ báo cáo kế toán, cung cấp những thông tin đã thu nhận và xử lý của
đơn vị cho lãnh đạo, cơ quan quản lý các cấp. Thu nhận, xử lý cung cấp thông tin phải
đáp ứng yêu cầu và chuẩn mực kế toán, nghĩa là công tác ghi chép, hạch toán, phản ánh
hoạt động tài chính phải chính xác, kịp thời. Theo hướng này, công tác hạch toán kế toán
trong trường cần hoàn thiện theo năm nội dung sau:
Thứ nhất, nghiên cứu và vận dụng loại hình tổ chức công tác kế toán phù hợp với
tình hình cụ thể của đơn vị. Trong công tác hạch toán kế toán, lựa chọn hình thức tổ chức
kế toán là công việc quan trọng. Lựa chọn hình thức tổ chức kế toán phù hợp sẽ phát huy
đầy đủ vai trò của công tác kế toán, thống kê trong quản lý các hoạt động kinh tế tài
chính, góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ của nhà trường đã đề ra.
Thứ hai, tổ chức xây dựng hệ thống chứng từ kế toán, tổ chức hạch toán ban đầu
và tổ chức luân chuyển chứng từ một cách khoa học.
Thứ ba, lựa chọn hình thức kế toán phù hợp, tổ chức thực hiện chế độ báo cáo kế
toán và kiểm tra kế toán. Số liệu trong báo cáo kế toán là số liệu mang tính tổng hợp về
tình hình hoạt động của đơn vị theo những chỉ tiêu kinh tế tài chính phục vụ cho công tác
quản lý của đơn vị và của các cơ quan quản lý cấp trên.
Thứ tư, tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, khoa học
quản lý cho đội ngũ cán bộ làm công tác kế toán, tạo khả năng và điều kiện để đội ngũ
cán bộ kế toán học tập nâng cao trình độ.
Thứ năm, ngoài việc chấp hành các chế độ chính sách của nhà nước về kế toán
thống kê, nhà trường trong thẩm quyền cần ban hành các mẫu chứng từ, biểu mẫu liên
quan đến hoạt động quản lý tài chính. Cụ thể: đối với nguồn thu ngoài NSNN phải theo
dõi theo từng nguồn thu chi tiết theo từng đối tượng, từng lớp học, khoá học để có thể
đánh giá được hiệu quả của hoạt động tài chính. Phải có báo cáo thống kê chi phí theo
từng lớp học, khoá học giúp cho nhà trường xác định được chi phí đơn vị cho từng loại
hình đào tạo, trên cơ sở đó cân đối với nguồn thu, đề xuất phương án cân đối tài chính.
Đi đôi với tăng cường công tác hạch toán kế toán, cần chú trọng thực hiện tốt công
tác kiểm toán, trong đó có kiểm toán nội bộ, coi công tác kiểm toán là một hoạt động
không thể thiếu trong quản lý tài chính của đơn vị. Vì vậy, đối với Trường, cần có cán bộ
làm công tác kiểm toán nội bộ, hoặc thuê kiểm toán độc lập để kiểm toán báo cáo tài
chính hàng năm, phục vụ quản lý tài chính của Trường. Thực hiện được như vậy, công
tác hạch toán kế toán, báo cáo tài chính và quản lý tài chính của trường sẽ có độ chính
xác, tin cậy cao, giúp công tác quản lý, điều hành trong nhà trường đạt hiệu quả hơn.
3.4. TĂNG CƯỜNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN
LÝ TÀI CHÍNH
Để đáp ứng yêu cầu quản lý trong điều kiện thực hiện đa dạng hoá loại hình đào tạo, đa
dạng hoá các nguồn tài chính khi công nghệ thông tin đã phát triển khá phổ biến trước hết phải
ưu tiên mua sắm trang thiết bị như máy vi tính, nối mạng quản lý từ kế toán chi tiết, kế toán
tổng hợp, kế toán tài sản, kế toán kho…
Quá trình thu nhận, xử lý, lưu trữ, phân phối thông tin trong quản lý tài chính ở
các Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy cũng giống như quy trình chế biến sản
phẩm, bao gồm nhiều khâu, mỗi khâu đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau. Khối lượng
thông tin cần xử lý ngày càng lớn, việc tiếp nhận, xử lý thông tin ra quyết định quản lý tài
chính theo hình thức tập trung, hiện đại bằng các thiết bị điện tử và các phần mền ứng
dụng sẽ giúp cho công tác quản lý tài chính đạt hiệu quả tốt hơn. Áp dụng tin học vào
công tác quản lý tài chính theo hướng trang bị đồng bộ các thiết bị tin học nối mạng. Việc
nối mạng quản lý có tác dụng, một mặt giúp cho các bộ phận nghiệp vụ, quản lý tài chính
trao đổi thông tin, dữ liệu được dễ dàng, mặt khác lãnh đạo đơn vị dù ở xa vẫn có thể truy
cập các thông tin về tài chính của đơn vị, trên cơ sở đó có các quyết định quản lý.
