Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khủng hoảng, Trung Nguyên phải đối m ặt
với nhiều thách thức. Nhưng để giữ vững thương hiệu, công ty đặt ra những
mục tiêu rất cụ thể. Trong khi một số thương hiệu cà phê tuyên bố phá sản hoặc
sáp nhập vào các thương hiệu lớn thì Trung Nguyên mạnh dạn đầu tư một số
dây chuyên công nghệ tối tân nhất thế giới để bảo đảm chất lượng và hương vị
của sản phẩm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp luôn chọn lựa các đối tác hàng đầu
để có thể chia sẻ chiến lược phát triển và tham gia hợp tác lâu dài. Hiện nay,
Trung Nguyên đã ký cam kết chiến lược và nghiên cứu những công nghệ, dây
chuyền “especially designed for Trung Nguyên” (được thiết kế đặc biệt dành
cho Trung Nguyên) với đối tác hàng đầu về công nghệ rang xay cà phê của thế
giới để tạo ra sản phẩm đảm bảo chất lượng. Không chỉ thế, Trung Nguyên còn
chú trọng phục vụ người tiêu dùng.
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2841 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khía cạnh văn hóa trong xây dựng và phát triển thương hiệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẳng định hình ảnh đặc thù của thương hiệu.
1.2. Bằng văn hóa, thương hiệu chinh phục tình cảm và niềm tin của
khách hàng
Với thị trường tràn ngập sản phẩm dịch vụ như hiện nay, phần lớn các
thương hiệu không có nhiều sự khác biệt lý tính thấy rõ và thường chỉ có một con
đường duy nhất để tồn tại trong tâm trí khách hàng là tạo dựng một sự liên kết cảm
xúc độc đáo nào đó. Những liên kết cảm xúc lâu dài gắn liền với một doanh
nghiệp hay một thương hiệu trong tâm trí khách hàng, và nó đem lại ấn tượng khó
phai mờ. Yếu tố “hấp dẫn” khách hàng đến với một doanh nghiệp không đơn thuần
dựa trên những giải thưởng (hàng chất lượng cao), xếp hạng (số “sao”) hay những
lời và khẩu hiệu quảng cáo phô trương, sáo rỗng (hơn cả tuyệt vời, chất lượng
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 6
tuyệt hảo), mà ở sự cảm nhận, lòng tin và sự quý mến của khách hàng đối với một
doanh nghiệp hay một thương hiệu qua nhiều thử nghiệm trong suốt thời gian dài.
Thương hiệu bao giờ cũng thể hiện mối quan hệ qua lại, sự gặp gỡ giữa
người phát và người nhận, giữa doanh nghiệp và đối tác, khách hàng, xã hội. Nó là
sự tương tác giữa tâm lý người phát và tâm lý người nhận. Trong ý nghĩa đó, xây
dựng thương hiệu chính là làm thế nào để một thương hiệu đọng lại lâu trong tâm
tưởng khách hàng. Đây là cách chiếm lĩnh bền vững, bởi vì nó chinh phục
tình cảm và niềm tin của khách hàng. Các chuyên gia gọi đó là “chia sẻ tâm trí”
(share of mind). Một thương hiệu khi đã gây được niềm tin nơi khách hàng thì
chính khách hàng này sẽ đi nói tốt cho thương hiệu đó. Họ nói với ai ? Với những
người gần gũi, thân thuộc và nhờ mối dây tình cảm và niềm tin sẵn có, người tiêu
dùng mới sẽ dễ bị thuyết phục. Cứ thế mà tiếng tốt cứ lan tỏa rộng. Mọi sự dẫn dụ,
mọi biện pháp tác động vào giác quan khách hàng hàng (bằng đơn thuần nhãn hiệu,
sử dụng quảng cáo, khuyến mãi) đều không phải là cách chiếm lĩnh lâu dài, nếu
không có sự chia sẻ tâm trí khách hàng. Cần nhớ rằng, thương hiệu thành công
phải là thương hiệu được “lưu giữ” trong tâm trí và trái tim của khách hàng. Hãy
nỗ lực khắc sâu những mối quan hệ tình cảm gắn kết trong bản sắc thương hiệu
của bạn, bởi vì sự thật là các khách hàng chỉ mua sản phẩm theo những nhãn hiệu
mà họ cảm thấy thỏa mãn, thích thú, chứ không hoàn toàn vì đặc điểm hay lợi ích
mà sản phẩm đó mang lại. Thương hiệu thật sự là cái gì đó nhiều hơn nữa chứ
không chỉ là một sự diễn đạt cụ thể đặc biệt. Chúng thu hút ta hữu thức và vô thức.
Chúng là những cấu trúc hữu hình, nhưng cùng lúc đó, chúng cũng là những ảo
giác. Chúng lôi cuốn cảm xúc cũng như lý trí của chúng ta. Thương hiệu là nơi tích
tụ các giá trị vô hình.
Một thương hiệu mạnh trước hết phải tạo được văn hóa cho nó, nền văn hóa
này trở thành một phần văn hóa của xã hội. Trang bị cho thương hiệu một sức sống
văn hóa tức là trang bị một bản sắc và sức bật nội tại để có khả năng thích nghi
được với sự thay đổi trong những hoàn cảnh kinh doanh khác nhau.
2. Văn hóa công ty và thương hiệu
2.1. Văn hóa doanh nghiệp là yếu tố không thể thiếu trong cấu thành
của hình ảnh thương hiệu
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 7
Hình ảnh thương hiệu là tất cả những sự liên tưởng khi khách hàng nghĩ đến
một thương hiệu, là một tập hợp những liên kết có tổ chức dưới dạng hình ảnh hiển
thị hay hình ảnh trong tâm thức đối tượng tiêu dùng. Tạo dựng hình ảnh thương
hiệu là một việc làm mang tính chiến lực và dài hạn rất cao. Vì vậy nó đòi hỏi phải
có sự đồng lòng và cam kết xuất phát từ cấp lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp.
Nếu hiểu thương hiệu là những giá trị của doanh nghiệp mà khách hàng, xã hội
nhận thức được thì văn hóa doanh nghiệp là một phần không thể thiếu để cấu thành
nên hình ảnh thương hiệu. Việc xây dựng thương hiệu phải là công việc đồng bộ từ
cấu trúc đến môi trường văn hóa doanh nghiệp, chăm lo các sản phẩm, dịch vụ
đồng thời cũng không được quên quảng bá hình ảnh và tên tuổi của mình. Đương
nhiệm ở các doanh nghiệp khác nhau, sự kế hợp, gia giảm các yếu tố trên sẽ phải
khác nhau.
Một doanh nghiệp sẽ trở nên danh tiếng bởi chất lượng sản phẩm, tinh thần,
thái độ phục vụ khách hàng v.v... chứ không hẳn là bởi một biểu tượng đẹp (mặc
dù một biểu tượng đẹp là rất quan trọng). Một doanh nghiệp điện thỉnh thoảng lại
để mất điện ; một doanh nghiệp nước thỉnh thoảng lại cúp nước chỉ tạo ra sự bực
dọc của khách hàng cho dù biểu tượng của chúng có đẹp đến đâu đi nữa. Đặc biệt
trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ thì điều này thể hiện trực giác, trực điện, khách
hàng cảm nhận một cách dễ dàng. Cung cách giao tiếp, thái độ ứng xử, sự thể hiện
các mối quan hệ xã hội – tất cả đều tạo ra những cảm nhận tiêu cực hay tích cực
đối với một thương hiệu và qua một quá trình trải nghiệm, khách hàng sẽ có ấn
tượng tốt hay xấu về một thương hiệu. Tất cả những điều nói trên đòi hỏi doanh
nghiệp phải xây dựng văn hóa doanh nghiệp, phải có triết lý kinh doanh, đạo đức
kinh doanh ... Trước khi tạo dựng lòng tin nơi khách hàng, nội bộ doanh nghiệp
phải tin vào chính mình, tin vào sản phẩm, dịch vụ của mình. Doanh nghiệp cần
phải thể hiện tính nhân văn, triết lý lấy con người làm gốc ngay trong các mối quan
hệ nội bộ cũng như chiến lược phát triển kinh doanh của mình. Đó là điều mà
người ta gọi là xây dựng thương hiệu từ bên trong.
