Luận văn Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở tỉnh Tiền Giang

Thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, những năm gần đây cùng với việc tuyên truyền GDPL cho mọi tầng lớp nhân dân, GDPL cho học sinh nói chung, học sinh PTTH nói riêng ở tỉnh Tiền Giang được quan tâm tiến hành song song, kết hợp chặt chẽ với GDĐĐ và đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, công tác này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập từ nội dung chương trình, từ hoạt động kết hợp GDPL và GDĐĐ ở nhà trường cho đến sự phối hợp giữa các chủ thể giáo dục. Làm thế nào để công tác GDPL kết hợp với GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang đạt được hiệu quả cao. Đó là mục đích đồng thời cũng là nội dung cơ bản của luận văn này.

pdf102 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3126 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở tỉnh Tiền Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uốt cuộc đời mỗi người như hình thành nhân cách, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng cảm thụ, kỹ năng lao động, giao tiếp, tính trung thực, năng lực sáng tạo, trí tưởng tượng…là những đức tính thời nào cũng cần nhưng thời nay càng cần hơn bao giờ hết. Cái gốc của phần lớn sai lầm đó là do quan niệm, tư duy xơ cứng về giáo dục. Thời nào, chế độ nào thì một nền giáo dục chân chính cũng có sứ mệnh cao cả giống nhau là giáo dục con người hướng tới chân, thiện, mỹ. Trên cái nền chung đó mỗi thời, mỗi xã hội đặt ra những nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể khác nhau cho giáo dục. Không thấy hai mặt đó mà chỉ thiên về mặt này hay mặt kia, thậm chí để hai mặt đó xung đột sẽ dẫn đến một nền giáo dục thoát ly thực tế hay thực dụng hoặc có cả hai tính chất đó. Vì vậy, một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay là phải nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phải chú trọng đến cả hiệu quả kinh tế và xã hội của giáo dục. Phát triển giáo dục phải dựa trên hệ thống quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước và cần vận dụng sáng tạo, phù hợp thực tiễn giáo dục mới, đó là: - Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Giáo dục và đào tạo phải góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri thức, đạo đức, có bản lĩnh, trung thực, có tư duy phê phán, năng động, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc hiệu quả trong môi trường toàn cầu hóa vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Điều này đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản về giáo dục từ nội dung chương trình, phương pháp dạy học, tiêu chí đánh giá cho đến việc xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và thuận lợi, giúp người học chủ động, tích cực, kiến tạo kiến thức, phát triển kỹ năng và vận dụng được những điều đã học vào cuộc sống. Bên cạnh đó, giáo dục không chỉ nhằm tạo nên những “cỗ máy lao động” mà thông qua giáo dục, các giá trị văn hóa tốt đẹp phải được phát triển ở người học, giúp họ hoàn thiện những tố chất cá nhân, phát triển hài hòa các mặt đức, trí, thể, mỹ; nội dung, phương pháp, môi trường giáo dục phải góp phần duy trì, bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam. - Thứ hai: Đổi mới phương pháp tiếp cận về giáo dục Giáo dục nói chung, GDPL kết hợp với GDĐĐ nói riêng muốn đạt hiệu quả đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận đa ngành, liên ngành. Điều này cũng phù hợp với xu thế chung hiện nay khi vấn đề giáo dục không chỉ thuộc phạm vi, đối tượng nghiên cứu của riêng ngành giáo dục mà đòi hỏi các ngành, lĩnh vực có liên quan phải nghiên cứu dưới những khía cạnh khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là phải nhằm bổ sung, hỗ trợ cho giáo dục. Trong thời gian sắp tới Nhà nước cần có chính sách đầu tư thỏa đáng cả về nhân lực và vật lực cho các hoạt động nghiên cứu các yếu tố, quá trình ảnh hưởng đến giáo dục chẳng hạn như các yếu tố tâm lý đặc trưng theo lứa tuổi, những tác động xã hội ảnh hưởng đến giáo dục, các bệnh lý có nguyên nhân từ giáo dục (stress, trầm cảm, rối nhiễu cảm xúc…). Sự kết hợp đa ngành, liên ngành sẽ góp phần mở rộng, làm sâu sắc hơn hệ thống tri thức về giáo dục, bổ sung những hạn chế và phát huy thế mạnh của từng ngành. 2.3.1.2. Đổi mới chương trình giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức bậc phổ thông trung học Bất cập lớn nhất hiện nay của chương trình giáo dục phổ thông nói chung, giáo dục ở bậc PTTH nói riêng là nặng về cung cấp kiến thức, chưa có sự cân đối giữa các môn học, GDPL và GDĐĐ tuy là một bộ phận của giáo dục phổ thông nhưng chưa được xem trọng. Điều này làm cho môn học có ý nghĩa trong việc hình thành nhân cách - môn GDCD chưa thể hiện được hết vai trò của nó, việc cung cấp kiến thức chưa gắn kết với việc trang bị, hình thành những kỹ năng sống cần thiết cho học sinh, việc lồng ghép các nội dung GDPL và GDĐĐ chưa được thực hiện thống nhất, đồng bộ. Những hạn chế trên đặt ra yêu cầu phải đổi mới nội dung chương trình GDPL và GDĐĐ cho học sinh bậc PTTH theo hướng đổi mới nội dung môn GDCD, chú trọng giáo dục kỹ năng sống, tăng cường tích hợp, lồng ghép GDPL và GDĐĐ vào các môn học liên quan và các hoạt động khác. - Thứ nhât: Đổi mới nội dung chương trình môn GDCD Môn GDCD bậc PTTH được Bộ giáo dục và đào tạo xây dựng gồm phần kiến thức của nhiều lĩnh vực: triết học, đạo đức, kinh tế chính trị và pháp luật để giảng dạy trên lớp và lồng ghép vào các hoạt động khác là việc làm đúng, cơ bản phù hợp với quy luật phát triển giáo dục…Vì vậy, môn học này góp phần quan trọng vào việc GDĐĐ, tư tưởng, lối sống cho học sinh. Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia giáo dục, của giáo viên và cả học sinh thì chương trình còn mang tính hàn lâm, nhiều nội dung chưa thiết thực, chưa gắn với đời sống thường ngày, nặng về cung cấp kiến thức, thiếu vắng việc xây dựng, giáo dục ý thức, hình thành thái độ, cảm xúc và rèn luyện hành vi đạo đức. Do đó, đổi mới nội dung chương trình môn GDCD là cần thiết và cấp bách hiện nay. Trước mắt, để có cơ sở khách quan cho việc đổi mới nội dung, Bộ giáo dục và đào tạo cần tiến hành khảo sát và đánh giá lại toàn bộ chương trình. Việc đổi mới nội dung chương trình cần theo hướng: + Giảm bớt những nội dung trừu tượng, khó hiểu, lý thuyết dài dòng, tăng cường nội dung giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống và những giá trị đạo đức mới cần phải có cho học sinh, tăng cường bài tập thực hành, kỹ năng giải quyết các tình huống thực tế. + Đảm bảo tính liên tục của chương trình: Phải chuẩn bị một hệ thống tri thức cần và đủ để đảm bảo cho học sinh được giáo dục một cách liên tục, nhất là phần kiến thức pháp luật và đạo đức. Tính liên tục còn đặt ra yêu cầu là những vấn đề thuộc nội dung GDPL và GDĐĐ cho học sinh từ các lớp dưới đến lớp trên khi tiếp thu không cảm thấy bị gián đoạn, cắt khúc mà là sự kế tiếp khoa học. + Nội dung chương trình phải bảo đảm thiết thực, vừa sức học sinh: Để giảm sự quá tải về kiến thức một cách không cần thiết, trước mắt, Bộ giáo dục và đào tạo cần xem xét có nên đưa tất cả các phần triết học, kinh tế chính trị, đạo đức và pháp luật vào nội dung chương trình GDCD bậc PTTH hay không. Trước mắt chưa nên đưa môn kinh tế chính trị vào chương trình lớp 11 vì nhiều nội dung về các vấn đề kinh tế, chính trị của đất nước và địa phương đã được lồng ghép trong “tuần sinh hoạt công dân- học sinh” vào đầu năm học và các buổi sinh hoạt chủ điểm, sinh hoạt đầu tuần. Môn triết là môn học cần thiết vì giúp người học hình thành thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn nhưng cũng đồng thời là phần kiến thức khó và trừu tượng. Do đó, thay đổi nội dung chương trình cần theo hướng: lớp 10 học triết học (thay vì cả triết và đạo đức như hiện nay là quá nặng đối với học sinh khối 10), đạo đức học chuyển sang cho khối 11 và phần pháp luật sẽ dành cho khối 12. Mặt khác, để đảm bảo tính kế tiếp, liên tục và mối liên hệ lẫn nhau giữa các phần kiến thức thì kết cấu nội dung bài học theo hướng lồng ghép là một điều cần thiết. Chẳng hạn, việc biên soạn các bài học của môn triết nên có sự lồng ghép các vấn đề đạo đức như bài 1 môn triết lớp 10: Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng cần xây dựng theo hướng: đạo đức gắn liền với trí tuệ, với thế giới quan và phương pháp luận khoa học, ủng hộ cái đúng (chân lý), hành động phù hợp với cái đúng là đạo đức…Chính sự lồng ghép này sẽ giúp học sinh thông qua môn triết hình thành sâu sắc hơn những hiểu biết về đạo đức, làm cơ sở để các em tiếp cận với những kiến thức về đạo đức ở lớp trên mà không cảm thấy rời rạc. Tương tự, môn đạo đức và pháp luật cũng sẽ được biên soạn theo hướng lồng ghép trong GDĐĐ có GDPL và ngược lại trong GDPL có GDĐĐ nhưng phải đảm bảo tính dễ hiểu và thiết thực. Đổi mới nội dung chương trình môn học, nhất là môn học có ý nghĩa quan trọng trong việc GDĐĐ, tư tưởng, lối sống cho học sinh là việc làm không đơn giản. Do đó, để bảo đảm cho việc đổi mới có cơ sở khoa học, khách quan, cần phải huy động sự tham gia của các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực như giáo dục, tâm lý, triết học, pháp luật…Bên cạnh đó, việc tham khảo ý kiến xã hội cũng là điều không thể thiếu, trong đó tiếng nói của giáo viên và của chính học sinh - đối tượng giáo dục sẽ góp phần làm cho việc đổi mới nội dung chương trình mang tính khách quan và toàn diện hơn. - Thứ hai: Chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Hiện nay, trên thế giới có ít nhất 70 quốc gia đã đưa kỹ năng sống vào chương trình chính khóa của học sinh. Tại Việt Nam, với sự hỗ trợ của UNICEF, giáo dục kỹ năng sống chỉ mới được thể nghiệm như một chương trình ngoại khóa ở một số trường trung học cơ sở và được lồng ghép trong một số môn học ở bậc PTTH. Theo nhận định của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục thì: nền giáo dục Việt Nam mới chỉ dừng ở việc cung cấp kiến thức mà chưa chú trọng bồi dưỡng kỹ năng cho học sinh. Do đó, đưa kỹ năng sống vào giáo dục phổ thông là một việc làm cần thiết hiện nay. Về lâu dài, Bộ giáo dục và đào tạo cần tiến hành nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng môn học mới độc lập so với các bộ môn hiện đang giảng dạy ở bậc PTTH được gọi là môn kỹ năng sống. Nội dung của môn này bao gồm những kiến thức về pháp luật, phòng chống tệ nạn xã hội, ứng xử giao tiếp xã hội, bình đẳng giới, trong đó có nội dung giáo dục giới tính, tình yêu hôn nhân, sức khỏe sinh sản…Phải xem đây là một môn học chính khóa, có kiểm tra đánh giá, có khung chương trình đào tạo, có sách giáo khoa, có đội ngũ giáo viên được đào tạo về chuyên môn, có phương pháp sư phạm. Trước mắt, khi chưa được xây dựng thành một môn học độc lập Bộ cần chỉ đạo các trường tăng cường tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh vào một số môn học cũng như các hoạt động ngoại khóa. - Thứ ba: Lồng ghép nội dung GDPL và GDĐĐ vào các môn học liên quan: GDPL kết hợp với GDĐĐ là một quá trình lâu dài, thường xuyên, liên tục, không chỉ do môn GDCD và các hoạt động ngoại khóa đảm nhận mà đòi hỏi phải được tích hợp, lồng ghép vào các môn học có liên quan.Trong điều kiện thời lượng dành cho chương trình GDCD và hoạt động ngoại khóa còn rất hạn chế do đó việc lồng ghép nội dung giáo dục này vào các môn học khác có ý nghĩa rất quan trọng. Thực tế hiện nay ở các trường, việc lồng ghép các nội dung GDPL và GDĐĐ vào các môn học liên quan chưa được thực hiện. Trong thời gian tới, để lồng ghép hiệu quả, có chất lượng đòi hỏi việc xây dựng chương trình một số môn học như văn, sử…phải thể hiện được sự lồng ghép đó. Trước mắt để đảm bảo tính thống nhất, Bộ giáo dục và đào tạo cần chỉ đạo các trường tích hợp một số nội dung GDPL và GDĐĐ vào các môn học có liên quan trong một số bài học nhất định. 2.3.1.