Cùng với sự biến động của nền kinh tế , chính sách quản lý ngoại hối đã được đổi mới triệt để về tư duy lẫn điều hành. Chính sách nới lỏng quản lý ngoại hối đã dần dần thay thế chính sách độc quyền kiểm soát và kinh doanh ngoại hối nhà nước. Cơ chế điều hành tỷ giá cũng được thay đổi căn bản từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát. các công cụ quản lý ngoại hối được sử dụng tương đối có hiệu quả. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bước đầu hình thành và phát triển. Trong quá trình vận hành, chính sách quản lý ngoại hối đã có sự phối hợp với các chính sách tiền tệ khác. Hệ thống văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối được từng bước hình thành và phát huy tác dụng Những chuyển biến trong kiểm soát ngoại hối đã góp phần đáng kể trong thu hút nguồn vốn nước ngoài, tạo điều kiện phát triển ngoại thương, mở rộng quan hệ hợp tác tế của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2605 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại hối của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào những tháng cuối năm, tỷ lệ lãi suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã ngay lập tức gia tăng ngay sau khi NHNN thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 9%. Mặt bằng lãi suất huy động ,ới được thiết lập ở mức 12%, và tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh, có thời điểm giao động xoay quanh mức 17-18%. Vậy là, ămcj dù đã cho phép các ngân hàng được áp dụng lãi suất thỏa thuận nhưng trước việc lãi suất bị đẩy lên quá cao như trong giai đoạn hiện nay, NHNN đã can thiệp bằng biện pháp hành chính: yêu cầu lãi suất tại các NHTM không vượt quá 14%.
Như đã đề cập ở trên, NHNN không chỉ phán đối khó khăn về lãi suất mà còn giải quyết vấn đề ổn định giá. Về mặt lý thuyết, để giảm tỷ giá trên thị trường ngoại hối, cần tăng cung USD hoặc giảm cung VND. Thông qua dự trữ ngoại hối, NHNN phải bán ngoại tệ ra để thu vào VND. Nhưng động thái này sẽ trực tiếp làm giảm cung tiền M2, kết quả là VND sẽ khan hiếm, đẩy lãi suất lên cao. Để giảm lãi suất và giảm tỷ giá, chỉ có một cách duy nhất là đồng thời với việc “bơm” USD từ nguồn dự trữ ngoại hối, NHNN phải tăng cung VND trong nền kinh tế thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên, với khả năng hiện nay dự trữ ngoại hối Việt Nam khá mỏng, sẽ không dễ dàng để NHNN can thiệp khi lãi suất tăng cao trong điều kiện tỷ giá có nhiều biến động.
Ảnh hưởng đến vị thế quốc gia trên thị trường quốc tế.
Với mức dự trữ thấp như hiện nay, Việt Nam không chỉ đối mătcj với rủi ro thanh toán thương mại quốc tế mà còn phải chịu những áp lực từ những khoản nợ của nước ngoài. Mặc dù những khoản vay của Việt Nam hầu hết là trung và dài hạn, tuy nhiên việc suy giảm dữ trữ ngoại hối vẫn gây ran guy cơ giảm thanh khoản trong dài hạn. Nếu ở thời điểm nào đó, Việt Nam không có đủ ngoại hối để thực hiện một khoản thanh toán quốc tế nào thì ngay lập tức uy tín tài chính sẽ bị ảnh hưởng.
Việc giảm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế sẽ ảnh hưởng nhiều đến dòng vốn đầu tư vào Việt Nam cũng như khả năng cạnh tranh trong các giao dịch quốc tế. một trong những việc suy giảm vị thế này : cuối năm 2010, hãng đánh giá tín nhiệm quốc tế Moody’s đã đưa ra các đánh giá tiêu cực về triển vọng VN. Nguyên nhân Moody đưa ra đánh giá trên là những lo ngại về mức dự trữ ngoại hối mỏng cùng với những lo ngại về cán cân thanh toán bất ổn, những thay đổi trong các biện pháp thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát và biến động tỷ gái hối đoái. Hẵng này còn cảnh báo thêm rằng có thể sẽ tiếp tục hạ điểm thấp hơn nữa nếu dự trữ ngoại hối ở Việt Nam tiếp tục suy giảm.
Như vây, mức dự trữ mỏng như hiện nay phần nào phản ánh một nền kinh tế đang đối mặt với nhiều rủi ro và biến động. Cùng với việc bị các tổ chức quốc tế đánh tụ hạng, vị thế của Việt Nam và các doanh nghiệp dần bị hạ thấp. chính vì thế việc tăng dự trữ ngoại hối là một trong những yêu cầu cấp thiết nhằm cải thiện hình ảnh VN trong con mắt bạn bè quốc tế.
2.4. Đánh giá công tác dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 2009- 2011
2.4.1. Những mặt tích cực
Trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách quản lí ngoại hối không ngừng được đổi mới để phù hợp với thông lệ quốc tế và thích ứng với cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Trong những năm trở lại đây, công tác quản lý ngoại hối đã thu được những kết quả đáng khích lệ đặc biệt là giai đoạn 2005-2008 khi dự trữ ngoại hối Việt Nam đạt đỉnh ( 23,9% tỷ USD)
Về chính sách lãi suất ngoại tệ
Trong suốt một khoảng thời gian dài, việc quy định mức lãi suất cho vay ngoại tệ áp dụng cho các ngân hàng thương mại của Việt Nam dựa vào cơ sở lãi suất SIBOR (Singapore Interbank Offered Rate) đối với trung và dài hạn cho thấy sự phụ thuộc lớn của lãi suất trong nước đối với lãi suất quốc tế. Kể từ tháng 6/2011, chính phủ quyết định xóa cơ sở SIBOR, theo đó cho phép các tổ chức tin dụng được căn cứ vào cung cầu ngoại tệ và lãi suất quốc tế để thảo thuận về mức lãi suất ngoại tệ trong giao dịch. Điều đó cho thấy dấu hiệu khả quang trong chủ trương tự do hóa lãi suất ngoại tệ, là bước ngoặt trong chính sách lãi suất. Thực tế cho thấy, lãi suất huy động USD tăng đáng kể sau khi được tự do hóa lãi suất. Năm 2004, ảnh hưởng của việc tăng lãi suất USD của cục dự trữ liên bang Mỹ( FED), lãi suất huy động USN của ngân hàng tăng 4,25%/năm. Đặc biệt mức lãi suất này đã tăng đến 7,2%/năm trong ănm 2008. Việc tăng lãi suất huy động USD trong khoảng thời gian 2005-2008 làm tăng nhu cầu gửi ngoại tệ của người dân vào ngân hàng, giúp tập trung ngoại tệ quốc gia. Bên cạnh đó để tránh nạn đầu cơ làm đôla hóa thị trường tài chính Việt Nam, kể từ năm 2008 ngân hàng nhà nước đã dần giảm lãi suất huy động USD theo từng thời kỳ.
Về chính sách tỷ giá.
Biên độ giao động tỷ giá được NHNN nới rộng từ 3% thành mức 5% năm 2009. Động thái này đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các tổ chức tín dụng kinh doanh mua bán ngoại tệ. Sự điều hành tỷ giá theo quy luật cung cầu ngoại tệ có tính đến khả năng cạnh tranh tỷ giá giữa các ngoại tệ mạnh( USD, EURO, YÊN) đã phản ánh ngày càng toàn diện hơn mối quan hệ giữa VND với ngoại tệ các nước có quan hệ thương mại, vay nợ, đầu tư với Việt nam. Qua đó tỷ giá VND không đơn thuần gắn với USD như trước mà với cả”một rổ tiền tệ”, tạo điều kiện đầu tư vào các đồng tiền khác ngoài USD,
Giúp cho việc đa dạng hóa dự trữ ngoại hối, giảm thiểu rủi ro.
