Luận văn Hoạt động của một số hiệp hội ngành hàng không trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam tronb bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

WTO đã mang lại cho Việt Nam một sân chơi khổng lồ. Trong quá trình Việt Nam gia nhập WTO, cộng đồng doanh nghiệp sẽ là đối tƣợng hƣởng lợi từ khung pháp lý đang trở nên minh bạch hơn, môi trƣờng kinh doanh thông thoáng hơn, từ những cam kết cắt giảm thuế, đƣợc quyền tiếp cận thị trƣờng của các thành viên WTO. Tuy nhiên, một thách thức lớn đối với hoạt động kinh doanh là các doanh nghiệp sẽ không đƣợc hƣởng sự bảo hộ của Nhà nƣớc do một trong những cam kết quan trọng khi Việt Nam gia nhập WTO là nhà nƣớc sẽ không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi đó, các Hiệp hội ngành hàng sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng, vừa đại diện, vừa là định hƣớng giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện một cách đầy đủ các cam kết WTO. Dựa trên nền tảng tìm hiểu tổng quan về khái niệm, cơ cấu mô hình, phƣơng thức hoạt động và vai trò của Hiệp hội ngành hàng nói chung, chúng ta đã phân tích những hoạt động của một số Hiệp hội ngành hàng tiêu biểu trên thế giới trong thời kỳ hiện nay nhƣ Hiệp hội Dệt may Hàn Quốc, Hiệp hội Sắt Thép Nhật Bản và Hiệp hội Thủy sản Mỹ. Đây đều là những Hiệp hội rất thành công trong việc phát triển nền kinh tế, phát triển ngành và hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên thúc đẩy hoạt động kinh doanh của mình. Từ những thành công của ba Hiệp hội này, tác giả đã rút ra đƣợc một số bài học kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam, trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chính phủ và các cơ quan Chính phủ cần tính đến khả năng hỗ trợ và phối hợp với Hiệp hội, tạo điều kiện cho Hiệp hội đủ sức mạnh trợ giúp cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các Hiệp hội cũng cần phát huy nội lực, vạch ra những hành động mang lại lợi ích cụ thể, liên kết các doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh, chống các rào cản kỹ thuật và là chất xúc tác thực hiện các cam kết WTO.

pdf117 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2106 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động của một số hiệp hội ngành hàng không trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam tronb bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hi Việt Nam đã gia nhập WTO. Từ nhận thức đó, Việt Nam cần tiến hành xây dựng một khung pháp lý đầy đủ, chi tiết cho hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng và Nhà nƣớc phải cho Hiệp hội một số quyền hạn độc lập nhất định. Vì hiện nay, trên thực tế, về khía cạnh luật pháp vẫn chƣa có một hành lang pháp lý nào quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của Hiệp hội trong vai trò là cơ quan bảo vệ quyền lợi chính đáng cũng nhƣ lợi ích hài hoà của các hội viên. Cần kiện toàn hành lang pháp lý đối với hoạt động của các tổ chức ngành nghề: đƣợc quyền tổ chức bộ máy và hoạt động đúng với nhiệm vụ và quyền hạn ghi trong điều lệ thành lập. Về lâu dài, các Hiệp hội cần đƣợc phát triển theo hƣớng “chuyên nghiệp hoá” các hoạt động và dịch vụ. Hầu hết các Hiệp hội đa ngành và đơn ngành lớn đều có các bộ phận chức năng phụ trách việc phát triển hội viên, đào tạo và cung cấp thông tin. Tuy nhiên, để thực hiện đƣợc những yêu cầu trên, Chính phủ cần sớm tổ chức nghiên cứu để xây dựng luật về tổ chức và hoạt động của các Hiệp hội, nhằm thay thế các văn bản pháp luật trƣớc đây đã lỗi thời và không còn phù hợp. Trong điều kiện chƣa thể ban hành ngay luật thì phải có những pháp lệnh hoặc ít nhất là một nghị định của Chính phủ về các Hiệp hội hay các văn bản quy định riêng về công tác của hiệp hội và các hoạt động phối hợp giữa hiệp hội với các cơ quan tƣơng ứng để tạo thuận lợi cho hoạt động của các Hiệp hội. Hiệp hội muốn đƣợc xác định rõ vị trí về mặt pháp lý, qui trình hình thành Hiệp hội cũng 90 cần phải rõ ràng và đơn giản hơn, tránh tình trạng Hiệp hội phải mất 2- 3 năm mới có thể hoàn tất khâu thủ tục (nhƣ Hiệp hội Dệt may, Hiệp hội Doanh nghiệp trẻ…), nhƣ thế Hiệp hội sẽ đánh mất thời cơ và vận hội của mình. Cần cụ thể hóa các chính sách về Hiệp hội. Hiện nay, tuy có nhiều chính sách, quy định cho Hiệp hội, nhƣng khi thi hành lại không đƣợc. Thí dụ, trong Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ khi thành lập hiệp hội đều có ghi là quyền đƣợc có cơ quan ngôn luận riêng, quyền đƣợc tƣ vấn trong lĩnh vực mình, nhƣng thực tế các Hiệp hội rất khó đƣợc Bộ Văn hoá và Thông tin cấp phép, còn về lĩnh vực tƣ vấn lại đòi hỏi Hiệp hội phải có giấy phép hành nghề. Chính phủ nên mở rộng sự tham gia của Hiệp hội vào quá trình hoạch định chính sách và luật pháp, trong đó yêu cầu các bộ phải lấy ý kiến của các Hiệp hội trƣớc khi ban hành các văn bản pháp luật mới liên quan đến hoạt động kinh doanh. Để tạo cơ sở pháp lý cao hơn cho những điều khoản này, nên đƣa chúng vào văn bản pháp luật chung về Hiệp hội. Điều này giúp các chính sách khi ban hành sẽ phù hợp hơn, sát hơn với thực tiễn và việc thực thi sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn. Đồng thời cần tăng cƣờng cho Hiệp hội đƣợc tham gia tƣ vấn cho Nhà nƣớc về chiến lƣợc phát triển, quy hoạch dài hạn, về chủ trƣơng và chính sách cụ thể. Bên cạnh đó, Chính phủ nên thừa nhận Hiệp hội nhƣ là các tổ chức phi lợi nhuận để từ đó có chính sách thuế đúng đắn đối với các Hiệp hội, nghĩa là không áp dụng mức thuế của Hiệp hội nhƣ mức thuế của doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng nên để Hiệp hội tiến hành một số dịch vụ phục vụ cho hoạt động của các thành viên, chẳng hạn nhƣ dịch vụ công cung cấp vốn, công nghệ… Việt Nam cần phải có những văn bản luật bảo vệ hàng hoá nhƣ luật tự vệ chính đáng hay còn gọi là luật phản vệ, đặc biệt khi làm ăn với quốc tế…để bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp. Nhằm nâng cao khả năng kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đáp ứng với quá trình hội nhập theo cam kết quốc tế, Chính phủ và lãnh đạo chính quyền các tỉnh, thành phố cần chuyển giao các nhiệm vụ, hoạt động khuyến khích phát triển doanh nghiệp cho các Hiệp hội nhƣ hỗ trợ về tín dụng, 91 chính sách xuất khẩu, ƣu tiên mặt bằng sản xuất, công tác đào tạo và xúc tiến đầu tƣ thƣơng mại… Trong vấn đề này, các Hiệp hội có thể làm tốt vì họ có một vị thế đặc biệt trong việc cung cấp nhiều loại hình dịch vụ kinh doanh (các Hiệp hội có khách hàng chính là hội viên và hiểu rõ nhu cầu của doanh nghiệp). Hơn nữa, các Hiệp hội tiến hành hoạt động này