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo đảm kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên Kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh là một bộ phận của chiến lược xây dựng con người phát triển toàn diện, đòi hỏi phải có những quy định mang tính pháp lý làm cơ sở. Về công tác giáo dục thanh thiếu niên trong đó có học sinh, những năm gần đây, Việt Nam đã có một hệ thống các văn bản tương đối đầy đủ điều chỉnh quan hệ này như Luật giáo dục, Luật thanh niên, Luật hôn nhân và gia đình… Tuy nhiên, có thể nhận thấy một trong những bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về giáo dục thanh thiếu niên nói riêng là tình trạng vừa thừa, vừa thiếu: thừa những quy định chung chung, nhưng lại thiếu những quy định cụ thể, khả thi, chưa kể giữa các văn bản còn có những quy định mâu thuẫn, trái ngược nhau… Để công tác GDPL kết hợp với GDĐĐ cho học sinh thời gian tới đạt hiệu quả, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan, theo hướng: - Thứ nhất: GDPL và GDĐĐ cho học sinh là công tác có liên quan đến nhiều chủ thể, do đó cần quy định rõ ràng, cụ thể quyền, nghĩa vụ trách nhiệm của từng loại chủ thể, đặc biệt là các nghĩa vụ đạo đức cần phải quy định sao cho dễ hiểu, dễ thực hiện, tránh quy định nghĩa vụ một cách chung chung, khái quát như các quy định về quyền, nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình trong Luật hôn nhân và gia đình hay quy định về trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong Luật giáo dục… - Thứ hai: Cần phải quy định trách nhiệm phối hợp giữa các chủ thể trong công tác giáo dục, đó là sự phối hợp giữa gia đình với nhà trường và xã hội, giữa nhà trường với gia đình và xã hội, giữa xã hội với gia đình và nhà trường. Luật giáo dục 2005 xác định một trong những nguyên lý của giáo dục là kết hợp giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội nhưng lại quy định trách nhiêm phối hợp chỉ thuộc về nhà trường. Chính bất cập này của Luật đã dẫn đến việc phối hợp không đồng bộ, tự phát trong hoạt động giáo dục học sinh và vô tình đẩy quả bóng trách nhiệm về phía nhà trường trong khi trên thực tế nhà trường không thể và cũng không có đủ khả năng thực hiện hết trách nhiệm đó. - Thứ ba: Cần quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm phối hợp giữa các chủ thể. Đây là điều rất cần thiết để các quy định pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Luật hôn nhân và gia đình và Luật giáo dục đã qua nhiều lần sửa đổi nhưng một số các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm giữa các thành viên gia đình, các chủ thể tham gia vào công tác giáo dục mang tính chung chung, không định lượng được nên thực tế đã dẫn đến tình trạng lập lờ, né tránh không thực hiện và cũng không có cơ sở kiểm tra việc thực hiện. Nhiều quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm không có chế tài đi kèm. Luật hôn nhân và gia đình và cả Luật giáo dục đều quy định cha mẹ có nghĩa vụ phải chăm sóc con nhưng chăm sóc như thế nào thì chưa được quy định rõ. Về lý luận và thực tiễn cần phải hiểu chăm sóc là sự chăm lo cả về vật chất lẫn tinh thần, sự quan tâm của cha mẹ đến việc học hành, sinh hoạt của con. Trên thực tế, nhiều bậc phụ huynh chưa thực hiện hết nghĩa vụ này, chỉ “nuôi” chứ chưa “dưỡng” - tức giáo dục và trách nhiệm này được phó thác cho nhà trường nhưng đến nay vẫn chưa có chế tài nào để xử lý. 2.3.2. Giải pháp cụ thể 2.3.2.1. Nâng cao hiệu quả kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức trong nhà trường Kết hợp GDPL và GDĐĐ ở các trường PTTH hiện nay chủ yếu được thực hiện thông qua việc dạy và học môn GDCD, tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động tập thể, thông qua công tác quản lý học sinh ở trường học. Do đó nâng cao hiệu quả kết hợp GDPL và GDĐĐ trong nhà trường chính là nâng cao chất lượng của các hoạt động trên. - Thứ nhất: Nâng cao vị trí, vai trò, chất lượng giảng dạy môn GDCD: Hiện nay, ở các trường PTTH, việc dạy và học môn GDCD chưa được xem trọng, chưa có vị trí xứng đáng cần phải có trong nhà trường. Để nâng cao vai trò, vị trí và chất lượng giảng dạy môn GDCD ở các trường PTTH hiện nay cần thực hiện tốt các biện pháp sau: + Đối với Ban giám hiệu: Cần phải quán triệt nhiệm vụ dạy chữ, dạy người thông qua các môn học, tiết học, kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng thiếu toàn diện trong dạy học; quán triệt trong cán bộ giáo viên nhận thức về vai trò, vị trí của môn GDCD trong trường phổ thông; tham mưu với Sở giáo dục và đào tạo bổ sung giáo viên được đào tạo chính quy môn GDCD ngay từ đầu năm học, đưa giáo viên dạy môn GDCD đi học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chương trình, giáo án, dự giờ các tiết lên lớp của giáo viên dạy môn GDCD; đầu tư mua sắm sách, báo, tài liệu như trang bị đầy đủ các loại sách pháp luật, các loại sách liên quan đến việc xây dựng nhân cách, GDĐĐ; tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham khảo và cập nhật kiến thức phục vụ cho việc giảng dạy môn học; tổ chức các buổi thao giảng, hội giảng nhằm đánh giá rút kinh nghiệm tiết dạy môn GDCD về phương pháp, kết quả tiếp thu của học sinh. + Đối với giáo viên: Giáo viên là lực lượng quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục, do đó giáo viên nói chung, giáo viên GDCD phải được đào tạo chính quy đúng chuyên ngành, thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí môn học, phải xác định được trách nhiệm của bản thân, chú trọng đầu tư cho giảng dạy. Trước hết, để nâng cao chất lượng giảng dạy môn GDCD phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy môn học này đủ về số lượng, đáp ứng về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như phẩm chất chính trị, đạo đức Để bảo đảm cho việc giảng dạy môn GDCD, đặc biệt là giảng dạy pháp luật ở khối 12, Sở giáo dục và đào tạo cần phối hợp với Sở tư pháp tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho giáo viên ngay từ đầu năm học và trong năm học, nhất là khi có thay đổi về nội dung chương trình và thay đổi luật có liên quan đến bài giảng. Về lâu dài, Sở giáo dục cần có kế hoạch đưa đi đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên trẻ được bố trí giảng dạy môn GDCD nhưng chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn đồng thời phải tính toán cụ thể để dần thay thế số giáo viên đã lớn tuổi sắp về hưu bằng đội ngũ giáo viên trẻ được đào tạo đúng chuyên ngành. Bên cạnh công tác đào tạo cần có chính sách đãi ngộ hợp lý để đội ngũ này có thể yên tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đặc biệt là chính sách phụ cấp giờ dạy, thời gian đi thực tế cũng được tính vào tiêu chuẩn giờ dạy nhằm khuyến khích tinh thần tự học, tự nghiên cứu, tham gia sinh hoạt khoa học. Giáo viên phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Dù sử dụng phương pháp nào, giáo viên cũng phải lấy học sinh