Nằm trong hệ thống của ngành thanh tra và là tổ chức thanh tra của Ngành
Lao động - Thương binh và Xã hội, Hoạt động thanh tra Lao động - Thương binh
và Xã hội đã thực sự là chiếc cầu nối giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh
nghiệp và người dân, xứng đáng "là tai mắt của trên, là người bạn của dưới" như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị. Với vị thế của mình, Thanh tra Lao động -
Thương binh và Xã hội là công cụ không thể thiếu nhằm phục vụ yêu cầu quản lý
nhà nước của Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội; góp phần bảo đảm trật tự,
kỷ cương, tăng cường pháp chế và củng cố nguyên tắc quản lý theo ngành và quản
lý theo lãnh thổ. Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội đã có những đóng
góp quan trọng trong việc hoạch định chính sách và đảm bảo cho các chính sách,
pháp luật của nhà nước, của ngành trong lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã
hội được thi hành nghiêm chỉnh trên thực tế, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước của ngành.
Hoạt động thanh tra là một hoạt động có tính quy phạm pháp luật cao. Mỗi
nhiệm vụ, mỗi vấn đề liên quan đến công tác thanh tra đều được pháp luật quy định
cụ thể rõ ràng. Điều đó đòi hỏi mỗi chúng ta khi thực hiện một nhiệm vụ của công
tác thanh tra, phải tuân thủ một cách nghiêm túc những quy định của pháp luật.
Mặc dù công tác thanh tra trong suốt 70 năm qua đã thu được những kết quả
quan trọng là cơ quan tham mưu đắc lực cho Đảng, Nhà nước đề ra các chủ trương
chính sách pháp luật đồng thời kiến nghị xóa bỏ các chính sách không còn phù hợp
với thực tế. Tuy nhiên, cuộc sống luôn vận động đi lên theo chiều hướng phát triển
nên đặt ra nhiều thách thức mới cho việc kiện toàn, đổi mới công tác thanh tra bảo
đảm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra mà chúng ta phải có
những giải pháp phù hợp với thực tế hiện nay
107 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 543 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động thanh tra lao động – thương binh và xã hội ở tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạt yêu cầu, nội dung kết luận còn chung chung, không rõ
ràng nhất là việc xác định trách nhiệm của các cá nhân có liên quan, các kiến nghị
xử lý về con người. do vậy việc quy kết không có lập luận, thiếu cơ sở bằng chứng
thuyết phục, thậm chí có trường hợp không kết luận cụ thể, với những kết luận
thanh tra đó sẽ làm giảm hiệu quả của việc thực hiện kiến nghị thanh tra. Một số
trường hợp do năng lực, trình độ, ý thức của cán bộ, thanh tra viên, bộ phận giúp
việc còn yếu cho nên việc xây dựng báo cáo kết quả thanh tra sơ sài, nội dung
không đầy đủ, thiếu chặt chẽ, làm ảnh hưởng tới việc ban hành Kết luận thanh tra.
Việc chỉ đạo, theo dõi, nắm tình hình về các cuộc thanh tra của người ra
quyết định thanh tra không sâu sát, thiếu thường xuyên, liên tục. Trong khi đó nhiều
cuộc thanh tra phức tạp nhất là trong lĩnh vực chính sách người có công, liên quan
đến nhiều lĩnh vực quản lý chuyên sâu, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, sự
việc diễn ra trong thời gian dài. Vì vậy, trong khoảng thời gian nhất định, người ra
quyết định thanh tra không thể nắm bắt hết toàn bộ diễn biến, kết quả thanh tra, từ
đó để đưa ra kết luận xác đáng. Cá biệt có trường hợp người ra quyết định chỉ am
hiểu về một hoặc một số lĩnh vực, năng lực có hạn chế nhất định nên không thể đưa
ra kết luận đầy đủ, chính xác, khách quan. Một số trường hợp không tiên liệu được
tính chất phức tạp của vụ việc để chỉ đạo, hướng dẫn Đoàn thanh tra xin ý kiến của
các cơ quan, tổ chức hữu quan hoặc yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình làm rõ
vấn đề phục vụ cho việc kết luận, xử lý.
73
Thứ năm: việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan:
Trên thực tế, trong các nội dung thanh tra có những nội dung yêu cầu sâu về
chuyên môn kỹ thuật cần có sự tham khảo ý kiến của các cơ quan quản lý chuyên
ngành trước khi ban hành chính thức kết luận thanh tra. Do đó người ra kết luận
thanh tra phải mất thời gian để trao đổi làm việc với các cơ quan hữu quan. Trên
thực tế không ít những trường hợp các cơ quan được tham khảo ý kiến không phối
hợp chặt chẽ với cơ quan thanh tra nên ý kiến tham gia chưa nêu rõ chính kiến của
mình thậm chí có những trường hợp có xu hướng “ bảo vệ” cho đối tượng thanh tra.
Những trường hợp này làm khó khăn cho người ra quyết định thanh tra đưa ra kết
luận, kiến nghị xử lý.
74
Tiểu kết chương 2
Trải qua những thay đổi, biến động về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ qua các
thời kỳ, Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi với những
thành tựu và kết quả hoạt động đạt được qua các thời kỳ đã khẳng định được vị trí,
vai trò của một cơ quan thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thời
kỳ đổi mới, hội nhập kinh tế, Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội nói
chung và Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi nói
riêng vẫn bộc lộ nhiều tồn tại, thiếu sót cả về tổ chức và hoạt động đòi hỏi phải có
giải pháp khắc phục và đổi mới nhằm tăng hiệu quả, hiệu lực thanh tra góp phần
tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực Lao động - Thương
binh và Xã hội nói riêng, quản lý hành chính nhà nước nói chung. Dù cho nguyên
nhân của những tồn tại là gì thì những giải pháp có tính khả thi khắc phục những
tồn tại đó được đưa ra trong thời điểm này là hoàn toàn cần thiết.
75
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG THANH
TRA LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Phương hướng bảo đảm hoạt động thanh tra lao động – thương binh và xã
hội ở tỉnh Quảng Ngãi
3.1.1 Nâng cao nhận thức
Quán triệt sâu sắc các chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về chính sách, định
hướng đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra và công tác thanh tra nói chung. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định: Tăng cường tổ chức và hoạt
động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu
lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII cũng nêu rõ: "Khắc phục tình trạng nhiều đoàn kiểm tra, thanh tra
chồng chéo lên nhau, gây phiền hà và tốn kém cho cơ sở".
Quán triệt quan điểm của Đảng về công tác thanh tra, kiểm trong thời gian
tới công tác thanh tra cần được đổi mới theo các hướng sau đây:
Đổi mới và tăng cường công tác thanh tra của Chính phủ và các cơ quan
hành pháp; củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan Thanh tra nhà
nước; có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối với
doanh nghiệp; kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy
định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại; thanh tra,
kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách
nhà nước, tài sản công, tài chính đảng, đoàn thể, tài chính các doanh nghiệp nhà
nước, các quỹ do người dân đóng góp và do nước ngoài tài trợ.
Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, tập trung giải quyết khiếu kiện
của nhân dân, coi đó là công cụ quan trọng để đảm bảo hiệu lực quản lý của Nhà
nước, quyền làm chủ của người dân, thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội. Phân định rõ
hơn trách nhiệm của cơ quan Thanh tra và Tòa hành chính trong việc giải quyết
khiếu kiện của dân.
76
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra cần tiến hành đồng bộ với cải cách
bộ máy nhà nước, trên cơ sở phân định thẩm quyền trách nhiệm giữa các cấp chính
quyền, cơ quan quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực, giữa các cơ quan có chức
năng thanh tra, kiểm tra, điều tra ở các cấp trung ương và địa phương.
Đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế
từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị thường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với chức năng quản lý nhà nước trong điều kiện mới. Xây dựng
cơ chế tự kiểm tra trong nội bộ cơ quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm
thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, của cấp chính quyền đối với mọi
cơ quan, tổ chức trên địa bàn và lãnh thổ.
Thiết lập hệ thống tổ chức thanh tra tinh gọn, có chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn rõ ràng; tăng thẩm quyền xử lý hành chính, kinh tế tại chỗ đối với các hành vi
vi phạm pháp luật; bảo đảm cho hoạt động thanh tra chỉ tuân theo pháp luật; kết
hợp lãnh đạo tập trung thống nhất theo ngành với chỉ đạo của cấp ủy và chính
quyền địa phương đối với các tổ chức Thanh tra nhà nước.
Xây dựng đội ngũ công chức thanh tra có phẩm chất đạo đức, có năng lực,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới; xây dựng hệ thống pháp luật về thanh
tra, khiếu nại, tố cáo phù hợp với tiến trình cải cách hành chính nhà nước.
Cần có quy chế tạo thuận lợi để người dân trình bày ý nguyện, thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo của mình; tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của cấp
trên đối với nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp dưới.
3.1.2 Nâng cao vị trí, vai trò của lực lượng thanh tra Lao động - Thương binh và
Xã hội
VI Lê Nin đã khẳng định: “ quản lý đồng thời phải có Thanh tra, quản lý và
Thanh tra là một chứ không phải là hai”. Đây là nguyên tắc cơ bản đầu tiên để xác
định vị trí, vai trò của công tác thanh tra, điều đó có nghĩa rằng khi đề cập đến công
tác thanh tra thì không thể không đề cập đến vấn đề quản lý nói chung và quản lý
nhà nước nói riêng. Như vậy, việc xác định không rõ chức năng dẫn đến hoạt động
thanh tra kém hiệu quả. Nếu chỉ xác định thanh tra chỉ là công cụ của quản lý nhà
77
nước thì sẽ làm giảm tính gắn kết giữa quản lý với thanh tra. Chỉ khi xác định thanh
tra là một chức năng của quản lý thì mới có thể đề cập đến hiệu quả thực tiễn của
hoạt động thanh tra một cách toàn diện.
Quán triệt chủ trương của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ và để công tác
Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội đáp ứng được đòi hỏi của giai đoạn
mới, góp phần hơn nữa vào việc thực hiện có hiệu quả mọi nhiệm vụ được giao,
hướng đi trước mắt và lâu dài là:
Cải cách toàn diện hệ thống Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội
theo hướng thanh tra chuyên ngành và thanh tra viên phụ trách vùng, áp dụng các
quy định về thanh tra lao động theo thông lệ quốc tế vào việc cơ cấu lại và cải tiến
công tác thanh tra của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cả về nội dung
hoạt động và bộ máy tổ chức. Các cuộc thanh tra không chỉ có mục tiêu là phát
hiện, xử lý qua thanh tra mà còn phải hướng dẫn, phòng ngừa, kiến nghị, chấn
chỉnh các sai phạm và tư vấn giúp đối tượng thanh tra tự giác tuân thủ pháp luật, đó
là mục tiêu đạt được của quản lý nhà nước qua công tác thanh tra, kiểm tra.
Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống thanh tra ngành Lao động
- Thương binh và Xã hội theo hướng thành một hệ thống Thanh tra độc lập hoạt
động trực tuyến từ trên xuống dưới. Đây là một nhiệm vụ quan trọng để hệ thống
thanh tra lao động thực sự hoạt động có hiệu quả ít phụ thuộc vào cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương và phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Xây dựng một cơ cấu tổ chức thanh tra thuộc ngành Lao động – Thương
binh và Xã hội theo hướng tinh gọn, có thực quyền và gắn chặt với phạm vi quản lý
của ngành.
3.1.3Tập trung các điều kiện để bảo đảm hoạt động Thanh tra Lao động –
Thương binh và Xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Hoạt động thanh tra được thực hiện trực tiếp bởi đội ngũ thanh tra viên. Vì
vậy chất lượng của đội ngũ thanh tra viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực
tế của hoạt động thanh tra. Chất lượng của đội ngũ thanh tra viên được thể hiện trên
hai phương diện chủ yếu là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức tác phong,
78
lối sống. Quan tâm nâng cao chất lượng, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ,
công chức thanh tra, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công
chức thanh tra, nhất là về kỹ năng tác nghiệp thanh tra, kỹ năng tham mưu kết luận
và kiến nghị xử lý vi phạm được phát hiện qua thanh tra. Chú trọng việc giáo dục
chính trị - tư tưởng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức
thanh tra; thực hiện tốt văn hóa thanh tra; xây dựng người cán bộ, công chức thanh
tra có đạo đức, có văn hóa, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Khi phát hiện
cán bộ thanh tra có biểu hiện lệch lạc, vi phạm nguyên tắc trong hoạt động thanh tra
thì phải có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, nếu vi phạm pháp luật thì phải xử lý
nghiêm. Các cơ quan thanh tra tích cực, gương mẫu triển khai tổ chức thực hiện
quy định và các giải pháp về phòng, chống tham nhũng trong hoạt động thanh tra.
Ngành Thanh tra cũng cần hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ, công chức
nhằm loại bỏ những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín,
quy định rõ trách nhiệm công vụ.
Phát triển nguồn nhân lực theo hướng xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra
chất lượng cao, có tâm huyết với công tác thanh tra. Mục tiêu phấn đấu đến năm
2020 tất cả cán bộ thanh tra có trình độ đại học, tăng số lượng cán bộ thanh tra có
trình độ sau đại học so với hiện nay. Đảm bảo cán bộ thanh tra có trình độ tương
đương với thanh tra lao động các nước trong khu vực. Xây dựng đội ngũ cán bộ
thanh tra chất lượng cao, có khả năng trở thành những chuyên gia trong lĩnh vực
thanh tra lao động. Nâng cao trình độ kiến thức về pháp luật, kỹ thuật, tài chính,
ngoại ngữ, tin học cho cán bộ thanh tra, đặc biệt là thanh tra viên phụ trách vùng.
