Phương pháp lập trình hướng khía cạnh (AOP) cùng
với công nghệ AspectJ ra đời đã tạo ramột hướng phát triển mới cho kiểm chứng phần
mềm, giúp nâng cao khả năng dò tìm lỗi, thông báo lỗi mà không ảnh hưởng tới mã nguồn
hệ thống. Trong thực tế, biểu đồ UML là sự lựa chọn rất phổ biến cho việc mô hình hóa
hệ thống phần mềm ở giai đoạn thiết kế hiện nay.
51 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2772 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kiểm chứng các giao thức bằng AOP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Constraint đều được đặt trong đoạn mã như trên. Tên kiểu của chúng được
đặt trong thẻ operand xmi:type =”UML:InteractionOperand” với thuộc tính
interactionOperator.
2.6. Sơ lược về XML.
XML là viết tắt cho chữ eXtensible Markup Language , XML gần giống với HTML
(Hypertext markup Language). Nó cung cấp một phương tiện dùng văn bản để mô tả
thông tin và áp dụng một cấu trúc kiểu cây cho thông tin đó. Mọi thông tin đều hiển thị
dưới dạng văn bản (text), chen giữa các thẻ đánh dấu (markup) với nhiệm vụ ký hiệu sự
phân chia thông tin thành một cấu trúc có thứ bậc của các dữ liệu ký tự .
XML là một ngôn ngữ đánh dấu tương đối mới vì nó là một subset (một phần nhỏ hơn)
của và đến từ (derived from) một ngôn ngữ đánh dấu già dặn tên là Standard Generalized
Markup Language (SGML). Ngôn ngữ HTML cũng dựa vào SGML, thật ra nó là một áp
dụng của SGML. SGML được phát minh bởi Ed Mosher, Ray Lorie và Charles F.
Goldfarb của nhóm IBM research vào năm 1969, khi con người đặt chân lên mặt trăng.
Lúc đầu nó có tên là Generalized Markup Language (GML), và được thiết kế để dùng làm
meta-language, một ngôn ngữ được dùng để diễn tả các ngôn ngữ khác - văn phạm, ngữ
vựng của chúng ,.v.v.. Năm 1986, SGML được cơ quan ISO (International Standard
Organisation) thu nhận (adopted) làm tiêu chuẩn để lưu trữ và trao đổi dữ liệu. Khi Tim
Berners-Lee triển khai HyperText Markup Language - HTML để dùng cho các trang Web
hồi đầu thập niên 1990, ông ta cứ nhắc nhở rằng HTML là một áp dụng của SGML. Vì
SGML rất rắc rối, và HTML có nhiều giới hạn nên năm 1996 tổ chức W3C thiết kế XML.
XML version 1.0 được định nghĩa trong hồ sơ February 1998 W3C Recommendation.
- Ví dụ về XML.
21
Mrs.
Mary
McGoon
2.7. Biểu diễn tài liệu XML
Tài liệu xml phải thỏa mãn:
- Phải có một root (gốc) duy nhất, nó chứa tất cả các element khác trong tài liệu.
- Mỗi opening Tag phải có một closing Tag giống như nó.
- Tags trong XML thì case sensitive, tức là opening Tag và closing Tag phải được
đánh vần y như nhau, chữ hoa hay chữ thường.
- Mỗi Child Element phải nằm trọn bên trong Element cha của nó.
- Attribute value trong XML phải được gói giữa một cặp ngoặc kép hay một cặp
apostrophe.
Phần tử gốc :Một văn bản XML phải được chứa trong một phần tử tố đơn. Phần tử
đơn đó được gọi là phần tử gốc, và nó chứa tất cả các từ ngữ và bất cứ phần tử nào trong
văn bản. Trong ví dụ dưới đây, văn bản XML được chứa đựng trong một phần tử đơn
. Chú ý văn bản này có một chú thích nằm ngoài phần tử gốc, điều này
hoàn toàn hợp lệ.
Hello, World!
Những phần tử không được đan chéo:
Các phần tử XML không thể đan chéo. Đây là vài đánh dấu không hợp lệ:
I really
love XML.
22
Nếu bạn bắt đầu một phần tử trong một phần tử , bạn cũng phải kết thúc nó ở
đó. Nếu bạn muốn các dòng chữ XML là chữ nghiêng, bạn cần bổ sung một phần tử thứ
hai để sửa lại đánh dấu:
I really
love
XML.
Bộ kiểm ngữ XML sẽ chỉ chấp nhận đánh dấu này, trong khi bộ kiểm ngữ HTML chấp
nhận cả hai.
Thẻ kết thúc là cần thiết.
Bạn không thể bỏ một thẻ kết thúc nào. Trong ví dụ đầu tiên dưới đây, đánh dấu không
hợp lệ vì không có thẻ kết thúc đoạn (). Trong khi HTML (vài trường hợp trong
SGML) đều chấp nhận được thì điều này lại bị bộ kiểm ngữ XML từ chối.
Yada yada yada...
Yada yada yada...
...
Nếu một phần tử không chứa đánh dấu nào thì nó được gọi là phần tử rỗng; dấu ngắt
HTML () và hình ảnh (img>) là hai phần tử ví dụ. Trong các phần tử rỗng ở của
văn bản XML, bạn có thể đặt một gạch chéo đóng trong thẻ bắt đầu. Hai phần tử dấu ngắt
và hai phần tử hình ảnh dưới có nghĩa tương tự với bộ kiểm ngữ XML:
Các phần tử là phân biệt chữ hoa/chữ thường.
23
Các phần tử XML là phân biệt chữ hoa/chữ thường. Trong HTML, và
đều giống nhau; trong XML, thì lại không thế. Nếu bạn kết thúc một phần tử bằng
một thẻ , sẽ bị mắc lỗi. Trong ví dụ dưới đây, tiêu đề phía trên là không hợp lệ, còn
tiêu đề dưới thì chính xác.
Thuộc tính phải nằm trong dấu trích dẫn
Có hai nguyên tắc về các thuộc tính trong văn bản XML:
- Thuộc tính phải có giá trị
- Những giá trị đó phải được đặt trong dấu trích dẫn (" hoặc ').
2.8. TƯƠNG TÁC VỚI TÀI LIỆU XML
2.8.1 DOM.
DOM là viết tắt của Document Object Model.
DOM là một chuẩn do tổ chức W3C(Worrld Wide Web Consortium) đặt ra.
DOM định nghĩa các phương thức chuẩn cho việc truy cập tài liệu giống như XML,
HTML : W3C DOM là một nền tảng và giao diện ngôn ngữ trung gian cho phép chương
trình ngoặc các đoạn script truy cập động, sửa đổi dữ liệu, cấu trúc và định dạng cả một tài
liệu.
DOM bao gồm ba thành phần/mức khác nhau như sau:
Core DOM : Mô hình chuẩn cho bất kì tài liệu có cấu trúc.
XML DOM: Mô hình chuẩn cho tài liệu XML
HTML DOM : Mô hình chuẩn cho tài liệu HTML.
DOM định nghĩa các đối tượng và thuộc tính của tất cả phẩn tử trong tài liệu cùng
với phương thức (giao diện) để truy cập đến chúng.
2.8.2 XML DOM :
XML DOM là một mô hình đối tượng chuẩn cho XML, một giao diện lập trình
chuẩn cho XML,một nền đồng thời là một ngôn ngữ độc lập. XML DOM định nghĩa một
phương thức chuẩn cho việc truy cập và thao tác với tài liệu XML. Cấu trúc của DOM
biểu diễn một tài liệu XML dưới dạng cấu trúc cây. Với DOM, việc thao tác với tài liệu
XML được thực hiện dễ dàng. Ví dụ về cây XML DOM :
24
Hình 9. cây XML DOM
XML DOM định nghĩa các đối tượng và thuộc tính của tất cả phần tử XML cùng
phương thức để truy cập đến chúng. Nói cách khác XML DOM là một chuẩn cho việc
truy xuất, sửa đổi, thêm vào hay loại bỏ các phần tử XML.