làm trung tâm. Muốn vậy giáo viên phải chuẩn bị tốt giáo án cũng như những tình huống đã xảy ra hoặc có thể xảy ra trong thực tế, dẫn dắt học sinh giải quyết vấn đề, tham gia tranh luận, nâng cao sự hiểu biết của học sinh nhưng vẫn đảm bảo nội dung bài học. Cần tránh lối truyền đạt một chiều, giản đơn, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, thầy đọc- trò chép; tăng cường giao lưu đối thoại, phát huy tính tích cực của học sinh. Phương pháp giáo dục không chỉ nhằm cung cấp kiến thức mà còn cung cấp phương pháp tiếp cận, cách thức giải quyết vấn đề cho học sinh, giúp các em có khả năng vận dụng sáng tạo các chuẩn mực được học vào thực tiễn cuộc sống. Để tăng hiệu quả giáo dục trong mỗi tiết dạy trên lớp, đòi hỏi giáo viên không chỉ nắm vững nội dung kiến thức ở sách giáo khoa mà phải bổ sung những nội dung mới mà sách giáo khoa đã lỗi thời nhưng chưa kịp cập nhật, gắn những điều đã học với thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Trong điều kiện hiện nay nhiều trường còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, giáo viên cần tích cực sưu tầm, sáng tạo, cải tiến đồ dùng dạy học hiện có để gây hứng thú cho học sinh khi học trên lớp. Trong kiểm tra, ngoài việc ra đề giống như các môn học khác, giáo viên cần thiết kế thêm các bài tập tình huống, tránh lối ra đề theo kiểu “trả bài”. - Thứ hai: Đa dạng hóa các hình thức hoạt động ngoại khóa, hoạt động tập thể phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và điều kiện của nhà trường Con đường GDPL và GDĐĐ cho học sinh ở nhà trường đòi hỏi phải có sự chủ động kết hợp giữa giáo dục ở lớp với tổ chức các hoạt động ngoại khóa, tập thể thông qua nhiều hình thức phong phú, phù hợp với tâm sinh lý học sinh và điều kiện của từng trường. Do đó, Ban giám hiệu phải có kế hoạch gắn việc giảng dạy đạo đức, pháp luật trong nhà trường với các hoạt động xã hội, hoạt động tập thể thiết thực, bổ ích. Có như vậy học sinh mới hiểu bài một cách sâu sắc, thực hiện phương châm “học đi đôi với hành”, lý luận gắn liền thực tiễn và nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội. Trong điều kiện kinh phí cho giáo dục còn nhiều khó khăn, nguồn huy động từ xã hội còn hạn hẹp, nhà trường cần chủ động trong việc tạo kinh phí cho các hoạt động ngoại khóa như vận động học sinh thu gom giấy vụn ở gia đình làm “kế hoạch nhỏ” như cách làm hiệu quả ở nhiều trường hiện nay, thực hiện chương trình nuôi heo đất gây quỹ trên tinh thần tự nguyện của học sinh và giáo viên theo từng lớp…Ngoài ra, để đảm bảo hoạt động ngoại khóa thực sự là hoạt động hỗ trợ, bổ sung cho hoạt động chính khóa, đảm bảo tính thiết thực, bổ ích, bên cạnh việc tìm tòi, đa dạng hóa các hình thức ngoại khóa, nhà trường cần lấy ý kiến của giáo viên cũng như học sinh để có sự thay đổi, bổ sung cho phù hợp. - Thứ ba: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý học sinh trong nhà trường Thực tế hiện nay tại các trường PTTH ở Tiền Giang cho thấy: công tác quản lý học sinh còn rất nhiều bất cập, phiến diện, quản lý chưa đúng với thực chất là quản lý con người - học sinh mà chỉ nghiêng về nắm bắt sĩ số, kết quả học tập (chủ yếu là điểm số). Do vậy, nâng cao hiệu quả công tác quản lý học sinh trong nhà trường là vấn đề cần thiết và cấp bách hiện nay. Về nhận thức: phải thay đổi nhận thức về quản lý, bảo đảm công tác quản lý học sinh phải mang tính toàn diện từ quản lý việc học tập cho đến quá trình rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, thái độ, ứng xử của học sinh trong mối quan hệ với những người xung quanh, trực tiếp là trong quan hệ với trường, lớp; đồng thời phải xem quản lý học sinh không chỉ là nhiệm vụ của riêng GVCN mà còn là nhiệm vụ của mọi cán bộ, tổ chức trong trường học. Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi GVCN phải nắm được tình hình, đặc điểm của lớp học, của học sinh ngay từ đầu năm học; đồng thời phải có ý thức phối hợp với giáo viên bộ môn, cán bộ khác của trường trong công tác quản lý. Riêng đối với những học sinh cá biệt, thường vi phạm nội quy trường học, việc xử lý kỷ luật phải được tiến hành trên tinh thần không định kiến, đồng thời phải có kế hoạch cụ thể để giúp đỡ, tạo điều kiện để học sinh nhận ra lỗi lầm và tự giác sửa chữa. - Thứ tư: Xây dựng chuẩn đánh giá kết quả kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh Giáo dục nói chung, kết hợp GDPL với GDĐĐ nói riêng muốn đạt hiệu quả phải có sự đánh giá, so sánh đầu vào và kết quả đầu ra. Do đó, việc xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả kết hợp GDPL và GDĐĐ là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chuẩn đánh giá này phải đảm bảo đo lường được kết quả đích thực căn cứ vào những biểu hiện cụ thể như mức độ hiểu biết về pháp luật và các chuẩn mực đạo đức, thái độ, hành vi, ứng xử trong mối quan hệ với thầy cô, với bạn bè và các quan hệ xã hội khác; ý thức phấn đấu trong học tập; thái độ và kết quả tham gia lao động, hoạt động tập thể của trường, lớp và các hoạt động xã hội khác; ý thức giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường… Riêng đối với học sinh cá biệt, ngoài những tiêu chuẩn trên, cần đánh giá được những chuyển biến của học sinh sau khi tiếp nhận tác động giáo dục từ phía nhà trường (thuyết phục, cảm hóa, xử lý kỷ luật). 2.3.2.2. Tăng cường các diều kiện bảo đảm kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh - Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của cấp ủy Đảng, chính quyền trong công tác kết hợp GDPL và GDĐĐ Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của cấp ủy Đảng, chính quyền, xây dựng cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác GDPL nói chung, GDPL kết hợp với GDĐĐ cho học sinh nói riêng một cách thống nhất là yêu cầu cấp thiết, quyết định hiệu quả công tác giáo dục nói chung, GDPL kết hợp GDĐĐ cho học sinh nói riêng. Thời gian qua công tác phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh đã được sự quan tâm của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh bằng việc ban hành một loạt văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác này. Các Nghị quyết Đại hội đại biểu Tỉnh Đảng bộ, nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu Tỉnh Đảng bộ lần VIII (2005) và