Về chính kiều hối
Những năm trở lại đây, chính phủ và NHNN có những chích sách thông thoáng hơn nhằm khuyến khích kiều hào chuyền tiền về nước: Mức thu phí dịch vụ kiều hối ngày càng giảm. Nếu như trước đây, người nhận kiều hối bắt buộc phải bán toàn bộ ngoại tệ cho ngân hàng theo tỷ giá quy định, chỉ đươc nhận nội tệ, thì ngày nay họ được nhận ngoại tệ hoặc bán cho ngân hàng lấy tiền VN, hoặc gửi ngoại tệ theo thể thức tiết kiệm tại ngân hàng. NHNN đã mở rộng mạng lưới làm dịch vụ kiều hối tạo thuận lợi cho việc giao dịch khách hàng.
Biểu đồ : Kiều hồi vào Việt Nam giai đoạn 1999-201
Năm 2000 số kiều hối gửi về qua hệ thống Ngân hàng là 1.717 triệu USD, tương đương với 12,2% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2001, lượng kiều hối lên tới 1,820 triệu USD. Đặc biệt năm 2001 lượng kiều hối chuyển về nước đạt mức 8 tỷ USD, và tăng thành 9 tỷ USD năm 2009. Lượng kiều hối gửi về dồi dào đã đem lại nhiều lợi ích: các Ngân hàng thương mại có nguồn vốn ngoại tệ lớn đầu tư cho các dự án trọng điểm của Chính Phủ, cho vay các doanh nghiệp đẩy mảnh kinh doanh xuất nhập khẩu; góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia.
2.3.2: Những mặt hạn chế:
- Về điều hành chính sách lãi suất
Trong một thời gian dài giữa lãi suất nội tệ giữa lãi suất ngoại tệ đã có một khoảng cách chênh lệch quá lớn, đã làm nảy sinh sự chuyển dịch vốn của khách hàng từ nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại. Ngân hàng bỏ ra nhiều công sức mà không thu được hiệu quả. Việc tập trung ngoại tệ về Nhà nước chưa kịp thời với chính sách lãi suất ngoại tệ. Vô tình tọa ra cơ hội và kẻ hở cho những người có nhiều tiền gửi và những doanh nghiệp khôn ngoan kiếm lời bằng chênh lệc lãi suất ngoại tệ và nội tệ.
Về điều hành chính sách tỷ giá:
Biên độ giao dịch tỷ giá quá hẹp trong một thời gian dài đã hạn chế doanh số mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Công cụ tỷ giá và công cụ lãi suất ngoại tệ có khi diễn biến ngược chiều; lãi suất ngoại tệ diễn ra theo xu hướng giảm trong khi tỷ giá giữa USD/VND vẫn tăng(tuy ở mức độ hẹp), đã gây ta tâm lý người dân găm giữ ngoại tệ. Từ đó khiến cho lượng ngoại tệ trôi nổi trong dân còn nhiều, dễ gây tình trạng đôla hóa, đặc biệt trong hoàn cảnh dự trữ ngoại hối Việt Nam đang sụt giảm như hiện nay, đó là một bất cập cần được giải quyết.
Về dịch vụ kiều hối
Việc đưa ra các chính sách khuyến khích kiều bào gửi tiền về nước còn chưa được quan tâm cụ thể. Bên cạnh đó lượng kiều hối cũng là một trong những nhân tố chủ yếu làm nghiêm trọng thêm tình trạng đôla hóa kinh tế. Nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu kiểm soát lượng ngoại tệ rất lớn đang trôi nổi ngoài thị trường.
Về công tác và bộ máy quản lý:
Chiến lược quản lý dự trữ vẫn thụ động, hoạt động đầu tư dự trữ đơn điệu, chưa tương xứng với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập. Định hướng chiến lược quản lý chưa đặt ra mức dự trữ, hay căn cứ để xác định dự trữ chính thức của Nhà nước ở tầm vĩ mô phù hợp với các chi tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong từng thời kỳ như tăng trưởng kinh tế.
Dự trữ ngoại hối tăng chủ yếu do vốn đầu tư nước ngoài(FDI), nguồn vốn ODA và kiều hối thu hút tăng. Việc quản lý các luồng ngoại tệ ra, vào Việt Nam còn hạn chế do sự phối hợp chưa hiệu quả, chưa nhịp nhàng trong điều hành xuất, nhập khẩu, ngân sách… Hình thức đầu tư còn đơn giản chủ yếu dưới hình thức gửi tiền tại các ngân hàng, các công cụ tài chính như trái phiếu Chính Phủ, chưa áp dụng các hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận cao như đầu tư vào cổ phiếu hay ủy thác đầu tư vào các quỷ.
Hơn nữa, việc quản lý dự trữ trực tiếp được giao cho hai cơ quan là Ngan hàng nhà nước và Bộ tài chính không mang tính nhất quán trong chính sách quản lý dự trữ ngoại hối.
Về nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng
Trình độ và chất lượng đội ngủ cán bộ kinh doanh ngoại hối nhất là ở cấp cơ sở đang còn hạn chế về quản lý điều hành, về tác nghiệp và về ngoại ngữ trước yêu cầu ngoại nhập. Thiếu cán bộ có trình độ và kinh nghiệm thực hiện quản lý dự trữ ngoại hối và chuyên gia phân tích, dự báo giỏi. Nhân lực có trình độ chuyên môn làm việc tại Ngân hàng nhà nước nói chung và bộ phận quản lý nói riêng còn thiếu. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn rất hạn chế. Mặc dù nhận được sự tài trợ một số dự án của các nhà tài trợ quốc tế như Ngân hàng phát triển Châu Á,.. nhưng các dự án này mới chỉ tập trung vào phần công nghệ thông tin phục vụ mảng kinh doanh, nghiệp vụ… Công nghệ thông tin phục vụ thu nhập thông tin số liệu, phân tích dự báo còn hạn chế.
2.5 Diễn biến thị trường ngoại hối trong và ngoài nước 6 tháng đầu năm 2012
Trong 6 tháng đầu năm 2012, kinh tế thế giới vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, thị trường tài chính toàn cầu vẫn tiềm ẩn rủi ro do khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung Châu Âu chưa được giải quyết, nhiều ngân hàng trong khu vực Châu Âu bị hạ bậc tín nhiệm; kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với rủi ro tăng trưởng kinh tế chậm lại, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn... nhưng về cơ bản, diễn biến thị trường ngoại hối trong và ngoài nước không có nhiều biến động.
* Diễn biến giá trị đồng đô la Mỹ và tỷ giá USD/VND
Trong nửa đầu năm 2012, giá trị đồng đô la Mỹ trên thị trường ngoại hối thế giới đã phần nào được cải thiện và tỷ giá USD/VND tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) duy trì ổn định ở mức 20.828 VND/USD.
- Diễn biến giá trị đồng đô la Mỹ
Diễn biến giá trị đồng đô la Mỹ 6 tháng đầu năm 2012 đã cho thấy một số dấu hiệu khả quan. Sau khi sụt giảm giá trị trong 4 tháng đầu năm 2012, diễn biến chỉ số đô la Mỹ (USD Index)[1] đã đổi chiều, duy trì xu hướng tăng giá trong tháng 5 và 6/2012. Kết thúc tháng 6/2012, chỉ số đô la Mỹ tăng 1,4% so với đầu năm 2012.
Sự khởi sắc của đồng đô la Mỹ có được nhờ những dấu hiệu khả quan của nền kinh tế Mỹ, những bất ổn kinh tế kéo dài tại khu vực đồng tiền chung Châu Âu liên quan đến vấn đề nợ công, khó khăn chưa được giải quyết của nền kinh tế Nhật Bản...
Xét riêng cặp tỷ giá USD/Euro, sau khi giảm giá 3,1% so với đồng Euro trong quý I/2012, đồng đô la Mỹ đã tăng 6,1% giá trị so với đồng Euro trong quý II/2012. Như vậy, trong nửa đầu năm 2012, đô la Mỹ tăng 2,7% giá trị so với đồng Euro. Dường như giới tài chính đã không thể duy trì lòng tin vào đồng Euro thêm nữa trước lo ngại về khả năng Hy Lạp sẽ rút khỏi EU mặc dù cuối cùng thì điều này đã không xảy ra. Hơn thế nữa, trong khi cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp còn chưa thể được giải quyết thì sự bất ổn của hệ thống ngân hàng Tây Ban Nha - các ngân hàng nước này đang chật vật đối phó với các khoản nợ xấu lên tới hàng tỷ đô la Mỹ càng ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị đồng Euro.