Mọi thứ trong XML đều là node. Theo định nghĩa DOM ta có :
- Một tài liệu hoàn chỉnh là một node tài liệu.
- Mọi phẩn tử XML là một node phần tử.
- Phần nội dung trong các phần tử XML là node nội dung
- Mọi thuộc tính là một node thuộc tính.
- Các chú thích là node chú thích.
Một số phương thức thường sử dụng để thao tác với tài liệu XML:
-Duyệt node :
+ ParentNode: lấy node cha của node hiện tại.
+ ChildNodes: lấy node con của node hiện tại.
+ FirstChild: lấy node con đầu tiên của node hiện tại
+ LastChild: lấy node con cuối cùng của node hiện tại
+ NextSibling : lấy node kế tiếp node hiện tại.
+ previousSibling: lấy node trước node hiện tại.
- Thao tác trên các node :
+ getElementsByTagName(String tagname) : trả về một tập các node có thuộc tính
tên là tagname.
+ getElementById(String Id) : Trả về một node có thuộc tính id là Id.
+ setAttribute(String name,String value): Đặt thuộc tính cho node với tên thuộc tính
là name, giá trị là value.
25
+ getAttribute(String name): lấy các giá trị của thuộc tính có tên là name.
+ removeChild: Xóa node con của node hiện tại.
+ removeAttribute: Xóa bỏ thuộc tính của node hiện tại.
+ replaceChild : Thay thế node con của node hiện tại bằng một node mới.
+ createNode: Dùng để tạo ra tất cả các loại node.
+ nodeCha.appendChild: thêm vào phần tử cuối cùng của danh sách các node con
của nodeCha.
2.8.3 XMI:
XMI (XML Metadata Interchange) là một chuẩn đưa ra bởi tổ chức Object
Management Group (OMG) để trao đổi các siêu dữ liệu (Metadata) thông qua ngôn ngữ
XML. Các siêu dữ liệu ở đây có thể là bất kỳ mô hình dữ liệu nào mà có thể biểu diễn
được theo chuẩn Meta-Object Facility (MOF) cũng được tổ chức này đưa ra ban đầu để
mô hình các đối tượng trong các biểu đồ UML. Tệp đặc tả mà chúng ta sử dụng là tuân
theo chuẩn XMI 2.1 được xuất ra bởi công cụ Altova Umodel. Mỗi đặc tả tương ứng với
một biểu đồ tuần tự UML 2.0. Do XMI được xây dựng dựa trên XML hay nói cách khác
nó cũng chính là ngôn ngữ XML. Vì lý do này mà ta có thể sử dụng các cách truy xuất tệp
XMI như với tệp XML. Ở đây, chúng ta dùng chuẩn DOM - là một chuẩn để biểu diễn và
tương tác với các đối tượng trong các tài liệu XML – để từ các hàm API mà nó cung cấp,
truy xuất thông tin về biểu đồ tuần tự từ tệp XMI.
Trước khi đi vào cụ thể quá trình truy xuất thông tin như thế nào, chúng ta đề cập tới
một số kiến thức cơ bản về cấu trúc của một tài liệu XMI như sau:
Giống như XML và các ngôn ngữ đánh dấu khác, nó bao gồm hệ thống các cặp thẻ
đánh dấu (tag) và phần nội dung nằm giữa mỗi cặp thẻ đó. Một thẻ bất kỳ thường được
bắt đầu bằng ký tự “”. Một tài liệu XMI có cấu trúc dạng cây bao
gồm các nút (Node) được gọi là phần tử (Element). Một phần tử thường bắt đầu bằng một
thẻ và kết thúc bằng một thẻ tương ứng ví dụ như và hoặc nằm trong
một thẻ rỗng chẳng hạn như . Giữa hai thẻ này có thể chứa nội dung dữ liệu
hay chứa các Phần tử khác gọi là những nút con. Những nút con lại tiếp tục có thể có các
nút con khác tạo nên một cây. Ngoài ra, mỗi phần tử còn có thể có các thuộc tính riêng
đứng thành từng cặp tên=giá trị ở trong thẻ khởi đầu của phần tử đó.
2.9. Máy trạng thái FSM.
2.9.1. Tổng quan về các thành phần trong máy trạng thái FSM
Máy hữu hạn trạng thái FSM bao gồm những thành phần cơ bản sau :
26
- State: Biểu diễn trạng thái của chương trình hay cụ thể là phương thức đang được kiểm
tra và được biến đổi sau mỗi lời gọi hàm hợp lệ (các thông điệp tương ứng trong biểu đồ
tuần tự).
- Event: Tương ứng với các thông điệp trao đổi giữa các đường đời trong biểu đồ hay là
các lời gọi hàm giữa các đối tượng trong chương trình thực thi.
- Transition: Là cầu nối giữa các State với nhau được sử dụng tới khi có một Event làm
thay đổi trạng thái. Chúng có chứa State nguồn và đích cộng thêm Event dẫn tới thay sự
chuyển đổi trạng thái này.
- FSMControl: Có thể coi lớp này chính là máy trạng thái mà chúng ta xây dựng được. Nó
có chứa các State, các Transition và các Event.
- FSMContext: Mỗi phương thức khi thực thi sẽ có các trạng thái khác nhau và quá trình
biến đổi các trạng thái cũng khác nhau. Quá trình này được đặc trưng bởi một đối tượng
FSMContext cho riêng phương thức đó. Nói cách khác, lớp FSMContext làm nhiệm vụ
điều khiển máy trạng thái và kiểm tra tính hợp lệ của dãy các lời gọi hàm cho một phương
thức cần kiểm thử.
2.9.2. Xây dựng máy hữu hạn trạng thái từ các thành phần của biểu đồ
Gọi tập hợp các trạng thái (State) là S = {s0, s1, s2, … sn}
Tập hợp các thông điệp (không tính thông điệp trả lời) là M = {m0, m1, m2, m3… mn}
Đầu tiên ta tạo ra trạng thái s0, đặt nó là trạng thái khởi đầu.
Với mỗi thông điệp thứ mi, ta tạo ra State si + 1 và tạo ra Transition (si, mi, si+1) nối từ
State thứ i tới State thứ i + 1 có Event tương ứng với thông điệp thứ i.
Lưu tên các State si và si + 1 vào trong thông điệp mi như là trạng thái nguồn và đích
của thông điệp thứ i để sau này làm việc với các đoạn gộp nếu có.
Đặt trạng thái cuối cùng tạo ra là trạng thái kết thúc.
Nếu không có các đoạn gộp thì coi như công việc đã hoàn thành.
Lưu lý là trạng thái đích của thông điệp mi sẽ là trạng thái nguồn của của thông điệp
mi+1.
Nếu có đoạn gộp Loop, trong Loop có thể có một hoặc nhiều thông điệp và khối
Loop này có thể được thực thi chỉ một lần hoặc có thể lặp lại nhiều lần hoặc không thực
hiện lần nào.
Không mất tính tổng quát, ta đặt thông điệp đầu tiên và cuối cùng trong Loop theo
thứ tự là mi và mn . Ở bước trên ta đã lưu lại trạng thái nguồn và đích của mỗi thông điệp
ví dụ như thông điệp mi sẽ có nguồn là si và đích là si + 1 còn mn có nguồn là sn và đích là sn
+ 1 Để cho dễ hình dung ta sẽ ký hiệu một thông điệp giống như một transition (snguồn, m,
27
sđích) . Như thế, thông điệp đầu tiên ngay sau Loop là thông điệp mn+1 sẽ ký hiệu là (sn + 1,
mn + 1, sn + 2)
Đầu tiên ta xét khối Loop này được thực hiện ít nhất một lần. Vậy sau khi thông điệp
cuối cùng mn trong loop thực thi xong thì chương trình đang ở trạng thái sn + 1 và có hai
khả năng một là chạy tiếp thông điệp ngay sau loop hai là quay trở lại trạng thái trước khi
thông điệp đầu tiên mi thực hiện. Trường hợp thứ nhất thì không có vấn đề gì, ta chỉ quan
tâm tới trường hợp còn lại khi mà thông điệp đầu tiên trong Loop (mi) được gọi lại lần
nữa. Vậy ta phải thêm vào máy trạng thái một Transition có nguồn là trạng thái hiện tại (sn
+ 1), Event tương ứng với mi và đích là đích của mi. Tức là ta phải bổ sung thêm Transition
(sn + 1, mi, si + 1).