các Nghị quyết của Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ gần đây đều khẳng định tầm quan trọng của công tác GDPL cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, học sinh, sinh viên, nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò của việc kết hợp ba môi trường gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục thanh thiếu niên, xác định trách nhiệm của các cấp ủy Đảng trong công tác này, tuy nhiên vấn đề GDPL cho thanh thiếu niên chưa được đặt ra trong mối liên hệ và kết hợp với GDĐĐ, GDĐĐ chưa thật sự được chú trọng như GDPL. Do đó, thời gian tới cần đổi mới nội dung lãnh đạo công tác GDPL theo hướng kết hợp với GDĐĐ, xác định rõ trọng tâm của GDPL kết hợp với GDĐĐ cho đối tượng là thanh niên, học sinh, sinh viên phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, trách nhiệm của từng cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trong công tác này. Song song đó, cần tăng cường chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác kết hợp GDPL và GDĐĐ của Ủy ban nhân dân tỉnh: trong kế hoạch, chương trình công tác hàng năm của Ủy ban nhân dân tỉnh cần chỉ đạo cụ thể việc thực hiện tốt công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đặc biệt là giáo viên giảng dạy pháp luật cho các trường phổ thông; chỉ đạo công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công tác này; kiểm tra, đánh giá kết quả tổ chức thực hiện. - Thứ hai: Tăng cường kinh phí xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho các trường: Mặc dù kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học của tỉnh hàng năm đều tăng nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục - đào tạo và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. Ở nhiều trường, số phòng học bán kiên cố chưa kịp đầu tư xây dựng ngày càng xuống cấp nhanh. Môi trường sư phạm ở nhiều trường học còn bất cập với yêu cầu giáo dục, chưa có nhà vệ sinh hoặc có nhưng tạm bợ, thiếu nguồn nước sạch trong khu vực trường học, sân chơi, 8/34 trường PTTH không có phòng thực hành thí nghiệm và đa số phòng thực hành thí nghiệm chưa đạt yêu cầu kỹ thuật, phương tiện, dụng cụ dạy học còn rất thiếu thốn… Xây dựng, kiên cố hóa trường, lớp là quá trình lâu dài. Trước mắt, để đáp ứng yêu cầu dạy học, tỉnh cần đầu tư kinh phí mua sắm trang thiết bị dạy học cần thiết; xây dựng sân chơi thể thao, giái trí cho học sinh ngay tại khuôn viên trường học cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay. Song song đó cần tăng cường thêm kinh phí biên soạn bộ tài liệu tuyên truyền GDPL dưới nhiều hình thức hỏi đáp pháp luật, xử lý tình huống… trên cơ sở gắn với các quy định gần gũi với học sinh. Bên cạnh đầu tư mua sắm thêm, các trường cũng cần vận động giáo viên và học sinh sưu tầm tài liệu liên quan đến hoạt động GDPL, GDĐĐ trên sách, báo, tạp chí, tranh ảnh, sáng tạo đồ dùng dạy học…Việc tham gia của giáo viên và học sinh vào hoạt động này cần được xem xét như một trong những tiêu chuẩn xét thi đua khen thưởng. 2.3.2.3. Xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế phối hợp giữa các chủ thể trong công tác giáo dục Kết hợp GDPL và GDĐĐ là một hoạt động có định hướng, có tổ chức của nhiều chủ thể giáo dục. Thực trạng kết hợp GDPL và GDĐĐ ở Tiền Giang những năm qua cho thấy, GDPL kết hợp GDĐĐ thông qua các hoạt động chính khóa và ngoại khóa ở nhà trường được thực hiện khá nghiêm túc theo chương trình của Bộ giáo dục và đào tạo, còn công tác phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội để hỗ trợ, bổ sung cho hoạt động này thì chưa được thực hiện thống nhất, đồng bộ do chưa có quy định mang tính pháp lý làm cơ sở. Vì vậy, để xây dựng được môi trường giáo dục học sinh từ nhà trường tới gia đình và xã hội, trong thời gian sắp tới, với tư cách là cơ quan quản lý về giáo dục, Sở giáo dục cần xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa các chủ thể. Trong điều kiện hiện nay, để quản lý giáo dục học sinh, không thể thiếu vai trò của nhà trường, gia đình, các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội ở địa phương, của lực lượng công an. Do đó, Quy chế cần phải xác định được các nội dung phối hợp theo các mối quan hệ sau: - Thứ nhất: Nội dung phối hợp giữa nhà trường với gia đình để quản lý giáo dục học sinh ở trường học và ở gia đình gồm: + Tổ chức ký cam kết phối hợp giáo dục học sinh. + Trao đổi thông tin thông qua sổ liên lạc, phiếu điểm và các hình thức khác phù hợp với điều kiện từng trường để nắm tình hình học tập, rèn luyện của học sinh. + Họp phụ huynh học sinh để báo cáo kết quả học tập, rèn luyện của học sinh. + Họp phụ huynh những học sinh vi phạm đạo đức, nội quy trường học. + Mời đại diện cha mẹ học sinh tham gia hội đồng khen thưởng, kỷ luật của nhà trường. - Thứ hai: Nội dung phối hợp giữa nhà trường với lực lượng Công an gồm: + Truy quét tội phạm, ngăn chặn những hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật của học sinh. + Thông tin về tình hình an ninh trật tự ở trường học, phối hợp giải quyết những vấn đề cấp thiết xảy ra trong trường học… - Thứ ba: Nội dung phối hợp giữa nhà trường với các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội của địa phương gồm: + Liên kết giáo dục ở một số nội dung (phòng chống ma túy, HIV/AIDS và tệ nạn xã hội khác), xây dựng môi trường học tập không có tệ nạn xã hội và những tiêu cực khác. + Thông tin và tham mưu với địa phương đưa kết quả xếp loại hạnh kiểm học sinh làm tiêu chuẩn để bình chọn gia đình văn hóa, xếp loại Đảng viên, hội viên Hội cha mẹ học sinh… + Thông báo về địa phương những học sinh cá biệt vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật, phối hợp với địa phương và gia đình để cùng giáo dục. + Bàn giao học sinh về sinh hoạt hè cũng như tham gia các hình thức sinh hoạt khác tại địa bàn dân cư do Đoàn thanh niên địa phương phụ trách. Với vai trò là cầu nối trong công tác phối hợp với gia đình và xã hội, nhà trường sẽ chủ động tổ chức, điều hòa hoạt động phối hợp với các chủ thể trên theo những nội dung đã được xác định trong quy chế đồng thời kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm làm cơ sở tăng cường và nâng cao hiệu quả giáo dục và công tác phối hợp giữa các chủ thể. 2.3.2.4. Phát huy vai