Tăng cường trang thiết bị chuyên dụng phục vụ cho công tác thanh tra
chuyên ngành lao động theo đề án nâng cao năng lực thanh tra Lao động – Thương
binh và Xã hội đến năm 2020.
3.2. Những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm hoạt động thanh tra Lao động –
Thương binh và Xã hội ở tỉnh Quảng Ngãi
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
79
Đây là những cơ sở pháp lý để Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội
tiến hành các hoạt động thanh tra. Hệ thống pháp luật này khi chưa hoàn thiện có
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội.
Về pháp luật lao động: Đảm bảo quyền thỏa thuận của các bên trong quan hệ
lao động trên cơ sở của pháp luật lao động và khuyến khích những thỏa thuận bảo
đảm cho người lao động có những điều kiện thuận lợi hơn và khuyến khích các
doanh nghiệp tạo nhiều việc làm cho xã hội, khuyến khích các hoạt động đào tạo
nghề và giới thiệu việc làm. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật lao động.
Hệ thống pháp luật về chính sách xã hội: nói chung đã được xây dựng phù
hợp với những chủ trương, định hướng lớn của Đảng, cụ thể là chính sách ưu đãi
người có công với cách mạng, cứu trợ xã hội, xóa đói, giảm nghèo đồng thời cũng
phù hợp với định hướng duy trì những giá trị nhân đạo truyền thống của nền văn
hóa Việt Nam. Tuy nhiên một số chính sách chưa được thể chế hóa kịp thời và một
số chính sách được ban hành nhưng thiếu sự công bằng và tính khả thi trên thực tế
như chính sách ưu đãi đối với nạn nhân chiến tranh, người có công với nước, Bà mẹ
Việt Nam anh hùng. Việc hoàn thiện pháp luật về chính sách xã hội cần được tiến
hành theo quan điểm: nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, giúp đỡ có hiệu
quả người được hưởng chính sách xã hội; xây dựng các nghị định quy định chi tiết
và thi hành các luật và pháp lệnh để tạo cơ chế thực hiện các văn bản đó; rà soát,
kiến nghị sửa đổi, bổ sung những văn bản không khả thi; quy định rõ ràng trách
nhiệm của các chủ thể để giúp đỡ có hiệu quả người được hưởng chính sách xã hội
theo hướng xã hội hóa công tác này.
Ban hành và hoàn thiện pháp luật thực hiện Chương trình quốc gia về phòng
chống các tệ nạn xã hội như: mại dâm, ma túy, đại dịch HIV/AIDS. Xây dựng các
cơ chế thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo.
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo: Xác định rõ trách
nhiệm của thủ trưởng các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
80
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính trong
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra và Thanh tra Lao động - Thương binh
và Xã hội:
Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: " Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân." [2] và theo Điều 8 Hiến pháp 2013: "Nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ" [2]. Để tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, một trong những yêu cầu quan trọng là phải có hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, đủ mạnh để làm công cụ quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vì vậy, từng
bước hoàn thiện pháp luật thanh tra là nhiệm vụ tất yếu nhằm đưa công tác thanh tra
hoạt động có hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội.
Hệ thống pháp luật về thanh tra bao gồm các quy định của pháp luật về vị trí,
chức năng, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức thanh tra các cấp và
thanh tra viên; phạm vi hoạt động; trình tự, thủ tục, thời hạn thanh tra; các quy định
về quyền, nghĩa vụ của đối tượng thanh tra; các quy định về tổ chức, biên chế và cơ
chế hoạt động của thanh tra nhà nước; các quy định về chế tài và biện pháp đảm
bảo thi hành quyết định xử phạt
Một là, sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra theo hướng quy định chi tiết về thanh
tra chuyên ngành:
Luật Thanh tra năm 2010 được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật; cũng như về tổ chức và hoạt động của lực lượng thanh tra
ở Việt Nam theo hướng phát triển thành lực lượng chuyên nghiệp; hoạt động hiệu
lực, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng quản lý hành chính nhà nước, tằng
cường bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, qua nghiên
cứu thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế đã nêu tại Chương 2 đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra. Để khắc phục
81
những bất cập, hạn chế thì cần phải: Công khai, minh bạch một cách thực sự hoạt
động thanh tra; nâng cao chất lượng kết luận, kiến nghị của thanh tra; tăng cường sự
giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân trong
việc thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra. Tuy nhiên, giải pháp quan trọng có tính
chất lâu dài đó là cần sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra năm 2010 cũng như các văn
bản pháp luật hướng dẫn thi hành (các nghị định của Chính phủ, thông tư của Thanh
tra Chính phủ), các văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động thanh tra.
Việc sửa đổi, bổ sung các văn bản trên cần tập trung vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, quy định rõ ràng, cụ thể hơn về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
pháp lý của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp với cơ quan
thanh tra trong việc phê duyệt chương trình thanh tra, ra quyết định thanh tra, kết
luận, kiến nghị thanh tra cũng như việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện kết luận, kiến
nghị ấy; đồng thời phải tôn trọng, bảo đảm cho cơ quan thanh tra hoạt động đúng
pháp luật.
Thứ hai, cần quy định về tổ chức, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan thanh
tra có tính độc lập cao hơn so với quy định hiện hành trong Luật Thanh tra năm
2010 để tránh việc cơ quan thanh tra phụ thuộc quá nhiều vào Thủ trưởng cơ quan
hành chính nhà nước cùng cấp như hiện nay. Theo Luật Thanh tra, Thanh tra các
Bộ, ngành thuộc quyền quản lý trực tiếp của Thủ trưởng cùng cấp, nghĩa là Thanh
tra Bộ chịu sự quản lý của Bộ trưởng, Thanh tra Sở chịu sự quản lý của Giám đốc
Sở. Giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở chỉ có mối quan hệ về chỉ đạo nghiệp vụ
nên hiệu lực công tác thanh tra bị hạn chế do không tạo được sức mạnh tổng hợp
của hệ thống nên việc thực hiện không thống nhất. Vì vậy, Luật Thanh tra nên được
sửa đổi quy định cụ thể về hệ thống thanh tra chuyên ngành theo hướng thanh tra
trực tuyến mà hiện nay nhiều nước đang thực hiện có hiệu quả.
Thứ ba, cần quy định việc thành lập Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục,
Thanh tra Chi cục thuộc Sở có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể để đảm
bảo điều kiện hoạt động.
82
Thứ tư, quy định cụ thể hơn về đối tượng thanh tra, nội dung thanh tra mà
thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra; cũng như đối tượng, nội dung mà thanh
tra hành chính tiến hành thanh tra kinh tế - xã hội và thanh tra việc chấp hành pháp
luật để tránh chồng chéo hoặc bỏ lọt các vi phạm không thanh tra.