Tiếp theo ta xét khối loop này không được thực hiện một lần nào mà thực hiện ngay
thông điệp đầu tiên sau Loop. Lúc này, chương trình đang ở trạng thái si và tiếp theo
thông điệp mn + 1 sẽ được gọi. Do vậy ta phải thêm vào một Transition có nguồn là si,
Event tương ứng với mn + 1 và đích là trạng thái đích của mn + 1. Tức là ta phải bổ sung
thêm Transition (si, mn + 1, sn + 2).
Để dễ hình dung, ta lấy một ví dụ về việc một người truy vấn số dư tài khoản ở ngân
hàng như sơ đồ sau:
Hình 10. Ví dụ về một biểu đồ tuần tự cho việc truy vấn tài khoản ngân hàng.
28
Ở sơ đồ này, một User có thể tạo nhiều tài khoản và khi truy vấn số dư thì sẽ phải
truy vấn ở tất cả các tài khoản của anh ta.
Với các bước như trên, ta sẽ thu được một state machine như hình vẽ sau:
Hình 11. Máy hữu hạn trạng thái ứng với ví dụ truy vấn tài khoản ngân hàng.
Nếu biểu đồ có đoạn gộp Option, ta dễ thấy đây là trường hợp đặc biệt của Loop khi mà
các thông điệp bên trong chỉ được thực hiện một lần hoặc không lần nào. Do vậy với các giả
thiết như trên ta thấy cần thiết phải thêm vào Transition (si, mn + 1, sn + 2).
Đối với đoạn gộp Break, các thông điệp trong đoạn gộp này hoặc là không được thực
thi lần nào nếu được gọi thì sau khi thực thi xong các thông điệp trong đoạn gộp này,
chương trình sẽ kết thúc ngay. Như thế, ta có thể hình dung đây là một trường hợp đặc
biệt của đoạn gộp Option chỉ khác là nếu được sử dụng thì toàn bộ các thông điệp đứng
sau nó sẽ bị bỏ qua. Trong trường hợp này, sau khi thực thi thông điệp cuối cùng trong
đoạn gộp, chương trình đang ở trạng thái sn + 1. Tới đây, chương trình chấm dứt nên ta phải
bỏ đi tất cả các Transition có nguồn là trạng thái này đồng thời đặt sn + 1 cũng là một trạng
thái kết thúc. Trong trường hợp còn lại thì vẫn những giả thiết giống như với Option ta
vẫn phải thêm vào Transition (si, mn + 1, sn + 2).
Nếu có đoạn gộp Alternative, chúng ta giới hạn chỉ có hai Interaction Operand trong
đoạn gộp này là một if then Operand và một else Operand. Bắt buộc một trong hai
Operand này phải được thực thi và chỉ một trong hai mà thôi. Do đó ta phải bỏ đi một
Transition xây dựng ở bước đầu tiên nối giữa trạng thái cuối và đầu của hai Operand này
đi. Ngoài ra do tất cả các Operand trong đoạn gộp này có vai trò ngang hàng nhau nên
trạng thái nguồn và đích của mỗi Operand cũng là giống nhau. Việc còn lại là ta phải xác
định và thêm các Transition tương ứng với chúng.
29
Tuy nhiên sẽ có vấn đề nảy sinh nếu như các đoạn gộp này nằm ở cuối cùng của biểu
đồ tuần tự. Với các đoạn gộp có một Interaction Operand như Loop, Opt, Break thì các
thông điệp có thể không được gọi lần nào. Hoặc với Alternative thì chỉ có một trong các
Interaction Operand được thực hiện. Như thế ta phải thêm các trạng thái kết thúc cho phù
hợp với từng trường hợp đó. Cuối cùng, có một vấn đề là trong các bước trên có thể sẽ
sinh ra một trạng thái mà có hai Transition với các Event có cùng tên thông điệp. Như vậy
sẽ làm cho máy trạng thái của chúng ta trở thành một máy trạng thái không đơn định
(Non-deterministic finite state machine). Do đó sau khi đã tạo ra máy trạng thái như trên,
ta phải kiểm tra xem nó có đơn định hay không nếu không thì ta sẽ phải biến đổi nó trở
thành đơn định.
30
CHƯƠNG 3
Aspect và lập trình hướng khía cạnh
3.1 Tổng quan về lập trình hướng khía cạnh.
[4] Những năm gần nay, với sự phát triển của phương pháp lập trình hướng đối
tượng (OOP) đã mang lại nhiều bước tiến mới cho lập trình nói chung và đưa ngành Công
nghệ phần mềm lên một bước phát triển mới. Sự ra đời của hướng phát triển phần mềm
hướng đối tượng (OOSD: Object-Oriented Software Development) đã mang lại những
hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên, nó vẫn bộc lộ những hạn chế, chẳng hạn trong các ứng dụng
cần có sự đồng bộ hóa hay các ứng dụng có sự đan nhau phức tạp giữa các thành phần bên
trong thì các ứng dụng tiếp cận theo hướng đối tượng tỏ ra không phù hợp. Bên cạnh đó,
tính tĩnh trong cách tiếp cận hướng đối tượng không cho phép phần mềm thích ứng với
những thay đổi mới đáp ứng yêu cầu người dùng. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày
một hướng tiếp cận mới trong việc phát triển phần mềm - hướng khía cạnh (AO: Aspect-
Oriented). Hướng tiếp cận này còn khá mới mẽ (được đưa ra vào những năm cuối thập
niên 90) nhưng hứa hẹn những lợi điểm giải quyết được những yêu cầu có tính đan xen
phức tạp, đồng thời mang lại cho phần mềm khả năng thay đổi và bổ sung yêu cầu mới
sau khi đã hoàn chỉnh hay thậm chí đã đưa vào sử dụng.
Lập trình hướng khía cạnh được xây dựng trên các phương pháp lập trình hiện tại
như lập trình hướng đối tượng, lập trình có cấu trúc, bổ sung thêm các khái niệm và cấu
trúc để mô-đun hóa các chức năng cắt ngang hệ thống (crosscutting concern). Với AOP,
các quan hệ cơ bản sử dụng các phương pháp cơ bản. Nếu sử dụng OOP, sẽ thực thi các
quan hệ cơ bản dưới hình thức lớp (class). Các aspect trong hệ thống đóng gói các chức
năng cắt ngang hệ thống lại với nhau. Chúng sẽ quy định cách các mô-đun khác nhau gắn
kết với nhau để hình thành lên hệ thống cuối cùng.
Nền tảng cơ bản của AOP khác với OOP là cách quản lý các chức năng cắt ngang hệ
thống. Việc thực thi của từng chức năng cắt ngang AOP bỏ qua các hành vi được tích hợp
vào nó. AOP có thể xem là một sự bổ sung cho OOP, cho phép chúng ta giải quyết các bài
toán phức tạp tốt hơn và hiệu quả hơn.
Vấn đề cốt lõi của AOP là cho phép chúng ta thực hiện các vấn đề riêng biệt một
31
cách linh hoạt và kết hợp chúng lại để tạo nên hệ thống sau cùng. AOP bổ sung cho kỹ
thuật lập trình hướng đối tượng bằng việc hỗ trợ một dạng mô đun khác, cho phép kéo thể
hiện chung của vấn đề đan nhau vào một khối. Khối này được gọi là ‘aspect’ (tạm dịch là
‘lát’ – hàm ý lát cắt đi qua nhiều lớp đối tượng), từ chữ ‘aspect’ này chúng ta có tên của
phương pháp phát triển phần mềm mới: aspect-oriented programming. Nhờ mã được tách
riêng, vấn đề đan nhau trở nên dễ kiểm soát hơn. Các aspect của hệ thống có thể thay đổi,
thêm hoặc xóa lúc biên dịch và có thể tái sử dụng. Một dạng biên dịch đặc biệt có tên là
Aspect Weaver thực hiện kết hợp các thành phần riêng lẻ lại thành hệ thống hợp nhất.