không nhằm mục đích chủ yếu là lợi nhuận. Họ chỉ cần thu đủ chi phí hoạt động nên phí dịch vụ có thể thấp hơn và phù hợp hơn với hội viên. Đồng thời, Chính phủ nên cho phép doanh nghiệp đƣợc tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp các khoản phí đóng góp, hội phí, đóng góp và tài trợ khác cho Hiệp hội (những khoản chi phí này đƣợc sử dụng chứng từ là phiếu thu và các quy chế tài chính của Hiệp hội). Bên cạnh đó, Chính phủ cần tạo điều kiện hơn nữa để những Hiệp hội đƣợc nhận những ƣu đãi nhƣ miễn giảm thuế một cách công bằng đối với thu nhập từ các hoạt động chính của Hiệp hội và khấu trừ khoản hội phí thu đƣợc từ các hội viên, những ƣu đãi mà nếu có thì có thể nâng cao năng lực tài chính của các Hiệp hội và cho phép họ dành nhiều nguồn lực hơn cho các hoạt động hỗ trợ hội viên. Chính phủ cũng cần đơn giản hơn nữa thủ tục hành chính về xuất nhập khẩu và thuế, rút ngắn thời gian và thủ tục hoàn thuế. Riêng với thuế VAT, cần quy định hoãn nộp thuế VAT vật tƣ nhập khẩu tại cửa khẩu, giảm thuế VAT ngành vải sợi xuống còn 5%. Để giúp Hiệp hội ngành nghề làm tốt vai trò của mình trong việc phát triển các doanh nghiệp và doanh nhân, Nhà nƣớc cần tăng cƣờng hỗ trợ các Hiệp hội doanh nghiệp trong các hoạt động nhƣ tôn vinh các doanh nghiệp, doanh nhân góp phần nâng cao vị trí của doanh nghiệp doanh nhân trong xã hội, các chƣơng trình hỗ trợ nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ Hiệp hội nhƣ chƣơng trình đào tạo, tập huấn pháp luật kinh nghiệm, kỹ năng quản lý Hiệp hội. Các cơ quan quản lý nhà nƣớc cần xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ cho Hiệp hội về thông tin và xúc tiến thƣơng mại, tạo điều kiện cho Hiệp hội tham gia vào các chƣơng trình phát triển kinh tế, xã hội theo hƣớng giao nhiệm vụ, đặt hàng và chuyển giao dịch vụ công. 92 Chính phủ tạo điều kiện để các tổ chức quốc tế tăng cƣờng hỗ trợ ban đầu cho việc xây dựng năng lực của các Hiệp hội, đặc biệt là năng lực quản lý và kỹ thuật để có thể hoạt động hiệu quả hơn. Đối với chƣơng trình xây dựng năng lực, cần chú trọng hơn đến năng lực của đội ngũ cán bộ, vấn đề quản lý và phát triển Hiệp hội, việc cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp cho các hội viên. Chính phủ cần mở rộng hơn khả năng để các Hiệp hội ngành hàng có thể tham gia vào các chƣơng trình, dự án hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ. Chính phủ cũng cần xây dựng cơ sở pháp lý cho các Hiệp hội ngành hàng hoạt động; Xác lập hành lang pháp lý chung đối với việc tổ chức và quản lý Hiệp hội. Chính phủ còn phải thể chế hoá các mối quan hệ phối hợp công tác giữa Hiệp hội ngành hàng với các cơ quan chính quyền, thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập, phát triển thị trƣờng, đồng thời đảm bảo để các doanh nghiệp thông qua các Hiệp hội ngành hàng tham gia xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam. Chính phủ cần xây dựng chƣơng trình nâng cao hỗ trợ năng lực hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng, tập trung vào việc chuyển giao kỹ năng tập hợp, phân tích thông tin, kỹ năng đánh giá nhu cầu và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp. Bảo đảm tạo lập một môi trƣờng thể chế tạo thuận lợi để Hiệp hội ngành hàng hoạt động, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, tăng cƣờng liên kết nhƣng tránh đƣợc độc quyền. Chính phủ cần giao cho các Hiệp hội nghiên cứu và thực hiện một số chƣơng trình đề án có tính chất dịch vụ công nhƣ thiết lập các công cụ hỗ trợ thị trƣờng, hỗ trợ doanh nghiệp, tƣ vấn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, cấp chứng chỉ nghề nghiệp, xuất xứ hàng hoá, các chứng từ thƣơng mại quốc tế, thực hiện việc đăng ký kinh doanh, đăng ký tên thƣơng mại, tham gia vào các hội đồng xét thầu… Ngoài ra, Chính phủ có thể chỉ định một số Hiệp hội tiến hành những dự án với mục đích phát triển công nghệ, sản phẩm và thị trƣờng mới. Cơ quan quản lý nhà nƣớc sau khi đồng ý cho phép thành lập nên hạn chế can thiệp sâu vào tổ chức và hoạt động của hiệp hội và chỉ can thiệp khi cần thiết nhƣ có dấu hiệu vi phạm pháp luật. 93 Bộ Nội vụ cần tăng cƣờng phối hợp hành động của các cơ quan Chính phủ đặc biệt là các cơ quan chủ quản và các Hiệp hội để các Hiệp hội đích thực là cầu nối của các doanh nghiệp với Chính phủ. Tăng cƣờng cho Hiệp hội để có kinh phí hoạt động trong nƣớc cũng nhƣ giao lƣu với các hiệp hội đồng nghiệp quốc tế. Cụ thể, Nhà nƣớc tạo các chính sách, cơ chế để Hiệp hội có đƣợc những dịch vụ có thu, tạo cho Hiệp hội trụ sở làm việc lâu dài. Cần đảm bảo cho các Hiệp hội có trụ sở không để tình trạng nhƣ hiện nay, nhiều Hiệp hội đang nhờ các nơi để có chỗ làm việc. 3.2.2. Đối với các hiệp hội 3.2.2.1. Kinh nghiệm đối với Hiệp hội  Có mô hình hợp lý, cơ cấu gọn nhẹ và phương thức hoạt động hiệu quả, có nguồn tài chính vững mạnh Có thể khẳng định rằng vai trò và hoạt động của một Hiệp hội ngành hàng phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu tổ chức, bộ máy điều hành cũng nhƣ cá nhân lãnh đạo Hiệp hội. Một Hiệp hội có cơ cấu tổ chức tinh gọn, hài hòa, hợp lý và khoa học thì mới có khả năng lãnh đạo các doanh nghiệp hội viên hoạt động một cách có hiệu quả và thành công. Cũng nhƣ vậy, lãnh đạo Hiệp hội cũng đóng một vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của Hiệp hội. Lãnh đạo Hiệp hội không thể đơn thuần chỉ là một biểu tƣợng, mà phải là một nhà hoạt động xã hội và nghề nghiệp, thậm chí phải là một nhà hoạt động chính trị tích cực, nếu không, sẽ không thể nắm bắt đƣợc các định hƣớng để đƣa ra các ý kiến có thể tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định chính sách. Các Hiệp hội Dệt may Hàn Quốc, Hiệp hội Thủy sản Mỹ và Hiệp hội Thép Nhật Bản đều xây dựng mô hình cơ cấu tổ chức dựa trên những nhận thức trên. Hiệp hội Dệt may Hàn Quốc, Hiệp hội Thủy sản Mỹ và Hiệp hội Thép Nhật Bản đều là những hiệp hội có cơ cấu gọn nhẹ, hoàn chỉnh và hiệu quả, trở thành một tổ chức quan trọng không thể thiếu trong nền kinh tế xã hội của đất nƣớc. Đồng thời, các Hiệp hội này cũng liên tục tiến hành cải tổ nhằm đạt đƣợc cơ cấu tổ chức linh hoạt và hiệu quả hơn trong việc điều hành và quản lý các hoạt động 94 nhằm đáp ứng nhu cầu của hội viên trong bối cảnh hiện nay. Các bộ phận hay các phòng ban của các Hiệp hội này đều có chức năng nhiệm vụ rất rõ ràng, hợp lý. Vì vậy, các hoạt động của Hiệp hội đƣợc tiến hành một cách hiệu quả và khoa học. Các Hiệp hội thƣờng thực hiện các liên kết đa phƣơng theo ngành dọc giữa các doanh nghiệp nhằm tìm hiểu và điều phối các vấn đề liên quan đến cung cấp