Thứ năm, ban hành các chính sách quy định hành lang pháp lý cho hoạt động
thanh tra viên phụ trách vùng và tổ chức thanh tra ngành. Ngoài việc quy định hệ
thống thanh tra chuyên ngành theo hướng trực tuyến, đối với những ngành chưa có
điều kiện về số lượng, chất lượng cán bộ thanh tra và có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật
phục vụ cho công tác thanh tra, Luật Thanh tra nên quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn cho thanh tra viên phụ trách vùng để hạn chế được những nhược điểm do
phương thức tổ chức thanh tra theo đoàn.
Thứ sáu, ban hành nghị định quy định về hoạt động của thanh tra chuyên
ngành theo hướng người ra quyết định thanh tra có thể ủy quyền cho Trưởng đoàn
thanh tra hoặc thanh tra viên lập báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra và
công bố kết luận thanh tra tại doanh nghiệp. Quy định như vậy vừa đảm bảo đánh
giá chính xác việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra
thuộc nội dung thanh tra; vừa đảm bảo trình tự, thời gian, nội dung kết luận thanh
tra; vừa xác định rõ tính chất, mức độ, phạm vi, nguyên nhân, trách nhiệm và áp
dụng các biện pháp xử lý vì Trưởng đoàn thanh tra là người sâu sát nhất đối với nội
dung thanh tra, là người phải chịu trách nhiệm về kết quả và kết luận thanh tra. Tại
Nghị định này cũng cần quy định rõ thời hạn của cuộc thanh tra chuyên ngành, thời
hạn viết báo cáo và kết luận của cuộc thanh tra chuyên ngành cho phù hợp.
Thứ bảy, bổ sung các quy định về chế tài xử lý, cưởng chế đối với đối tượng
không thi hành kết luận, kiến nghị xử lý sau thanh tra. Hiện nay, tại các văn bản
mới chỉ quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của tổ chức thanh tra và
thanh tra viên nhưng chưa có quy định cụ thể về quyền hạn của các tổ chức thanh
tra và thanh tra viên trong việc cưỡng chế thi hành nhằm đảm bảo thực hiện các
kiến nghị trong kết luận thanh tra nên phần nào đã làm giảm đi hiệu quả và hiệu lực
của công tác thanh tra. Chính vì vậy, cần bổ sung quy định cụ thể về quyền hạn của
83
thanh tra ở khía cạnh cưỡng chế thi hành nhằm đảm bảo thực hiện các kết luận
thanh tra. Đồng thời có quy định về chế tài xử lý cụ thể đối với các hành vi chống
đối, cản trở thanh tra viên hoặc đoàn thanh tra khi thi hành công vụ và chế tài xử lý
đối với đối tượng không thi hành quyết định thanh tra, kết luận, kiến nghị xử lý sau
thanh tra. Điều này sẽ giúp đoàn thanh tra và các thanh tra viên yên tâm thực hiện
quyền hạn và nhiệm vụ của mình, giúp cho đoàn thanh tra kết luận sự việc một cách
thật sự công bằng và đảm bảo cho các kết luận thanh tra được thực hiện nghiêm
chỉnh.
Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ngày 24/4/2013 của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Lao độn - Thương binh và Xã hội theo
hướng:
Bổ sung Thanh tra Bộ nhiệm vụ: Nghiên cứu, xây dựng các biện pháp kỹ
thuật về thanh tra của ngành, các vấn đề pháp lý trong công tác thanh tra ngành, áp
dụng các biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của thanh tra ngành
và việc bổ nhiệm, cấp thẻ thanh tra viên chuyên ngành Lao động - Thương binh và
Xã hội trong toàn quốc.
Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội ở Trung ương có thanh tra Cục
và được tổ chức đến cấp huyện tại một số thành phố lớn để tăng cường lực lượng
thanh tra trong toàn quốc.
Thu hẹp phạm vi hoạt động thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ tại các
địa phương nhằm hạn chế việc thanh tra, kiểm tra chồng chéo với hoạt động của
Thanh tra Sở. Nâng cao vai trò của thanh tra viên phụ trách vùng trong công tác chỉ
đạo, hướng dẫn và quản lý hoạt động thanh tra trong địa bàn vùng mình phụ trách;
Bổ sung nhiệm vụ của Thanh tra sở: phối hợp với các ngành, ban tại địa
phương trong công tác an toàn, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội, công đoàn, các
tổ chức đoàn thể và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc
trẻ em nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội;
84
Trong lĩnh vực lao động, thanh tra tương đối độc lập với cơ quan quản lý nhà
nước về lao động, do vậy, chỉ để Thanh tra Sở tiến hành thanh tra chủ yếu trong
lĩnh vực này. Ngược lại, lĩnh vực Người có công với cách mạng có tính chất gắn
liền với hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về thương binh và xã hội trong
công tác xét duyệt, chi trả ngân sách nhà nước, do vậy cần có sự tác động của
Thanh tra cấp trên đối với cơ quan quản lý thương binh và xã hội cấp dưới để
chống tiêu cực, tham nhũng;
Tăng mức phạt trong Nghị định 95/2013/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung một số điều
của Nghị định số 88/2015/NĐ-CP :
Chế tài xử phạt hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động được
quy định tại Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2013 được sửa đổi bổ
sung bằng Nghị định số 88/2015/NĐ-CP của Chính phủ tuy đã góp phần vào việc
thực hiện pháp luật lao động nhưng do các quy định trong Nghị định này chưa sát
với thực tế nên nhiều điểm không còn phù hợp, đòi hỏi trong thời gian tới phải tiến
hành bổ sung, sửa đổi về nâng mức xử phạt cho mỗi hành vi vi phạm. Quy định như
hiện nay là còn thấp, hạn chế việc răn đe các doanh nghiệp vi phạm pháp luật lao
động. Ngoài ra, còn rất nhiều hành vi vi phạm pháp luật lao động chưa được điều
chỉnh, khiến cho thực tế khi đi thanh tra có phát hiện vi phạm nhưng không có chế
tài để răn đe, trừng phạt.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực lao động theo Nghị định số
119/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính phủ, quy định chi tiết một số điều
của Bộ luật Lao động, Luật Dạy nghề và Luật người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng về khiếu nại, tố cáo đã được thực hiện nhưng đến nay
vẫn chưa có Thông tư hướng dẫn thi hành.
Xây dựng mới một số văn bản pháp luật về Thanh tra Lao động- Thương binh
và Xã hội:
Xây dựng lực lượng thanh tra chuyên ngành về an toàn, vệ sinh lao động theo
quy định tại Luật An toàn, vệ sinh lao động, nhằm bổ sung lực lượng và hỗ trợ công
tác thanh tra an toàn, vệ sinh lao động của hệ thống thanh tra lao động.