trò của nhà trường, gia đình và Đoàn thanh niên trong kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh Trong giáo dục nói chung, kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH riêng, nhà trường, gia đình và Đoàn thanh niên có vai trò rất quan trọng bởi tác động giáo dục của các chủ thể này là những tác động thường xuyên và trực tiếp đến quá trình học tập, rèn luyện của học sinh. Do đó, phát huy vai trò của các chủ thể này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh. Thực tiễn kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang những năm qua cho thấy còn rất nhiều hạn chế về phía nhà trường, gia đình và Đoàn thanh niên. Do đó, nâng cao vai trò của các chủ thể này trong kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH là một vấn đề cần phải quan tâm giải quyết. - Thứ nhất: Về phía nhà trường: cần phải xây dựng đội ngũ GVCN đáp ứng yêu cầu công tác: Trong nhà trường phổ thông, GVCN giữ vai trò rất quan trọng trong công tác giáo dục nói chung, GDĐĐ nói riêng cho học sinh vì GVCN là người quản lý toàn diện học sinh của lớp mà mình phụ trách, là cầu nối giữa Ban giám hiệu với các tổ chức trong nhà trường, giáo viên bộ môn với tập thể lớp, là người cố vấn, tổ chức các hoạt động tự quản của lớp, đồng thời cũng là người đứng ra phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của nhà trường. Do đó, để thực hiện tốt công tác phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội, trong thời gian sắp tới, cần đổi mới công tác chủ nhiệm cho phù hợp với tình thực tế, cụ thể là: + Ban giám hiệu trường phải thực hiện tốt việc phân công GVCN có phẩm chất và năng lực, nhiệt tình trong công tác; tạo mọi điều kiện, đôn đốc, giúp đỡ GVCN làm tốt nhiệm vụ của mình; có kế hoạch cụ thể về công tác chủ nhiệm ngay từ đầu năm học, có chỉ tiêu rèn luyện phấn đấu phù hợp với thực trạng của trường; thường xuyên thu nhận thông tin về tình hình, diễn biến đạo đức của học sinh do GVCN cung cấp, có biện pháp kịp thời nhằm ngăn chặn những tình huống xấu xảy ra. + Để GVCN thực hiện tốt nhiệm vụ của mình và để có cơ sở kiểm tra, đánh giá, xếp loại, cần xây dựng tiêu chuẩn GVCN như sau: GVCN là giáo viên bộ môn khá hoặc giỏi (hiện nay GVCN đồng thời là giáo viên bộ môn); khéo kết hợp với giáo viên bộ môn khác để nắm tình hình; thực hiện sáng tạo mọi chủ trương, biện pháp giáo dục học sinh mà lãnh đạo nhà trường đề ra; khéo vận động Hội cha mẹ học sinh quan tâm, cộng tác với nhà trường, với lớp do mình phụ trách, tạo môi trường giáo dục lành mạnh ở gia đình, nhà trường và xã hội; có kế hoạch thường xuyên giúp đỡ học sinh có khó khăn về học tập, rèn luyện đạo đức, hoàn cảnh gia đình; xây dựng được một đội ngũ cán bộ lớp năng động, tích cực để các em tự quản, tự giáo dục góp phần làm cho lớp học có nề nếp, kỷ luật. + Hiện nay, nhiều giáo viên không muốn làm GVCN vì quyền lợi không hơn gì những giáo viên khác mà trách nhiệm lại nặng nề và mất nhiều thời gian. Chế độ chính sách trong ngành cũng chưa có quy định nào công nhận vai trò của GVCN. Bên cạnh đó ngành giáo dục cũng chưa có trường lớp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này. Trong những năm tới, cần chuẩn hóa đội ngũ GVCN, đồng thời xác định chức danh nhà nước cũng như chế độ, chính sách hợp lý để đội ngũ này yên tâm công tác. + Để giúp GVCN thực hiện tốt vai trò của mình, giáo viên bộ môn, các cán bộ khác của trường cần tích cực hỗ trợ GVCN trong công tác quản lý, giáo dục học sinh, phản ánh kịp thời với GVCN về tình hình học sinh của lớp; tham gia đóng góp ý kiến trong việc đánh giá, xếp loại hạnh kiểm, xét kỷ luật học sinh. Việc hỗ trợ này cần được xem xét như một trong những tiêu chuẩn xếp loại, khen thưởng giáo viên bộ môn và cán bộ quản lý nhằm nâng cao trách nhiệm của họ trong công tác giáo dục, quản lý học sinh. - Thứ hai: Về phía gia đình: Để phát huy vai trò cũng như nâng cao ý thức của gia đình trong việc phối hợp với nhà trường, bên cạnh các hình thức phối hợp bắt buộc theo quy định của ngành giáo dục, tùy điều kiện từng nơi nhà trường có thể bổ sung, thay đổi cho phù hợp, chẳng hạn sổ liên lạc phải được sử dụng thường xuyên khi cần chứ không nhất thiết phải theo định kỳ hằng tháng như hiện nay hoặc nếu cha mẹ bận công việc ở xa, ốm đau không có điều kiện liên lạc với nhà trường thì GVCN sẽ liên lạc thông qua đại diện hội phụ huynh hoặc đại diện cộng đồng dân cư nơi học sinh cư trú. Đối với học sinh vi phạm nội quy trường học nhiều lần, nếu gia đình không có thiện chí phối hợp cùng nhà trường giải quyết hay những trường hợp gia đình không thực hiện các hình thức phối hợp bắt buộc mà không có lý do chính đáng, nhà trường sẽ gởi thông báo về địa phương. Thông báo này không chỉ là cơ sở để tổ dân phố họp kiểm điểm đối với phụ huynh mà còn có thể được xem như một trong những tiêu chuẩn để xếp loại gia đình văn hóa, xếp loại hội viên hội phụ huynh hay xếp loại cán bộ, nhân viên (nếu cha mẹ học sinh hiện đang là cán bộ, nhân viên). - Thứ ba: Về phía Đoàn thanh niên: Đoàn thanh niên là tổ chức chính trị của tuổi trẻ, là trường học để giáo dục chính trị, đạo đức, văn hóa và pháp luật cho học sinh. Thông qua tổ chức đoàn, học sinh được sinh hoạt trong một tập thể (chi đoàn, đoàn trường, đoàn cơ sở). Đó là mảnh đất, là cái “nôi” hình thành tư tưởng, tình cảm đạo đức tốt đẹp cho học sinh. Vai trò này được thể hiện thông qua các hoạt động của Đội thanh niên tình nguyện, các phong trào thi đua học tập, tu dưỡng phấn đấu rèn luyện để trở thành đoàn viên tốt. Thông qua các hoạt động của Đoàn, học sinh thực hiện nhiệm vụ của mình là học tốt, rèn luyện tốt. Để phát huy vai trò của tổ chức Đoàn trong GDPL và đạo đức cho học sinh, cần phải: + Xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh, đặc biệt là củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các chi đoàn vì đây là nơi trực tiếp quản lý giáo dục, rèn luyện học sinh. + Xây dựng chương trình hoạt động của Đoàn phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức nhằm thu hút đông đảo đoàn viên, thanh niên tham gia như tổ chức mô hình các câu lạc bộ thanh niên, đội thanh niên xung kích, đội thanh niên cờ đỏ để lồng ghép các nội dung GDPL, đạo đức. + Xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực công tác, có nhiệt huyết, được đoàn viên thanh niên tín nhiệm; thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn về kiến thức pháp luật và kỹ năng hoạt động đoàn, kỹ năng tập hợp, vận động đoàn viên cho cán bộ đoàn. + Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đoàn viên trong phong trào thanh niên bằng việc thực hiện có chất lượng chương trình “rèn luyện đoàn viên”; phân công nhiệm vụ cụ thể tới từng đoàn viên, gắn trách nhiệm đoàn viên với việc đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền lợi của họ trong tập thể. Đối với chi đoàn yếu kém cần phân công đoàn viên giúp đỡ bạn theo mô hình “đôi bạn cùng tiến”. + Đảm bảo nguồn kinh phí cho hoạt động đoàn, động viên khen thưởng kịp thời cả về tinh thần lẫn vật chất đối với những cán bộ đoàn năng nổ, có nhiều thành tích trong việc tập hợp đoàn viên, gây dựng, phát động và duy trì phong trào một cách hiệu quả, thiết thực. KẾT LUẬN Thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, những năm gần đây cùng với việc tuyên truyền GDPL cho mọi tầng lớp nhân dân, GDPL cho học sinh nói chung, học sinh PTTH nói riêng ở tỉnh Tiền Giang được quan tâm tiến hành song song, kết hợp chặt chẽ với GDĐĐ và đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, công tác này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập từ nội dung chương trình, từ hoạt động kết hợp GDPL và GDĐĐ ở nhà trường cho đến sự phối hợp giữa các chủ thể giáo dục. Làm thế nào để công tác GDPL kết hợp với GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang đạt được hiệu quả cao. Đó là mục đích đồng thời cũng là nội dung cơ bản của luận văn này. Quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tác giả đã cố gắng làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về lý luận kết hợp GDPL và GDĐĐ nói chung cũng như kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH nói riêng. Luận văn cũng đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến thực tiễn công tác GDPL kết hợp với GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang từ năm học 2003-2004 đến năm học 2007-2008. Kết quả nghiên cứu của luận văn là cở sở để tác giả đưa ra những kết luận sau: 1. GDPL là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành ý thức pháp luật, thái độ, động cơ và hành vi hợp pháp. Nhưng GDPL có đạt được hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, trong đó “gốc” đạo đức ở mỗi con người là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu giúp cho việc thực hiện pháp luật trở nên tự giác, triệt để hơn. Do đó GDPL phải kết hợp đồng bộ với GDĐĐ và gắn liền với GDĐĐ bởi đạo đức xã hội xuống cấp cũng đồng nghĩa với việc vi phạm pháp luật sẽ gia tăng. Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ: “Kỷ luật lao động, kỷ cương xã hội chỉ có thể được củng cố khi có một cơ chế quản lý đúng, có những biện pháp mạnh mẽ mang tính pháp luật cùng với việc giáo dục đạo đức xã hội” [13, tr.113]. 2. Học sinh PTTH là lứa tuổi chuẩn bị vào đời. Đây là lứa tuổi có nhiều biến đổi mạnh mẽ về tâm sinh lý: năng động, sáng tạo, nhiều hoài bão, ước mơ, luôn muốn hướng tới cái mới, cái lạ…Đặc điểm đó có thể dẫn tới hai xu hướng trong hành vi: nếu được giáo dục tốt, đúng hướng, các em sẽ trở thành những con người phát triển toàn diện, có đạo đức, thực hiện sáng tạo nhiệm vụ của người công dân mới. Ngược lại, các em có thể bị lôi kéo vào lối sống lai căng, thực dụng, coi thường, thậm chí phủ định những giá trị đạo đức, vi phạm pháp luật. Vì vậy, kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH là rất quan trọng và cần thiết. 3. Để kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải có sự thay đổi từ nhận thức cho đến hành động. Về nhận thức phải khắc phục tư tưởng phiến diện, một chiều về giáo dục để sản phẩm của giáo dục phải là những con người phát triển toàn diện. Về hành động phải đổi mới nội dung chương trình kết hợp GDPL và GDĐĐ bậc PTTH; nâng cao chất lượng GDPL kết hợp GDĐĐ trong nhà trường. Mặt khác, cần nhấn mạnh thêm rằng: dù nhà trường có cố gắng đến đâu đi chăng nữa mà thiếu sự phối hợp đồng bộ của gia đình, xã hội thì khó có thể đạt được kết quả mong muốn. Về vấn đề này, “Trong thư gửi các em học sinh” đăng trên báo Nhân dân, số 600, ngày 24/10/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Giáo dục các em là việc CHUNG của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách” [33, tr.74]. Theo Người, sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục học sinh phải mang tính đồng bộ, nhất là trong nội dung giáo dục, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” vì nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại thì sẽ có ảnh hưởng và kết quả không tốt. Vì vậy, để giáo dục học sinh thành người tốt, phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa 3 môi trường trên. Có thể nói, giáo dục nói chung, GDPL kết hợp với GDĐĐ cho học sinh PTTH nói riêng vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật và cũng là một nghề. Mang tính khoa học vì giáo dục phải có tổ chức, có định hướng dựa trên những quy luật, nguyên tắc nhất định. Mang tính nghệ thuật vì nó cần được vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, trong sự tác động đa chiều của các yếu tố khác nhau của đời sống xã hội. Là một nghề vì cần có chuyên môn sâu, tay nghề vững vàng và bản thân chủ thể giáo dục phải là những người mẫu mực. Chỉ trên cơ sở sự kết hợp đó giáo dục mới có khả năng tạo ra những con người phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mỹ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. G.Bandzeladze (1985), Đạo đức học, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương (2001), Tài liệu phục vụ nghiên cứu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Nguyễn Duy Bắc (2009), "Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cách mạng", Tạp chí Lý luận chính trị, (2). 4. Ths. Nguyễn Huy Bằng (2007), "Sáu mối quan hệ cơ bản liên quan đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng chống tội phạm trong học sinh, sinh viên", Tạp chí Giáo dục, (167). 5. PGS.TS Nguyễn Thanh Bình (2004), "Về giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam", Tạp chí Giáo dục, (86). 