nguyên liệu, công nghệ và buôn bán giữa các thành viên bằng việc thành lập các phòng ban chuyên môn. Cụ thể nhƣ Hiệp hội Dệt may Hàn Quốc có Đội Công việc chung, Đội Thống kê và Nghiên cứu, Đội Quan hệ Công chúng, Đội Hợp tác và Kế hoạch, Đội Cải tiến Chiến lƣợc, Đội Phát triển Nguồn nhân lực, Đội Phát triển Kỹ thuật, Đội Marketing và Thƣơng mại, Đội Triển lãm và Thời trang. Ngƣời lãnh đạo Hiệp hội phải hiểu rõ nhu cầu, mong muốn của doanh nghiệp hội viên, đặc biệt họ phải thấu hiểu và chia sẻ với những khó khăn của doanh nghiệp, của hội viên và phải có một trình độ nhất định. Ngƣời lãnh đạo phải có bản lĩnh và uy tín để có thể tập họp doanh nghiệp và đối thoại với các cơ quan nhà nƣớc trong vai trò đại diện của mình. Họ đồng thời phải là ngƣời hoạt động không vì lợi ích riêng của bản thân và đơn vị của mình. Và điều không thể thiếu là phải linh hoạt để có thể ứng phó với các thay đổi từ bên ngoài. Lãnh đạo của NFI, JISF và Kofoti đều có những đặc điểm trên. Chính vì vậy, những lãnh đạo này đã điều hành và dẫn dắt các Hiệp hội hoạt động hoạt động rất năng động và gặt hái nhiều thành công. Các Hiệp hội này cũng có đội ngũ nhân viên có kỹ năng, nghiệp vụ để đảm nhận những công việc đa dạng của một tổ chức xã hội nghề nghiệp. Các Hiệp hội này vừa là một tổ chức xã hội, là nơi quy tụ doanh nghiệp, vừa là một tổ chức tƣ vấn chuyên nghiệp với các chƣơng trình hoạt động đi trƣớc, đón đầu và đáp ứng đƣợc những nhu cầu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn, những khi có sự thay đổi trong chính sách nhà nƣớc, của hoạt động thị trƣờng; đồng thời các Hiệp hội này cũng là tổ chức đối thoại, phản biện để bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp trên nguyên tắc phi lợi nhuận. Khác với Việt Nam, lãnh đạo Hiệp hội các quốc gia này không phải là ngƣời đƣợc Chính phủ chỉ định hay những cán bộ lãnh đạo nhà nƣớc đã về hƣu. Lãnh 95 đạo của cả ba Hiệp hội đều là từ các doanh nghiệp dân doanh và do quá trình hiệp thƣơng bầu ra. Đây là những lãnh đạo rất năng động, sáng suốt và hoạt động rất hiệu quả. Bên cạnh đó, các Hiệp hội cũng đào tạo và tuyển dụng đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực để có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ đƣợc giao. Kinh phí của các Hiệp hội do các doanh nghiệp trong ngành đóng góp. Ngoài ra, các Hiệp hội còn đƣợc Chính phủ cấp cho một phần kinh phí cho một số hạng mục. Còn lại toàn bộ nguồn kinh phí còn lại của Hiệp hội đều dựa vào hội phí của các hội viên, sự đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức khác và dựa vào những hoạt động kinh doanh của Hiệp hội. Các đơn vị tham gia các hoạt động của các Hiệp hội nhƣng không phải là hội viên chính thức thì phải đóng góp mức hội phí cao hơn các hội viên chính thức. NFI, JISF và Kofoti thƣờng xuyên tổ chức rất nhiều hội chợ triển lãm, mở các lớp đào tạo thu hút sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp ngoài Hiệp hội, bổ sung một lƣợng kinh phí lớn. Nguồn kinh phí của các Hiệp hội dồi dào một phần là do các Hiệp hội này có cơ cấu tinh giản, gọn nhẹ nên chi phí nhân sự cũng ít hơn rất nhiều so với các Hiệp hội khác. Hơn thế nữa, các lãnh đạo của Hiệp hội cũng đã tiến hành nhiều hoạt động để tạo thêm nguồn kinh phí cho Hiệp hội. Đối tƣợng tham gia vào các Hiệp hội doanh nghiệp cũng vô cùng đa dạng và đƣợc phân loại rất rõ ràng: thành viên là tổ chức và thành viên là cá nhân; hay các thành viên trong lĩnh vực sản xuất, các thành viên là các công ty cung cấp dịch vụ… Các doanh nghiệp khi tham gia Hiệp hội có quyền tham gia vào một trong các hoạt động của Hiệp hội mà không cần tham gia vào tất cả các hoạt động và hội phí cũng sẽ đƣợc phân chia rõ ràng, mức hội phí hội viên phải đóng góp khi tham gia từng bộ phận của Hiệp hội là khác nhau. Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khi tham gia Hiệp hội có thể tùy thuộc vào điều kiện, quy mô, chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà lựa chọn tham gia vào các chi nhánh cụ thể phù hợp. Các Hiệp hội này làm ăn rất hiệu quả, tạo đƣợc lòng tin của hội viên, vì thế ngân sách của hiệp hội đƣợc đóng góp chủ yếu từ sự tự giác của các hội viên. 96 Chính vì thế mà Hiệp hội các nƣớc này vô cùng mạnh về tài chính. Khi tài chính ổn định thì càng thu hút đƣợc nhiều hội viên tham gia hoạt động.  Chú trọng thúc đẩy hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên Hiệp hội Dệt may Hàn Quốc, Hiệp hội Thép Nhật Bản và Hiệp hội Thủy Sản Mỹ đã có rất nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp và đại diện cho quyền lợi các doanh nghiệp. Các Hiệp hội này đã đại diện thành công cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trƣờng thế giới. Đặc biệt ngày nay, khi hội nhập càng sâu rộng, doanh nghiệp càng hay gặp phải những vụ tranh chấp thƣơng mại. Đó chính là lúc Hiệp hội phát huy vai trò của mình. Các Hiệp hội này có những bộ phận chuyên tìm hiểu và có những hiểu biết và kiến thức uyên thâm về luật pháp cũng nhƣ các đặc điểm của các quốc gia đối tác. Đồng thời, các Hiệp hội cũng nhanh chóng tìm hiểu rất kỹ về thị trƣờng xuất khẩu cũng nhƣ các doanh nghiệp nhập khẩu và có những biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả đối với hầu hết các trƣờng hợp dù ở vị trí bên bị hay bên nguyên trong vụ kiện đó. Hiệp hội tƣ vấn, làm đầu mối điều phối chung và hƣớng dẫn hành động cho các doanh nghiệp thành viên khi phát sinh tranh chấp. Hiệp hội là tổ chức đại diện cho lợi ích của các doanh nghiệp trong sự phối hợp và hợp tác với chính phủ để tìm hiểu thông tin về chính sách, kinh tế, tài chính và cho vay của chính phủ nƣớc đó. Các Hiệp hội ở Nhật Bản đã cùng hiệp thƣơng với cơ quan chủ quản và cơ quan tổng hợp của Chính phủ Nhật Bản để xây dựng các chính sách công nghiệp của các ngành. Cơ chế này đã giúp các giới công nghiệp Nhật Bản thông qua Hiệp hội để trong quá trình hiệp thƣơng với Chính phủ sẽ xác định rõ đƣợc trách nhiệm và nghĩa vụ của Hiệp hội và của Chính phủ trong việc thực hiện các mục tiêu theo kế hoạch. Nhƣ trong chính sách thuế, Chính phủ ban hành các quy định sẽ giảm nhanh khấu hao thiết bị máy móc của các doanh nghiệp, sẽ giảm thuế đăng ký, miễn trƣng thu thuế đất đặc biệt và thuế lợi tức doanh nghiệp khi sáp nhập doanh nghiệp. Các thành viên trong Hiệp hội phải chấp hành các nguyên tắc của Chính phủ đã ban hành. Nếu các thành viên vi phạm nguyên tắc của Chính phủ, Chính phủ sẽ hủy bỏ trợ cấp vốn, yêu cầu trả lại 97 khoản lãi suất thấp, hủy bỏ ƣu đãi thuế địa phƣơng, hủy bỏ các khoản vay đặc biệt khi điều chỉnh ngành.Các hiệp hội trong ngành công nghiệp Nhật