85
Đề xuất xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 39/2013/NĐ-CP theo
hướng: Quy định cụ thể về nhiệm vụ giám sát đoàn thanh tra, theo dõi, đôn đốc, xử
lý kiến nghị thanh tra đối với thanh tra ngành; Bổ sung Cục An toàn lao động vào
danh sách các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Bổ
sung chức năng, nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp luật
về trách nhiệm tham gia bảo hiểm y tế của người sử dụng lao động, người lao động
và đối tượng do Bộ LĐTBXH quản lý.
Quy định cụ thể quy trình tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành Lao
động – Thương binh và Xã hội và việc sử dụng các hình thức hỗ trợ hoạt động
thanh tra như Phiếu tự kiểm tra, Bảng kiểm....
3.2.2 Đổi mới tổ chức lực lượng thanh tra Lao động – Thương binh và Xã hội ở
tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
Cơ sở pháp lý:
Ngày 07/2/2012 tại Nghị quyết số 06/NQ-CP, Chính phủ ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2011-2016, theo đó Chính phủ giao Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội xây dựng Đề án nâng cao năng lực Thanh tra
ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đến năm 2020.
Đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn 18 Công ước của ILO, trong đó có 06 Công
ước cơ quan cụ thể: Công ước số 81 về Thanh tra lao động trong công nghiệp và
thương mại; Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao đông nam và lao động
nữ; Công ước số 111 về chống phân biệt đối xử trong công việc; Công ước số 29 về
xoá bỏ lao động cưỡng bức; Công ước số 182 về xoá bỏ hình các hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất; Công ước số 138 về độ tuổi tối thiểu được nhận vào làm việc. Và
một số công ước quốc tế khác như: Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân
biệt vói phụ nữ (CEDAW); Công ước Quốc tế về quyền trẻ em; Công ước quốc tế
về quyền của người khuyết tật.
Để thực hiện và thúc đẩy việc tuân thủ các cam kết khi gia nhập hoặc phê
chuẩn các công ước nêu trên, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao thanh
86
tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội cần phải nâng cao năng lực đáp ứng
tiến trình hội nhập.
Ngày 11/11/2013 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2155/QĐ-
TTG phê duyệt Đề án nâng cao năng lực thanh tra ngành Lao động – Thương binh
và Xã hội đến năm 2020. Thực hiện Quyết định trên, ngày 28/7/2015 UBND tỉnh
Quảng Ngãi ban hành Quyết định số 227/QĐ-UBND ban hành Kế hoạch triển khai
thực hiện Đề án nâng cao năng lực thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã
hội đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi xác định:
Thực hiện kiện toàn bộ máy, nghiên cứu hình thành mô hình phân công
thanh tra viên chuyên trách, phụ trách theo từng lĩnh vực (mỗi thanh tra viên phụ
trách tối đa 02 lĩnh vực); đảm bảo số lượng biên chế theo vị trí việc làm và cơ cấu
ngạch công chức của Sở Lao động – TB&XH đã được UBND tỉnh phê duyệt để
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Số lượng biên chế đến năm 2020 từ 10-15 biên
chế. Đồng thời, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ hằng
năm và 05 năm cho đội ngũ thanh tra viên, công chức thanh tra, đảm bảo điều kiện
về cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật cho đội ngũ thanh tra viên, công chức thanh
tra, đến năm 2020: 100% Thanh tra viên được trang bị máy tính xách tay, được
trang bị và sử dụng thành thạo các thiết bị chuyên dụng và phương tiện đi lại phục
vụ hoạt động công tác thanh tra.
Đề xuất mô hình tổ chức trong tương lai:
Có thể đưa ra hai mô hình tổ chức mới của lực lượng Thanh tra Lao động -
Thương binh và Xã hội như sau:
Mô hình thứ nhất: Theo mô hình này, lực lượng thanh tra Lao động -Thương
binh và Xã hội được tổ chức trực tuyến từ Trung ương đến địa phương đến cấp
quận huyện. Thanh tra Bộ là cơ quan trung ương quyết định về tổ chức, hoạt động
của thanh tra các cấp và bố trí biên chế, nhân sự phù hợp với đặc điểm của từng
vùng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thanh tra Sở, thanh tra quận huyện chỉ
chịu trách nhiệm hoạt động và báo cáo trước Thanh tra Bộ. Thanh tra Bộ phải chịu
hoàn toàn các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của cả hệ
87
thống Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội trước Bộ trưởng Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội. Mối quan hệ giữa Bộ và Sở vẫn là chỉ đạo về chuyên môn,
nghiệp vụ. Mối quan hệ giữa Giám đốc Sở và thanh tra chuyên ngành: phối hợp
thực hiện. Mối quan hệ giữa Giám đốc Sở và thanh tra hành chính: thành lập ở mỗi
Sở một bộ phận thanh tra hành chính phụ thuộc vào Giám đốc Sở về mọi tổ chức,
hoạt động... để giúp Giám đốc Sở thực hiện quản lý, điều hành trong nội bộ với tư
cách cơ quan chuyên môn ở tỉnh và phụ thuộc vào Thanh tra tỉnh mà không phụ
thuộc về bất kỳ nội dung gì của thanh tra chuyên ngành.
Ưu điểm: thống nhất và thuận lợi cho tổ chức và thực hiện công tác thanh tra
của ngành, hiệu quả thanh tra tăng cao.
Hạn chế: Đây là vấn đề thay đổi cả tư duy, nhận thức về tổ chức bộ máy vì
phải thành lập ở tất cả các tỉnh, thành phố và cả một số quận huyện một bộ phận
thanh tra chuyên ngành trực thuộc một tổ chức thống nhất ở Trung ương; tốn chi
phí về xây dựng cơ sở vật chất và phương tiện đi lại và cả nhân sự, tài chính.
Mô hình thứ hai: Mô hình này giống mô hình 1 ở cơ chế hoạt động và phân
định chức năng, nhiệm vụ giữa Thanh tra Bộ và thanh tra vùng.
Khác mô hình 1 ở chỗ: bộ máy gọn nhẹ hơn, thanh tra địa phương không tổ
chức theo địa giới hành chính mà chia thành các vùng. mỗi vùng gồm một số tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có những đặc điểm tự nhiên, xã hội giống nhau.
Thanh tra Bộ chỉ đạo thống nhất đối với thanh tra vùng. Đứng đầu mỗi vùng là một
trưởng vùng có văn phòng làm việc và nhân sự, phương tiện làm việc, đi lại. Các
vùng hoạt động và chịu trách nhiệm, báo cáo đối với Thanh tra Bộ.
Nhược điểm không gắn với quản lý theo lãnh thổ, không phối hợp có hiệu
quả và hợp lý với những chính sách và quản lý của địa phương.
Ưu điểm: Khắc phục được những nhược điểm của mô hình 1.
Trong điều kiện cải cách hành chính hiện nay, việc áp dụng mô hình 2 là hợp
lý và có khả thi vì không tốn nhân lực, ít tốn kinh phí hơn, bộ máy thanh tra lại gọn
nhẹ và hoạt động linh hoạt, hiệu quả. Tuy nhiên, trong lộ trình đổi mới tổ chức của
88
Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội, mô hình 1 là mô hình cần hướng tới
để thực hiện trong tương lai.