Thực hiện lời hứa thương hiệu là việc phải làm của bất kỳ một doanh nghiệp
nào muốn tíêp tục duy trì danh tiếng của mình. Và muốn thực hiện lời hứa thương
hiệu, doanh nghiệp phải chú ý đến văn hóa của tổ chức, nó sẽ là nhân tố quan trọng
quyết định khả năng giữ lời hứa của doanh nghiệp đối với khách hàng của mình.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 8
Văn hóa doanh nghiệp còn thể hiện qua việc xây dựng các sản phẩm hàng
hóa có thương hiệu. Một khi các sản phẩm hàng hóa đã khẳng định được thương
hiệu thì sản phẩm hoặc hàng hóa đó giữ gìn được qua rất nhiều đời, có khi hàng
trăm năm. Điều này rất quan trọng, qua thương hiệu của sản phẩm nói lên được
mức độ phát triển và sự văn minh của xã hội đó. Trong một xã hội văn minh và ổn
định, người tiêu dùng chỉ mua và sử dụng những hàng hóa nào có thương hiệu.
Đây chính là điều lớn mà văn hóa doanh nghiệp đã làm được bởi bản chất của văn
hóa là cái đẹp, cái tốt, là cái có chất lượng được tin cậy. Một thị trường có số hàng
hóa có thương hiệu nhiều bao nhiêu thì nó sẽ làm diện mạo của thị trường đó sang
trọng, văn minh và ổn định vững vàng lên bấy nhiêu. Một bản chất văn hóa nữa
của văn hóa doanh nghiệp là chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm tạo ra
được uy tín nhất định cho doanh nghiệp và từ đó góp phần tạo nên nét văn hóa cho
doanh nghiệp và bản sắc riêng của từng doanh nghiệp. Một sản phẩm có bề dày
thời gian càng lâu càng chứng tỏ được chất lượng của nó bởi trải qua bao nhiêu
thời gian thì sản phẩm đó có bấy nhiêu lần cải tiến cả về chất lượng lẫn mẫu mã và
ngày càng tốt lên, đẹp lên, hoàn thiện hơn. Các sản phẩm mà doanh nghiệp làm ra
góp phần tạo nên diện mạo của chính doanh nghiệp đó và nó trở thành nền tảng
vững chắc cho sự phát triển kinh tế của một nhà nước.
Một thương hiệu có thành công hay không, điều đó phụ thuộc vào những
hành động hàng ngày của người lãnh đạo và tất cả nhân viên của họ, chúng có song
hành cùng lời hứa mà thương hiệu đó cam kết mang đến cho khách hàng hay
không và doanh nghiệp đó xây dựng được mối liên hệ tình cảm với đội ngũ nhân
viên của mình hay không. Vẻ bề ngoài của thương hiệu (external brand) được tiếp
sức bởi năng lượng từ bên trong (internal), đó là sự đồng lòng của nhân viên với
các nhà lãnh đạo đã làm nên một văn hóa doanh nghiệp liên kết chặt chẽ với khách
hàng của mình. Thay vì phải đổ rất nhiều tiền cho quảng cáo, khuyến mãi, doanh
nghiệp nên chú trọng việc “huấn luyện nụ cười”, xây dựng một phong cách ứng sử
văn hóa cho nhân viên, quan tâm đến các mối quan hệ giao tiếp với khách hàng...
Đó là cách quảng bá thương hiệu tốt nhất mà ít tốn kém.
Một bộ phận marketing có thể “vẽ ra” những gì mà một thương hiệu hứa hẹn
với khách hàng của mình nhưng những nhà lãnh đạo và toàn bộ con người của
doanh nghiệp đó phải “ủng hộ, phát huy và gìn giữ” lời hứa đó. Mỗi ngày, các
nhân viên của doanh nghiệp không chỉ hành động “nhân danh” một doanh nghiệp
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 9
mà còn “trở thành” doanh nghiệp đó, là “hiện thân” của nền văn hóa mà họ mang
đến cho những người mà họ tiếp xúc. Việc xây dựng thương hiệu không đơn giản
chỉ là một kế hoạch của phòng marketing. Tất cả các nhân viên quản lý phải theo
dõi xem những quyết định, cách cư xử và đối thoại của họ với nhân viên cấp dưới
đã tạo ảnh hưởng thế nào với niềm tin của khách hàng và với việc xây dựng thương
hiệu. Các quản trị viên cấp cao phải thường xuyên “sự soi gương” để nhìn lại năng
lực lãnh đạo của họ, khả năng tạo nên một môi trường làm việc có thể “truyền đi”
hình ảnh tốt nhất của một thương hiệu. Nếu các nhân viên nhận được những quyết
định, cách hành xử và đối thoại mâu thuẫn với “thông điệp” mà thương hiệu muốn
chuyển tải thì cam kết của họ với việc xây dựng thương hiệu sẽ giảm đi, “cân
xứng” với sự chỉ trích và tâm trạng thất vọng mà họ cho là thỏa đáng.
Cách hành xử của các quản trị viên cấp cao là nền tảng để xây dựng một nền
văn hóa doanh nghiệp hỗ trợ cho sự phát triển của một thương hiệu. Công việc của
các nhà quản lý cấp cao thường dựa trên văn hóa doanh nghiệp hướng đến xây
dựng thương hiệu. Có một số doanh nghiệp đang đầu tư vào những giải pháp phát
triển khả năng lãnh đạo nhằm giúp đỡ các nhà quản lý cấp cao thực hiện tốt việc
quản lý nhân sự của mình và điều chỉnh văn hóa tổ chức thích hợp nhằm tận dụng
tốt những nguồn lực nhân sự hướng đến thực hiện lời hứa thương hiệu.
2.2. Thương hiệu là yếu tố làm nên nét văn hóa riêng biệt của công ty
Xây dựng thương hiệu thực chất là việc tạo dựng một bản sắc riêng cho
doanh nghiệp. Xây dựng thương hiệu sẽ xoay quanh phần hồn là những giá trị cốt
lõi của doanh nghiệp để tạo dựng hình ảnh và những cam kết đối với khách hàng
một cách nhất quán. Các giá trị cốt lõi là đặc trưng của thương hiệu, là dấu ấn tồn
tại trong tâm trí khách hàng một cách sâu đậm nhất và tạo nên khác biệt so với
các thương hiệu khác. Nếu thương hiệu không có bản sắc riêng, nó chỉ là một
nhãn hiệu hàng hóa đơn thuần. Nhưng một khi đã tìm được chỗ đứng cho mình
trong tâm trí khách hàng, bản sắc thương hiệu sẽ phát huy vai trò “giữ chân”
khách hàng cũng như xây dựng lòng trung thành của họ đối với thương hiệu. Với
tinh thần như vậy, những khoản chi dành cho xây dựng thương hiệu nói riêng và
marketing nói chung cần được xem như khoản đầu tư hơn là chi phí hoạt động của
doanh nghiệp. Bản sắc thương hiệu không chỉ mang lại cho khách hàng sự hài lòng
thỏa mãn, sự trông đợi mà hơn cả là một niềm tin bền vững. Bản sắc thương hiệu
có thể là một bản tuyên bố chiến lược hay một tập hợp các thông điệp có cùng nội
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 10
dung. Thể hiện hình ảnh doanh nghiệp, những lĩnh vực mà doanh nghiệp đang
tham gia, định hướng phát triển trong tương lai, nguyên nhân làm nên sự khác biệt
so với các doanh nghiệp khác cùng ngành ...
Chính sự khác biệt của thương hiệu là yếu tố làm nên nét văn hóa riêng biệt
của doanh nghiệp. Sự khác biệt đó có thể thể hiện trong sản phẩm của nó, trong
dịch vụ mà nó cung cấp, trong ý tưởng, trong khách hàng sử dụng sản phẩm của
nó.