Bản đóng vai trò hỗ trợ Chính phủ hoạch định chính sách ngành. Hiệp hội đã tích cực tham gia nghiên cứu chính sách phát triển ngành với các cơ quan liên quan của Chính phủ, kịp thời chuyển các thông tin có liên quan cho các doanh nghiệp thành viên. Theo tài liệu của cơ quan nghiên cứu Hiệp hội ngành, hiện nay, Nhật Bản có khoảng hơn 2.000 Hiệp hội ngành và Hội liên hiệp, cộng với các tổ chức nhỏ khác, tổng cộng, Nhật Bản có tất cả hơn 53.000 Hiệp hội các loại, phân bố trong 32 ngành công nghiệp. Các Hiệp hội ở Nhật Bản là những tổ chức xã hội có tƣ cách pháp nhân. Hiệp hội là tổ chức xã hội của một ngành, hoạt động vì lợi ích của ngành là chủ yếu. Các Hiệp hội trong ngành Công nghiệp của Nhật Bản chủ yếu do các doanh nghiệp nòng cốt, có giá trị tổng sản lƣợng chiếm trên 90% giá trị tổng sản lƣợng của ngành đứng ra thành lập. Lãnh đạo Hiệp hội đều do chủ tịch hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc của các doanh nghiệp lớn trong ngành đó đảm nhiệm với nhiệm kỳ 2 năm. Cơ quan thƣờng trực của các Hiệp hội có khoảng 10 ngƣời làm nhiệm vụ xử lý công việc hàng ngày. Các Hiệp hội này đại diện cho lợi ích của các doanh nghiệp trong sự phối hợp và hợp tác với chính phủ để tìm hiểu thông tin về chính sách, kinh tế, tài chính, thuế và cho vay của Chính phủ. Các Hiệp hội ở Nhật Bản đã cùng hiệp thƣơng với cơ quan chủ quản và cơ quan tổng hợp của Chính phủ Nhật Bản đẻ xây dựng các chính sách công nghiệp của các ngành. Cơ chế này đã giúp các giới công nghiệp Nhật Bản thông qua hiệp hội để trong quá trình hiệp thƣơng với Chính phủ sẽ xác định rõ đƣợc trách nhiệm và nghĩa vụ của hiệp hội và của Chính phủ trong việc thực hiện các mục tiêu theo kế hoạch. Bên cạnh đó, các Hiệp hội rất tích cực tham gia các tổ chức quốc tế nhƣ NFI tham gia Hiệp hội Thủy sản Quốc tế, JISF tham gia Hiệp hội Sắt Thép Quốc tế và Kofoti tham gia Hiệp hội Dệt may Quốc tế để có thể tiếp cận đƣợc nhiều hơn với các cơ hội giao thƣơng, đồng thời cũng để tăng cƣờng quảng bá hình ảnh của 98 ngành hàng đó và tận dụng đƣợc sức mạnh tập thể khi có tranh chấp thƣơng mại quốc tế xảy ra. Ở Nhật Bản cho phép các Hiệp hội hoạt động doanh lợi theo ngành nghề có gắn liền với tôn chỉ, mục đích sự nghiệp của Hiệp hội với những chính sách ƣu đãi thuế nhất định. Nhƣng các Hiệp hội đều phải tuân thủ nguyên tắc lấy phục vụ là trung tâm, phi doanh lợi là mục đích. Cơ chế phi doanh lợi đã làm cho mối quan hệ giữa Hiệp hội và doanh nghiệp trở nên khá hài hoà, không tạo ra sự ép buộc đối với các đơn vị thành viên. Một mặt, Hiệp hội thông qua các phƣơng thức quy hoạch ngành, tƣ vấn, điều hoà phối hợp... để nâng cao dịch vụ chất lƣợng tốt cho các doanh nghiệp. Mặt khác, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên, ở mức độ nhất định, quyết định mức độ hợp tác của ngành và sự chỉ đạo, hiệp đồng, gắn bó và dịch vụ của Hiệp hội. Các hiệp hội này đã triển khai các hoạt động độc lập, phát huy đƣợc tác dụng quan trọng trong mối quan hệ hiệp đồng của chính phủ với các ngành trong nền kinh tế thị trƣờng. Ngoài ra, NFI, JISF và Kofoti đã có nhiều hoạt động vận động hành lang để tạo ảnh hƣởng đối với những quyết định của Chính phủ đối với các chính sách, văn bản luật liên quan. Đồng thời, cao hơn thế, các Hiệp hội còn có sự ủng hộ và bảo vệ doanh nghiệp (advocacy) là hoạt động của các Hiệp hội với mục đích thông báo, tác động đến quyết định của Chính phủ và ý kiến công cộng là một phần của quá trình hoạch định chính sách mở và chân chính. Sự ủng hộ và bảo vệ doanh nghiệp có điểm tiến bộ hơn vận động hành lang ở chỗ đây là nỗ lực có hệ thống và có kế hoạch đƣợc thiết kế nhằm cung cấp thông tin, xây dựng hiểu biết, thu thập phản hồi và tạo ra sự tin cậy đối với một quan điểm chính sách cụ thể, luôn chân chính và đạo đức và có thể bao gồm các chiến dịch tuyên truyền và sự kiện. Chính sự vận động ủng hộ này tạo ra những chính sách thƣơng mại tốt hơn. Ngoài vai trò đại diện cho quyền lợi các doanh nghiệp rất thành công, các Hiệp hội ngành hàng này có rất nhiều hoạt động hỗ trợ phát triển doanh nghiệp có hiệu quả cao. Cụ thể nhƣ các Hiệp hội hỗ trợ phát triển nguồn lực của các doanh nghiệp bằng cách mở rất nhiều khóa đào tạo cơ bản và chuyên sâu. Các Hiệp hội 99 còn thƣờng xuyên tổ chức hội thảo, mở ra các trung tâm huấn luyện và cấp các suất học bổng. Hiệp hội Dệt may Hàn Quốc còn thành lập một hội đồng phát triển nguồn lực. Hằng năm, Kofoti còn mở cuộc thi thiết kế thời trang nhằm tìm kiếm và tôn vinh các tài năng thiết kế của Hàn Quốc. Hoạt động này không chỉ giúp mang lại cho các hội viên một nguồn nhân lực có chất lƣợng tốt hơn mà còn giúp tìm kiếm nhân tài cho cả ngành – một nhân tố rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành và nền kinh tế. Cung cấp thông tin vốn là hoạt động phổ biến và tốt nhất của các Hiệp hội Việt Nam. Tuy nhiên, các thông tin cung cấp của các Hiệp hội Việt Nam mới chỉ mang tính mô tả đơn thuần, chƣa đầu tƣ nhiều vào tổng hợp, phân tích và dự báo. Đối với ba Hiệp hội trên, cung cấp thông tin là dịch vụ rất hiệu quả. Có ba nguồn thông tin là thông tin kinh tế, thông tin kỹ thuật và thông tin về các thành tựu mới nhất của ngành. Hiệp hội cung cấp nhiều thông tin cập nhật, hữu ích về ngành trong nƣớc và quốc tế, các cơ hội giao thƣơng, các thông tin về thị trƣờng, giá cả… thông qua các website, các tạp chí phát hành hàng tháng, quý, năm hay các tài liệu lƣu hành nội bộ. Các Hiệp hội đều có website và tạp chí của riêng mình với nội dung rất phong phú, số liệu cập nhật, phân tích cụ thể và dự đoán khá chính xác. Bên cạnh đó, các Hiệp hội còn rất nỗ lực trong việc tìm kiếm thị trƣờng cho doanh nghiệp, từ khâu đầu vào đến khâu đầu ra. Đặc biệt, các Hiệp hội này đã rất thành công trong việc hỗ trợ xúc tiến thƣơng mại. Các Hiệp hội luôn tìm kiếm ký kết các hiệp định tự do thƣơng mại song phƣơng hoặc đa phƣơng. Các Hiệp hội này thƣờng xuyên tổ chức các hội chợ triển lãm ở cả trong và ngoài nƣớc nhằm tăng cƣờng hình ảnh của các doanh nghiệp hội viên đồng thời thúc đẩy hoạt động thƣơng mại của các doanh nghiệp này. Ngoài ra, các Hiệp hội còn hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp của mình tham gia các hội chợ quốc tế để quảng bá thƣơng hiệu doanh nghiệp nói riêng và thƣơng hiệu ngành, thƣơng hiệu quốc gia nói chung. Các hoạt động này đã đóng góp một phần không nhỏ vào tốc độ tăng trƣởng của ngành và mở rộng thị trƣờng của các doanh nghiệp. 