3.2.3 Bảo đảm hiệu quả hoạt động thanh tra lao động – thương binh và xã hội
Phân cấp thanh tra: Theo cơ chế quản lý nhà nước về lao động từ Trung
ương đến địa phương trước mắt cần thiết định rõ thẩm quyền quản lý theo từng lĩnh
vực: an toàn lao động, vệ sinh lao động, chính sách lao động cho Thanh tra Bộ,
Thanh tra Sở và thanh tra quản lý vùng để nâng cao chất lượng các cuộc thanh tra
và từ đó có căn cứ đánh giá hiệu quả hoạt động thanh tra một cách khách quan
Phạm vi thanh tra và tần suất thanh tra: Những năm tới đây sẽ tăng dần tần
suất thanh tra, chú trọng ở những khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp đặc biệt là
doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Phạm vi thanh tra tập trung vào chiều sâu, có trọng
điểm như các khu công nghiệp VSIP. Tịnh Phong, Dung Quất, các doanh nghiệp có
yếu tố nước ngoài
3.2.4 Bảo đảm năng lực Thanh tra Lao động- Thương binh và Xã hội
Tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thanh tra viên ngành
Lao động - Thương binh và Xã hội có năng lực chuyên môn, tuân thủ pháp luật,
đạo đức công vụ
* Đối với thanh tra trong lĩnh vực lao động:
Việc xây dựng một chiến lược huấn luyện toàn diện cho thanh tra lao động
và các đối tác xã hội khác lấy chủ đề "an toàn vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện
lao động" làm nội dung chính, trên cơ sở đó lồng ghép các chủ đề về thanh tra lao
động hợp nhất, đối thoại xã hội, nhằm tiếp tục bảo đảm năng lực của thanh tra lao
động và nhận thức của các đối tác xã hội, người lao động về sự hợp tác với thanh
tra lao động và về vấn đề an toàn vệ sinh lao động thông qua huấn luyện là một đòi
hỏi hết sức cần thiết. Vì mục tiêu cuối cùng của hoạt động thanh tra, cũng như mục
tiêu cuối cùng của huấn luyện là cải thiện điều kiện lao động, giảm thiểu tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp và cải thiện quan hệ lao động. Nội dung của chính sách
huấn luyện thanh tra lao động bao gồm:
89
Đào tạo ban đầu: Đào tạo ban đầu được thực hiện cho các thanh tra viên
mới tuyển dụng. Đào tạo sẽ bao gồm những lĩnh vực như hiểu biết luật pháp, những
kỹ thuật ngăn ngừa rủi ro, những yêu cầu của an toàn lao động và sức khỏe nghề
nghiệp và bảo hộ lao động và đào tạo các kỹ năng xã hội.
Tuy nhiên, các thanh tra viên trong cơ quan thanh tra lao động hiện nay chỉ
được đào tạo một lĩnh vực chuyên môn. Vì vậy để có thể thực hiện được đầy đủ các
chức năng thanh tra chính sách lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, các
thanh tra viên cần được đào tạo lần đầu về các chủ đề có liên quan đến công việc
của họ một cách đồng bộ. Dựa trên kết quả của những cuộc điều tra và một số dự án
do ILO và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện cho thấy những nội
dung huấn luyện thanh tra lần đầu nên bao gồm: Thanh tra lao động trong nền kinh
tế hội nhập; phương pháp thanh tra; kỹ năng xã hội trong hoạt động thanh tra lao
động; pháp luật lao động; Thanh tra chính sách lao động; Thanh tra an toàn lao
động; Thanh tra vệ sinh lao động.
Đào tạo chuyên sâu: Các chương trình đào tạo chuyên sâu sau thời gian tập
sự là vừa học tập vừa làm để chuẩn bị cho thanh tra viên sẵn sàng đảm trách những
nhiệm vụ mới trong những lĩnh vực mới, hay những ứng dụng kỹ thuật mới nhất.
Để đảm bảo sử dụng tối ưu những chương trình đào tạo như vậy và duy trì đào tạo
cập nhật cho thanh tra viên về những ứng dụng mới nhất là rất cần thiết.
Đối với thanh tra trong lĩnh vực người có công và xã hội và các lĩnh vực
khác:
Nội dung huấn luyện ban đầu phải bao gồm việc học tập các chính sách xã
hội và vận dụng chính sách trong thực tế của các cấp, các ngành. Nội dung tiếp theo
là học các kỹ năng thanh tra cơ bản bao gồm từ khâu lập kế hoạch thanh tra, tiến
hành thanh tra đến khâu kết thúc thanh tra vì ở lĩnh vực này, người thanh tra viên
phải tiếp xúc với đối tượng thanh tra là các cơ quan và đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước.
Thực hiện các chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ thanh tra viên:
90
Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội, ngoài khoản lương cơ bản và
phụ cấp trách nhiệm, chế độ trang phục theo quy định cần có chế độ đãi ngộ khác
như: trang bị phương tiện đi lại, phương tiện liên lạc, phương tiện nơi cư trú khi đi
thanh tra ở địa phương khác lâu ngày.
Khi tổ chức thanh tra được thành lập theo hướng trực tuyến, hoặc hoạt động
theo vùng, thì phương tiện làm việc như phòng làm việc, nơi nghỉ ngơi, chế độ đãi
ngộ đối với gia đình thanh tra viên và phương tiện đi lại phải được cân nhắc tới.
3.2.5 Tăng cường mối quan hệ phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác trong hoạt
động giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động thanh tra lao động – thương
binh và xã hội
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi là cơ quan quản lý
nhà nước về lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội, ngành Lao động - Thương
binh và Xã hội trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình
muốn đạt được hiệu quả cao phải có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban
ngành đoàn thể ở Trung ương và địa phương.
Riêng đối với Thanh Sở cần có sự phối hợp với các cơ quan liên quan trong
việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách lao động, chính sách đối với
người có công và các chính sách xã hội khác.
Phối hợp chặt chẽ với tổ chức Liên đoàn Lao động tỉnh, Bảo hiểm xã hội tỉnh
trong việc thực hiện pháp luật lao động:
Trước hết Thanh tra Sở cần có sự phối hợp chặt chẽ với tổ chức công đoàn
các cấp, Liên đoàn Lao động tỉnh, Bảo hiểm xã hội tỉnh. Tổ chức Công đoàn với
chức năng là đại diện hợp pháp cho người lao động sẽ tham gia hoạt động tự kiểm
tra và phối hợp thanh tra thực hiện pháp luật lao động, đồng thời có sự gắn bó chặt
chẽ trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và giải quyết các cuộc
đình công, các tranh chấp lao động.