AOP gồm ba bước phát triển:
- Phân tích các yêu cầu để xác định vấn đề chung và vấn đề đan nhau.
- Xây dựng thể hiện từng vấn đề riêng biệt.
- Tổng hợp các thể hiện.
Giống như các phương pháp lập trình khác, việc thực hiện AOP gồm hai phần: đặc tả
ngôn ngữ mô tả cú pháp và cấu trúc ngôn ngữ; biên dịch kiểm tra sự đúng đắn của mã
lệnh theo đặc tả ngôn ngữ và chuyển đổi sang dạng mã máy có thể thực thi.
Đặc tả ngôn ngữ AOP: Xét ở mức cao, ngôn ngữ AOP gồm 2 thành phần :
- Thể hiện vấn đề : Ánh xạ yêu cầu riêng lẻ ở dạng mã đề trình dịch có thể
chuyển đổi sang dạng thực thi. Thể hiện vấn đề có dạng thủ tục cụ thể, bạn có thể dùng
ngôn ngữ truyền thông như C/C++ hay java.
- Đặc tả quy tắc đan kết : Xác định cách thức tổng hợp các vấn đề riêng lẻ. Muốn
vậy, thẻ hiện cần sử dụng hoặc tạo ra một ngôn ngữ để xác định quy tắc đan kết có thể là
sự mở rộng của ngôn ngữ thể hiện, hoặc một ngôn ngữ hoàn toàn khác.
3.2 Biên dịch AOP:
Trình biên dịch AOP thực hiện theo trình tự hai bước như sau:
- Kết hợp các hành vi riêng lẻ.
- Chuyển đổi thông tin kết quả sang dạng mã thực thi.
Việc biên dịch ứng dụng AOP có thể thực hiện theo nhiều cách, trong đó có cách
dịch mã sang mã. Theo cách này, mã nguồn được tiền xử lý các aspect riêng lẻ để tạo ra
mã đã được đan kết với nhau. Kế tiếp trình biên dịch AOP đưa mã đã được chuyển đổi
này sang trình biên dịch ngôn ngữ cơ sở để tạo dạng mã thực thi cuối cùng. Ví dụ, theo
cách này, các aspect riêng lẻ của ứng dụng AOP dùng ngôn ngữ java trước tiên sẽ được
đan kết ở dạng mã nguồn java, kế tiếp trình biên dịch java sẽ chuyển mã nguồn này sang
mã thực thi (Byte code). Tương tự, cũng có thể thực hiện đan kết ở giai đoạn mã thực thi,
mã thực thi vẫn là một dạng mã nguồn,nếu như hệ thống thực thi chế độ nền- máy ảo
32
java- hỗ trợ aspect. Với cách này, đầu tiên máy ảo java sẽ nạp các quy tắc đan kết, rồi áp
dụng các quy tắc này cho các lớp được nạp sau đó. Nói cách khác trình biên dịch thực
hiện đan kết các aspect trong khi thực thi.
AOP tổng hợp hệ thống đi từ các vấn đề đan nhau đến vấn đề chính, còn OOP đi
theo hướng ngược lại. Tuy nhiên, OOP và AOP không phủ định nhau mà bổ sung cho
nhau. AOP có thể dùng các kỹ thuật lập trình khác làm cơ sở, và vẫn giữ được những ưu
điểm của hệ thống cơ sở.
3.3 LỢI ÍCH CỦA AOP :
AOP là một kỹ thuật mới đầy triển vọng, hứa hẹn đem lại nhiều lợi ích cho việc phát
triển phần mềm. Dưới đây là một số lợi ích cụ thể:
• Mô đun hoá những vấn đề đan nhau: AOP xác định các vấn đề một cách tách biệt
hạn chế tối thiểu việc nhập nhằng mã, cho phép mô đun hoá cả vấn đề liên quan đến nhiều
lớp đối tượng.
• Dễ dàng phát triển hệ thống: Việc thêm chức năng mới có thể thực hiện dễ dàng
bằng cách tạo aspect mới mà không cần quan tâm đến vấn đề đan nhau. Khi thêm các mô
đun mới vào hệ thống, các aspect hiện có sẽ đan kết với chúng và tạo nên sự phát triển
chặt chẽ.
• Cho phép để lại quyết định thiết kế tương lai: Một thiết kế tốt phải tính đến cả yêu
cầu hiện tại và tương lai, việc xác định yêu cầu tương lai là một công việc khó khăn. Nếu
bỏ sót những yêu cầu tương lai có thể bạn sẽ phải thay đổi hay thực hiện lại nhiều phần hệ
thống. Với AOP, người thiết kế hệ thống có thể để lại các quyết định thiết kế cho những
yêu cầu tương lai nhờ thực hiện theo các aspect riêng biệt.
• Tái sử dụng mã tốt hơn: Các aspect là những mô đun riêng biệt, được kết hợp linh
động – đây chính là yếu tố quan trọng để tái sử dụng mã. AOP cho phép tái sử dụng mã
tốt hơn OOP.
3.4 AspectJ
AspectJ là sự mở rộng theo mô hình AOP của ngôn ngữ Java, với sự mở rộng này
mã chương trình viết bằng Java sẽ tương thích với chương trình viết bằng AspectJ.
AspectJ gồm hai phần cơ bản là:
3.4.1. Đặc tả ngôn ngữ:
Chỉ ra cách viết mã, với AspectJ các chức năng cơ bản của hệ thống sẽ được viết
bằng Java còn các chức năng cắt ngang hệ thống sẽ được thực hiện bởi AspectJ.
33
3.4.2. Phần thực thi:
Cung cấp các công cụ biên dịch, gỡ lỗi. AspectJ đã được plugin vào công cụ phát
triển Eclipse ( và được đánh giá là sản phẩm tốt nhất hiện nay về
AOP.
3.5. Một số khái niệm cơ bản trong AspectJ:
3.5.1. Join point
Join point là bất kỳ điểm nào có thể xác định được khi thực hiện chương trình. Ví
dụ: lời gọi hàm, khởi tạo đối tượng. Join point chính là vị trí mà các hành động thực thi
cắt ngang được đan vào. Trong AspectJ mọi thứ đều xoay quanh join point.
Một số loại join point chính trong AspectJ:
o Join point tại hàm khởi tạo (constructor).
o Join point tại các phương thức.
o Join point tại các điểm truy cập thuộc tính.
o Join point tại các điểm điều khiển ngoại lệ: Được điều khiển trong khối điều khiển
ngoại lệ.
3.5.2. Pointcut
Pointcut là một cấu trúc chương trình mà nó ch ọn các join point và ngữ cảnh tại các
join point đó [7, 12]. Ví dụ một pointcut có thể chọn một join point là lời gọi đến một phương
thức và lấy thông tin ngữ cảnh của phương thức đó như đối tượng chứa phương thức đó, các tham
số của phương thức đó.
Cú pháp của pointcut được khai báo như sau:
[access specifier] pointcut pointcut-name([args]) : pointcut-definition;
Ví dụ:
public pointcut test(): call(void Line.setP1(Point));
3.5.3. Advice
Advice là mã thực hiện tại một join point mà được chọn bởi pointcut [7, 12]. Hay nói
cách khác, nếu ta coi pointcut là khai báo tên phương thức, thì advice là phần thân của
phương thức đó. Pointcut và advice sẽ hình thành nên các luật đan kết các quan hệ
đan xen.
Advice được chia ra làm ba loại sau:
1. Before: Được thực hiện trước join point.
2. After: Được thực hiện sau join point.
3. Around: Thực thi xung quanh join point.
Giả sử ta có pointcut được khai báo như sau:
34
pointcut updateDisplay(): execution(void *.moveBy(int,int))
Ta có thể xây dựng các advice như sau:
- Before advice thự hiện lưu vết
before() : updateDisplay() {
// logging
}
- After advice thực hiện cập nhật hình
after() : updateDisplay() {
display.update(this);
}
Ví dụ về around advice dùng để kiểm tra thuộc tính age của lớp Person trong
phương thức setAge() có vi phạm điều khiện không (điều kiện: age > 0).
void around(Person person, int age):setAge(person, age)
{
if(age > 0) Process(person,age);
else
System.out.println("Invalid Age!");
}
3.5.4. Aspect
Aspect là phần tử trung tâm của AspectJ, giống như class trong Java. Aspect chứa mã
thể hiện các luật đan kết cho các concern. Join point, pointcut, advice được kết hợp trong
aspect .