6. PGS.TS Nguyễn Thanh Bình (2005), "Quan niệm về chất lượng giáo dục phổ thông ở Việt Nam", Tạp chí Giáo dục, (122). 7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn GDCD, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2007), Giáo dục công dân 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2006), Giáo dục công dân 11, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2007), Giáo dục công dân 12, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 11. Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng bộ tỉnh Tiền Giang (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng Bộ tỉnh lần thứ VIII, Tiền Giang. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. TS. Nguyễn Minh Đoan (2008), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Trần Minh Đoàn (2001), Giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 19. Nguyễn Thị Thanh Hà (2007), Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 20. Nguyễn Thúy Hoa (2005), Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luật văn thạc sĩ luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 21. Ths. Nguyễn Đức Hòa (2008), "Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường phổ thông", Tạp chí Triết học, (5). 22. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Đạo đức học Mác-Lênin, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 23. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 24. Hoàng Hương (2009), “Lấy ưu chế khuyết”, Báo Tuổi trẻ, chủ nhật ngày 14/6/2009. 25. Đặng Phương Kiệt (chủ biên), Gia đình Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 26. Lê Tiêu La (2005), Tình trạng tội phạm của người chưa thành niên tại Việt Nam hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 27. Nguyễn Duy Lãm (1999), "Về công tác giáo dục pháp luật trong các trường phổ thông, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề", Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (4). 28. Nguyễn Đình Đặng Lục (2008), Giáo dục pháp luật trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 29. Nguyễn Đình Đặng Lục (2005), Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 30. Nguyễn Thị Thanh Mai (2003), "Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học pháp luật ở trường trung học phổ thông", Tạp chí Giáo dục, (74). 31. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Hồ Chí Minh (1997), Về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 39. Đoàn Tấn Minh (2009), Hoạt động của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án mà bị can là người chưa thành niên phạm tội tại tỉnh Tiền Giang, Luận văn thạc sĩ Luật, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. 40. Võ Văn Nam (2004), "Suy nghĩ từ những lời dạy của Bác đối với việc trồng người", Tạp chí Giáo dục, (95). 41. Nguyễn Thị Kim Ngân (2008), "Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông tỉnh Nghệ An", Tạp chí Giáo dục, (201). 42. Trần Nghị (2004), "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật", Tạp chí Nhà nước và pháp luật. 43. Nguyễn Văn Phúc (2006), "Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, Viện khoa học xã hội Việt Nam, (11). 44. Lương Hồng Quang (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội, Luận văn Thạc sĩ luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 45. Hoàng Thị Kim Quế (chủ nhiệm) (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ. 46. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (8). 47. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục, Nxb Lao động, Hà Nội. 48. Trần Thị Sáu (2008), "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (8). 49. J.Sandtrock (2004), Trần Thị Lan Hương biên dịch, Tìm hiểu thế giới tâm lý của tuổi vị thành niên, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 50. Sở Giáo dục và Đào tạo (2007), Công văn số 1162/SGD&ĐT-THPT về việc tổ chức “Tuần sinh hoạt công dân- học sinh” trong các trường phổ thông năm học 2007-2008. 51. Sở Giáo dục và Đào tạo Tiền Giang (2004), Báo cáo tổng kết năm học 2003 - 2004. 52. Sở Giáo dục và Đào tạo Tiền Giang (2005), Báo cáo tổng kết năm học 2004 - 2005. 53. Sở Giáo dục và Đào tạo Tiền Giang (2006), Báo cáo tổng kết năm học 2005 - 2006. 54. Sở Giáo dục và Đào tạo Tiền Giang (2007), Báo cáo tổng kết năm học 2006 - 2007. 55. Sở Giáo dục và Đào tạo Tiền Giang (2008), Báo cáo tổng kết năm học 2007 - 2008. 56. Nguyễn Văn Tài (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người", Tạp chí Triết học, (2). 57. Nguyễn Đức Thạc (2004), "Gian lận trong học tập và thi cử của học sinh- nhìn từ góc độ giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật", Tạp chí Giáo dục, (78). 58. Nguyễn Đức Thạc (2004), "Rèn luyện kỹ năng sống - Một hướng tiếp cận mới về chất lượng giáo dục - đào tạo", Tạp chí Giáo dục, (81). 59. Đỗ Thắng (2003), "Phương châm, phương pháp giáo dục thế hệ trẻ trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Giáo dục, (49). 60. Ths. Phạm Bích Thủy (2008), "Gia đình và vấn đề giáo dục hành vi đạo đức cho trẻ em trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Giáo dục, (192). 61. Vũ Tình (1998), Đạo đức học phương Đông cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62. Tỉnh Đoàn Tiền Giang (2004), Báo cáo tổng kết công tác Đoàn và phong trào thanh niên trường học năm học 2003 - 2004. 63. Tỉnh Đoàn Tiền Giang (2005), Báo cáo tổng kết công tác Đoàn và phong trào thanh niên trường học năm học 2004 - 2005. 64. Tỉnh Đoàn Tiền Giang (2006), Báo cáo tổng kết công tác Đoàn và phong trào thanh niên trường học năm học 2005 - 2006. 65. Tỉnh Đoàn Tiền Giang (2007), Báo cáo tổng kết công tác Đoàn và phong trào thanh niên trường học năm học 2006 - 2007. 66. Tỉnh Đoàn Tiền Giang (2008), Báo cáo tổng kết công tác Đoàn và phong trào thanh niên trường học năm học 2007 - 2008. 67. Tỉnh Đoàn Tiền Giang (2009), Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”. 68. Trần Văn Trầm (2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định- Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 69. Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang (2007), Báo cáo tổng kết chương trình phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến 2007 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf9_2196.pdf
Luận văn liên quan