Trong lĩnh vực lao động này, cần phải thiết lập và tăng cường cơ chế ba bên
một cách chặt chẽ và hiệu quả. Tổ chức hội nghị ba bên thường xuyên định kỳ hoặc
đột xuất khi cần thiết nhằm xây dựng chương trình kế hoạch phối hợp hàng năm
91
giữa các bên, kiểm điểm việc thực hiện chương trình, kế hoạch đã đề ra đồng thời
đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính
sách về lao động cho phù hợp.
Tăng cường phối hợp ba bên trong việc thanh tra, kiểm tra trọng điểm những
khu vực, vùng có nhiều doanh nghiệp có nguy cơ vi phạm pháp luật lao động, đồng
thời xử lý hoặc kiến nghị xử lý những hành vi vi phạm pháp luật lao động nghiêm
trọng lấy đó là bài học kinh nghiệm, răn đe hiện tượng cố ý vi phạm pháp luật lao
động.
Để làm lành mạnh quan hệ lao động, tổ chức công đoàn cần phải tích cực
tham gia xây dựng chế độ, chính sách liên quan đến quyền lợi người lao động, cập
nhật những thay đổi trong quá trình đổi mới để đặt ra và điều chỉnh các nhiệm vụ
của Công đoàn trong quan hệ lao động, góp phần làm dung hòa lợi ích của Nhà
nước, của người sử dụng lao động và của người lao động. Mặt khác cần phải đẩy
mạnh hoạt động đối thoại, hợp tác giữa các cấp với Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội và các chủ doanh nghiệp để tìm giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật, đặc biệt cần có sự phối hợp
giữa các tổ chức công đoàn tỉnh, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã
hội tỉnh trong quá trình thanh tra, kiểm tra để xử lý những tồn tại trong doanh
nghiệp.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị khác trong việc thanh tra các
chính sách xã hội:
Đối với lĩnh vực thanh tra chính sách người có công và các chính sách xã hội
khác, Thanh tra Sở cần tăng cường sự kết hợp với các cơ quan sau:
Phối hợp chặt chẽ với cơ quan Công an tỉnh, Thi hành án tỉnh trong việc
thanh tra, kiểm tra lao động là trẻ em trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm, thanh tra, kiểm tra các cơ sở bảo trợ xã hội, trại trẻ mồ côi; các vấn đề về xâm
hại tình dục trẻ em đang gây nhức nhối trong xã hội.
92
Phối hợp với Sở Nội vụ, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh trong việc thanh tra, kiểm
tra việc xác nhận hồ sơ, thủ tục đối với người có công với cách mạng, đảm bảo các
đối tượng được hưởng chế độ là chính xác.
Phối hợp với Công an tỉnh trong việc thanh tra, kiểm tra, phòng chống tệ nạn
xã hội như nghiện hút, mại dâm, ma túy; thống kê, điều tra tai nạn lao động.
Phối hợp Sở Y tế trong việc thanh tra tình hình thực hiện chính sách bảo
hiểm y tế, các bệnh nghề nghiệp và công tác vệ sinh lao động.
Yêu cầu chung đối với các cơ quan, đơn vị cử người tham gia phối hợp công
tác là phải lựa chọn những cán bộ có phẩm chất đạo đức, có trình độ, chuyên môn,
nghiệp vụ không chỉ về lĩnh vực chuyên môn mà còn có nghiệp vụ về thanh tra để
cộng tác với Đoàn Thanh tra.
3.2.6 Bảo đảm trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân trong hoạt động thanh tra
lao động – thương binh và xã hội trên địa bàn tỉnh hiện nay
Hoạt động của Thanh tra Sở nhằm góp phần bảo đảm hiệu quả quản lý nhà
nước của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội. Tuy nhiên để góp phần vào việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý thuộc ngành: đẩy lùi vi
phạm pháp luật; giảm các tệ nạn xã hội, giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; ngăn chặn lừa đảo trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài; ngăn chặn tình trạng làm giả hồ sơ để hưởng chính sách ưu đãi đối với người
có công với cách mạng, bảo vệ tích cực quyền trẻ em và bình đẳng giới thì sự tham
gia của tổ chức, cá nhân trong hoạt động của thanh tra là rất cần thiết. Cá nhân, cơ
quan tham gia với các hình thức sau:
Chấp hành các kết luận, kiến nghị của Đoàn thanh tra;
Tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý của
ngành Lao động - thương binh và Xã hội, đặc biệt là lĩnh vực người có công với
cách mạng;
Tham gia các hoạt động bảo trợ xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội và thực
hiện các quy tắc và tiêu chuẩn kỹ thuật trong an toàn và bảo hộ lao động.
93
Để bảo đảm trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động của Thanh tra,
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, chính sách trong phạm vi quản
lý nhà nước của Ngành được coi là rất quan trọng. Trong hoạt động thanh tra, cần
kết hợp việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, tư vấn đối tượng thanh tra để họ tự
giác tuân thủ pháp luật và không vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, Cải cách thủ tục hành chính đòi hỏi hoạt động thanh tra phải
hoàn thiện “bộ thủ tục hành chính” trong hoạt động thanh tra, bảo đảm tạo sự thuận
lợi cho người dân, đối tượng thanh tra và các chủ thể có liên quan. Các thủ tục cần
được công bố công khai. Bên cạnh đó, tuy không trực tiếp nhưng cũng cần cải cách
thủ tục hành chính giữa các cơ quan thanh tra với các cơ quan khác và đặc biệt là
trong nội bộ cơ quan thanh tra, công khai các hoạt động để nhân dân giám sát.
94
Tiểu kết chương 3
Luật Thanh tra năm 2010 đã khắc phục được nhiều vướng mắc trong Luật
Thanh tra năm 2004. Thanh tra được xác định là chức năng của quản lý nhà nước.
Việc sắp xếp lại thứ tự các mục đích trong hoạt động thanh tra khẳng định rõ hơn
mục đích hoạt động thanh tra theo tư tưởng Hồ Chí Minh “Thanh tra là tai mắt của
trên, là người bạn của dưới”. Với mục đích này, tổ chức, thẩm quyền và nguyên tắc
trong hoạt động thanh tra cũng có những thay đổi đáng kể. Chương 3 đã nêu một số
phương hướng và giải pháp cụ thể để bảo đảm hoạt động thanh tra Lao động –
Thương binh và Xã hội nói chung, Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội
tỉnh Quảng Ngãi nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Cải cách hành chính đòi hỏi hoạt động thanh tra hướng mạnh đến công tác
thanh tra trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều vấn đề trong quản lý
nhà nước đặt ra trong cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 đòi hỏi phải được
gắn sát với hoạt động thanh tra.
Những yêu cầu của cải cách tổ chức bộ máy cũng đòi hỏi tổ chức các cơ
quan thanh tra phải được kiện toàn, điều chỉnh lại đảm bảo chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của các bộ phận không bị chồng chéo, trùng lặp, tiếp tục đổi mới
phương thức làm việc của cơ quan thanh tra, một số giải pháp và mô hình được đưa
ra nhằm khắc phục điều đó. Xây dựng và bảo đảm chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức đòi hỏi ngành thanh tra cần kiện toàn và bảo đảm chất lượng đội
ngũ thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành.