100 Các Hiệp hội này còn hỗ trợ rất nhiều về vốn cho các doanh nghiệp. Hiệp hội còn liên kết với hệ thống các ngân hàng, tìm kiếm nguồn vay và hỗ trợ hƣớng dẫn sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả. Hiệp hội luôn tìm tòi những công nghệ mới, hỗ trợ áp dụng hiệu quả vào ngành sản xuất trong nƣớc. Đồng thời, Hiệp hội còn thay thế các doanh nghiệp thực hiện những công trình nghiên cứu triển khai nhằm mang lại lợi ích cho tất cả các doanh nghiệp cũng nhƣ chia sẻ rủi ro giữa các doanh nghiệp. Bằng cách lập quỹ nghiên cứu triển khai kỹ thuật và công nghệ, Hiệp hội đã phổ biến kiến thức cho tất cả các thành viên và khoa học công nghệ mới nhất và hƣớng dẫn hội viên áp dụng vào quá trình sản xuất nhằm tăng năng suất và sản lƣợng. Hiệp hội Sắt Thép Nhật Bản đã thành công trong việc đƣa tiêu chuẩn JIS thành tiêu chuẩn mang tầm cỡ thế giới. Đối mặt với giá nguyên liệu tăng cao, các nhà sản xuất thép Nhật Bản đang bắt đầu tận dụng nguyên liệu chất lƣợng thấp và nguyên liệu thải từ quá trình sản xuất sắt. Việc sử dụng những nguyên liệu này hiện là khả thi mặc dù phải tính thêm chi phí gia công, và các nhà sản xuất thép thấy rằng việc sử dụng những nguyên liệu đó có thể đóng góp vào việc bảo vệ môi trƣờng. Bên cạnh những hoạt động hỗ trợ cho các doanh nghiệp hội viên, ba Hiệp hội còn có những hoạt động có tác động rất tích cực đến nền kinh tế. Không chỉ tập trung thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và ngành, các Hiệp hội này còn rất chú trọng đến những vấn đề mang tính chất đạo đức xã hội và những vấn đề liên quan đến môi trƣờng. Các Hiệp hội hỗ trợ việc tăng cƣờng khai thác tài nguyên thiên nhiên kết hợp với việc bảo tồn môi trƣờng đảm bảo cho một tƣơng lai bền vững. 3.2.2.2. Giải pháp đối với các Hiệp hội Hiệp hội cần xây dựng các tiêu chuẩn hội viên, lựa chọn những hội viên phù hợp (nhƣ hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có năng lực tài chính, nhiệt tình, có trách nhiệm với hiệp hội…). Các hội viên này không chỉ tham gia bằng cách ủng hộ mà phải bằng cả các ý tƣởng, định hƣớng. Ngoài ra, các Hiệp hội cần xây dựng, lựa chọn đƣợc nhiều dịch vụ, chƣơng trình, sản phẩm có chất lƣợng cao để 101 cung cấp cho hội viên, nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của hội viên theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhờ đó, làm cho các hội viên gắn bó hơn với hiệp hội và tạo động lực để các doanh nghiệp tham gia Hiệp hội nhiều hơn. Các Hiệp hội ngành hàng Việt Nam nên tích cực thúc đẩy các hoạt động "vận động hành lang" (lobby) cho chính phủ, vừa đấu tranh gây ảnh hƣởng tới chính phủ trong việc định hƣớng chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp. Các Hiệp hội nên tiến hành bầu cử một cách dân chủ để hiệp hội, với tƣ cách là một tổ chức tự nguyện, mới có thể hoạt động đúng chức năng của nó. Đồng thời, ban điều hành phải hoạt động chuyên nghiệp, nhiệt tình hơn nữa, phải tuyển dụng những chuyên gia biết làm việc theo nhóm và có khả năng làm việc độc lập. Ngoài ra, cần có sự đồng lòng của cả tập thể Hiệp hội. Nói tóm lại, để Hiệp hội hoạt động thành công và có lợi nhuận, những nhà lãnh đạo, tập thể nhân viên đều phải có trách nhiệm phục vụ nhu cầu của hội viên. Hiệp hội cần liên tục đổi mới mô hình tổ chức và phƣơng thức hoạt động trên cơ sở kiện toàn bộ máy lãnh đạo Hiệp hội, bổ sung cán bộ lãnh đạo có năng lực, công tâm, tăng cƣờng năng lực, tính chuyên nghiệp, chuyên sâu, nâng cao hiệu quả trong hoạt động của Hiệp hội. Hiệp hội cần thƣờng xuyên tập hợp các kiến nghị của doanh nghiệp về cơ chế, chính sách để phản ánh với cơ quan chức năng của nhà nƣớc và có phân tích, đánh giá, đề ra giải pháp hợp lý. Thêm vào đó, Hiệp hội phải làm đầu mối phối hợp thông qua hội viên thúc đẩy liên kết giữa các hội viên, hỗ trợ hội viên về mặt công nghệ, kinh nghiệm sản xuất, xúc tiến thƣơng mại… Ngoài ra, Hiệp hội còn có nhiệm vụ tự nâng cao chất lƣợng để cung cấp thông tin thị trƣờng chính xác, tổ chức, đào tạo và tập huấn về nghiệp vụ kinh doanh cho hội viên một cách có hiệu quả, đồng thời xây dựng đạo đức và văn hóa kinh doanh cho các doanh nghiệp và doanh nhân Việt nam. Kinh nghiệm cho thấy, ngành hàng nào mà Hiệp hội và doanh nghiệp hiểu biết về luật pháp quốc tế và tham gia tích cực vụ kiện thì đều chứng minh đƣợc mặt hàng của mình không bán phá giá, hoặc nếu có thì cũng chịu mức thuế thấp 102 hơn; ngƣợc lại những ngành hàng không quan tâm nhiều thì đã bị nƣớc sở tại đơn phƣơng khẳng định doanh nghiệp bán phá giá mặt hàng đó. Vì vậy, Hiệp hội ngành hàng cần phổ biến kiến thức hiểu biết pháp luật quốc tế cho doanh nghiệp; thậm chí là chủ động tìm hiểu các vụ kiện, tranh chấp thƣơng mại để nghiên cứu, lấy kinh nghiệm cho chính mình. Kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp sẽ càng ngày càng va chạm nhiều với các vụ kiện, trƣớc các rào cản của nƣớc ngoài. Do đó việc trang bị kiến thức luật pháp quốc tế, kinh nghiệm tham gia và xử lý các vụ tranh chấp là rất cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp, mỗi Hiệp hội ngành hàng. Trƣớc mắt, các hiệp hội Việt Nam nên tìm sự hỗ trợ tài chính. Khi các Hiệp hội lớn mạnh thêm thì tài trợ giảm. Nên đặt ra kế hoạch thời gian cụ thể giảm dần sự hỗ trợ, để cho hiệp hội tăng sự tự lực trong một thời gian tƣơng đối ngắn. Cải thiện môi trƣờng pháp lý để cho phép các Hiệp hội đƣợc thành lập, phát triển và thực hiện những chức năng chính của mình. Tuy nhiên, khi tiến hành xây dựng những quy định mới về các Hiệp hội, sẽ rất có ích nếu Chính phủ tham khảo những chuẩn mực và thông lệ của quốc tế trong lĩnh vực này. Nhìn chung, kinh nghiệm của các nƣớc khác cho thấy các luật, quy định và hệ thống quản lý đối với các Hiệp hội vừa phải hợp lý và tránh sự lạm dụng, vừa đảm bảo hạn chế gánh nặng kìm hãm sự ra đời của các Hiệp hội cũng nhƣ cản trở việc thực hiện các hoạt động hợp lý của họ. Hiệp hội không chỉ cần thu hút các doanh nghiệp trở thành thành viên của mình mà còn cần đẩy mạnh các hoạt động và khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động đó. Càng tham gia nhiều hoạt động của hiệp hội doanh nghiệp càng gắn bó với Hiệp hội. Để nâng cao hiệu quả thì rất cần nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của các Hiệp hội theo đúng nghĩa của nó: tự quản, độc lập và chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật. Từ góc độ hiệp hội thì cũng phải thấy đƣợc vai trò và trách nhiệm ngày càng cao của mình, và nhất là đừng nhìn nhà nƣớc nhƣ "ngƣời đỡ 103 đầu" cho hoạt động của mình, kể cả nên tránh yêu cầu đƣợc hỗ trợ kinh phí từ Nhà nƣớc (vì đơn giản là nếu đƣợc cấp kinh phí hoạt động thì trong chừng mực nhất định sẽ bị phụ thuộc vào cơ quan Nhà nƣớc). Các Hiệp hội ngành hàng Việt Nam phải tích cực và năng động