Thương hiệu của doanh nghiệp đại diện cho hình ảnh những con người ở bên trong
và bên ngoài của doanh nghiệp. Nó bao gồm những nhân viên, đối tác, những cổ
đông, cộng đồng địa phương chứ không chỉ là khách hàng. Nhân viên của doanh
nghiệp là thương hiệu của doanh nghiệp, thương hiệu của doanh nghiệp thể hiện
văn hóa của doanh nghiệp và khách hàng của doanh nghiệp cuối cùng sẽ là người
tiếp nhận nền văn hóa đó. Đối với khách hàng, nhân viên của doanh nghiệp sẽ là
người thể hiện và định hình thương hiệu của doanh nghiệp, có thể sẽ là hình ảnh
tích cực hay có thể là tiêu cực. Nhân viên không chỉ làm việc với tư cách là người
đại diện của doanh nghiệp mà còn trở thành một phần của tổ chức, nó là văn hóa
giữa những con người có liên quan đến nhau trong cùng một tổ chức.
Vì vậy, doanh nghiệp cần định hình một phong cách văn hóa riêng để mọi người,
mọi bộ phận trong doanh nghiệp cùng làm việc hướng đến một bản sắc thương
hiệu riêng. Thương hiệu của doanh nghiệp phải thực sự là động lực làm việc của
tập thể, chứ không chỉ đơn thuần là công việc của bộ phận tiếp thị.
II- NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI XÂY DỰNG LOGO, SLOGAN
CỦA THƯƠNG HIỆU
1. Xây dựng logo của thương hiệu
Khi xây dựng logo của thương hiệu, cần chú ý một số khía cạnh thuộc về
văn hóa sau:
- Logo của thương hiệu phải có ý nghĩa văn hóa đặc thù, mang bản sắc
của một nền văn hóa nhất định: Biểu tượng đưa vào logo phải thích ứng với văn
hóa và lịch sử doanh nghiệp, đồng thời phù hợp với đối tượng doanh nghiệp
hướng tới, truyền tải những mục tiêu định vị hay đặc trưng của thương hiệu.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 11
Nhiều khi chính việc lựa chọn này quyết định đến sự thành công hay thất bại của
công ty trên thị trường. Chẳng hạn, nếu logo của một doanh nghiệp là biểu
tượng của Thái Lan, người ta sẽ cho rằng doanh nghiệp đó kinh doanh hàng hóa
hay dịch vụ liên quan đến người Thái Lan hay người Á Đông, truyền tải những
mục tiêu định vị hay đặc trưng của thương hiệu. Logo hình quả địa cầu đối với
các ngành dịch vụ nói chung trong một chừng mực nhất định mang ý nghĩa văn
hóa đặc thù, gần gũi với người tiêu dùng và chúng là phương án tốt, dễ dàng
tích hợp vào quá trình phát triển thương hiệu. Tuy vậy, chúng đã trở nên phổ
biến và được sử dụng rộng rãi thì đồng thời chúng tự mất dần khả năng phân
biệt của nhãn hiệu do đó, không còn tác dụng trong quá trình phát triển thương
hiệu.
- Logo của thương hiệu phải có khả năng thích nghi trong các nền văn
hóa hay ngôn ngữ khác nhau. Khách hàng ở các nước khác nhau, có nền văn hóa
khác nhau và ngôn ngữ khác nhau thường có cách hiểu khác nhau đối với các
hình ảnh hay ký hiệu. Trên thực tế khó có thể tìm được những logo có thể được
hiểu giống nhau ở nhiều nền văn hóa khác nhau. Vì vậy cách tốt nhất để tạo ra
một thương hiệu có khả năng thích nghi cao là không nên chọn hình ảnh mang ý
nghĩa sẵn có theo một nền hay ngôn ngữ nào mà nên sáng tạo ra những hình ảnh
mới rồi gắn chúng với các liên tưởng về sản phẩm. Nhìn chung hầu hết logo của
các doanh nghiệp Việt Nam được nghiên cứu đảm bảo được khả năng thích nghi
khi thâm nhập thị trường mới do ít sử dụng những hình ảnh mang tính địa
phương cục bộ trong thiết kế logo. Tuy nhiên, cá biệt vẫn có những doanh
nghiệp sử dụng những hình ảnh mang tính địa phương - những hình ảnh chỉ có ý
nghĩa với một nhóm khách hàng nhất định - làm hình ảnh chủ đạo trong logo của
mình.
2. Xây dựng câu khẩu hiệu (Slogan) của thương hiệu
Khẩu hiệu là phần không được pháp luật bảo hộ, nhưng nó lại là những dấu
hiệu quan trọng để thể hiện ý tưởng và thông điệp mà doanh nghiệp muốn đưa tới
người tiêu dùng. Thông qua khẩu hiệu, khách hàng có thể cảm nhận phần nào
chiến lược và định hướng của doanh nghiệp cũng như những lợi ích đích thực và
tiềm năng mà hàng hóa mang lại cho họ. Khẩu hiệu là nét riêng để phân biệt, thậm
chí chỉ gọi thay tên doanh nghiệp và cũng từ sự phân biệt mới thấy được bản chất
văn hóa, triết lý kinh doanh của từng doanh nghiệp. Qua khẩu hiệu, có thể thấy
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 12
ngay tiền đồ của doanh nghiệp được xác định như thế nào. Khẩu hiệu của thương
hiệu về nguyên tắc phải ngắn gọn, chứa đựng thông điệp quan trọng cần truyền tải
và tốt nhất hãy khơi dậy niềm tự hào dân tộc, tạo cảm giác sang trọng hoặc tò mò
khi tiêu dùng sản phẩm.
Khi xây dựng câu khẩu hiệu của thương hiệu, cần chú ý một số khía cạnh
thuộc về văn hóa sau.
- Cần phải đối chiếu ý nghĩa của khẩu hiệu trong những ngôn ngữ khác
nhau.
Rắc rối sẽ nảy sinh với những giới hạn về ngoại ngữ và thường liên quan
đến sự khó khăn trong dịch thuật. Đặc biệt nghiêm trọng khi các doanh nghiệp sử
dụng những phiên dịch tồi cho công việc xây dựng thương hiệu của mình chỉ đơn
giản vì muốn tiết kiệm tiền hoặc cẩu thả trong khi chọn người hoặc doanh nghiệp
làm phiên dịch.
Hãy nỗ lực tìm hiểu ngôn ngữ và văn hóa của nước mà bạn đang nhắm tới
để xóa bỏ những khác biệt văn hóa và tìm ra điểm chung như vậy những xung đột
văn hóa sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều.
- Không chọn những khẩu hiệu chung chung. Khẩu hiệu là một lời văn ngắn
gọn diễn tả cô đọng về lợi ích sản phẩm và gợi nhớ. Khẩu hiệu phải lột tả được cái
tinh túy của nhãn hiệu, sản phẩm và mang tính đặc trưng cho loại sản phẩm đó.
Một lỗi thường vấp của các câu khẩu hiệu là rất tổng quát như “chất lượng cao,
phục vụ tốt, giá cả phải chăng, sử dụng hiệu quả”. Những câu khẩu hiệu loại này
không lột tả được đặc tính và lợi ích riêng biệt của sản phẩm, không tạo được sự
khác biệt và đặt vào loại sản phẩm nào cũng đúng dẫn tới kết quả là khách hàng sẽ
không chú ý và không nhớ tới nhãn hiệu khi nghe những câu khẩu hiệu loại này.
Chẳng hạn, một trong những câu slogan trong loạt quảng cáo rầm rộ cho một tủ
sách dạy kinh doanh của tổ chức quốc tế M. là: “Kinh doanh phát đạt hơn, nhanh
hơn”. Nhiều nhà kinh doanh cũng không hiểu rõ “kinh doanh nhanh hơn” là kinh
doanh như thế nào, là quyết định nhanh hơn, quay vòng vốn nhanh hơn hay còn ý
nghĩa nào khác!