Liên quan tới tỷ giá USD/NDT – một vấn đề trung tâm trên thị trường ngoại hối thế giới trong những năm gần đây, trong nửa đầu năm 2012, Trung Quốc đã có bước đi mới trong điều hành tỷ giá vào giữa tháng 4/2012 khi nới rộng biên độ tỷ giá USD/NDT thêm 0,5%. Quyết định của Trung Quốc về việc nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái giữa Nhân dân tệ và USD được ví như một mũi tên trúng hai đích, vừa giúp Trung Quốc đáp ứng phần nào đòi hỏi của Mỹ về việc nâng giá đồng NDT, vừa giúp Trung Quốc dần thực hiện tham vọng quốc tế hóa đồng NDT.
Kết thúc tháng 6/2012, tỷ giá NDT/USD dừng ở mức 6.355 NDT/ 1 USD, tăng 0,72% so với tỷ giá đầu năm 2012.
* Diễn biến tỷ giá USD/VND
Các quyết sách rõ ràng và minh bạch của NHNN trong công tác điều hành chính sách tỷ giá nửa đầu năm 2012, cùng với diễn biến khả quan của cung – cầu ngoại tệ trong nền kinh tế (Việt Nam có xuất siêu trở lại sau nhiều năm; cán cân vãng lai thặng dư sau khi đã thâm hụt trong năm 2010 – 2011, góp phần quan trọng tạo nên thặng dư của cán cân tổng thể nửa đầu năm 2012) đã giúp diễn biến tỷ giá USD/VND trong 6 tháng đầu năm 2012 tiếp tục duy trì xu thế ổn định:
+ Tỷ giá bình quân liên ngân hàng (BQLNH) tiếp tục được duy trì ở mức 20.828 VND/ 1USD;
+ Tỷ giá giao dịch của Ngân hàng Thương mại (NHTM) sau một thời gian được duy trì ở mức kịch trần biên độ đã được các ngân hàng điều chỉnh giảm dừng ở mức 20.860 (mua vào) – 20.920 (bán ra) vào thời điểm cuối tháng 6/2012;
+ Diễn biến tỷ giá trên thị trường chợ đen bám sát diễn biến tỷ giá giao dịch của Ngân hàng Thương mại (NHTM).
Bên cạnh diễn biến ổn định của tỷ giá, để thực hiện mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối, tăng cường khả năng can thiệp thị trường ngoại hối của NHNN khi cần thiết – tỷ giá mua vào của Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bắt đầu từ ngày 13/2/2012 được điều chỉnh cao hơn tỷ giá mua vào của NHTM. Ước dự trữ ngoại hối trong quý I/2012 đã tăng thêm 30% so với cuối năm 2011.
Mặc dù diễn biến tình hình ngoại hối hiện tại là tương đối ổn định, bám sát mục tiêu điều hành. Tuy nhiên những yếu tố hỗ trợ cho công tác điều hành tỷ giá vẫn cần được kiểm soát chặt chẽ, cụ thể như sau:
+ Sau khi NHNN điều chỉnh giảm giá VND 9,3% vào đầu năm 2011, tỷ giá thực hiệu quả REER tháng 2/2011 ở mức xấp xỉ 100%. Tuy nhiên ngay sau đó, REER duy trì xu hướng giảm, xa dần trục gốc 100%.
+ Nếu so với mục tiêu điều hành trong năm 2012 (tỷ giá năm 2012 biến động không quá 2-3%) thì sau 6 tháng đầu năm, tỷ giá BQLNH gần như được giữ nguyên, tỷ giá NHTM chỉ thay đổi 0,55 %. Trong bối cảnh kiềm chế lạm phát, tỷ giá được giữ cố định là một cái neo kỳ vọng tích cực, song cũng cần phải có lộ trình điều chỉnh thích hợp đặc biệt là khi tình hình lạm phát đã được cải thiện, REER diễn biến chưa thuận lợi để tránh tạo ra những thay đổi đột biến trong bối cảnh kinh tế nhạy cảm và khó khăn như hiện nay.
- Tính ổn định của cán cân vãng lai chưa thật sự bền vững
Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của Viện Chiến lược
Trong nửa đầu năm 2012, Việt Nam đã có xuất siêu trở lại sau nhiều năm nhờ lợi thế về giá của một số mặt hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam hiện vẫn chưa có những thay đổi cần thiết, vẫn còn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam phần lớn vẫn là hàng nông, thủy sản, các hàng hóa có giá trị gia tăng thấp và các doanh nghiệp vẫn cần nhập một lượng đáng kể nguyên nhiên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Chẳng hạn, trong 8,4 tỷ USD xuất khẩu hàng hóa dệt may, giày dép trong 5 tháng đầu năm 2012 thì Việt Nam cũng đã phải nhập khẩu gần 4,9 tỷ USD bông, sợi dệt, vải và nguyên vật liệu cho dệt may, giày dép – chiếm khoảng 60% giá trị hàng xuất khẩu. Tỷ lệ này gần như không thay đổi suốt từ năm 2004 đến nay.
* Diễn biến thị trường vàng nửa đầu năm 2012
Giống với diến biến những tháng cuối năm 2011, diễn biến giá vàng nửa đầu năm 2012 cho thấy không phải lúc nào vàng cũng là kênh đầu tư an toàn nhất khi giá vàng đã duy trì xu hướng giảm giá trong suốt quý II/2012.
Mặc dù giao dịch vàng thế giới khởi đầu năm 2012 với một con số rất ấn tượng khi tăng giá 9%, từ 1.598$/Oz lên 1.744$/Oz trong tháng 1 và giá vàng tiếp tục tăng trong tháng 2/2012 do quan ngại về việc Mỹ có thể sẽ tung ra gói nới lỏng định lượng QE3. Tuy nhiên, sau đó, những thông tin tốt về chỉ số kinh tế vĩ mô Mỹ (thị trường lao động được cải thiện, tăng trưởng trên thị trường chứng khoán, chi phí tiêu dùng tăng…) cho thấy nền kinh tế lớn nhất thế giới đang trong quá trình phục hồi tốt, có ít khả năng Fed sẽ thực hiện nới lỏng định lượng lần 3; tâm lý giới đầu tư không còn tin tưởng tuyệt đối vào giá trị đầu tư của vàng sau kinh nghiệm rút ra từ sự sụt giảm mạnh mẽ của giá vàng trong quý cuối năm 2011 … ít nhiều đã làm giảm vai trò “vịnh tránh bão” của vàng. Hệ quả là sau khi tăng 4% vào quý I/2012, giá vàng thế giới đã quay đầu giảm giá trong quý II/2012. Kết thúc nửa đầu năm 2012, giá vàng thế giới dừng ở mức 1.598,5$/Oz – chỉ hơn 0,5$ so với mức giá 1.589$/Oz đầu năm.
Chịu ảnh hưởng từ diễn biến giá vàng thế giới, sau khi tăng giá gần 3% - từ 4,27 triệu VND/chỉ lên 4,4 triệu VND trong quý I/2012, giá vàng trong nước đã giảm giá trong quý II/2012. Giá vàng cuối tháng 6/2012 giảm 2,7% so với đầu năm, còn 4,16 triệu VND/chỉ. Mặc dù vậy, hiện tượng giá vàng trong nước cao hơn tương đối so với giá vàng thế giới (giá quy đổi ra VND) vẫn tiếp tục tiếp diễn. Chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng thế giới sau một thời gian được thu hẹp xuống còn dưới 1 triệu VND/lượng đã lại tăng lên 1,5-2,5 triệu VND/lượng trong tháng 6/2012.
Tuy nhiên, với sự ra đời của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/04/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và Thông tư số 16/2012/TT-NHNN ngày 25/5/2012 của NHNN Hướng dẫn một số điều của Nghị định 24 nhằm tạo lập khổ hành lang pháp lý theo hướng quản lý chặt chẽ và minh bạch hơn hoạt động sản xuất và kinh doanh được kỳ vọng sẽ tác động tích cực hơn đến diễn biến thị trường vàng trong nước; tạo tính liên thông giữa thị trường vàng trong nước và thị trường vàng thế giới; giúp giá vàng trong nước bám sát hơn với diễn biến giá vàng thế giới và thu hẹp khoảng cách bất hợp lý về giá.