trong các hoạt động của mình với vai trò là ngƣời đại diện cho doanh nghiệp và hỗ trợ cho doanh nghiệp. Hiệp hội cần tổ chức nhiều khóa đào tạo hơn nữa, đào tạo nhân lực cho chính bản thân Hiệp hội và cho doanh nghiệp hội viên. Bên cạnh đó, Hiệp hội cần tạo ra nhiều sân chơi để phát triển đội ngũ doanh nhân cũng nhƣ những tài năng của ngành. Các Hiệp hội Việt Nam cũng cần tìm kiếm nhiều thông tin chính xác và cập nhật, đồng thời tiến hành phân tích, dự đoán để có thể cung cấp cho hội viên những thông tin chính xác cũng nhƣ khuynh hƣớng hiện nay của ngành hàng. Trên cơ sở đó, hội viên có thể có những điều chỉnh và bƣớc đi phù hợp để có thể ngày càng phát triển hơn nữa trên cả thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế. Không những thế, Hiệp hội cũng cần chủ động nắm bắt những thông tin về nguồn vốn cũng nhƣ thông tin về công nghệ để có thể giúp hội viên tiếp cận dễ dàng và hiệu quả. Hiệp hội cần đầu tƣ nhiều hơn nữa vào nghiên cứu phát triển để có thể tạo ra đƣợc hoặc tiếp cận đƣợc với nhiều công nghệ mới nhất. Một trong những hoạt động Hiệp hội Việt Nam cần thúc đẩy là hoạt động hỗ trợ xúc tiến thƣơng mại cho doanh nghiệp hội viên. Hiệp hội cần phải nhanh nhạy với diễn biến của thị trƣờng để có thể tƣ vấn cho hội viên những cơ hội kinh doanh, đồng thời giúp hội viên tham gia vào những hội chợ triển lãm mang tính chất quốc tế nhằm quảng bá thƣơng hiệu Việt Nam đến ngƣời tiêu dùng quốc tế. Không chỉ dừng ở đó, Hiệp hội Việt Nam còn cần tổ chức nhiều hội chợ triển lãm cho ngành hàng hơn nữa và kêu gọi nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc tham gia. Đồng thời, các Hiệp hội Việt Nam cũng cần quan tâm nhiều hơn nữa đến vấn đề môi trƣờng đồng thời có những biện pháp hiệu quả để bảo vệ môi trƣờng và 104 nguồn tài nguyên cũng nhƣ hƣớng dẫn các doanh nghiệp khai thác tài nguyên, xử lý rác thải một cách khoa học và hiệu quả. Ngoài các hoạt động nhƣ hiện nay, các hiệp hội cần chuyển hƣớng phát triển những sản phẩm chính của mình trong các lĩnh vực này. Những sản phẩm này phải đáp ứng chính xác nhu cầu và mong muốn của hội viên, và hội viên sẽ phải trả phí dịch vụ đƣợc hiệp hội cung cấp. Bộ phận đào tạo nên có một số khoá đào tạo căn bản quan trọng thực hiện thƣờng kỳ và thêm vào đó là những bài giảng và hội nghị chuyên đề; bộ phận thông tin phải có bản tin gửi đều đặn cho hội viên; bộ phận xúc tiến thƣơng mại cần chủ động trong hoạt động của mình chứ không chỉ chờ đợi khách hàng tìm đến; và bộ phận chính sách pháp luật phải thƣờng xuyên tiến hành nghiên cứu phục vụ mục đích vận động chính sách của hiệp hội. Đó là hƣớng phát triển truyền thống của các hiệp hội lớn trên thế giới. Còn những câu lạc bộ nhỏ nên tiếp tục tập trung vào chức năng giao lƣu, mở rộng quan hệ hợp tác và chia sẻ thông tin. Trong bối cảnh gia nhập WTO, sự trợ giúp của Chính phủ đối với các doanh nghiệp sẽ giảm đi, vai trò của các hiệp hội sẽ đƣợc nâng lên. Các hiệp hội hiện nay cần củng cố nguồn lực, năng lực, cán bộ chuyên trách. Hiện nay, kinh phí phục vụ cho hoạt động của các hiệp hội dựa vào bốn nguồn là Ngân sách nhà nƣớc, phí thu đƣợc từ cung cấp dịch vụ, hội phí và các khoản tài trợ. Các Hiệp hội cần tích cực tích cực bổ sung quỹ và tăng cƣờng kinh phí bằng nhiều cách. Về nhân lực, các hiệp hội nhỏ và địa phƣơng cần có các cán bộ chuyên trách. Hiệp hội vốn là một tổ chức tự nguyện, nếu doanh nghiệp không nhận thấy những lợi ích từ việc tham gia Hiệp hội thì họ sẽ không tham gia, nếu tham gia cũng không nhiệt tình. Chính vì vậy, để lôi cuốn đƣợc các doanh nghiệp, Ban lãnh đạo Hiệp hội cần phải lên một chiến lƣợc và chƣơng trình hành động cụ thể trong từng giai đoạn và từng nhóm doanh nghiệp. Ngoài ra, phải có một kế hoạch tài chính rõ ràng, có Ban chuyên môn giúp việc sát cánh cùng với các cơ quan quản lý Nhà nƣớc, với các Bộ, ngành và Chính phủ để giải quyết công việc của Hiệp hội thật sự hiệu quả. Đồng thời, Hiệp hội cũng cần phát huy vai trò là một điểm 105 tựa, hỗ trợ doanh nghiệp trên mọi lĩnh vực nhƣ hỗ trợ về pháp lý, công nghệ, nhân lực… Thực hiện đƣợc những điều trên, nhất định các doanh nghiệp sẽ tự nguyện tham gia bằng tất cả sự nhiệt tình và năng lực của họ. 3.2.3. Đối với các doanh nghiệp hội viên 3.2.3.1. Kinh nghiệm đối với doanh nghiệp hội viên Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các Hiệp hội này đƣợc thực hiện theo cơ chế phi doanh lợi. Cơ chế này giúp Hiệp hội giành đƣợc sự tín nhiệm của các doanh nghiệp, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của ngành. Cơ chế phi doanh lợi đã làm cho mối quan hệ giữa Hiệp hội và doanh nghiệp trở nên khá hài hoà, không tạo ra sự ép buộc đối với các đơn vị thành viên. Một mặt, Hiệp hội thông qua các phƣơng thức quy hoạch ngành, tƣ vấn, điều hoà phối hợp... để nâng cao dịch vụ chất lƣợng tốt cho các doanh nghiệp. Mặt khác, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên, ở mức độ nhất định, quyết định mức độ hợp tác của ngành và sự chỉ đạo, hiệp đồng, gắn bó và dịch vụ của Hiệp hội. Các doanh nghiệp hội viên của ba Hiệp hội trên đã rất chủ động và tích cực tham gia Hiệp hội và góp phần không nhỏ vào những thành công của Hiệp hội này. Đối với những cuộc hội thảo hay những hoạt động tập thể của Hiệp hội, những hội chợ triển lãm hay những cuộc thi do Hiệp hội tiến hành, các doanh nghiệp hội viên đều chủ động tìm hiểu thông tin, có những kế hoạch tham gia chi tiết và hợp lý. Đồng thời, các doanh nghiệp hội viên này cũng rất tích cực trong các hoạt động bảo vệ môi trƣờng của Hiệp hội. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp hội viên luôn đóng góp hội phí đầy đủ và nghiêm chỉnh vì các doanh nghiệp đều hiểu rằng các Hiệp hội có nguồn kinh phí dồi dào mới có thể tổ chức đƣợc nhiều hoạt động hiệu quả và năng động để hỗ trợ phát triển chính bản thân doanh nghiệp. Điều quan trọng là doanh nghiệp hội viên của ba Hiệp hội này đều ý thức và thấy rõ tầm quan trọng của các Hiệp hội đối với sự phát triển của chính bản thân doanh nghiệp. Vì thế, các doanh nghiệp coi lợi ích của Hiệp hội là gắn liền với lợi ích bản thân mình và trong nhiều trƣờng hợp còn hỗ trợ Hiệp hội trong các hoạt động và tìm kiếm nguồn kinh phí. 106 3.2.3.