Có thể nói rằng, các yêu cầu của cải cách hành chính nói trên nếu thực hiện
nghiêm túc cũng sẽ tác động tích cực tới hiệu quả hoạt động của thanh tra nói
chung và Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi nói
riêng.
95
KẾT LUẬN
Nằm trong hệ thống của ngành thanh tra và là tổ chức thanh tra của Ngành
Lao động - Thương binh và Xã hội, Hoạt động thanh tra Lao động - Thương binh
và Xã hội đã thực sự là chiếc cầu nối giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh
nghiệp và người dân, xứng đáng "là tai mắt của trên, là người bạn của dưới" như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị. Với vị thế của mình, Thanh tra Lao động -
Thương binh và Xã hội là công cụ không thể thiếu nhằm phục vụ yêu cầu quản lý
nhà nước của Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội; góp phần bảo đảm trật tự,
kỷ cương, tăng cường pháp chế và củng cố nguyên tắc quản lý theo ngành và quản
lý theo lãnh thổ. Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội đã có những đóng
góp quan trọng trong việc hoạch định chính sách và đảm bảo cho các chính sách,
pháp luật của nhà nước, của ngành trong lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã
hội được thi hành nghiêm chỉnh trên thực tế, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước của ngành.
Hoạt động thanh tra là một hoạt động có tính quy phạm pháp luật cao. Mỗi
nhiệm vụ, mỗi vấn đề liên quan đến công tác thanh tra đều được pháp luật quy định
cụ thể rõ ràng. Điều đó đòi hỏi mỗi chúng ta khi thực hiện một nhiệm vụ của công
tác thanh tra, phải tuân thủ một cách nghiêm túc những quy định của pháp luật.
Mặc dù công tác thanh tra trong suốt 70 năm qua đã thu được những kết quả
quan trọng là cơ quan tham mưu đắc lực cho Đảng, Nhà nước đề ra các chủ trương
chính sách pháp luật đồng thời kiến nghị xóa bỏ các chính sách không còn phù hợp
với thực tế. Tuy nhiên, cuộc sống luôn vận động đi lên theo chiều hướng phát triển
nên đặt ra nhiều thách thức mới cho việc kiện toàn, đổi mới công tác thanh tra bảo
đảm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra mà chúng ta phải có
những giải pháp phù hợp với thực tế hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[2] Quốc hội (2013), Hiến pháp Việt Nam, NXB Lao động- xã hội, Hà Nội - 2014.
[3] Quốc hội (2010), Luật Thanh tra năm 2010, NXB Lao động, Hà Nội – 2010.
[4] Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại năm 2011, NXB Lao động, Hà Nội – 2011.
[5] Quốc hội (2011), Luật Tố cáo năm 2011, NXB Lao động, Hà Nội – 2011.
[6] Quốc hội (2012), Luật Tiếp công dân năm 2012, NXB Lao động, Hà Nội –
2012.
[7] Quốc hội (2012), Bộ Luật lao động năm 2012, NXB Lao động Hà Nội – 2012.
[8] Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2012), Pháp lệnh ưu đãi người có công cách
mạng, Hà Nội – 2012.
[9] Chính phủ (2011), Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 quy định chi tiết
và hướng dẫn một số điều của Luật Thanh tra năm 2010, Hà Nội.
[10] Chính phủ (2012), Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 của Chính
phủ quy định chi tiết về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành, Hà Nội.
[11] Chính phủ (2012), Nghị định 106/2012/NĐ-CP ngày 20/12/2012 của Chính
phủ về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao
động – TB&XH , Hà Nội.
[12] Chính phủ (2013), Nghị định 39/2013/NĐ-CP ngày 24/4/2013 của Chính phủ
quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra lao động – thương binh và xã hội,
Hà Nội.
[13] Chính phủ (2013), Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, Hà Nội.
[14] Chính phủ (2014), Nghị định 119/2014/NĐ-CP ngày 14/12/2014 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ Luật Lao động, Luật Dạy nghề và Luật
người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động về khiếu nại, tố
cáo, Hà Nội.
[15] Chính phủ (2005), Nghị định 04/2005/NĐ-CP ngày 11/01/2005 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật lao động về
khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.
[16] Phạm Hồng Thái, Đinh Mậu (1996), Đại cương về nhà nước và pháp luật.
NXB thành phố Hồ Chính Minh.
[17] Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định 2155/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 về
việc phê duyệt Đề án nâng cao năng lực thanh tra ngành Lao động – Thương binh
và Xã hội đến năm 2020.
[18] Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2014), Quyết định
193/QĐ-LĐTBXH ngày 19/2/2014 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về
việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án nâng cao năng lực thanh tra
ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đến năm 2020.
[19] UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Quyết định số 227/QĐ-UBND ngày
28/7/2015 về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Ðề án nâng cao nãng lực
thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
[20] Đỗ Thị Thu Hiền (2012), “Thanh tra lao động theo pháp luật lao động Việt
Nam” Luận văn thạc sỹ Luật – Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
[21] Nguyễn Thị Hồng Diệp (2014), “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Lao
động – Thương binh và Xã hội thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sĩ Luật,
khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
[22] Nguyễn Quốc Hiệp (2012), Kết quả hoạt động thanh tra – những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Viện Khoa học Thanh tra – Thanh tra Chính phủ.
[23] Phạm Văn Khanh, Nguyễn Du (2014) Thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp,
Thanh tra Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
[24] Tổ chức Lao động quốc tế (2004), Thanh tra lao động hướng dẫn chuyên
ngành, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
[25] Từ điển Luật Anh – Việt (1994), nhà xuất bản Khoa học – Xã hội.
[26] Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện ngôn ngữ
học.
[27] Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi (2016), Đề án xác
định vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức của Thanh tra Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi.
[28] Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi (2016) các báo cáo
về công tác thực hiện chính sách cho người có công cách mạng của phòng Người có
công Sở, báo cáo số liệu người lao động, người sử dụng lao động, Bảo hiểm xã hội,
báo cáo tai nạn lao động của phòng Việc làm – An toàn lao động Sở, báo cáo số liệu
những người được hưởng chế độ bảo trợ xã hội của Phòng Bảo trợ xã hội Sở, và các
báo cáo khác có liên quan...
[29] Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (2015), Ngành Lao động – Thương
binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi 70 năm xây dựng và phát triển (1945-1975), NXB
Lao động, Hà Nội – 2015.
[30] Các webside:
www.giri.ac.vn (Viện Nghiên cứu Thanh tra)
www.thanhtra.gov.vn (viện khoa học thanh tra)
www.thanhtralaodong.gov.vn
www.molisa.gov.vn.......
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_hoat_dong_thanh_tra_lao_dong_thuong_binh_va_xa_hoi.pdf