**** Việt Nam nằm trong số những quốc gia đang phát triển, là một thị trường mới của nền kinh tế thế giới và cũng là một trong những nước có dự trữ ngoại hối thấp, cần được tăng cường đáp ứng với nhu cầu hội nhập. Trong chương 2, Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu về thực trạng chính sách dự trữ ngoại hối Việt Nam từ giai đoạn 2009 – 2011 và 6 tháng đầu năm 2012 . Song song với việc nghiên cứu chính sách, nhóm cũng nêu lên tình hình diễn biến của dự trữ ngoại hối Việt Nam tương ứng với từng thời kỳ. Thông qua đó đánh giá, những mặt tích cực và hạn chế của công tác quản lý dự trữ ngoại hối Việt Nam trong thời gian kể trên. Việc đánh giá chính sách dự trữ ngoại hối qua từng giai đoạn, đem lại một cái nhìn tổng quan nhất về bức tranh ngoại hối Việt Nam thời gian qua, làm cơ sở tiền đề cho việc đưa ra các giải pháp, chính sách hợp lý nhằm hoàn thiện cho chính sách quản lý dự trữ ngoại hối của Việt Nam thời gian tới.
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI
Định hướng về quản lý dự trữ ngoại hối của Việt nam trong thời gian tới
Để nâng cao hiểu quả trong công tác quản lý dự trữ ngoại hối, trước tiên nhóm đề ra phương hướng cho hành động và đề xuất xây dựng một số nhóm giải pháp cho công tác quản lý.
Tình trạng lạm phát hai con số trong năm 2011 vừa qua đã kìm hãm đáng kể tốc độ phát triển của kinh tế Việt Nam. Làm phát cao làm giảm sút khá nhiều giá trị sức mua đồng tiền, trong đó có các khoản dự trữ ngoại hối. Vì vậy, thứ nhất để tránh những rủi ro và giảm thiểu ảnh hưởng của lạm phát, NHNN nên đa dạng các hình thức dự trữ hơn nữa, giảm khối lượng tiền mặt và tăng cường dự trữ vàng hoặc kim loại quý. TUy nhiên để đảm bảo tính thanh khoản, NHNN nên cân bằng các hình thức dự trữ nêu trên. Về công tác quản lý, chúng ta hướng đến việc siết chặt quản lý dự trữ ngoại hối hơn nữa, đặc biệt là vàng. Nhân hàng nhà nước cần yêu cầu các tổ chức tín dựng phải luôn chủ động phát hiện và báo cáo những hành vi có dấu hiệu vi phạm các quy ddingj về quản lý ngoại hối. Nhà nước phải có các chế tài để xử lý nghiêm các vi phạm liên quan đến việc niêm yết, giao dịch, thanh toán, quảng cáo mua bán, vận chuyển, thu đổi ngoiaj tệ, vàng không đúng các quy định pháp luật, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, tịch thu tài sản vi phảm. Đồng thời, ngân hàng nhà nước phải ban hành ngay thông tư hướng dẫn nhằm kiểm soát chặt hoạt động thanh toán, niêm yết, quảng cáo bằng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam.
Các giải pháp thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng đã phát huy tác dụng, việc quản lý tiền tệ, tín dụng, lãi suất, thị trường ngoại tệ, vàng đang đi vào hướng ổn định, hoạt động kinh doanh thu đổi ngoại tệ bước đầu đã lập lại theo quy định của pháp luật… tạo niềm tin trong nhân dân. Vì vậy, thứ hai để các chính sách tiền tệ được thực hiện một cách có hiệu quả tăng duy trì tầm ảnh hưởng và gia tăng sức mạnh của mình. NHNN cần rà soát, sữa đổi, bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến quản lý ngoại hối, để việc điều hành thị trường ngoại hối và tỷ giá được chủ động, linh hoạt, phù hợp với tình hình cung, cầu ngoại tệ, tăng tính thanh khoản của thị trường, khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tề và góp phần tăng dự trữ ngoại hối. Theo đó, NHTT cần tăng quy mô quỹ bình ổn, để có thể nhanh chóng và dễ dàng can thiệp vào thị trường tiền tệ, góp phần làm cho các chính sách tiền tệ được thực thi có hiệu quả hơn. Chúng ta nên đi từng bước thôi và điều hành một cách vững vàng vì tình trạng nhập siêu khá cao. Vì nếu điều hành một cách vững vàng, với những quyết sách đủ liều lượng, kịp thời, đúng lúc thì nhân dân vẫn tin vào đồng tiền của chính phủ, cho dù dự trữ chưa cao.
TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên phó chủ tích UBGSTCQG từng thừa nhận nền kinh tế VN bị chi phối bởi tác động của đồng USD với mức đô la hóa xấp xỉ 30%, để giải quyết tình trạng đô la hóa nền kinh tế, chúng ta cần giảm trái thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, nhằm tập trung ngoại tệ vào NHNN để tiếp tục tăng dự trữ, tăng khả năng kiểm soát, đảm bảo ngoại hối được chủ động, cân đối không bị lãng phí… giúp ổn định thị trường ngoại hối. Điều kiện tỉ giá ổn định như những tháng đầu năm 2012 là cơ hội để NHNN tăng dự trữ quốc gia. THống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cho biết, dự trữ ngoại hối tính đền tháng 3/2012 tăng khoảng 30% so với cuối năm 2011 và cuối năm 2011 cũng đã tăng khoảng 50% so với đầu năm 2011. Để tăng nhanh quy mô dự trữ, NHNN cần tăng cường huy động từ những nguồn lực có sẵn trong dân, hướng chủ yếu đền nguồn kiều hối, từ đó đề ra những chính sách đãi ngộ hợp lý cho kiều bào làm ăn ở nước nogoaij.
Trong bối cảnh quan hệ kinh tế quốc tế đa dạng và rộng mở như hiện nay, khi nước ta mở rộng hoạt động thương mại với nhiều quốc gia hơn. Tuy nhiên, việc dự trữ nhiều loại ngoại tệ đồi hỏi NHNN phải đổ nhiều công sức hơn vào việc ổn định rất nhiều loại tỷ giá. Trong khi đó, khối đồng tiền chung EURO hiện nay đang gặp phải cuộc khủng hoảng nợ công nghiêm trọng, nhiều cú sốc tỷ giá đối với EUR/VND; vì vậy, trong ngắn hạn, dự trữ ngoại hối nên giữ nguồn ngoại tệ chủ là USD. Trong dài hạn, nhóm đề xuất nên tăng cường trong cơ cấu đồng tiền NDT. Vì trong bối cảnh hiện nay, khi mà TQ đang nổi lên trở thành cường quốc thứ 2 thế giới.
Trên cơ sở nhận thức những khó khan và nhwungx vấn đề còn tổn tại của dự trữ ngoại hối VN, Nhóm nghiên cứu đã đưa ra một loạt giải pháp nhằm:
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về dự trữ ngoại hối để quản lý ngoại hối chặt chẽ hơn, an toàn hơn.
Tăng cường lượng ngoại hối dự trữ của quốc gia. Từ đó tạo cơ sở thi hành chính sách tiền tề, tạo điều kiện ổn định kinh tế vĩ mô.
Chỉ ra hướng sử dụng, đầu tư mới, đa dạng hóa nguồn dự trữ nhằm sử dụng ngoại hối dự trữ hiệu quả, an toàn hơn
Các nhóm giải pháp hoàn thiện công tác quản lý dự trữ ngoại hối.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về dự trữ ngoại hối
Sự thâm hụt của lượng dự trữ ngoại hối trong gia đoạn 2009-2011 đã cho thấy những thiếu sót và lỗ hổng trong công tác điều hành quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN. Nhiều chính sách quản lý thị trường ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước thời gian qua còn nhiều bất cập khiến tỷ giá hiện chưa thật sự phản ánh đúng tình hình cung- cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Vì thế, cần có những giải pháp đẩy mạnh công tác quản lý ngoại hối để điều chỉnh và sử dụng một cách có hiệu quả lượng ngoại hối quốc gia.
Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý
Hiện tại ở Việt nam có 2 cơ quan nhà nước đứng đầu trong việc quản lý thu chi ngoại hối trong nước là Bộ tài chính và NHNN. Trong đó, bộ tài chính là nơi nắm giữ nguồn thu lớn về ngoại hối, là nguồn điều tiết ngoại hối cho các cơ quan khác: Nghiên cứu và trình Hội đồng chính phủ phê chuẩn kế hoạch thu chi ngoại tệ phí mậu dịch; quản lý kinh phí về công tác đối ngoại; cùng với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước tổng hợp và cân đối kế hoạch thu chi ngoại tệ hàng năm của Bộ ngoại thương và kế hoạch thu, chi ngoại hối của NHNN Việt Nam; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra các Bộ, các ngành trong việc chấp hành các kế hoạch thu, chi ngoại tệ; quản lý việc sử dụng ngoại tệ, xây dựng kế hoạch tiền viện trợ và tiền vay và quản lý kế hoạch ấy. Trong khi đó, NHNN là cơ quan chính trong việc quản lý nhà nước về tiền tệ, quản lý ngoại hối và dự trữ ngoại hối, xây dựng cán cân thanh toán quốc tế, chủ yếu là cơ quan sử dụng nguồn ngoại hối quốc gia. Do đó, cần sự phối hợp hoạt động chặt chẽ của hai cơ quan này trong việc phân bổ ngoại hối trong các hoạt động của nền kinh tế vĩ mô. Vì vậy, việc có một cơ quan đứng ra trực thuộc trung cả Bộ Tài chính và NHNN là cần thiết để đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng trong công tác quản lý ngoại hối quốc gia. Nhóm nghiên cứu đề xuất tăng cường quyền hạn và hoạt động của vụ ngoại hối (hiện đang trực thuộc NHNN) trong công tác báo cáo và luân chuyển nguồn ngoại hối giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước trong công tác ngoại hối quốc gia. Trước đây, vụ ngoại hối là cơ quan trực thuộc NHNN, có nhiệm vụ báo cáo hoạt động ngoại hối, thu chi, điều hành hoạt động xuất nhập khẩu ngoại hối và giám sát, xử lý vi phạm cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về sử dụng ngoại hối. Tất cả các hoạt động của vụ ngoại hối trước đây đều chỉ thuộc phạm vi hoạt động và được giám sát bởi NHNN. Vì vậy, nhóm nghiên cứu đề xuất Vụ quản lý ngoại hối là cơ quan trực thuộc cả Bộ Tài chính và NHNN, cùng với đó thêm các quyền hạn:
Tổng hợp báo cáo của bộ tài chính lên chính phủ về ngoại hối.
Theo dõi việc sử dụng ngoại tệ của các bộ ngành
Tham mưu kế hoạch thu chi ngoại tệ cho Bộ Tài chính, hỗ trợ Bộ tài chính kiểm soát việc thu chi ngoại hối của NHNN.
Là cơ quan liên hệ giữa Bộ Tài chính và NHNN trong việc điều tiết thu cih ngoại hối, đảm bảo thực hiện tốt các chính sách kinh tế vĩ mô, cân bằng cán cân ngoại hối nhà nước,sử dụng nguồn thu ngoại hối một cách có hiệu quả.
Do là cơ quan phụ trách về ngoại tệ ở cả Bộ Tài Chính và NHNN nên Vụ ngoại hối sẽ có những thông tin,những cái nhìn toàn diện về thực trạng ngân sách và thu chi ngoại hối của quốc gia trong hiện tại và tầm nhìn cho tương lai,vì thế có thể linh động và nhanh chóng hơn trong việc sử dụng các khoản thu về ngoại hối của Bộ Tài chính để thực hiện mục tiêu của NHNN trong việc điều tiết chính sách kinh tế vĩ mô.
Hiện tại,một trong những nguyên nhân gây ra quản lý kém hiệu quả trong công tác ngoại hối chính la trình độ của hệ thống nhân sự. Trong bộ máy quản lý của NHNN còn có nhiều bất cập về nguồn nhân lực,cán bộ chưa có đủ trình độ và kinh nghiệm trong công tác quản lý luồng ngoại tệ lưu thông của bộ tài chính và NHNN.Thực tế, các cơ quan quản lý cán bộ chưa làm tốt việc xác định các tiêu chí để đánh giá đúng thực chất trình độ và năng lực chuyên môn của cán bộ quản lý qua hoạt động thực tiễn để có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ,xây dựng bộ máy quản lý chuyen sâu hoặc nâng cao những kiến thức mà họ đã được đào tạo trong nhà trường.Vì thế, vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ,xây dựng bộ máy quản lý chuyên sâu là vấn đề bức thiết không chỉ trong công tác ngoại hối mà còn trong nhiều lĩnh vực của bộ máy nhà nước.Hiện nay,ta có cái gì thì đào tạo bồi dưỡng cán bộ cái ấy,chứ chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế,từ sự cần thiết của việc nâng cao kỹ năng thực hiện công việc.Việc đào tạo cán bộ có chuyên môn cao là viêc làm rất quan trọng để có thể đẩy mạnh công tác quản lý,nhanh nhạy trong việc thực hiện các chính sách,sáng tạo trong việc đưa gia các giải pháp trước tình hình biến động của thị trường tiền tệ trong nước.
Quản lý chặt chẽ ngoại tệ vàng
Một công cụ khác không thể thiếu của ngân hàng nhà nước trong việc quản lý ngoại hối là các văn bản pháp luật . Trong giai đoạn tới cần có những quy định chặt chẽ trong việc kinh doanh ngoại tệ và vàng, đặc biệt là những quy định về việc mua ngoại hối của các doanh nghiệp nhà nước.Chính sách tỷ giá vẫn là một công cụ quan trọng của nhà nước trong việc kiểm soát thị trường và các chính sách kinh tế vĩ mô,gia tăng dự trữ ngoại hối và thu hút vốn đàu tư nước ngoài.Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ,linh hoạt và phối hợp với chính sách tài khóa để thực hiện có hiệu quả chính sách tỷ giá.Vấn đề tiếp theo cần quan tâm đó là điều chỉnh lãi suất nội tệ và ngoại tệ. Hiện nay đang có mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất ngoại tệ (USD) và lãi suất VNĐ trong nước. Do đó cần tập trung nhiều hơn ngoại tệ tự do vào trong tay NHNN bằng cách gia tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc với ngoại tệ (chủ yếu la USD)của các ngân hàng thương mại,các nguồn thu ngoại tệ của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội ( trừ các doanh nghiệp FDI ) phải kịp thời chuyển về nước và bán hết cho các ngân hàng dược ủy quyền. Khi tập trung được ngoại tệ tự do vào tay NHNN,chính phủ và NHNN sẽ dễ dàng hơn trong việc thực hiện chính sách tỷ giá và giảm thiểu sự chênh lệch lãi suất.
Tình trạng đôla hóa cũng là một vấn đề gây khó khăn lớn trong việc quản ly ngoại hối của nhà nước.Tỷ lệ tiền gửi USD trên tổng phương diện thanh toán từ năm 2000 đều trên 20% cho thấy ngoại tệ ngày càng được sử dụng phổ biến , đó là do tiền VNĐcó giá trị thay đổi thất thường, tỷ giá USD/VNĐ thay đổi liên tục khiến niềm tin vào đồng tiền Việt Nam bị giảm sút. Người dân co khuynh hướng dùng USD nhiều hơn cho các nhu cầu mua sắm hằng ngày hoặc kinh doanh. Vì thế , NHNN cầng tăng chi phí giao dịch bằng ngoại tệ và có những chế tài nghiêm hơn trong việc xử lý các vi phạm niêm yết giá hàng hóa dịch vụ bằng ngoại tệ, cũng do VNĐ không ổn định nên việc găm giữ ngoại tệ gặp nhiều khó khăn . Vấn đề là làm thế nào để người dân không cảm thấy có lợi khi nắm giữ USD . Muốn vậy ngân hàng thương mại phải giảm lãi suất huy động USD bởi mức lãi suất hiện tại phổ biến trên 5%/năm là quá cao trong khi tại Mỹ chỉ từ 1,5% đến 2%/năm.Chính sự chênh lệch về mức lãi suất này đã khiến nhiều Việt kiều mang USD về VN nhờ người nhà gửi vào ngân hàng, làm cho lượng USD tại ngân hàng tăng lên, khiến cho hiện tượng đôla hóa tăng.