Đối với ứng dụng tin học trong công tác kế toán cần đạt các yêu cầu:
- Dễ dàng trong thao tác, đảm bảo các yêu cầu hạch toán, cả giá trị lẫn số lượng.
- Biểu mẫu thống nhất đúng với quy định chung hiện hành.
- Nhiều phần hành kế toán cùng được thực hiện thuận lợi.
- Đảm bảo việc đối chiếu số liệu kế toán chi tiết với tổng hợp dễ dàng.
- Các số liệu kế toán cần thiết cho điều hành quản lý phải được khai thác kịp thời
và hiệu quả.
Đi đôi với trang bị máy móc thiết bị tin học, cần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý tài
chính thành thạo về tin học để khai thác có hiệu quả hệ thống máy móc thiết bị. Thực
hiện tốt công việc trên, sẽ giúp cho công tác quản lý tài chính ở Trường đạt hiệu quả hơn.
3.5. MỘT SỐ GIẢI PHÁP MANG TÍNH KIẾN NGHỊ NHẰM HUY ĐỘNG
CÁC NGUỒN TÀI CHÍNH VÀ QUẢN LÝ CÓ HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH Ở
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
Đối với Chính phủ:
- Cho phép Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy thực hiện nhiệm vụ đào tạo
cho các đối tượng ngoài ngành công an ở trình độ đại học và thấp hơn. Nội dung này đã
được ghi trong Quyết định 203/1999/QĐ-TTg. Sau sáu năm đào tạo đại học với hai khoá
học sinh tốt nghiệp ra trường, cùng với năng lực đội ngũ cán bộ, giáo viên, cơ sở vật chất,
kỹ thuật hiện có nhà trường đã có thể thực hiện việc mở rộng đối tượng đào tạo ngoài
ngành công an. Đây là một vấn đề tương đối mới với các trường công an nhân dân,
nhưng với xu thế mở rộng giáo dục nhất là giáo dục đại học hiện nay thì việc triển khai
đào tạo đại học phòng cháy, chữa cháy cho các đối tượng ngoài ngành công an trở nên
cấp thiết. Trên thực tế, Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy đã đào tạo đại học nhưng
chỉ với hệ tại chức. Đối với các trường thuộc lực lượng vũ trang cũng đã có trường đào
tạo đối tượng ngoài xã hội như Học viện Quân Y - Bộ Quốc phòng. Về phương diện tài
chính, đây là hoạt động tạo nguồn thu đáng kể nếu Trường được thực hiện nhiệm vụ này.
- Có chính sách cụ thể để tăng cường hợp tác quốc tế trên cả lĩnh vực an toàn phòng
cháy, chữa cháy nói chung và hoạt động đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực phòng cháy,
chữa cháy nói riêng. Trong thực tế, từ sau năm 1992 thì việc hợp tác đào tạo với Liên xô cũ
chấm dứt và từ đó đến nay công tác đào tạo ở nước ngoài hầu như không có. Đây là điều làm
cho thông tin kiến thức, công nghệ về lĩnh vực này ở Việt Nam hiện rất thiếu và lạc hậu.
Việc cử cán bộ, giáo viên đi đào tạo, tập huấn ở nước ngoài cần được xúc tiến ngay trong các
năm tới. Ngoài ra, có thể thông qua các dự án hợp tác, mời các chuyên gia nước ngoài đến
hỗ trợ giảng dạy, chuyển giao công nghệ. Nhà nước cần có chính sách để thu hút đầu tư
trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy thông qua các tổ chức khoa học kỹ thuật, tổ chức
ngành nghề. Qua đó cho phép nhà trường được tham gia các chương trình hợp tác, tham
quan tiếp nhận công nghệ hiện đại trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy của các nước tiên
tiến trên thế giới.
- Cho phép Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy được đào tạo ở trình độ sau
đại học, vì hiện nay trong nước chưa có trường nào đào tạo trình độ cao hơn đại học trong
lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy, trong khi đó trong nền kinh tế phát triển cần có những
chuyên gia giỏi về lĩnh vực này.
Đối với Bộ Công an:
- Cho phép Trường nâng quy mô đào tạo từ 1000 học viên lên 1500 học viên, vì
hiện nay với quy hoạch về xây dựng lực lượng phòng cháy chữa cháy chuyên nghiệp, nếu
cứ đào tạo với quy mô đầu ra là 200 học sinh/ năm thì phải 30 năm nữa mới đáp ứng đủ
cho nhu cầu hiện tại.