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp hội viên Nhân tố cốt lõi và cũng là nhân tố quan trọng nhất của Hiệp hội là các doanh nghiệp hội viên. Muốn Hiệp hội mạnh thì trƣớc hết các thành viên của Hiệp hội cũng phải vững mạnh, và khi hiệp hội đã mạnh thì cũng thúc đẩy sự phát triển của hội viên. Để tận dụng đƣợc nhân tố này, Hiệp hội cần phải làm cho hội viên thấy đƣợc việc đầu tƣ vào sự phát triển của Hiệp hội là rất có lợi cho các doanh nghiệp hội viên. Hiệp hội sẽ phải lắng nghe thành viên chứ thành viên hiệp hội không muốn nghe Hiệp hội nhƣ nghe Chính phủ. Nhƣ vậy, có hai khía cạnh, một là những ngƣời làm công tác hiệp hội phải nỗ lực hết sức để chiếm đƣợc lòng tin của hội viên và thứ hai là hội viên cũng phải ra sức xây dựng Hiệp hội vững mạnh. Các doanh nghiệp cần nhận thức rõ ràng và đúng đắn vai trò của Hiệp hội đối với sự tồn tại và phát triển của bản thân doanh nghiệp, để từ đó có những đóng góp tích cực và hiệu quả vào sự phát triển của Hiệp hội. Các doanh nghiệp cũng nên tích cực và chủ động hơn trong việc thành lập, tham gia vào các hoạt động của Hiệp hội, coi đây là ngƣời đại diện cho quyền lợi của mình trƣớc các cơ quan nhà nƣớc và đối tác nƣớc ngoài. Đây cũng là diễn đàn để các doanh nghiệp trong ngành có thể trao đổi kinh nghiệm, tạo môi trƣờng cạnh tranh công bằng và lành mạnh, vì sự phát triển bền vững của toàn bộ ngành và từng hội viên. Các doanh nghiệp cũng cần thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các nghĩa vụ và trách nhiệm đối với Hiệp hội nhƣ xây dựng ý kiến, đóng góp hội phí… giúp Hiệp hội phát huy ngày càng hiệu quả vai trò của mình. Nói tóm lại, dựa trên những hiểu biết tổng quát về Hiệp hội ngành hàng cùng với những lợi ích của Hiệp hội ở chƣơng 1 và những phân tích, tìm hiểu về hoạt động của một số Hiệp hội ngành hàng lớn, tiêu biểu nhƣ Hiệp hội Thủy sản Mỹ, Hiệp hội Sắt Thép Nhật Bản và Hiệp hội Dệt May Hàn Quốc ở chƣơng 2, chúng ta đã phân tích đƣợc những bài học kinh nghiệm của các Hiệp hội này tại chƣơng 3. Đồng thời, chúng ta cũng đã tìm đƣợc hƣớng áp dụng những bài học kinh nghiệm 107 này một cách linh hoạt và sáng tạo vào thực tế các Hiệp hội ngành hàng của nƣớc ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 108 KẾT LUẬN WTO đã mang lại cho Việt Nam một sân chơi khổng lồ. Trong quá trình Việt Nam gia nhập WTO, cộng đồng doanh nghiệp sẽ là đối tƣợng hƣởng lợi từ khung pháp lý đang trở nên minh bạch hơn, môi trƣờng kinh doanh thông thoáng hơn, từ những cam kết cắt giảm thuế, đƣợc quyền tiếp cận thị trƣờng của các thành viên WTO. Tuy nhiên, một thách thức lớn đối với hoạt động kinh doanh là các doanh nghiệp sẽ không đƣợc hƣởng sự bảo hộ của Nhà nƣớc do một trong những cam kết quan trọng khi Việt Nam gia nhập WTO là nhà nƣớc sẽ không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi đó, các Hiệp hội ngành hàng sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng, vừa đại diện, vừa là định hƣớng giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện một cách đầy đủ các cam kết WTO. Dựa trên nền tảng tìm hiểu tổng quan về khái niệm, cơ cấu mô hình, phƣơng thức hoạt động và vai trò của Hiệp hội ngành hàng nói chung, chúng ta đã phân tích những hoạt động của một số Hiệp hội ngành hàng tiêu biểu trên thế giới trong thời kỳ hiện nay nhƣ Hiệp hội Dệt may Hàn Quốc, Hiệp hội Sắt Thép Nhật Bản và Hiệp hội Thủy sản Mỹ. Đây đều là những Hiệp hội rất thành công trong việc phát triển nền kinh tế, phát triển ngành và hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên thúc đẩy hoạt động kinh doanh của mình. Từ những thành công của ba Hiệp hội này, tác giả đã rút ra đƣợc một số bài học kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam, trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chính phủ và các cơ quan Chính phủ cần tính đến khả năng hỗ trợ và phối hợp với Hiệp hội, tạo điều kiện cho Hiệp hội đủ sức mạnh trợ giúp cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các Hiệp hội cũng cần phát huy nội lực, vạch ra những hành động mang lại lợi ích cụ thể, liên kết các doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh, chống các rào cản kỹ thuật và là chất xúc tác thực hiện các cam kết WTO. 109 Do thời gian, kiến thức và tài liệu còn rất hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi một số sai sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận đƣợc sự đóng góp của các bạn đọc. 110 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT 1. ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á 2. GDP: Tổng thu nhập quốc dân 3. GSIC: Khu Công nghiệp Gaeseong 4. IMF: Quỹ Tiền tệ Thế giới 5. ITCB: Cục Dệt may Quốc Tế 6. ITMF: Hiệp hội các nhà sản xuất Dệt may Quốc tế 7. JISF: Hiệp hội Sắt Thép Nhật Bản 8. KOFOTI: Hiệp hội Dệt may Hàn Quốc 9. METI : Bộ Kinh tế, Thƣơng mại và Công nghiệp 10. NFI: Hiệp hội Thủy sản Mỹ 11. OECD: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế 12. USD: Đô la Mỹ 13. VASEP: Hiệp hội Thủy sản Việt Nam 14. VSA: Hiệp hội Thép Việt Nam 15. WTO: Tổ chức Thƣơng mại Thế giới 111 DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ Danh mục bảng Bảng 2.1: GDP của Mỹ giai đoạn 2000-2007.............................................................28 Bảng 2.2: Tiêu thụ bình quân cá và thủy sản có vỏ của Mỹ......................................30 Bảng 2.3: Nhập khẩu thủy sản các loại vào Mỹ..........................................................31 Bảng 2.3: Tiêu thụ một số sản phẩm thủy sản của Mỹ..............................................31 Bảng 2.4: Tiêu thụ bình quân sản phẩm đồ hộp của Mỹ...........................................32 Bảng 2.5: GDP của Nhật Bản giai đoạn 2002-2007...................................................42 Bảng 2.6: Sản lƣợng thép thô các khu vực và trên toàn thế giới..............................42 Bảng 2.7: Sản lƣợng sắt và thép Nhật Bản..................................................................43 Bảng 2.8: GDP của Hàn Quốc giai đoạn 2002-2007..................................................54 Bảng 3.1: GDP của Việt Nam giai đoạn 2000-2007..................................................65 Bảng 3.2: Một số hiệp hội ngành hàng chính ở Việt Nam........................................66 Danh mục hình vẽ Hình 1.1: Cơ cấu tổ chức Hiệp hội ngành hàng..........................................................10 Hình 2.1: Cơ cấu tổ chức của NFI................................................................................34 Hình 2.2: Cơ cấu tổ chức của JISF...............................................................................46 Hình 2.3: Cơ cấu tổ chức của Kofoti............................................................................58 Danh mục đồ thị Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu sắt thép của Nhật Bản........................................44 Biểu đồ 2.2: Kim ngạch nhập khẩu sắt thép của Nhật Bản........................................45 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Chính phủ (2003), “Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội”, Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 2003, Hà Nội. 2. Bộ nội vụ (2004), “Hƣớng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 88/2003/NĐ- CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội”, Thông tư số 01/2004/TT- BNV ngày 15/01/2004, Hà Nội. 3. Vũ Thế Dũng (2005), “Xây dựng lợi thế cạnh tranh: Vai trò của Hiệp hội”, Tạp chí Tuổi trẻ chủ nhật ngày (số 24/2005), tr.7-9. 