Quản lý thị trường vàng nhập khẩu là một bài toán khó cần có những quy định chẽ và chế tài nghiêm minh vì nó co mối liên hệ chặt chẽ với quản lý ngoại tệ ( chủ yếu là USD ) trong lưu thông. Giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới là nguyên nhân khiến cho việc nhập khẩu vàng trái phép gia tăng. Việc nhập khẩu vàng trái phép làm cho NHNN khó có thể kiểm soát lượng vàng trong nước, chế độ điều chỉnh giá vàng cũng như điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ để thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Mục tiêu của NHNN trong thời gian tới là hạ giá vàng bằng giá vàng thế giới song cũng phải nâng mức dự trữ ngoại hối lên. Điều này cần những phương án thiết thực trong tương lai để thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu.
NHNN cần tăng cường công tác giám sát kiểm tra Hải quan để kiểm soát lượng tiền ngoại tệ khai báo mang ra nước ngoài. Theo quy định năm 2005, sổ ngoại tệ khai báo khi mang ra nước ngoài la 7000 USD , sau đó giảm xuống còn 5000 USD năm 2011. Để đảm bảo thuận lợi cho việc quản lý dự trữ ngoại tệ, NHNN cần hạ mức tiền phải khai báo với Hải quan khi mang ra nước ngoài để tránh thất thoát ngoại tệ, quản lý chặt chẽ lượng ngoại tệ mang ra khỏi lãnh thổ.
Quản lý vay trả nợ nước ngoài
Hiện nay, nợ ngoại tệ nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc khu vực công đang gia tăng cho thấy những bất cập về chính sách cho vay và quản lý nợ ngoại tệ của các doanh nghiệp thuộc nhà nước. Việc quy định không chặt chẽ trong quản lý vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức công đã dẫn tới sự đầu tư ồ ạt, không có hiệu quả, gây thất thoát cho nhà nước. Trong nghị định 34/2005/NĐ-CP, Mục 3 co quy định việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức thuộc khu vưc công. Nhóm nghiên cứu khiến nghị sửa đổi một số điều khoản trong điều 28 và 29 để thực hiện chặt chẽ hơn việc giám sát bợ nước ngoài của các tổ chức doanh nghiệp công. Trong đó,tất cả các hình thức vay ngoại tệ của doanh nghiệp (kể cả vay tiền mặt hay phát hành trái phiếu ra nước ngoài ) đều phải được sự cho phép và giám sát của Bộ tài chính. Quy định cụ thể và chặt chẽ hơn về mức vay thương mại hằng năm và quản lý việc bảo lãnh vay với các doanh nghiệp công ( Điều 21 ), gia tăng điều kiện tỷ lệ vốn chủ sở hữu dự án đầu tư ( ban đầu là 20%) và tăng điều kiện đảm bảo vay vốn nước ngoài ( thế chấp tài sản) để có thể đẩm bảo tốt việc trả nợ của doanh nghiệp và tránh tình trạng vay ngoại tệ tràn lan, khó kiểm soát.
Nhà nước cần tăng cường công tác giám sát và yêu cầu báo cáo theo kì hạn tiến độ các hạng mục đầu tư có vay nợ nước ngoài để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn,tránh tình trạng nợ xấu của các doanh nghiệp gây thất thoát nguồn ngoại tệ. Trong các quản ly nợ, cần phân công rõ ràng nhiệm vụ của các cơ quan , ban ngành, không để tình trạnh chồng chéo nhiệm vụ giữa các cơ quan ,đảm bảo tính chất minh bạch,công khai.
Nhóm giải về pháp gia tăng quy mô dự trữ.
Tự do hóa tài khoản vốn
Trong quá trình hội nhập và mở cửa nền kinh tế trong nước, tự do tài khoản vốn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu.Đây là một trong những công tác cần được thực hiện sớm. Tự do hóa tài khoản vốn tạo điều kiện cho Việt Nam dễ dàng tiếp cận với các luồng vốn quốc tế, tăng cường nhận được đầu tư ngoại tệ từ đó tăng cường lượng ngoại hối dự trữ. Tuy nhiên, mặt trái của việc tự do hóa tài khoản vốn là kinh tế trong nước dễ bị ảnh hưởng bởi nững cú sốc từ bên ngoài và kém tự chủ hơn. Do đó, việc tự do hóa tài khoản vốn cần được tiến hành theo từng giai đoạn và theo từng khoản mục với mức độ ngày một gia tăng, kèm theo đó là các biện pháp làm gia tăng sức mạnh cho hệ thống tài chính trong nước .Do đó cần :
Nâng cao năng lực phân tích, dự báo và quản trị tài chính của các doanh nghiệp. Xây dựng khung pháp lý cụ thể phù hợp với hoan cảnh trong nước và quốc tế.Từng bước tự do hóa tài khoản vốn trong sự quản lý chặt chẽ của chính phủ và các doanh nghiệp.
Tự do hóa tài khoản vốn không đồng nghĩa với việc thả lỏng việc vay và sử dụng vốn của các NHTM. Nhà nước cần quản lý chặ chẻ các luồng tiền ra và vào các NHTM, bảo đảm tính hợp pháp và chắc chắn rằng lượng vốn đầu tư vào không quá tải gây mất cân đối giữa ngoại tệ và nhu cầu sử dụng, bóp méo cấu trúc kinh tế trong nước. Đối với doanh nghiệp cần quản lý chặt chẻ các hoạt động vay và trả nợ nước ngoài tránh xa những thất thoát làm giảm thang tín nhiệm tín dụng của nước ta.
Khuyến khích đầu tư ra nước ngoài cảu các doanh nghiệp trong nước bằng các chính sách ưu đãi, chế độ hổ trợ đi kèm, giao cho doanh nghiệp quyền chủ động trong việc chọn nước đầu tư và ngành đầu tư. Đây là công tác mang tầm chiến lược lâu dài. Đầu tư ra nước ngoài sẽ giúp sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn nhàn rổi, đầu tư kém hiệu quả trong nước. Lợi nhuận kinh doanh từ đầu tư ra nước ngoài sẽ làm gia tăng quy mô và đa dạng hóa lượng ngoại hối dự trữ.
Phát triển thị trường vốn trong nước theo hướng đẩy mạnh cổ phần hóa và mở rộng phạm vi tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Song cũng phải có sự giám sát các hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh đúng ngành đăng ký mang lợi ích cho nền kinh tế cũng như cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp trong nước.
Xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu chính xác về các giao dịch vốn, có giải pháp cần thiết để tập hợp số liệu và đánh giá, phân tích hoạt động giao dịch vốn. Thường xuyên công bố các dữ liệu về các giao dịch vốn đảm bảo tính công khai.
Thu hút nguồn đô la trong dân
Chính Phủ cần phải ổn định lạm phát trong thời gian dài để xây dựng lại lòng tin của người dân với đồng nội tệ. Cụ thể là Chính Phủ cần kìm hãm tỉ lệ lạm phát trong nước, ổn định tỉ giá giữa Việt Nam Đồng và các ngoại tệ mạnh, nâng cao chất lượng dịch vụ của các tổ chức tín dụng, mở rộng thêm các tiện ích gắn với việc giao dịch bằng tiền VNĐ như dịch vụ thẻ, điểm thanh toán, cho vay tiêu dùng.
Chính Phủ cần có giải pháp thu hút triệt để ngoại tệ từ các doanh nghiệp, cá nhân, người Việt Nam ở nước ngoài khi mang ngoại tệ vào Việt Nam; khuyến khích tăng tỉ lệ quy đổi sang VNĐ với số lượng USD lớn. Một trong những biện pháp có thể thực hiện là mua Đôla có khuyến mãi.