Aspect được khai báo theo mẫu sau:
[access specification] aspect
[extends class-or-aspect-name]
[implements interface-list]
[(Pointcut)] {
... aspect body
}
Ví dụ:
public abstract aspect AbstractLogging {
public abstract pointcut logPoints(); public abstract
Loger getLogger();
before():logPoints()
{
35
getLogger().log(Level.INFO, “Before” + thisJoinPoint);
}
}
Tuy có gần giống các đặc điểm của class trong Java như: chứa thuộc tính, phương
thức, có thể khai báo trừu tượng, có thể kế thừa… Tuy nhiên, Aspect có một số khác biệt
cơ bản sau:
1. Aspect không thể khởi tạo trực tiếp.
2. Aspect không thể khởi tạo trực tiếp.
3. Aspect không thể kế thừa từ một aspect cụ thể (không phải trừu tượng)
Aspect có thể được đánh dấu là có quyền bằng định danh privileged. Nhờ đó nó có
thể truy cập đến các thành viên của lớp mà chúng cắt ngang.
3.6. Cơ chế họa động của AspectJ
Aspect compiler là thành phần trung tâm của AspectJ, nó có nhiệm vụ kết hợp các
file mã nguồn Java với các aspect lại với nhau để tạo ra chương trình cu ối cùng. Quá
trình dệt có thể xảy ra ở các thời điểm khác nhau: compile – time, link – time và load –
time.
3.6.1. Compile – time:
Dệt trong thời gian biên dịch là cách đơn giản nhất. Mã nguồn Java và các aspect sẽ
được kết hợp với nhau trước khi trình biên dịch dịch mã nguồn ra dạng byte code. Hay nói
cách khác, trước khi biên dịch, các mã aspect sẽ được phân tích, chuyển đổi sang dạng mã
Java và được chèn chính xác vào các vị trí đã định nghĩa sẵn trong mã nguồn Java chính
của chương trình. Sau đó trình biên dịch sẽ dịch mã đã được dệt này ra dạng byte code.
AspectJ 1.0.x sử dụng cách này để dệt chương trình.
3.6.2. Link – time:
Quá trình dệt được thực hiện sau khi mã nguồn Java và các aspect được biên dịch ra
dạng byte code. Một bộ xử lý tĩnh được sử dụng để đánh dấu các điểm gọi hàm trong mã
được viết bằng java. Khi một hàm được thực thi. Runtime system sẽ phát hiện ra điểm nào
cần gọi đến mã aspect để thực thi và khi đó mã aspect sẽ được gọi để đan vào chương
trình chính. AspectJ 1.1.x sử dụng cách này để dệt chương trình.
3.6.3. Load – time:
Quá trình dệt được thực hiện khi máy ảo Java tải một class vào để chạy. Theo cách
này, mã nguồn Java và các aspect được biên dịch ra dạng byte code. Quá trình dệt diễn ra
khi classloader nạp một class. AspectJ 1.5.x sử dụng cách này để dệt chương trình.
36
3.7. Sử dụng AOP Phát triển ứng dụng và phương pháp kiểm chứng
dựa trên AOP
Ngày nay, AOP được ứng dụng rộng rãi trong việc phát triển phần mềm. Phát triển
hệ thống sử dụng AOP tương tự như phát triển hệ thống sử dụng các phương pháp khác,
cũng g ồm các bước như: xác định concern, cài đặt concern và kết hợp chúng lại tạo thành
hệ thống cuối cùng. Cộng đồng nghiên cứu AOP đề xuất ba bước thực hiện như sau:
o Phân tích bài toán theo khía cạnh (Aspectual decomposition): Trong bước
này chúng ta phân tích các yêu cầu nhằm xác định các chức năng chính của hệ thống và
các chức năng cắt ngang hệ thống. Các phương thức cắt ngang hệ thống được tách ra khỏi
các chức năng chính.
o Xây dựng các chức năng (Concern Implementation): Cài đặt các chức năng
một cách độc lập.
o Kết hợp các khía cạnh lại để tạo nên hệ thống hoàn chỉnh (Aspectual
Recompositon): Trong bước này chúng ta chỉ ra các quy luật kết hợp bằng cách tạo ra các
aspect. Quá trình này gọi là quá trình dệt mã, sử dụng các thông tin trong aspect để cấu
thành hệ thống cuối cùng.
Hình 12. Các giai đoạn phát triển ứng dụng sử dụng AOP
AOP đã được nghiên cứu và áp dụng vào rất nhiều ngôn ngữ lập trình như: Java, C,
C#, PHP. Một số dự án được liệt kê trong bảng dưới đây:
Bảng: Các dự án nghiên cứu AOP
Tên dự án Địa chỉ
AspectJ
AspectWerkz
Jboss AOP
Sping AOP
Aspect#
37
AspectC++
JAC
Từ khả năng mô-đun hóa các quan hệ đan xen, các chức năng cắt ngang hệ thống;
tách rời sự hoạt động của các mô-đun cũng như nhiều ưu điểm khác của AOP so với OOP
mà hiện nay AOP đã trở thành sự lựa chọn phù hợp cho rất nhiều hệ thống phần mềm; đặc
biệt là trong các chức năng lưu vết, bảo mật, xác thực của hệ thống phần mềm. Ngoài ra,
do các mã aspect độc lập với mã nguồn chính của chương trình, có thể sửa đổi tùy theo ý
muốn của lập trình viên, chính vì vậy AOP cònđư ợc ứng dụng rất lớn vào các loại kiểm
chứng trong quá trình thiết kế phần mềm. Ví dụ như: kiểm chứng giao thức [5], kiểm tra
việc gọi tuần tự các hàm trong chương trình…
Nội dung chính của các phương pháp kiểm chứng dựa trên AOP là dựa vào những
kiến khái niệm cơ bản của AOP như: join point, pointcut, advice, aspect để xây dựng nên
các mô-đun kiểm chứng (các aspect) từ các chức năng cắt ngang hệ thống. Các aspect này
sẽ được đan vào khung mã ngu ồn chương trình thông qua trình biên dịch AspectJ để thực
hiện chức năng kiểm chứng.
38
CHƯƠNG 4.
KIỂM CHỨNG CÁC GIAO THỨC BẰNG AOP
4.1 Biểu diễn giao thức.
Một giao thức trên các đối tượng là việc gọi tuần tự các phương thức trong biểu đồ
trình tự theo quy tắc được chỉ ra từ trước. Trong phạm vi khóa luận này, tôi chỉ diễn tả
cách biểu diễn giao thức các giao thức cơ bản như ABn AnBm, (A*B)n. Trong đó,
A,B là các giao thức còn m,n là số lần A,B được gọi trong chương trình. [5] đã kiểm
chứng được các giao thức (AB)n, (A*B)n trên biểu đồ trình tự, xong chưa xử lý với
precondition và postcondition. Trong phạm vi bài khóa luận tôi sẽ trình bày việc xử lý
các giao thức được định nghĩa ở trên biểu đồ tuần tự, bên cạnh đó sử lý triệt để hơn các
ràng buộc precondition và postcondition cho tất cả các giao thức. Trong bài khóa luận,
tôi đề cập hai cách để biểu diễn giao thức:
- Biểu diễn trên biểu đồ tuần tự: Bằng cách sử dụng hai vòng lặp, là một thành phần
trong combindedFragment để miêu tả giao thức trên. Bằng cách mô tả này, ta có thể
mô tả hầu hết tất cả các giao thức cơ bản. Trong ví dụ dưới đây, một vòng lặp thể hiện
việc gọi m lần giao thức Message2 và một vòng lặp thể hiện gọi n lần giao thức
Message4.