- Cho phép Trường lập dự án mở rộng mặt bằng trường, cụ thể là xây dựng Trung
tâm Huấn luyện chữa cháy và đào tạo lái xe. Dự án này nhằm tranh thủ sự hợp tác của Tổ
chức JICA Nhật Bản về hỗ trợ năng lực đào tạo cho Trường Đại học Phòng cháy, Chữa
cháy.
- Cho phép Trường xây dựng lại cơ cấu đào tạo mở rộng từ một chuyên ngành
sang đào tạo thêm một số chuyên ngành mới như: cứu hộ, cứu nạn…
- Về lĩnh vực quản lý tài chính, đề nghị Bộ Công an cho phép Trường được áp
dụng Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ về tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với ĐVSN.
Trước mắt, áp dụng ngay đối với ĐVSN có thu đảm bảo toàn bộ kinh phí. Chỉ có như vậy
cơ sở mới thực sự chủ động trong các hoạt động để đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Nâng mức đầu tư kinh phí cho Trường với mức đầu tư cao hơn để đáp ứng được
tính đặc thù riêng là trường khoa học kỹ thuật. Chỉ có nâng mức đầu tư cho Trường thì
mới có điều kiện đổi mới trang thiết bị và nâng cao khả năng đáp ứng cơ sở vật chất cần
thiết cho giảng dạy và học tập.
- Nghiên cứu ban hành các định mức chi cụ thể, phù hợp sát với thực tế của
Trường, làm cơ sở để khoán chi hành chính đối với Trường.
Trên đây là những giải pháp mang tính kiến nghị để hoàn thiện công tác quản lý
tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy để đáp ứng nhu cầu đổi mới về giáo
dục đào tạo hiện nay. Nếu được thực hiện thì hiệu quả tài chính đối với công tác giáo
dục, đào tạo của Trường sẽ được nâng cao, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng và của cả lực lượng phòng cháy, chữa
cháy nói chung.
KẾT LUẬN
Vai trò to lớn của con người - nguồn nhân lực trong điều kiện phát triển kinh tế -
xã hội đã được lịch sử khẳng định. Để tạo nguồn lực đáp ứng yêu cầu của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì giáo dục, đào tạo có vai trò trung tâm. Giáo dục đại
học có vai trò là khâu cơ bản phát triển nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao -
một trong những nền tảng và động lực quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Tăng cường quản lý tài chính ở các trường đại học theo hướng đa
dạng hoá các nguồn tài chính và nâng cao hiệu quả trong giáo dục đại học vừa là yêu cầu,
vừa là điều kiện để phát triển giáo dục đại học nước ta. Đối với lĩnh vực đào tạo nhân lực
phòng cháy, chữa cháy trong điều kiện nền kinh tế - xã hội phát triển, càng đòi hỏi phải
đạt tới những tiêu chuẩn cao. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đào tạo
trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy đòi hỏi nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó không
thể không kể đến các giải pháp tăng cường quản lý tài chính của Trường với tư cách vừa
là một cơ sở đào tạo vừa là một ĐVSN công lập..
Với các phần nội dung được trình bày trong 3 chương, luận văn “ Hoàn thiện
công tác quản lý tài chỉnh ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn
hiện nay” đã hướng đến các kết quả sau:
Một là, hệ thống hoá cơ sở lý luận về đặc điểm quản lý tài chính ở các ĐVSN
nói chung và Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng. Đáng chú ý là luận
văn đã phân tích các đặc điểm của ĐVSN theo tinh thần của Nghị định 10/2002/NĐ-
CP và Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Luận văn còn làm rõ nội dung, mục tiêu, nguyên
tắc quản lý tài chính và nêu được sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện quản lý tài
chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy.
Hai là, thông qua trình bày, phân tích thực trạng các nguồn tài chính và quản lý tài
chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong thời gian qua, luận văn đã làm rõ,
tài chính thực sự là công cụ hữu hiệu, là động lực quan trọng góp phần vào sự phát triển
của Trường. Trên cơ sở nhận thức thực tiễn, luận văn chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong
quá trình thực hiện đa dạng hoá các nguồn tài chính và quản lý tài chính. Những tồn tại
đó cần được sửa đổi, khắc phục cho phù hợp với đòi hỏi thực tiễn và triển vọng tương lai
phát triển của Trường.