Thu hẹp tiến tới dần xóa sổ thị trường chợ đen và các hoạt động thanh toán bằng Đôla mỹ trong nước. Chính Phủ có thể xây dựng và công bố một pháp lệnh nhằm quản lý chặt chẻ hoen hoạt động sử dụng Đôla trong dân. Theo đó, nghiêm cấm các hình thức niêm yết giá và thanh toán bằng ngoại tệ, có hình thức xử phạt xác đáng với những trường hợp vi phạm. Nhà nước nên có sự chỉ đạo kịp thời đối với các tổ chức tín dụng để khắc phục tình trạng găm giữ ngoại tệ. Mặt khác, thời điểm này cần rà soát lượng ngoại tệ trong các tổ chức tín dụng để phòng ngừa trường hợp ngoại tệ chạy ra nước ngoài, nhất là hoạt động đánh bạc ở nước ngoài.
Nhà nước nên khẩn trương tác động, thực hiện kiên quyết việc các tập đoàn và tổng công ty Nhà nước còn giử USD trên tài khoản bán lại số USD này cho Ngân hàng để góp phần ổn định tỉ giá hiện nay là vấn đề cấp bách nhất, nếu có 50% số USD mà tập đoàn và tổng công ty Nhà nước có nguồn thu ngoại tệ chịu bán lại cho Ngân hàng, theo ước tính, tổng lượng ngoại tệ mà các doanh nghiệp còn giữ trên tài khoản vào khoảng 10,3 tỷ USD, thì cũng sẽ có khoảng 5 tỷ USD để giúp các doanh nghiệp nhập khẩu giảm được nổi khổ vì khát USD trong thanh toán đồng thời cũng ổn định được vật giá đang leo thang theo tỷ giá.
Cải thiện cán cân xuất nhập khẩu
Giảm thiểu nhập siêu, giảm nhập hàng tiêu dùng xa xỉ, những mặt hàng trong danh mục không khuyến khích.
Bộ Tài Chính nên làm công tác rà soát toàn diện và tăng tối đa các loại thuế đối với các mặt hàng trên. Ngoài thuế, cần bổ sung thêm các loại phí cao để ngăn chặn theo thông lệ Quốc tế, chẳng hạn nghiên cứu ban ngành loại phí mua xe mới( theo giá trị của xe ôtô). Dùng công cụ phí với mức (100% - 300%) giá trị xe có thể giảm được 50% – 60% kim ngạch nhập khẩu xe ôtô.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước nên xem xét việc ban hành giấy phép mua ngoại tệ hoặc hình thức tương tự (Căn cứ theo Luật Ngân hàng), xem xét xem có thể vận dụng được không trong giai đoạn ngắn: Doanh nghiệp nhập khẩu muốn nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ, hàng không thuộc danh mục khuyến khích nhập khẩu cần phải xin giấy phép tại Ngân hàng Nhà nước; Hoặc hàng tháng Ngân hàng Nhà nước xét duyệt kế hoạch bán ngoại tệ cho việc nhập khẩu những mặt hàng nhạy cảm từ hệ thống các NHTM.
Nếu tích cực vận dụng các biện pháp hành chính, hoặc các rào cản hợp pháp thì hàng năm có thể giảm nhập siêu với những nhóm hàng trên ở mức từ 3 tỷ - 5 tỷ USD.
Thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh
Như chúng ta đã biết phần lớn ngoại hối trong quỷ dự trữ ngoại hối Quốc gia thu được là nhờ ngoại hối thu được từ việc xuất khẩu dầu mỏ, than đá và các mặt hàng thế mạnh khác. Thúc đẩy xuất khẩu đồng nghĩa với lượng ngoại hối chảy vào nước ta sẽ nhiều hơn.
Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Chính Phủ thi hành những chính sách thuận lợi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu, cụ thể là:
Tiếp tục tạo các thủ tục thuận lợi cho doanh nghiệp được vay vốn từ chính sách hổ trợ lãi suất ưu đãi để phát triển sản xuất, xuất khẩu đặc biệt đối với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực gồm thủy sản, gạo, cà phê, dệt may, da giày.
Tiếp tục điều chỉnh lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường. Đây là phương pháp hữu thiện để kích cầu và thúc đẩy sản xuất.
Xem xét dãn thời gian nộp thuế nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu, đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh của hàng hóa.
Điều hành linh hoạt hoạt động buôn bán biên mậu theo hướng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, cân đối nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Tăng cường hút vốn FDI
“Độ mở” của thị trường chứng khoán Việt Nam so với các nước trên thế giới thì của Việt Nam rất hẹp. Do đó ta cần nghiên cứu mở rộng cho nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp niêm yết và trong ngành Ngân hàng. Cho phép các công ty quản lý quỷ nước ngoài thành lập các quỷ đầu tư theo Pháp Luật trong nước nhưng huy động vốn trên thị trường quốc tế và coi các quỷ này là các nhà đầu tư trong nước. Các quỷ đầu tư về bản chất chỉ là nhà đầu tư thụ động, chỉ đầu tư để hưởng lợi nhuận mà không có khả năng quản lý trực tiếp doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Bộ Tài Chính, Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước cũng cần nghiên cứu một công cụ huy động vốn mà nhiều nước áp dụng rất hiệu quả để tăng cường thu hút dòng vốn FDI đó là: Cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phiếu phổ thông không có quyền biểu quyết. Thông lệ thế giới đã chỉ ra rằng có nhiều loại hình quỷ đầu tư nước ngoài hay nhà đầu tư nước ngoài không cần sở hữu cổ phiếu phổ thông có quyền biểu quyết, họ cũng không có nhu cầu đi dự đại hội cổ đông. Thái Lan từng áp dụng quy định này một cách rộng rãi và nhiều doanh nghiệp Thái Lan đã có nhiều cơ hội dễ dàng hơn trong việc huy động vốn. Nếu nhà nước thực hiện nhanh giải pháp thứ hai và một phần giải pháp thứ ba thì chỉ trong vòng 7 năm nữa, Việt Nam có thể dể dàng thu hút được khoảng 15 tỷ USD.
Nghiệp Thái Lan đã có nhiều cơ hội dễ dàng hơn trong việc huy động vốn. Nếu nhà nước thực hiện nhanh biện pháp thứ hai và một phần biện pháp thứ ba thì trong vòng 7 năm nữa Việt Nam dễ dàng thu hút được 15 tỷ USD.
Trên lĩnh vực sản xuất, nhà nước cần tạo ra một thị trường hấp dẫn các nhà đầu tư đàu tư nước ngoài, cụ thể có những chính sách thu hút và sử dụng vốn FDI hiệu quả hơn.
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng cần được nâng cấp nhanh chóng, đặc biệt là các cảng biển và nhà máy điện. Mạnh dạng hơn trong việc khuyến khích và cho phép các doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng, nhất là những công trình hạ tầng đang xây dựng.
Thứ hai , rất nhiều ý kiến từ phía các doanh nghiệp và các đối tác nước ngoài có liên quan đều lo ngại về những luật lệ và những quy định mới, do đó cần xóa bỏ những giấy phép không càn thiết.
Thứ ba, cần công khai minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lí. Trong đó cần rà soát lại các văn bản phát quy liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, sửa đổi cho phù hợp với quy định của WTO.
Nhóm giải pháp tăng hiệu quả sử dụng và an toàn ngoại hối dự trữ:
Theo ngân hàng dự trự châu Á, dự trữ ngoại hối Việt Nam tăng mạnh trong thời gian qua. Tính đến cuối năm 2011 dự trữ ngoại tệ Việt Nam tương đương mức khủng hoảng kinh tế năm 2008, trong quý 1 năm 2012 con số này đạt khoảng 17 tỷ USD, tăng 3,5 tỷ USD so với con số được quỹ tiền tệ quốc tế công bố vào giữa năm 2011. Mặc dù vậy con số mới chỉ được đáp ứng được 7.5 tuần nhập khẩu, cho thấy con dự trữ ngoại hối Việt Nam còn rất mong manh, do vậy việc đưa ra các giải pháp nhằm dảm bảo an toàn cho dự trữ ngoại hối là diều vô cùng cần thiết.Đều 5 nghị định 86/1999 NĐ-CP, Quy định dự trữ ngoại hối được thành lập 02 quỹ:
Quý dự trữ ngoại hối
Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng
Theo đó Quỹ dự trữ ngoại hối để tạm ứng cho Ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu ngoại hối đột xuất; Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng là nguồn quan trọng đẻ thực hiện chính sách vĩ mô, can thiệp ngoại tệ và thị trường vàng trong nước.