- Không nên sử dụng các khẩu hiệu nhạt nhẽo, vô bổ, nghèo nàn ý nghĩa.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 13
Câu khẩu hiệu có thể được xem như yếu tố thương hiệu linh hoạt và dễ
chuyển đổi nhất theo thời gian. Tuy nhiên, khi thay đổi một câu khẩu hiệu, chúng
ta cần cân nhắc xem:
• Câu khẩu hiệu hiện tại có thể đóng góp vào giá trị thương hiệu như thế
nào qua việc tăng cường nhận thức và hình ảnh về thương hiệu.
• Những đóng góp này có nhiều không và do đó có cần phải tiếp tục duy
trì câu khẩu hiệu này không.
• Nếu thay đổi, câu khẩu hiệu mới cần cố gắng kế thừa những ưu điểm nổi
trội của câu khẩu hiệu cũ:
Khi xây dựng cac thành tố thương hiệu cần lưu ý tính đặc thù văn hóa, sự
khác biệt văn hóa.
Xâm nhập vào một thị trường mới, thương hiệu thường bị xem như đã xâm
phạm một cách đột ngột vào nền văn hóa của thị trường bản địa. Văn hóa bản địa
trở thành rào cản cho bất cứ một thương hiệu nào muốn xâm nhập vào một thị
trường mới. Văn hóa địa phương là một thách thức đối với các nhà quản lý cho bất
cứ một thương hiệu nào. Hiểu biết về nền văn hóa ở các địa phương, các thị trường
khác nhau và điều vô cùng quan trọng. Ở những địa phương, những quốc gia khác
nhau, con người, khách hàng có những thói quen, thị hiếu, nhu cầu, tập quán khác
nhau. Ngay cả màu sắc đặc trưng của thương hiệu cũng cần được lưu ý, bởi lẽ ở
mỗi quốc gia có những quan niệm khác nhau về màu sắc. Do đó khi xây dựng
thương hiệu, doanh nghiệp sẽ phải vượt qua sự ngăn cách, sự khác biệt về các nền
văn hóa khác nhau. Những chiến lược phát triển thương hiệu cứng nhắc sẽ dần
làm mất đi sự đa dạng của văn hóa.
Một thương hiệu lớn toàn cầu, đồng nghĩa với sự gần gũi và thân thiện với
người tiêu dùng ở các nền văn hóa khác biệt, nhưng những đặc trưng này có thể có
giá trị đối với dân tộc hoặc nền văn hóa này song lại không có ý nghĩa gì đối với
một dân tộc hoặc nền văn hóa khác.
Trong nền văn hóa Việt Nam, bày tỏ tự tin bị coi như kiêu ngạo, nhưng kinh
doanh kiểu Mỹ, khiêm tốn và lịch sự có thể bị coi như thiếu tự tin và thiếu khả
năng. Vì thế, việc tạo sự nhất quán cho thương hiệu là vô cùng cần thiết.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 14
Nên nghiên cứu giá trị và đặc tính văn hóa các dân tộc để lồng vào sản phẩm
chứ không thể áp đặt những giá trị văn hóa của mình trên sản phẩm bán cho người
bản địa.
Những hình ảnh tốt về các thương hiệu quốc tế cần phải được cân đối với
mức độ sở thích của người tiêu dùng tại mỗi nước. Một sự pha trộn hợp lý những
kiểu “văn hóa kinh doanh” khác nhau tại các nước khác sẽ kích thích việc kinh
doanh.
Thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng ở các nền văn hóa khác nhau cũng
rất khác nhau. Thương hiệu cũng phải thay đổi nhất định về cách thức, kỹ thuật để
phù hợp với thị hiếu, văn hóa của mỗi vùng khác nhau.
III- NHẬN THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VỀ TẦM
QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
THƯƠNG HIỆU
Thương hiệu là chìa khóa thâm nhập thị trường nước ngoài và thành công
bền vững tại thị trường trong nước. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn thành công
lâu dài trên thị trường quốc tế đều phải xây dựng được thương hiệu hấp dẫn, phù
hợp và thống nhất cho khách hàng. Phát triển thương hiệu riêng cho doanh nghiệp
là một nhân tố quan trọng quyết định thành bại của công ty.
Việc Việt Nam chưa có thương hiệu đủ mạnh để có thể cạnh tranh với các
thương hiệu nước ngoài ngay trên thị trường nội địa là do: Không phải doanh
nghiệp nào cũng nhận thức được một cách đầy đủ về thương hiệu và tầm quan
trọng của việc xây dựng và phát triển thương hiệu. Ở tầm quốc gia cũng chưa có
một chương trình tổng thể nhằm tăng cường hình thức và hỗ trợ doanh nghiệp xây
dựng, bảo vệ, quảng bá và phát triển các thương hiệu Việt Nam.
Trước hết phải làm thay đổi nhận thức của doanh nghiệp về thương hiệu,
giúp doanh nghiệp ý thức được rằng việc cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm,
cạnh tranh bằng giá cả là chưa đủ mà còn phải có một chiến lược hoàn chỉnh để
xây dựng một chỗ đứng thương hiệu của riêng mình, chương trình cần đẩy mạnh
kiến thức về thương hiệu trong cộng đồng doanh nghiệp, đưa thương hiệu thành
một phần của nền văn hóa kinh doanh. Thông qua chương trình phát động một
phong trào xây dựng thương hiệu trong cộng đồng doanh nghiệp cả nước.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 15
Tuy nhiên, cũng cần tránh những quan niệm sai lầm như chi tiêu quá mức
vào thương hiệu trong khi bỏ qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ hậu
mãi, tránh những ngộ nhận rằng cứ tạo ra nhãn hiệu là tạo được giá trị gia tăng,
giải quyết được mọi vấn đề của doanh nghiệp, như khả năng cạnh tranh, uy tín và
vị thế trên thị trường.
*Tại sao phải đầu tư một hệ thống xây dựng thương hiệu?
Cho đến nay, hệ thống xây dựng thương hiệu đã giữ một vai trò quan trọng
đối với sự phát triển tổng thể của thương hiệu. Nó cho thấy một sự đầu tư nghiêm
túc, chuyên nghiệp, dễ dàng được chấp nhận về mặt nhận thức và nó trở nên một
phần của văn hóa công ty.
Những lý do tiêu biểu nhất có thể thấy là:
* Người tiêu dùng nhận biết được và nghĩ ngay đến sản phẩm và dịch vụ
của công ty khi có nhu cầu:Hệ thống nhận diện thương hiệu mang đến cho khách
hàng những giá trị cảm nhận cả về lý tính lẫn cảm tính, gây ra cho khách hàng tâm
lý mong muốn được sở hữu sản phẩm, được trải nghiệm dịch vụ mang thương hiệu
của doanh nghiệp đó.
* Thuận lợi cho việc bán hàng, gia tăng doanh số: Lực lượng bán hàng của
doanh nghiệp sẽ tự tin trước khách hàng với sự xuất hiện của họ trong một hệ
thống nhận thương hiệu hoàn hảo. Đồng thời gia tăng niềm tin của khách hàng khi
sử dụng dịch vụ, sản phẩm mà ở đâu họ cũng có thể thấy được thương hiệu đó.
* Gia tăng giá trị của doanh nghiệp: Tạo thế mạnh cho doanh nghiệp nâng cao
và duy trì vị thế và uy tín với cổ đông, đối tác, nhà đầu tư. Nhất là khi kêu gọi vốn
đầu tư, doanh nghiệp sẽ tạo ra ấn tượng và niềm tin với các chủ đầu tư, đối tác với
hệ thống thương hiệu mang tính chuyên nghiệp.
* Tạo niềm tự hào cho nhân viên: Giá trị tinh thần, niềm tự hào khi được làm
việc trong một môi trường chuyên nghiệp, mang đến cho khách hàng thương hiệu
nổi tiếng mà ai cũng mong muốn sở hữu nó. Góp phần tạo động lực, niềm say mê
và nhiệt huyết của nhân viên trong công việc, gia tăng sự gắn bó và lòng trung
thành của nhân viên.
* Lợi thế cạnh tranh: Hồ sơ dự thầu của doanh nghiệp với đầy đủ các yếu tố nhận
biết thương hiệu sẽ dễ dàng đánh bại các đối thủ cạnh tranh trong đấu thầu, và là
cơ sở để dễ dàng thành công trong thương lượng.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 16
* Góp phần quảng bá thương hiệu và tồn tại lâu hơn những quảng cáo trên báo,
đài...