Ba là, dựa trên những quan điểm định hướng phát triển kinh tế xã hội, định hướng
phát triển đào tạo nhân lực cho ngành phòng cháy, chữa cháy, luận văn đã trình bày những
giải pháp thiết thực, phù hợp nhằm huy động tối đa các nguồn lực và tăng cường quản lý tài
chính để đáp ứng công tác đào tạo đạt hiệu quả cao ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa
cháy trong thời gian tới.
Với một số giải pháp và kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, nếu được quan tâm và giải quyết đúng mức, sẽ góp phần bảo đảm quá trình đa dạng
hoá các nguồn tài chính và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính, đáp ứng và phục vụ tốt yêu
cầu của công tác đào tạo trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy ở Trường Đại học Phòng
cháy, Chữa cháy hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. "Bảy chính sách cải cách giáo dục đại học trên thế giới" (2006), Tạp chí Tia
sáng, (11).
2. Bộ Công an (1999), Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an về chức năng
nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của trường Đại học phòng cháy, chữa cháy.
3. Bộ Công an (2006), Đề án tăng cường, đổi mới giáo dục và đào tạo trong
Công an nhân dân giai đoạn 2006-2020.
4. Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21 tháng 3 năm
2002 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng
1 năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
5. Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 81/2002/TT-BTC ngày 16 tháng 9 năm
2002 hướng dẫn kiểm soát chi đối với cơ quan hành chính Nhà nước
thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; đơn vị thực
hiện chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
6. Bộ Tài chính (2003), Thông tư số 50/2003/ TT-BTC ngày 22 tháng 5 năm
2003 hướng dẫn đơn vị sự nghiệp có thu xây dựng quy chế chi tiêu nội
bộ theo quy định tại Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của
Chính phủ.
7. Bộ Tài chính (2003), Hệ thống các văn bản pháp quy về cơ chế tài chính áp
dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp và đơn vị sự nghiệp có thu.
8. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 03/2004/TT-BTC ngày 13 tháng 1 năm
2004 hướng dẫn kế toán các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện luật
ngân sách nhà nước và khoán chi hành chính.
9. Bộ Tài chính (2006), Hệ thống văn bản quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, sử dụng biên chế và kinh
phí quản lý hành chính, tài chính đối với cơ quan nhà nước và đơn vị sự
nghiệp công lập.
10. Bộ Tài chính (2006), Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp, ban hành theo
quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính.
11. Bộ Tài Chính (2006), Luật kế toán và hệ thống văn bản hướng dẫn thực
hiện.
12. Chính phủ (1999), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập
trường Đại học phòng cháy, chữa cháy.
13. Chính phủ (2002), Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 16
tháng 1 năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có
thu.
14. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006
quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ về tổ
chức bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ 4 khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ 2 khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Giáo trình Quản lý tài chính Nhà nước (2002), Nxb Tài chính, Hà Nội.
19. Giáo trình Tài chính học (2002), Nxb Tài chính, Hà Nội.
20. Học viện Hành chính quốc gia (2003), Quản lý tài chính công- Lý luận và
thực tiễn.
21. Luật Giáo dục (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Quản lý tài chính công (2003), Nxb Lao động.
23. Thủ tướng Chính phủ (2004), Chương trình đổi mới quản lý tài chính đối với
các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn
2004-2005 ban hành kèm theo Quyết định số 08/2004/QĐ-TTg ngày
15.1.2004.
24. Thủ tướng Chính phủ (2004), Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính
đối với các cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai
đoạn 2001-2010.
25. Trung tâm Ứng dụg KHKT phòng cháy, chữa cháy và đào tạo lái xe -Trường
Đại học phòng cháy, chữa cháy (2003), Báo cáo quyết toán tài chính
năm 2003.
26. Trung tâm Ứng dụng KHKT phòng cháy, chữa cháy và đào tạo lái xe -
Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2004), Báo cáo quyết toán tài
chính năm 2004.
27. Trung tâm Ứng dụng KHKT phòng cháy, chữa cháy và đào tạo lái xe-
Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2005), Báo cáo quyết toán tài
chính năm 2005.
28. Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2003), Báo cáo quyết toán tài chính
năm 2003.
29. Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2004), Báo cáo quyết toán tài chính
năm 2004.
30. Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2005), Báo cáo quyết toán tài chính
năm 2005.
31. Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2006), Lịch sử trường đại học
phòng cháy, chữa cháy.
32. www.vnn.vn, Hoàng Văn Châu, 24/10/2006, “Cần thực hiện này tự chủ tài
chính”
33. www.vnn.vn, Giáo sư Phạm Phụ, 26/10/2006, Tự chủ đại học “đánh đổi”
bằng trách nhiệm xã hội.
34. www.vnn.vn, PGS. Đào Công Tiến, 23/10/2006, Thiếu tự chủ, ĐH tự đánh
mất mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay.pdf