4. Lê Xuân Đình, Phan Huy Đƣờng (2003), “Tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực xuất khẩu”, Tạp chí phát triển kinh tế (số 6/2003), tr.5-6. 5. Hoàng Thu Hoà (2005), Đổi mới và nâng cao hiệu quả của mối quan hệ Nhà nước với Thị trường, phát huy vai trò của các đoàn thể và các Hội, đề tài khoa học cấp Bộ, Trung tâm Thông tin Tƣ liệu, Hà Nội. 6. Trần Hữu Huỳnh (2002), Đối thoại chính sách giữa Hiệp hội doanh nghiệp và chính quyền địa phương ở Việt Nam- Đánh giá sơ bộ về yêu cầu, thực trạng và kiến nghị các giải pháp, Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 7. Hoa Hữu Lân (2005), Hàn Quốc – câu chuyện kinh tế về một con rồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Vũ Tiến Lộc (2002), Các Hiệp hội doanh nghiệp - thực trạng và giải pháp phát triển, Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, Hà Nội 9. Nguyễn Khắc Mai (2005), Vị trí, vai trò của Hiệp hội quần chúng ở nước ta, Nxb Lao động, Hà Nội 10. Nguyễn Văn Nam (2004), Giải pháp nâng cao năng lực hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam 113 trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Viện nghiên cứu thƣơng mại, Hà Nội. 11. Nguyễn Minh Phƣơng (2005), “Vai trò của các Hội, tổ chức phi Chính phủ trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta”, báo Tổ chức Nhà nước (số 9/2005), tr.20-23. 12. Thang Văn Phúc (2002), Vai trò của các Hội trong đổi mới và phát triển đất nước, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Diệu Thuý (2006), “Nâng cao vai trò của các Hội trong sự nghiệp CNH- HĐH”, tạp chí công nghiệp (số 3/2006), tr.10-11. 14. Đào Ngọc Tiến (2005), “Vai trò của các Hiệp hội ngành hàng Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại (số 12/2005), tr.6-8. 15. Lƣu Ngọc Trinh (2006), Kinh tế Nhật Bản – Những bước thăng trầm trong lịch sử, Nxb Thống kê, Hà Nội. Tiếng Anh 16. Mark Boleat (2005), Models of Trade Association Co-operation, website: 17. Richard Fairclough (2001), “Report of the 2001 Benchmarking study of trade association”, website: 18. Alastair Macdonald (2000), “The business of representation - The modern trade association”, Các website 19. 20. 21. 22. 23. 24. 25. 114 26. 27. 28. 29. 30. 31. 32. 115 MỤC LỤC Mở đầu .................................................................................................................... 1 Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt .................................................................. 110 Danh mục các bảng, hình vẽ và đồ thị ................................................................. 111 Chƣơng 1: Tổng quan về hiệp hội ngành hàng ......................................................... 5 1.1. Khái niệm về hiệp hội ngành hàng ........................................................... 5 1.1.1. Khái niệm về hội và hiệp hội ............................................................ 5 1.1.2. Khái niệm Hiệp hội ngành hàng ........................................................ 7 1.2. Mô hình tổ chức và phƣơng thức hoạt động của Hiệp hội ngành hàng ..... 9 1.2.1. Cơ cấu tổ chức Hiệp hội ngành hàng ................................................. 9 1.2.2. Phƣơng thức hoạt động của Hiệp hội ngành hàng ........................... 13 1.3. Vai trò của Hiệp hội ngành hàng ........................................................... 15 1.3.1. Vai trò của Hiệp hội ngành hàng đối với doanh nghiệp ................... 16 1.3.2. Vai trò của hiệp hội ngành hàng đối với nền kinh tế ........................ 22 CHƢƠNG 2: Khảo sát hoạt động của một số hiệp hội ngành hàng trên thế giới trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ................................................................. 26 2.1. Hiệp hội Thủy sản Mỹ (NFI – National Fisheries Institute) ................... 26 2.1.1. Tổng quan về kinh tế Mỹ ................................................................ 26 2.1.2. Khái quát về ngành thủy sản Mỹ ..................................................... 28 2.1.3. Hiệp hội Thủy sản Mỹ .................................................................... 34 2.2. Hiệp hội Sắt Thép Nhật Bản (JIS – Japan Iron and Steel Federation) ..... 42 2.2.1. Tổng quan về kinh tế Nhật Bản ....................................................... 42 2.2.2. Khái quát về ngành thép Nhật Bản .................................................. 44 2.2.3. Hiệp hội Sắt Thép Nhật Bản ........................................................... 48 116 2.3. Hiệp hội Dệt may Hàn Quốc (Korea Federation of Textile Industries) ... 55 2.3.1. Tổng quan về kinh tế Hàn Quốc ...................................................... 55 2.3.2. Khái quát về ngành dệt may Hàn Quốc ........................................... 57 2.3.3. Hiệp hội Dệt may Hàn Quốc ........................................................... 60 Chƣơng 3: Bài học kinh nghiệm cho việt nam ....................................................... 69 3.1. Thực trạng hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng Việt Nam ............... 69 3.1.1. Tổng quan về kinh tế Việt Nam ...................................................... 69 3.1.2. Thực trạng hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng Việt Nam ........ 70 3.2. Các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và một số giải pháp đề xuất cho Việt Nam......................................................................................................... 85 3.2.1. Đối với hoạt động quản lý của Nhà nƣớc ........................................ 85 3.2.2. Đối với các hiệp hội ........................................................................ 93 3.2.3. Đối với các doanh nghiệp hội viên ................................................ 105 Kết luận ............................................................................................................... 108 Tài Liệu tham khảo.............................................................................................. 110

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3281_4572.pdf
Luận văn liên quan