Nhóm nghiên cứu đề xuất chia dự trữ ngoại hối thành các quỹ với chức năng cụ thể hơn dựa trên ý kiến của ông Trần Thanh Hải:
Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng: Quỹ này có vai trò quan trọng, phải duy trì được nhiệm vụ đảm bảo tình thanh khoản cao cho mục đích sử dụng thường xuyên sẵn sang can thiệp vào thị trường nội địa với chức năng bình ổn nền kinh tế khi có biến động của tỷ giá và giá vàng; muỵc tiếu lợi
nhuận ở mức thấp, hạn chế tham gia vào việc đầu tư sinh lời gay rủi ro. Cơ cấu ngoại tệ dự trữ của Quỹ phù hợp với cơ cấu thanh toán các giao dịch thương mại hàng hóa và dịch vụ trong từng thời kỳ.
Quỹ trả nợ nước ngoài: Theo đó các cơ quan chức năng sẽ hoạch định nợ ngắn hạn nước ngoài đến hạn phải trả theo từng năm tài chính nhằm bổ sung vào quỹ trả nợ nước ngoài đầy đủ kịp thời. Quỹ này đàu tư vào những công cụ với cơ cấu đồng tiền và kỳ hạn phù hợp với ngĩa vụ nợ công. Cơ cấu ngoại tệ dự trữ phù hợp với cơ cấu tài sản nợ nước ngoài của Chính Phủ và Ngân hàng Trung ương.
Quỹ đàu tư dài hạn thực hiện đàu tư vào những công cụ sinh lời cao, góp phân làm gia tăng dự trữ ngoại hối trong tương lai. Đối với khả năng dự trữ của Việt Nam hiện nay, không nên đàu tư mạnh vào Quỹ này, cần đảm bảo được các nguyên tắc bảo toàn dự trữ trước mắt.
Quỹ đầu tư ủy thác cho Nhà Nước đầu tư Nước ngoài: Nhằm mục đích sinh lời và chuyển giao kinh nghiệm quản lý. Đối với Quỹ đầu tư dài hạn và Ủy thác, cơ cấu dự trữ ngoại hối là các ngoại tệ mạnh khác trên cơ sơ phân tích, đánh giá diễn biến trên thị trường.
Việc chia dự trữ ngoại hối thành các Quỹ với mục đích hoạt đông riêng sẽ đảm bảo được Quản lý dự trữ đạt hiệu quản cao, phân tán rủi ro. Mỗi Quỹ sẽ được hình thành các công cụ đàu tư khác nhau, đồng thời sẽ được điều hòa nguồn ngoại hối với nhau khi cần thiết, hỗ trợ tốt cho công tác quản lý dự trữ ngoại hối.
Tăng cường sử dụng dự trữ ngoại hối
Hầu hết các Quốc gia duy trì và quản lý dự trữ ngoại hối nhằm phục vụ các mục tiêu cơ bản sau: Thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá; Duy trì tính thanh khoản của thi trường ngoại hối đẻ hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính; Đảm bào khả năng thanh toán nghĩa vụ nợ nước ngoài, khả năng hỗ trợ đồng nội tệ khả năng đâm bảo tài chính của Quốc gia. Do đó, bên cạnh nâng cao công tác quản lý dự trữ và tăng cường dự trữ ngoại hối, việc sử dụng dự trữ ngoại hối Quốc gia như thế nào cũng là một vấn đề quan trọng cần được xem xét. Ở đây nhóm nghiên cứu xin đè ra phương hướng điều chỉnh các loại tiền tệ dự trữ ngoại tệ, điều chỉnh lượng vàng trong dự trữ ngoại hối.
Dự trữ ngọai hối của Việt Năm cuối năm 2011 còn rất thấp, chỉ tương đương 06 tuần nhập khẩu, do vậy cần phải kết hợp việc điều chỉnh cơ cấu tiền tệ với yêu cầu tăng dự trữ ngoại hối. Dự trữ ngoại tệ Quốc gia chủ yếu là đồng Đola Mỹ, sau đó là đồng Yên và đồng Euro. Trong tương lai nguồn dự trữ dự kiến tăng do các nền kinh tế như Mỹ, Nhật…đang dần phục hồi sau khủng hoảng và suy thoái và các nền kinh tế mới nổi như: Hàn Quốc, Trung Quốc. Đây là những nước có vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp lớn vào Việt Nam trong thời gian qua. Với dự trư ngoại hối khổng lồ là Dola Mỹ, Trung Quốc đang khẳng định vị thế của mình và tìm cách làm yếu đi đồng DDola nâng cao giá trị đồng Nhân dân tệ. Theo đánh giá của các Chuyên gia, Trung Quốc đang có ý định đưa đồng Nhân dân tệ thành đồng tiền của thế giới. Đặc trong phương hướng hoạt động mới, Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF chủ trương kêu gọi đưa đồng Nhân dân tệ vào Danh sách dự trữu Quốc tế. Do đó việc đưa đồng Nhân dân tệ trở thành một trong những ngoại tệ chủ yếu của Quốc gia cùng với Dola, Euro, Yen…là một phương hướng cần được quan tâm.
Ước tính năm 2010 lượng vàng trong hệ thống Ngân hàng và dân chúng là 1000 tấn (Theo dữ liệu của Hội đồng Vàng Thế giới), tương đương 20 % đến 45% GDP của cả nước. Đây là khoản dự trữ khổng lồ có giá trị khoản 40 tỷ USD nhưng thực tế Vàng trong dự trữ Nhà nước chỉ chiếm khoản 4% đến 5% dự trữ ngoại hối Quốc gia thấp hơn mức trung bình của Thế giới (10%). Lượng vàng trôi nổi trong dân nhiều dẫn đến tình tang đầu cơ tăng giá vàng cao so với thế giới gây áp lực rủi roc ho ngoại hối quốc gia. Cần đề ra phương hướng điều chỉnh thu gom vàng cho dự trữ Quốc gia. Quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu vàng và hoạt đông kinh doanh vàng trong nước.
KẾT LUẬN
Quản lý và kinh doanh ngoại hối là một nhiệm vụ trọng của NHNN trong việc hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ. chính sách quản lý ngoại hối hiệu quả sẽ góp phần đáng kể trong cân bắng cán cân thanh toán, kiểm soát sức mua của đồng tiền,kiềm chế lạm phát, tận dụng nguồn vốn trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài…tạo điều kiện ổn định và phát triển nền kinh tế
Cùng với sự biến động của nền kinh tế , chính sách quản lý ngoại hối đã được đổi mới triệt để về tư duy lẫn điều hành. Chính sách nới lỏng quản lý ngoại hối đã dần dần thay thế chính sách độc quyền kiểm soát và kinh doanh ngoại hối nhà nước. Cơ chế điều hành tỷ giá cũng được thay đổi căn bản từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát. các công cụ quản lý ngoại hối được sử dụng tương đối có hiệu quả. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bước đầu hình thành và phát triển. Trong quá trình vận hành, chính sách quản lý ngoại hối đã có sự phối hợp với các chính sách tiền tệ khác. Hệ thống văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối được từng bước hình thành và phát huy tác dụng…Những chuyển biến trong kiểm soát ngoại hối đã góp phần đáng kể trong thu hút nguồn vốn nước ngoài, tạo điều kiện phát triển ngoại thương, mở rộng quan hệ hợp tác tế của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh những thành quả đạt được, trong những năm vừa qua, chính sách quản lý ngoại hối vẫn còn những tồn tại nhất định. Đó là, tỷ giá chưa thật sự phản ánh đúng cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Sự kết hợp giữa chính sách quản lý ngoại hối với các chính sách quản lý vĩ mô đã có nhưng chưa hài hòa…đây là một trong những vấn đề còn tồn tại mà NHNN cần nghiên cứu khắc phục trong thời gian tới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ngan_hang_trung_uong_6331.doc