Hình 13: Mô tả giao thức AnBm.
39
- Biểu diễn giao thức bằng biểu thức : Việc biểu diễn bằng biểu thức giúp cho việc thực
hiện quá trình kiểm tra giao thức một cách nhanh chóng. Giao thức AnBm được biểu diễn
bằng biểu thức [A]n[B]m.
Ví dụ : [void message2()]m [void message4()]n như trong hình vẽ. Như trong định nghĩa
trên thì phương thức void message2() sẽ được gọi m lần và phương thức void message4()
sẽ được gọi n lần trong mã nguồn chương trình.
4.2. Tiền điều kiện và hậu điều kiện :
4.2.1. Tiền điều kiện :
Tiền điều kiện biểu diễn những ràng buộc mà một thủ tục sẽ thực hiện một cách
chính xác. Ví dụ như :
- Put sẽ không được gọi nếu ngăn xếp đã đầy.
- Remove item sẽ không được thực hiện trên một ngăn xếp khi ngăn xếp là rỗng.
Tiền điều kiện vào có hiệu lực đến tất cả những lời gọi thủ tục, cả trong lớp và từ
những lớp liên quan. Một hệ thống chính xác sẽ không bao giờ thực thi một lời gọi không
thỏa mãn tiền điều kiện.
4.2.2. Hậu điều kiện :
Hậu điều kiện biểu diễn những thuộc tính của trạng thái kết quả có được sau khi thực
hiện thủ tục. Ví dụ như :
- Sau thủ tục put, ngăn xếp sẽ không thể rỗng, phần tử trên cùng là phần tử mời được
thêm vào và số lượng phần tử sẽ tăng lên 1.
- Sau khi remove, ngăn xếp không thể đầy, số phần tử giảm đi 1.
Sự có mặt của mệnh đề hậu điều kiện trong thủ tục bảo đảm kết quả của thủ tục sẽ
thỏa mãn các thuộc tính(giả sử rằng thủ tục đã thỏa mãn tiền điều kiện để được gọi).
4.2.3 Biểu diễn tiền điều kiện và hậu điều kiện trong biểu đồ trình tự :
Trong sequence diagram, để biểu diễn tiền điều kiện và hậu điều kiện tôi dùng một
thành phần Comment để biểu diễn, Comment này sẽ chứa đựng thông tin về loại điều kiện
(tiền điều kiện hoặc hậu điều kiện), điều kiện ràng buộc và thủ tục liên quan. Ví dụ như ở
trong hình vẽ:
- Comment thứ nhất có nội dung: pre:x=0:Message2 biểu diễn rằng kiểu của điều
kiện là tiền điều kiện(pre), điều kiện ở đây là x=0 và phương thức liên quan đến là
message2.
- Comment thứ nhất có nội dung: pos:x>0:Message2 biểu diễn rằng kiểu của điều
kiện là hậu điều kiện(pos), điều kiện ở đây là x>0 và phương thức liên quan đến là
message2.
40
Hình 14. Mô tả tiền điều kiện và hậu điều kiện trong biểu đồ tuần tự
4.3 Kiểm chứng giao thức:
Giả thiết cần kiểm chứng biểu đồ như trong hình 9.Việc kiểm chứng giao thức sẽ làm
được những việc sau :
- Kiểm tra xem mã nguồn chương trình có thực hiện tuần tự các phương thức như trong
thiết kế của biểu đồ trình tự hay không: Từ thiết kế trên, khi ta viết mã chương trình thì
chương trình phải tuân thủ các nguyên tắc trong bản thiết kế trên như: phương thức void
message1() phải được gọi trước phương thức void message2(), phương thức void
message2() gọi trước phương thức void message4(). Trước void message2() thì phải gọi
void message1() trước…
Để giải quyết vấn đề này bằng AOP ta đặt tên cho các trạng thái của chương trình khi
chương trình thực thi bằng mã aspect. Ban đầu là trạng thái mở đầu(state_start), sau khi
gọi 1 phương thức thì trạng thái sẽ bị thay đổi và được đánh dấu ở phương thức đó. Sau
cùng là trạng thái kết thúc.
- Kiểm chứng xem mã nguồn có đáp ứng các ràng buộc nếu có không : Là việc xác minh
các tiền điều kiện và hậu điều kiện được miêu tả trong biểu đồ tuần tự là đã được xác
minh hay chưa. Trong hình 9 mô tả ràng buộc với phương thức void message2(). Trước
khi gọi void message2() thì kiểm tra x=0 có đúng hay không. Sau khi gọi void message2()
thì x>0 có đúng hay không. Việc kiểm chứng các ràng buộc như vậy là không khó khăn
chỉ có điều khi ràng buộc thể hiện một cách phức tạp thì chúng ta phải viết tách các điều
kiện ra thành từng điều kiện nhỏ để có thể kiểm chứng.
- Thông báo lỗi và chỉ ra lỗi trong đoạn cài đặt của chương trình: Khi có lỗi cài đặt được
phát hiện thì mã kiểm chứng cho in ra dòng thông báo lỗi ở vị trí liên quan để người kiểm
tra có thể dễ dàng sửa lại cho đúng.
41
Trường hợp Sequence diagram định nghĩa các combindedFragment thì việc kiểm
chứng sẽ xác minh cả các combindedFragment mà có chứa điều kiện có được thực thi
đúng không. Ví dụ như Loop là một combindedFragment, chương trình sẽ kiểm tra xem
Loop có được thực hiện đúng không, về số vòng lặp, giao thức lặp….
Trong trường hợp không định nghĩa một CombindedFragment nào trong biểu đồ tuần
tự thì việc kiểm chứng giao thức sẽ là kiểm chứng cài đặt trên sequence diagram. Tức là
sẽ kiểm tra đơn thuần mã thực thi có thực hiện tuần tự như trong thiết kế biểu đồ tuần tự
hay không.
Duyệt các trạng thái : Các trạng thái được đặt vào Enumeration và được duyệt lần lượt
để đặt các trạng thái vào sau khi phương thức được gọi.
42
Chương 5 Xây dựng công cụ sinh mã từ máy trạng thái
5.1 Tổng quan về xây dựng công cụ sinh mã từ máy trạng thái.
Dựa vào cấu trúc của mã aspect tôi đã trình bày ở phần trên, tôi tiến hành phương
pháp cài đặt mã aspect từ máy trạng thái. Mã aspect kiểm thử gồm các pointcut Việc cài
đặt mã aspect bao gồm những việc sau đây :
- Lấy các thành phần cần sử dụng trong tài liệu XMI .
- Duyệt các trạng thái từ FSM.
- Xác định số pointcut cần đặt vào. Số pointcut cần thiết bằng số lượng phương
thức trong chương trình.
- Xác định các hành vi mà hệ thống cần thực thi, những điều kiện ràng buộc cho
các giao thức. Trước khi gọi phương thức thì trạng thái của hệ thống phải ra
sao, có những điều kiện gì đi kèm, sau khi gọi phương thức thì điều kiện ra sao.
Trong bước này ta xác định các mã kiểm chứng Advice.
Sau khi xác định được các pointcut và advice, tổng hợp mã trên theo cấu trúc cú pháp của
AspectJ.
5.1.1 Lấy các thành phần trong tài liệu XMI.
Truy xuất các đường đời (Lifeline)
Một đường đời trong tệp XMI được biểu diễn bởi phần tử có thẻ là trong
đó có nhiều thuộc tính, ta chỉ quan tầm tới hai thuộc tính là id và name. Ta sẽ lưu hai
thuộc tính này trong đó name thì ta chỉ quan tâm tới tên lớp (nhớ lại quy tắc tên một
đường đời là objectName:ClassName ) tức là sau dấu hai chấm còn bỏ đi tên đối tượng.
Vì trong một biểu đồ có thể có nhiều đường đời có cùng tên lớp nhưng khác nhau tên
đối tượng do vậy, mỗi khi ta truy xuất thêm một đường đời mới ta lại phải kiểm tra xem
trước đó đã có đường đời nào cùng lớp với nó hay chưa nếu có rồi thì tên đối tượng sẽ
được đặt theo quy tắc sau: object1, object2, …
Sau khi lưu hết các phần tử này, kết quả ta sẽ có được một dãy các đường đời đã vẽ
trên biểu đồ.