* Thể hiện tầm nhìn của doanh nghiệp và sức mạnh của thương hiệu.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi cạnh tranh trên thị trường đồng
nghĩa với việc buộc phải hạ giá các sản phẩm không tên tuổi, các DN Châu Á nói
chung và VN nói riêng đang phải dần chuyển đổi nhận thức về sức mạnh của
thương hiệu đối với việc thu hút khách hàng và khả năng tái sinh lợi lớn hơn trong
đầu tư.
Ảnh minh họa (do nhóm sưu tầm)
Nếu mục tiêu chủ yếu của lãnh đạo DN là xây dựng, duy trì và phát triển giá
trị cho cổ đông thì xây dựng và phát triển thương hiệu chính là cách tốt nhất để gia
tăng giá trị đó.
Gia tăng giá trị
Hiện nay nhiều DN VN vẫn theo lối mòn truyền thống, tập trung đầu tư cho
các loại tài sản hữu hình như nhà máy, đất đai, công xưởng... Những tài sản vô
hình như sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghệ và sản phẩm, hệ thống và thương hiệu
nhìn chung ít được quan tâm thích đáng. Điều này được phản ánh thông qua tỷ lệ
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 17
phần trăm giá trị tài sản vô hình so với tổng giá trị của doanh nghiệp tính trên thị
trường – chỉ chiếm khoảng dưới 20% hoặc thậm chí thấp ngay cả tại những DN
trong Danh sách 500 DN lớn nhất VN về doanh thu (VNR500).
Câu hỏi đặt ra ở đây là vì sao VN chưa có các DN, các thương hiệu mạnh
tầm cỡ khu vực và thế giới? (Hiện tại mới chỉ có Cty cổ phần sữa VN (Vinamilk)
là DN VN đầu tiên và duy nhất lọt vào danh sách 200 DN tốt nhất tại Châu Á -
Thái Bình Dương do Tạp chí Forbes Asia (Asias 200 Best Under A Billion) lựa
chọn trong năm 2010 (dựa trên các tiêu chí về lợi nhuận, tăng trưởng, số tiền nợ và
triển vọng. Danh sách “Best under a billion” chọn ra những DN làm ăn tốt nhất từ
hơn 12.000 DN có niêm yết cổ phiếu tại sàn giao dịch, với doanh thu dưới 1 tỉ
USD). Theo Martin Roll - chuyên gia, chiến lược gia nổi tiếng về thương hiệu toàn
cầu trong cuốn “Chiến lược thương hiệu Châu Á”, ở Châu Á nói chung và VN nói
riêng vẫn chưa có được những DN có thương hiệu mạnh (mà giá trị thương hiệu và
tài sản vô hình có khi gấp nhiều lần giá trị tài sản hữu hình) là do: trình độ phát
triển kinh tế của xã hội còn thấp, thiếu tập trung vào sự đổi mới, sự đa dạng hóa
mở rộng của các hoạt động kinh doanh, cấu trúc của DN, vấn đề bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ.
Khác hẳn với những đồng sự của họ ở phương Tây, nhiều nhà lãnh đạo DN
VN vẫn rất bảo thủ trong việc đầu tư vào các tài sản vô hình như thương hiệu.
Công tác xây dựng thương hiệu bị đánh đồng với “truyền thông tiếp thị” (quảng
cáo), bị hiểu như một khoản chi phí thuộc ngân sách tiếp thị trong báo cáo lãi lỗ, bị
coi là nằm trong và thường chịu sự quản lý của bộ phận marketing vốn không được
đề cao lắm trong cấu trúc DN.
Đồng thời, do tính chất đặc thù của các DN lớn VN hầu hết thuộc sở hữu
nhà nước, sở hữu gia đình, nên lãnh đạo DN thường có tầm nhìn ngắn hạn trong
đầu tư phát triển thương hiệu. Tầm nhìn này sẽ không hỗ trợ được cho DN trong
việc xây dựng những thế mạnh để cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.
Thách thức đối với các DN VN với thương hiệu địa phương chỉ thực sự hiện hữu
khi DN buộc phải tìm cách xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài.
Hành động của lãnh đạo
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 18
Điều cần thiết đối với các DN VN là khát khao của lãnh đạo cạnh tranh
thành công trong tương lai, đạt được tổng lợi nhuận nhiều hơn và gia tăng sự trung
thành của khách hàng.
Chọn thương hiệu như khâu mấu chốt để nâng tầm DN, nhận thức được các
vấn đề như đã nêu trên, sự thay đổi phải xuất phát từ tư duy và hành động của lãnh
đạo DN. Trước hết cần làm sao để có bước chuyển đổi tư duy về thương hiệu: từ
cái nhìn chiến thuật đến tầm nhìn dài hạn và mang tính chiến lược; từ các hoạt
động marketing nhỏ lẻ đến các hoạt động xây dựng thương hiệu tổng thể; từ cách
nhìn thương hiệu thuộc trách nhiệm của bộ phận marketing đến coi xây dựng
thương hiệu là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất được dẫn dắt trực tiếp
bởi lãnh đạo DN.
Hầu hết lãnh đạo DN lớn VN thường ngại xuất hiện trên các phương tiện
truyền thông, ngoại trừ những trường hợp bất khả kháng. Thay đổi tư duy và hành
động, lãnh đạo DN có thể tận dụng tối đa các cơ hội để giới thiệu và quảng bá cho
thương hiệu của DN mình, cả ở trong nước và ngoài nước. Với cách tư duy đúng
đắn và niềm tin vào thương hiệu, hành trình tiến lên phía trước của DN do lãnh đạo
dẫn dắt sẽ có nhiều khả năng thành công.
Thương hiệu là một trong các nhân tố quan trọng góp phần duy trì, mở
rộng, phát triển thị trường trong và ngoài nước cho các doanh nghiệp, nâng
cao văn minh thương mại, góp phần chống cạnh tranh không lành mạnh.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, các doanh nghiệp đứng
trước việc cạnh tranh gay gắt, nhất là khi có nhiều hàng hóa của nước ngoài
thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Vì vậy, điều hết sức cần thiết là các
doanh nghiệp phải xây dựng thương hiệu cho hàng hóa của mình.
IV- PHÂN TÍCH CÂU KHẨU HIỆU NGÂN HÀNG ACB
“Luôn hướng đến sự hoàn hảo để phục vụ khách hàng”
ACB luôn xem khách hàng là yếu tố hàng đầu và quan trọng nhất trong hoạt động
của ngân hàng. Không tự mãn với những gì đạt được, ACB luôn phấn đấu để đạt
mức hoàn hảo trong cung cách phục vụ, hoàn hảo trong chất lượng và tính đa
dạng sản phẩm, tính rộng khắp của mạng lưới phân phối, tính hiện đại và an toàn
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 19
của công nghệ, v.v. để luôn xứng đáng với sự tín nhiệm và ủng hộ của khách hàng,
và xứng đáng là một ngân hàng thương mại cổ phần tôt nhất tại Việt Nam.
Ngân hàng Á Châu là ngân hàng cổ phần thương mại là một tổ chức tín
dụng vay tiền của người gửi và cho các công ty va cá nhân vay lại.Các khách hàng
ở đây bao gồm cả khách hàng cá nhân và các tổ chức doanh nghiệp.Với khẩu hiệu
“Ngân hàng của mọi nhà” ACB đã có nhiều danh mục dể huy động vốn (nhận tiền
gửi của khách hàng bằng đồng Việt Nam ,ngoại tệ và vàng )cũng như sử dụng vốn
(cung cấp tín dụng, đầu tư, hùn
vốn liên doanh và nhiều hình thức như kinh doanh ngoại tệ ,kinh doanh vàng hoặc
phát hành thanh toán thẻ tín dụng,thẻ ghi nợ cho đến các dịch vụ trung gian (thực
hiên thanh toán trong và ngoài nước,thực hiện dịch vụ ngân quỹ chuyển tiền kiều
hối và chuyển tiền nhanh,bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng).Qua đây chúng ta có
thể thấy ACB nhắm tới tất cả các đối tượng có khả năng đầu tư cũng như muốn
vay vốn (có khả năng hoàn trả) từ các doanh nghiệp các tổ chức xã hội ,gia đình
,học sinh ,sinh viên .Các đối tượng trên nếu đủ điều kiện về thủ tục và tính pháp lý
dều được giải ngân một cách nhanh chóng.Chính vì sự tiện lợi nhanh gọn này đã
giúp cho ACB có một chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế Việt Nam nói
chung,Và các nước và một số khu vực khác trên thế giới.Và qua đây càng rõ thêm
cho khẩu hiệu”Ngân hàng của mọi nhà”.Nếu bạn muốn vay tiền để đầu tư cho
tương lai của mình thì đây quả là một ngân hàng đáng tin cậy theo đúng khẩu hiệu
của họ
Nhắc đến ngân hàng ACB chúng ta không chỉ dừng lại ở câu khẩu hiệu
mang đầy tính triết lý ấy,bởi lẽ ACB cũng đã có những nốt trầm,những bước ngoặt
trên con đường của sự tồn tại và phát triển.Cho đến giờ phút hiện tại của ngày hôm
nay , câu khẩu hiệu “NGÂN HÀNG CỦA MỌI NHÀ” đã dần như phai nhạt trong
mọi lòng tin của mỗi người dân chúng ta ,liệu sự hoàn hảo,độ tin cậy,mặt an toàn
và hiệu quả của ngân hàng này con được duy trì theo thời gian nữa không khi một
nhà doanh nghiệp nổi tiếng Nguyễn Đức Kiên đã đánh mất đi cái ý nghĩa của câu
khẩu hiệu ấy?
Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên) xuất thân con nhà giáo và thành danh với
nghiệp ngân hàng.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 20
Hơn 10 năm trước khi người hâm mộ thể thao trong nước biết tới một ông
bầu bóng đá bạo ngô,giới tài chính ngân hàng đã nhắc đến cái tên “ Kiên đầu bạc “
với sự kính nể.Những lời đồn đại về uy lực của nhân vật này tăng lên cùng với độ
nóng của quá trình mua bán, sáp nhập và tái cơ cấu ngân hàng.
Là người đến sau (không có tên trong danh sách sáng lập ngân hàng), nhưng
nhắc tới Nguyễn Đức Kiên là người ta nghĩ ngay tới Kiên ACB. ACB lúc thành lập
chỉ có vốn điều lệ 20 tỷ đồng. Một năm sau, trùng thời gian ông Nguyễn Đức Kiên
lên làm Phó chủ tịch, vốn của ngân hàng tăng gấp 3,5 lần và lên đến hơn 1.100 tỷ
đồng vào năm 2006, khi ACB bắt đầu niêm yết cổ phiếu trên Sở Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội. Ngày nay, vốn điều lệ của ACB đã trên 9.000 tỷ đồng, chỉ kém
ngân hàng tư nhân lớn nhất - Sacombank vài trăm tỷ
Sau 14 năm đảm nhiệm cương vị Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị ACB, năm
2008, ông Nguyễn Đức Kiên rút khỏi vai trò quản trị để làm Phó chủ tịch Hội đồng
sáng lập. Đến năm 2010 thì Hội đồng này bị giải tán vì không được sự chấp thuận
của Ngân hàng Nhà nước.
Theo thông tin lan truyền trên thị trường, sau khi rời khỏi ACB, bóng dáng
Nguyễn Đức Kiên bắt đầu thấp thoáng đằng sau nhiều ngân hàng khác như Kiên
Long, Đại Á, Việt Nam Thương Tín (VietBank), Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt
Nam (Eximbank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank)... Bản thân bầu Kiên khi giới thiệu mình với giới hâm mộ thể thao
cũng xác nhận có cổ phần ở Kiên Long, là cổ đông chính ở Eximbank.
Nhưng tất cả mọi chuyện có thể đã rẽ sang một trang khác khi ông bị Tổng
cục cảnh sát Phòng chống tội phạm (Bộ Công an) bắt giam tối 20/8 để điều tra về
hành vi "kinh doanh trái phép" liên quan đến các hoạt động kinh tế.
Trong văn bản phát đi trưa 21/8, Cơ quan Cảnh sát Điều tra cho biết ông
Nguyễn Đức Kiên có liên quan tới sai phạm của 3 công ty con do ông này làm Chủ
tịch Hội đồng quản trị:
Công ty cổ phần đầu tư thương mại B&B
Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội
Công ty TNHH đầu tư tài chính Á Châu Hà Nội.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 21
Cũng bởi chính vì sự việc này của Bầu Kiên xảy ra đã khiến cho lòng tin của
người dân đối với ngân hàng ACB dần mất đi.Ngay sau khi sự việc xảy ra khách
hàng đã đến ngân hàng ACB rút tiền rất đông.Dù sự việc của ông Kiên có liên
quan nhiều đến thuơng hiệu của ngân hàng ACB hay không nhưng hành động của
ông cũng đã làm mất đi sự tín nhiệm,sự hi vọng,tin tưởng của mọi khách
hàng.Hơn thế nữa câu khẩu hiệu đã dần bị lu mờ đi trong cách nhìn của mỗi khách
hàng khi đến với ngân hàng Á Châu.
Để ngân hàng ACB tìm lại được vị thế của mình trong thế đứng của một doanh
nghiệp thì những người có trức trách cần xem xét,quan tâm hơn về hành động của
chính mình,thoát khỏi những rắc rối để tìm tháy sự giản đơn,từ hỗn lọan hãy tìm ra
sự hài hòa để khẳng định lại giá trị thương hiệu của Ngân hàng.
V- VÍ DỤ DOANH NGHIỆP VIỆT NAM BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU
TRƯỚC XU HƯỚNG M&A
1. Khái niệm:
M&A được viết tắt bởi hai từ tiếng Anh là Mergers (sáp nhập) và Acquisitions
(mua lại). M&A là hoạt động giành quyền kiểm soát doanh nghiệp, bộ phận
doanh nghiệp (gọi chung là doanh nghiệp) thông qua việc sở hữu một phần
hoặc toàn bộ doanh nghiệp đó.
M&A (mua lại và sáp nhập) dường như trở thành một cụm từ được phát âm
cùng nhau, cùng nghĩa với nhau, tuy nhiên trên thực tế chúng có những điểm
khác biệt và cần hiểu rõ giữa sáp nhập và mua lại:
Sáp nhập: là hình thức kết hợp mà hai công ty thường có cùng quy mô, thống
nhất gộp chung cổ phần. Công ty bị sáp nhập chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt
sự tồn tại của công ty bị sáp nhập để trở thành một công ty mới.
Mua lại: là hình thức kết hợp mà một công ty mua lại hoặc thôn tính một công
ty khác, đặt mình vào vị trí chủ sở hữu mới. Tuy nhiên thương vụ này không
làm ra đời một pháp nhân mới.
Mục đích của M&A là giành quyền kiểm soát doanh nghiệp ở mức độ nhất định
chứ không đơn thuần chỉ là sở hữu một phần vốn góp hay cổ phần của doanh
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 22
nghiệp như các nhà đầu tư nhỏ, lẻ. Vì vậy, khi một nhà đầu tư đạt được mức sở
hữu phần vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp đủ để tham gia, quyết định các
vấn đề quan trọng của doanh nghiệp thì khi đó mới có thể coi đây là hoạt động
M&A. Ngược lại, khi nhà đầu tư sở hữu phần vốn góp, cổ phần không đủ để
quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp thì đây chỉ được coi là hoạt
động đầu tư thông thường.
Các hình thức của M&A
Cùng một tiêu chí mua bán và sáp nhập doanh nghiệp nhưng M&A được thực
hiện đa dạng dưới nhiều hình thức như:
• góp vốn trực tiếp vào doanh nghiệp
• mua lại phần vốn góp hoặc cổ phần sáp nhập doanh nghiệp
• hợp nhất doanh nghiệp và chia tách doanh nghiệp.