Truy xuất các thông điệp (Message)
Một thông điệp được biểu diễn bởi phần tử có thẻ là trong đó ta quan
tâm tới thuộc tính id, name, sendEvent, receiveEvent và messageSort. Tên của thuộc tính
ta sẽ chỉ lấy lại tên của phương thức còn bỏ đi phần tham số. Từ hai thuộc tính sendEvent
43
và receiveEvent, thông qua phần tử mà có thuộc tính xmi:type=
“uml:MessageOccurrenceSpecification ta sẽ tìm ra đường đời nguồn và đích của thông
điệp đấy. Từ thuộc tính messageSort ta sẽ biết được thông điệp đấy thuộc loại nào trong
bảy loại thông điệp đã nêu trên.
Kết quả ta sẽ thu được một dãy các thông điệp. Tuy nhiên có một vấn đề là thứ tự
các thông điệp sẽ là thông điệp nào được vẽ trước sẽ có thứ tự trước chứ không theo thứ
tự thông điệp bên trên sẽ có thứ tự trước. Do vậy ta phải dựa vào tọa độ của các thông
điệp để sắp xếp lại danh sách các thông điệp theo đúng trình tự của chúng trên biểu đồ.
Thủ tục thực hiện là ta phải tìm trong phần tử có thẻ id của thông điệp
sau đó tính tọa độ rồi sắp xếp lại theo thứ tự các tọa độ. Cuối cùng ta sẽ có một dãy các
thông điệp theo đúng thứ tự mong muốn.
Truy xuất các đoạn gộp( Combinded Fragment)
Các đoạn gộp chỉ có một Interaction Operand sẽ được truy xuất như sau. Giả sử với
đoạn gộp có Interaction Operator là loop thì trong tệp XMI sẽ nằm trong phần tử có thẻ
mà có thuộc tính xmi:type=“uml:CombinedFragment” và thuộc tính
interactionOperator= “loop”. Từ phần tử này ta sẽ lấy ra thuộc tính id và tìm trong phần
diagrams xem phần tử nào có thuộc tính guiLink_Element trùng
với id của loop. Qua đó, loop sẽ có các tọa độ về vị trí, chiều cao, chiều rộng. Rồi ta sẽ tìm
xem các thông điệp nào có tọa độ nằm trong loop thì sẽ lưu lại, đánh dấu thông điệp đầu
tiên và cuối cùng bên trong loop. Ta cần lưu thêm thông điệp ngay sau loop mà không
phải là một thông điệp trả lời vì cần thiết cho việc xây dựng máy trạng thái sau này.
44
Những đoạn gộp chỉ có một Interaction Operand khác như Option và Break cũng làm
tương tự như với loop chỉ khác là ở thuộc tính interactionOperator bây giờ sẽ là “opt” hay
“break”.
OPT
Break
Đối với những đoạn gộp có nhiều Interaction Operand như Alternative thì bước đầu
tiên ta cũng làm tương tự như với bên trên với thuộc tính interactionOperator=“alt”. Sau
đó khi lấy các tọa độ về kích thước thì ta phải lấy thêm tọa độ của các đường thẳng phân
cách giữa các Interaction Operand. Từ đấy ta sẽ xác định các thông điệp bên trong đoạn
45
gộp thuộc về Operand nào, thông điệp nào là mở đầu và thông điệp nào là kết thúc
Operand đó. Ngoài ra ta phải xác định thêm thông điệp đầu tiên không phải thông điệp trả
lời sau đoạn gộp này.
5.1.2. Sinh mã Aspect từ biểu đồ tuần tự UML
Chúng ta tiến hành kiểm thử aspect để giải quyết bài toán với đầu vào là biểu đồ tuần
tự UML dưới dạng file XMI. Máy trạng thái đã đọc được nội dung từ file XMI và lấy ra
được một số thông tin. Nhưng để sinh ra mã nguồn kiểm thử tôi phải định nghĩa thêm một
số phương thức quan trọng tương tác với các trạng thái của FSM là getBeforeState,
getCondition, getPreCon, getPos. getBeforeState lấy ra các trạng thái có thể tiến tới trạng
thái cho trước,getPreCon lấy ra điều kiện trước, getPoss: lấy ra điều kiện sau,
getCondition lấy ra điều kiện cụ thể là gì. Ngoài ra cần định nghĩa hàm chuanhoa để sửa
lại hiển thị của các trạng thái và các phương thức cho đúng. Đặc biệt do trong biểu đồ tuần
từ không cho phép đặc tả tiền điều kiện và hậu điều kiện một cách tường minh, vì vậy để
giải quyết vấn đề này tôi sử dụng một thành phần khác trong biểu đồ tuần từ là Comment,
nội dung trong thành phần này là để tôi định nghĩa các ràng buộc về tiền điều kiện và hậu
điều kiện, lấy ra và sử lý các tiền điều kiện và hậu điều kiện là từ nội dung của thành phần
comment này.
File kiểm chứng Aspect ta sẽ dùng :
- Before advice : Kiểm tra xem giá trị của biến state hiện thời có bằng giá trị của các
trạng thái trước nó có thể chuyển trạng thái khi gọi phương thức hiện thời hay không. Mặt
khác, kiểm tra các ràng buộc tiền điều kiện của phương thức. Nếu vi phạm thì sẽ báo lỗi.
46
- After advice: Đặt lại giá trị mới cho biến state sau khi thay đổi trạng thái được gọi.
Thực hiện các phép kiểm tra hậu điều kiện, kiểm tra tính đúng đắn của giao thức.
5.1.3. Thuật toán sinh mã aspect được cài đặt như sau :
- Duyệt lần lượt tất cả các event (phương thức) trong FSM. Thiết lập trạng thái cho
lần lượt mỗi khi một phương thức được gọi:
+ Sau khi gọi một phương thức, đổi trạng thái cho nó trong after advice.
+ Dùng before advice kiểm tra state trước nó có phải là các trạng thái có thể chuyển
đến trạng thái hiện thời không. Bằng cách lấy tất cả các trạng thái có thể gọi đến phương
thức hiện tại và so sánh với state hiện tại. Nếu sai thì báo lỗi.
-Lấy ra các precondition và pos-condition để kiểm chứng. Nếu sai với điều kiện
trong precondition và pos-condition thì báo lỗi. Trước tiên ta phải lấy ra ràng buộc trong
tài liệu XMI, và được lấy từ thành phần Comment. Commnent được biểu diễn trong tài
liệu XMI là tag mà có các thuộc tính là xmi:type = “uml:Comment”
và thuộc tính body = “” chính là nội dung chúng ta cần quan tâm. Nội dung trong thuộc
tính body chúng ta cần định nghĩa chính xác theo khuân mẫu : body = “pre/pos:
condition:Message”.
Trong đó :
- pre/ pos : xác định kiểu của điều kiện là tiền điều kiện hay là hậu điều kiện.
- Conditon : biểu diễn ràng buộc cụ thể là gì.
- Message: biểu diễn tên của thông điệp liên quan.
Như trong hình trên, thuộc tính body của ownComment là :pre:x=0:message2 có
nghĩa: kiểu của điều kiện là tiền điều kiện(pre),điều kiện ràng buộc là x =0 và là tiền điều
kiện trước khi gọi Message2.
Pos:x>0:message2 có nghĩa: kiểu của điều kiện là hậu điều kiện(pos), điều kiện ràng
buộc là x>0 và là hậu điều kiện sau khi gọi message2.
- Vòng lặp (Loop) biểu diễn các giao thức cơ bản, ta cần sử lý vòng lặp nếu có. Các
phương thức được đặt trong vòng lặp để thể hiện chúng được lặp bao nhiều lần. Đây là
CombindedFragment chủ yếu để tạo ra các giao thức phức tạp. Việc kiểm chứng này ở
mức đơn giản nhất là kiểm chứng tính đúng đắn ở một vòng lặp. Tức là kiểm tra xem
trong vòng lặp đó số lần lặp, các phương thức lặp với tuần tự đó là phải chính xác.
5.2. Sinh mã kiểm chứng giao thức AnBm
47
Việc kiểm chứng giao thức AnBm có các vấn đề sau :
Thứ nhất Kiểm chứng việc thực hiện m lần gọi phương thức A và n lần phương thức
B. Việc này được thực hiện dễ dàng bằng cách đặt 2 biến nguyên counta và countb, biến
counta được tăng l sau khi gọi xong phương thức A, countb được tăng thêm 1 sau khi gọi
phương thức B. Việc kiểm tra gọi n lần phương thức B chỉ được thực hiện khi đã gọi n lần
phương thức A.
after(): pc_A(){
counta=0;
}
after(): pc_B(){
countb=0;
}
Thứ 2: Kiểm chứng việc gọi liên tiếp m lần phương thức A và liên tiếp n lần phương
thức B. Việc này được thực hiện như sau, đầu tiên, gọi 2 biến checka và checkb, khởi tạo
giá trị ban đầu cho 2 biến này = 0. Hai biến này được tăng lên 1 khi một phương thức bất
kì được gọi.
pointcut pc() : call(* *.*(*));
before() : pc()
{
checka++;
checkb++;
}
checka bằng 0 khi phương thức A được gọi, checkb bằng 0 khi phương thức B được gọi.
after(): pc_A(){
checka=0;
}
after(): pc_B(){
checkb=0;
}
Bằng cách này ta biết được sự liên tiếp khi gọi các phương thức A và B. Chỉ có ở vị
trí khi bắt đầu gọi đến phương thức A, khi đó checka là khác 0, nhưng counta chắc chắn là
bằng 0. Vì vậy nên khi counta bằng 0 và checka khác 0 thì vẫn đúng. Ngược lại couta
khác 0 và checka khác 0 là sai.
if(checka !=0 && counta !=0){
48
System.out.println("Error");
result = false;
}
Biến boolean result được khởi tạo là true, biến này được gán bằng false khi các điều
kiện không được thỏa mãn. Khi kết thúc chương trình, nếu biến result = true thì giao thức
đã kiểm tra là đúng, ngược lại nếu result = false thì giao thức đã kiểm chứng sai.
Kiểm chứng tính đúng đắn trong biểu đồ tuần tự(Sequence diagram)
Việc kiểm chứng biểu đồ tuần tự bao gồm :
- Kiểm chứng việc đặc tả trong biểu đồ tuần tự có đúng với khi cài đặt không.
- Kiểm tra tính đúng đắn khi cài đặt, có cả tiền điều kiện và hậu điều kiện.
Việc kiểm chứng đặc tả trong biểu đồ tuần tự có đúng với đặc tả không là việc kiểm
chứng việc gọi lần lượt các phương thức sao cho đúng đắn. Tuân thủ quy tắc trong khi cài
đặt. Việc kiểm chứng này được thực hiện bằng thuật toán sau đây :
- Đặt các biến state nguyên là biến trạng thái. Trong biểu đồ có n phương thức thì sẽ
có n+1 trạng thái bao gồm trạng thái đầu và trạng thái kết thúc.
- Sau mỗi lời gọi phương thức thì đặt cho nó ở một trạng thái.
- Hàm getBeforeState(Event e) sẽ lấy ra tất cả các trạng thái mà có thể gọi tới
phương thức e.
- Kiểm tra các tiền điều kiện ràng buộc và hậu điều kiện ràng buộc đối với mỗi
phương thức.
- lấy và so sánh các trạng thái của từng trạng thái trong biểu đồ xem có đúng với
đúng với trạng thái thực của nó không. Dùng mã aspect để kiểm chứng.
49
Chương 6 Kết luận
6.1 Kết luận về khóa luận
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã tìm hiểu những kiến thức cơ bản về kiểm
chứng phần mềm giúp cho việc phát hiện và sửa lỗi phần mềm nhằm đảm bảo chất lượng
của phần mềm, các kiến thức cơ bản về UML, Sequence Diagram về chi tiết các thành
phần, cách sử dụng và biểu diễn chúng. Tôi đã tìm hiểu các kiến thức về AOP và áp dụng
các kiến thức này để xây dựng phương pháp kiểm thử dựa vào những đặc tính ưu việt của
AOP. Các mô đun aspect chứa mã kiểm chứng có thể cắt ngang can thiệp vào một thành
phần của hệ thống và tách biệt hoàn toàn với chương trình ban đầu. Đây là một khả năng
rất hay và mạnh mẽ của AOP. Quá trình kiểm chứng phần mềm mà tôi đề cập trong khóa
luận được tóm tắt lại như sau:
Từ biểu đồ trình tự UML đặc tả giao thức, xuất biểu đồ này dưới dạng tài liệu XMI,
tiếp đó phân tích tài liệu XMI, máy trạng thái tương tác vơi tài liệu XMI cho ra được biểu
đồ trạng thái. Với việc phát triển thêm một số thành phần cho máy trạng thái và xây dựng
các mô đun cho việc sinh mã aspect kiểm chứng cho các giao thức cơ bản, tôi đã xây dựng
được công cụ sinh mã kiểm chứng tự động bằng aspect từ tài liệu XMI mô tả giao thức.
Với chương trình này tôi có thể kiểm chứng được hầu hết các giao thức định nghĩa được
trên biểu đồ tuần tự. Khi thực hiện khóa luận tôi cũng gặp phải những khó khăn khi xây
dựng công cụ sinh mã kiểm chứng tự động. Việc biểu diễn ràng buộc trong biểu đồ trình
tự là rất khó,bằng phương pháp của tôi có thể giải quyết triệt để các ràng buộc đơn giản.
Nhưng khi ràng buộc là tổ hợp của rất nhiều ràng buộc nhỏ lẻ bắt buộc phải tách chúng ra
thành từng ràng buộc nhỏ lẻ để có thể kiểm chứng. Và một vấn đề nữa là chương trình
phụ thuộc hoàn toàn vào tài liệu XMI, mà XMI lại là tự động được sinh ra và phụ thuộc
hoàn toàn vào công cụ. Vì vậy, các thành phần của biểu đồ UML được biểu diễn rất khác
nhau với mỗi công cụ sinh tài liệu XMI khác nhau. Trong bài khóa luận tôi sử dụng
chương trình Altova UModel để sinh tài liệu XMI. Đây là một công cụ khá mạnh mẽ và
biểu diễn được tương đối đầy đủ các thành phần biểu đồ UML.
50
6.2 Hướng phát triển trong tương lai :
Từ những vẫn đề tồn tại của khóa luận, trong tương tai tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu nhằm
hoàn thiện công cụ sinh mã tự động.Hướng phát triển gần nhất là việc mô tả thêm các biểu
thức chính quy để biểu diễn các giao thức phục vụ kiểm chứng được nhanh. Xa hơn, tôi sẽ
nghiên cứu phương pháp để đồng nhất giữa giao thức biểu diễn bằng biểu đồ tuần tự với
việc biểu diễn giao thức bằng biểu thức chính quy. Tức là từ biểu đồ tuần tự có thể suy ra
biểu thức chính quy mô tả giao thức và ngược lại. Nghiên cứu phương pháp kiểm chứng
biểu đồ tuần tự mà phù hợp với đặc tả chung của tài liệu XMI để chương trình không phụ
thuộc vào tài liệu XMI do công cụ tạo ra.
51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] UML .
[2]
[3] UML Specifications
[4] Anh-Hoang Truong, Phuc Dinh Nguyen, Tuyen Luu, Checking implementations of UML
2.0 sequence diagrams”.
[5] Vũ Sỹ Vương, Kiểm chứng đặt tả UML cho tác tử phần mềm.
[6] XMI Specifications
[7] Farida Mostefaoui DIRO,Julie Vachon , University of Monreal Quebec, Canada
Verification of Aspect –UML models using alloy, 2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-KIỂM CHỨNG CÁC GIAO THỨC BẰNG AOP.pdf