Trong đó, hình thức góp vốn vào doanh nghiệp và mua góp vốn hoặc cổ phần
doanh nghiệp là những hoạt động chính và phổ biến nhất. Các hình thức M&A
khác chỉ là những hình thức được áp dụng với những hoạt động đầu tư đặc thù.
Cơ sở pháp lý của M&A tại Việt Nam. Tại Việt Nam không có khái niệm
mua , bán Doanh nghiệp mà chỉ có khái niệm hợp nhấp và sáp nhập Doanh
nghiệp như được quy định tại điều 152 và 153 Luật Doanh Nghiệp 2005
Tại sao M&A lại quan trọng với các Doanh nghiệp Việt nam? Hiện nay khái
niệm M&A còn được biết đến rất ít hoặc thậm chí không biết đối với một số
Doanh nghiệp Việt Nam. Lý do các hoạt động M&A chưa được quan tâm nhiều
bởi đại chúng là do các thông tin , kiến thức , kinh nghiệm về M&A tại Việt
nam rất hiếm . M&A không được phổ biến nhiều thông qua việc giãng dạy tại
các trường Đại học, sách vở , báo chí… Do đó không ít người quan tâm muốn
tìm hiểu củng gặp rất nhiều khó khăn.
Tại thời điểm hiện nay, khi các Doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước
các khó khăn về việc tìm vốn đế phát triền, do nguồn vốn vay từ ngân hàng hạn
chế (do lãi suất cao, thủ tục khó khăn vì cần tài sản thế chấp..), từ nguồn tự phát
hành cổ phiếu, trái phiếu,.. càng khó hơn nữa do thị trường Chứng khoán của
Việt Nam đang tụt dốc và thiếu ổn định cho nên lòng tin của nhà đấu tư xuống
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 23
thấp. Còn việc tìm vốn trên thị trường nước ngoài còn cục kỳ khó khăn vì Việt
Nam đang bị đánh tụt hạng tín nhiệm. Để giải quyết việc này, Doanh nghiệp
Việt Nam có thể tìm vốn từ các Quỹ đầu tư nước ngoài, hoặc niêm yết trên sàn
Mỹ để tự tìm vốn. Tuy nhiên để có thể thực hiện được , Doanh nghiệp Việt
Nam cần phải tái cấu trúc lại nhằm chứng tỏ cho các Quỹ đầu tư yên tâm khi
đầu tư vào Doanh nghiệp. Mà việc này cũng như việc niêm yết trên sàn mỹ cần
thời gian, công sức , tiền bạc và nhân lực.
Vậy họ sẽ làm sao? Theo tôi, nếu theo góc độ của các Doanh nghiệp thì nên
chọn con đường sáp nhập, hợp nhất lại với nhau để cùng sống còn và tái cấu
trúc thành một Doanh nghiệp vững mạnh về quản trị, minh bạch về tài chính ,
đủ điều kiện để tìm vốn từ các Quỷ đầu tư hay niêm yết trên sàn Mỹ.
Riêng đứng về góc độ nhà đầu tư, thì đây là một cơ hội tuyệt vời để thâu tóm vì
thị giá đả thấp rất nhiều so với thư giá . hãy tưởng tượng nếu bạn có đủ vốn và
chọn cho mình một Doanh nghiệp thuộc top 10 thuộc trong những ngành có
tương lai phát triển, và hãy đoán điều gì sẻ xãy ra sau vài năm khi nền kinh tế
Việt Nam và thế giới ổn định và phát triển. Số vốn của bạn lúc đó sẻ là bao
nhiêu????
2. Ví dụ café Trung Nguyên bảo vệ thương hiệu.
a. Thách thức.
Ra đời giữa năm 1996, Trung Nguyên là 1 nhãn hiệu cà phê non trẻ của Việt
Nam, nhưng đã nhanh chóng tạo dựng được uy tín và trở thành thương hiệu
quen thuộc nhất đối với người tiêu dùng cả trong và ngoài nước. Chỉ trong vòng
10 năm từ 1 hãng cà phê nhỏ bé nằm giữa Buôn Mê Thuột, Trung Nguyên đã
trỗi dậy thành 1 tập đoàn hùng mạnh với 6 công ty thành viên: Công ty cổ phần
Trung Nguyên, Công ty cổ phần hoà tan cà phê Trung Nguyên, Công ty TNHH
cà phê Trung Nguyên, Công ty cổ phần và thương mại dịch vụ G7, Công ty
truyền thông bán lẻ Nam Việt và Công ty liên doanh Vietnam Global
Gateway(VGG) với các ngành nghề chính: sản xuất, chế biến, kinh doanh trà,
cà phê; nhượng quyền thương hiệu và dịch vụ phân phối bán lẻ hiện đại.
Năm 2011, thương hiệu Trung Nguyên vinh dự nhận Giải Vàng chất lượng
quốc gia (trong tổng số 96 doanh nghiệp đạt giải có 11 doanh nghiệp lớn đạt
giải vàng). Giải thưởng Chất lượng Quốc gia là một hình thức tôn vinh, khen
thưởng hàng năm ở cấp quốc gia của Thủ tướng Chính phủ.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 24
Trung Nguyên được xem là đã “nổ phát súng” cho “phong trào” mất thương
hiệu vì quên không đăng ký. Năm 2000, Trung Nguyên từng bị công ty Rice
Field đăng ký bảo hộ thương hiệu café Trung Nguyên tại Mỹ và WIPO (Tổ
chức bảo hộ Trí tuệ Thế giới).
Sau 2 năm thương thảo, Trung Nguyên mới lấy lại được thương hiệu này và
Rice Field nhận làm đại lý phân phối Cafe Trung Nguyên tại Mỹ. Để dàn xếp
ổn thỏa, Trung Nguyên đã phải rất vất vả và tiêu tốn hàng trăm nghìn USD để
lấy lại tên miền này. Sau đó, cà phê Trung Nguyên đã thực hiện đăng ký bảo hộ
thương hiệu tại hơn 60 nước và lãnh thổ trên thế giới.
Tuy nhiên, mới đây, vấn đề thương hiệu của Trung Nguyên lại một lần nữa
“dậy sóng” khi website Trungnguyen.com.au trở thành website quảng bá, giao
dịch Highlands coffee. Mới đây, khi đăng ký tên miền này tại Australia thì
Trung Nguyên phát hiện Công ty The trustee for Hinchliffe Trust đã đăng ký
tên miền này và sử dụng dưới hình thức một website giao dịch thương mại.
Không chỉ có vậy, Trung Nguyên tiếp tục để mất thương hiệu café chồn tại Mỹ.
Sau khi vụ tên miền thương hiệu Legendeecoffee bị người khác thâu tóm,
Trung Nguyên lại có nguy cơ bị chặn đường xuất khẩu café mang thương hiệu
Legendee Coffee tại thị trường Mỹ.
Gần đây nhất, vụ tên miền tiếng Anh của café Chồn của Trung Nguyên bị cá
nhân khác đăng kí và nhúng nội dung quảng bá cho thương hiệu café sắp vào
Việt Nam là Starbucks và một chuỗi lịch sử mất tên miền thương hiệu ở nhiều
quốc gia khác cũng cho thấy phần nào sự chủ quan của các doanh nghiệp Việt
đối với vấn đề thương hiệu.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 25
Trên thực tế, Trung Nguyên Café là một thương hiệu mạnh cả ở trong nước và
quốc tế. Thương hiệu café chồn được rất nhiều biết đến với tên gọi Weasel
Coffee với phiên bản đặc biệt là Legendee.
Mặc dù vậy, dường như Trung Nguyên không kiểm soát được hoặc quá chủ
quan với việc bảo vệ những tên miền liên quan đến những sản phẩm đặc biệt
này.
Vụ việc một cá nhân bất ngờ mua tên miền Legendeecoffee.com và quảng bá
cho café Starbucks - một thương hiệu café nổi tiếng sắp vào Việt Nam và việc
Trung Nguyên mua Legendee.com nhưng lại không mua Legendee.com.vn và
Legendee.vn cho thấy doanh nghiệp này có vẻ như không đánh giá cao về
thương mại điện tử và tầm quan trọng của việc bảo vệ các tên miền thương hiệu
như vậy.
b. Công ty cà phê Trung Nguyên vượt qua thách thức giữ vững thương
hiệu.
Vượt qua bối cảnh kinh tế khó khăn và sức ép từ việc cạnh tranh không lành
mạnh, Trung Nguyên vẫn vững bước phát triển và trở thành doanh nghiệp đầu
ngành cà phê trong cả nước. Có thể nói, để giữ vững thương hiệu cà phê hàng
đầu Việt Nam, Trung Nguyên đã có quá trình cố gắng không ngừng và những
bước đột phá nổi bật.
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 26
Chủ tịch, Tổng giám đốc Công ty cà phê Trung Nguyên Đặng Lê Nguyên Vũ
(phải) và Tổng giám đốc của Tập đoàn công nghệ xay cà phê hàng đầu thế giới
Neuhaus Neotec
Ngay từ những ngày đầu thành lập, Trung Nguyên đã chọn những bước đi táo
bạo. Vào thời điểm những năm 1990, thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam
mới chỉ 250USD (đến năm 2011 là 1.200USD) nhưng Trung Nguyên đã chọn
chiến lược phát triển thương hiệu cao cấp với mong muốn thu hút thị trường
trong nước cũng như xuất khẩu. Để làm được điều này, Trung Nguyên thiết lập
hệ thống quán cà phê kiểu mẫu để giới thiệu và bán cà phê cho người tiêu dùng.
Đây là cách để minh chứng Việt Nam có thể sản xuất những loại cà phê cao cấp
và chất lượng không thua kém các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới, đồng thời
định vị nhãn hiệu như một phần văn hóa truyền thống của Việt Nam. Vượt qua
những khó khăn bước đầu, Trung Nguyên ngày càng gặt hái nhiều thành công
khi đưa giá trị và văn hóa quốc gia vào sản phẩm, góp phần thay đổi thị trường
cà phê Việt Nam.
Khi Trung Nguyên trở thành một thương hiệu có tiếng trên thương trường
cũng là lúc doanh nghiệp gặp phải nhiều trở ngại với những hành vi cạnh tranh
không lành mạnh của các hãng cà phê khác. Điều này gây ra tổn thất không
nhỏ, ảnh hưởng uy tín của thương hiệu Trung Nguyên nói riêng và ngành cà
phê Việt Nam nói chung. Tin đồn về chất lượng cà phê của Trung Nguyên
không được đảm bảo lan ra rất nhanh, thêm vào đó, trên thị trường còn xuất
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 27
hiện cà phê dỏm làm giả bao bì Trung Nguyên gây áp lực cạnh tranh rất lớn cho
công ty. Nhưng, Trung Nguyên tin vào sự lựa chọn sáng suốt của người tiêu
dùng, bởi sản phẩm cà phê của công ty đều vượt qua những tiêu chuẩn kiểm
định nghiêm ngặt và được chứng nhận về an toàn chất lượng. Đối với những
thị trường quốc tế khó tính nhất như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản..., Trung Nguyên
cũng thành công trong việc xâm nhập và phát triển thị phần. Với niềm tin và uy
tín đó, sản phẩm của Trung Nguyên được chọn làm đại sứ ngoại giao văn hóa
chính thức của Việt Nam, là thức uống chính thức tại nhiều hội nghị, cuộc thi
quan trọng trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khủng hoảng, Trung Nguyên phải đối mặt
với nhiều thách thức. Nhưng để giữ vững thương hiệu, công ty đặt ra những
mục tiêu rất cụ thể. Trong khi một số thương hiệu cà phê tuyên bố phá sản hoặc
sáp nhập vào các thương hiệu lớn thì Trung Nguyên mạnh dạn đầu tư một số
dây chuyên công nghệ tối tân nhất thế giới để bảo đảm chất lượng và hương vị
của sản phẩm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp luôn chọn lựa các đối tác hàng đầu
để có thể chia sẻ chiến lược phát triển và tham gia hợp tác lâu dài. Hiện nay,
Trung Nguyên đã ký cam kết chiến lược và nghiên cứu những công nghệ, dây
chuyền “especially designed for Trung Nguyên” (được thiết kế đặc biệt dành
cho Trung Nguyên) với đối tác hàng đầu về công nghệ rang xay cà phê của thế
giới để tạo ra sản phẩm đảm bảo chất lượng. Không chỉ thế, Trung Nguyên còn
chú trọng phục vụ người tiêu dùng. Với phương châm “cung cấp cho người tiêu
dùng tách cà phê ngon nhất” nhằm tạo ra những giây phút thăng hoa, sáng tạo,
doanh nghiệp luôn nỗ lực để tạo ra sản phẩm tốt nhất. Ngoài ra, Trung Nguyên
còn có những chiến lược phát triển đặc thù cho từng quốc gia trên thế giới để
nâng giá trị cà phê Việt Nam vươn xa, vươn rộng trong tương lai gần. Một tiêu
chí rất đặc biệt mà doanh nghiệp quan tâm đó là không chú trọng cạnh tranh về
mặt giá cả mà tập trung phát triển về chất lượng. Thông qua cà phê, Trung
Nguyên luôn mong muốn hài hòa về lợi ích cho tất cả các đối tác, đồng thời tối
ưu hóa vị thế Việt Nam là cường quốc số 2 về cà phê trên thế giới.
Với những tiêu chí và định hướng phù hợp, Trung Nguyên không chỉ vượt qua
khó khăn mà kết quả đạt được còn khả quan hơn những năm trước. Trong năm
2011, doanh số và sản lượng tăng trưởng 151%, 6 tháng đầu năm 2012 tăng
178% so với cùng kỳ năm trước. Bước đột phá lớn nhất là cà phê hòa tan G7
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 28
của Trung Nguyên vươn lên dẫn đầu thị phần cà phê hòa tan tại Việt Nam với
37,8% (về cả sản lượng và doanh số bán ra).
Những năm gần đây, Trung Nguyên tiên phong thực hiện chủ trương về
nông thôn mới của Chính phủ, chính sách phát triển cà phê bền vững tại Đắk
Lắk với dự án cà phê sạch bền vững. Theo đó, với mô hình nông công nghiệp
tích hợp liên hoàn, doanh nghiệp sẽ liên kết với các nông hộ sản xuất cà phê
sạch tạo năng suất gấp đôi. Điều này còn góp phần đảm bảo đời sống của nông
dân, nâng cao phát triển về kinh tế, giáo dục, y tế cho đồng bào thiểu số và giữ
gìn bản sắc văn hóa Việt.
Ông Nguyễn Nguyên - trợ lý Tổng giám đốc Công ty cà phê Trung Nguyên -
chia sẻ: “Trung Nguyên luôn coi trọng công tác tổ chức và đầu tư phát triển
nguồn nhân lực để đưa công ty phát triển bền vững. Nhờ đó, đời sống của hơn
năm ngàn công nhân viên được đảm bảo và ổn định. Đối với xã hội, chúng tôi
luôn xác định trách nhiệm của doanh nghiệp theo phương châm sâu sắc, thiết
thực và dài hạn với những chương trình có ý nghĩa cho cộng đồng, như:
“Nước Việt ta lớn hay bé”, “Tiếp sức đến trường”, “Người Việt dùng hàng
Việt”, “Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt”, “Sinh viên thắp sáng ước
mơ”, “Hàng Việt vào chợ truyền thống..
.
Trung Nguyên phục vụ người tiêu dùng rất tốt
B n th o lu n Văn Hóa Doanh Nghi p
Nhóm 7 – LTCĐ-K8-BN2 – Ch đ 8 Page 29
Có thể thấy, việc gây dựng thương hiệu là không hề dễ dàng. Những người chủ
doanh nghiệp có thể phải bỏ ra rất nhiều tiền và mất rất nhiều thời gian để có
thể có được một thương hiệu nổi tiếng nhưng trên thực tế đó cũng là một miếng
mồi rất ngon mà nhiều người nhòm ngó.
---THE END---
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thao_luan_vhdn_268.pdf