Nếu trong hố đã đổ vào 1 lượng nhỏ bê tôngthì phải làm sạch đi rồi mới đổ.Nếu đã đổ vào khá nhiều bê tông thì phải tạm ngưng đổ, cho 1 đầu khoan nhỏ hơn cũ 1 cấp vào khoan đến độ sâu nhất định thì nhấc khoan lên, dùng nước cao áp rửa sạch mặt bê tông, hút hết cặn lên, cho ống dẫn xuống đến giữa trong lỗ nhỏ rồi đổ lại bê tông
88 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5702 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kiểm tra chất lượng, phát hiện khuyết tật cọc khoan nhồi- Nguyên nhân- Giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý tưởng.
Từ các kết qủa của lý thuyết phương trình truyền sóng ta có thể xác định được sức kháng tổng cộng của đất khi đóng cọc như sau :
Trong đó :
R - sức kháng tổng cộng của đất;
F - lực đo được tại đầu cọc;
v - vận tốc đo được tại đầu cọc;
M - trọng lượng cọc;
L - chiều dài cọc;
C -tốc độ truyền sóng ứng suất trong cọc;
t1 - thời điểm va chạm toàn phần (lực va chạm cực đại);
t1 - thời điểm sóng ứng suất đi hết 1 chu kỳ từ đầu cọc đến mũi cọc và phản xạ trở lại.
Phương pháp Case :
Xét theo bản chất vật lý ta có :
R = Rs + Rd
Trong đó :
R - sức kháng tổng cộng của đất;
Rs- sức chịu tải tĩnh, là giá trị người thiết kế quan tâm và thu được khi thử tải tĩnh, phụ thuộc vào chuyển vị;
Rd - sức chịu tải động, do việc đóng cọc, sức cản động phụ thuộc vào tốc độ;
Quy trình thí nghiệm :
Phương pháp thử động biến dạng lớn được thực hiện theo quy trình ASTM D4945-00 [12] hoặc theo các Tiêu chuẩn riêng do Tư vấn thiết kế quy định.
Thực hiện thử tải và phân tích kết quả :
Các thiết bị :
Thiết bị tạo lực va chạm (búa nặng gây được dịch chuyển cọc);
Thiết bị đo (lực, gia tốc, chuyển vị);
Thiết bị ghi, biến đổi và trình diễn số liệu.
Sơ đồ nguyên lý thử tải theo phương pháp PDA được thể hiện trên hình.
Sơ đồ nguyên lý thử động PDA
1. Búa; 2. Cọc; 3. Đầu đo gia tốc; 3A. Máy đo gia tốc; 4. Đầu đo ứng suất; 4A. Máy đo ứng suất; 5. Thiết bị phân tích (máy tính+phần mềm); 6. Máy in kết quả.
Các bước tiến hành thí nghiệm :
Bắt chặt 2 cặp đầu đo gia tốc và biến dạng vào thân cọc đối xứng qua tim cọc, cách đỉnh cọc tối thiểu 2 lần đường kính cọc.
Vào máy các thông số, kiểm tra tín hiệu các đầu đo. Bắt lại đầu đo nếu cần thiết.
Dùng búa đóng cọc đóng lên đầu cọc 5 nhát.
Kiểm tra chất lượng tín hiệu ghi được của từng nhát búa, nếu tín hiệu không được tốt cho đóng lại.
Tắt máy chuyển sang cọc khác.
Các đầu đo gia tốc và ứng suất được gắn chặt vào cọc, các tín hiệu từ đầu đo được truyền từ cọc như năng lượng lớn nhất của búa, ứng suất kéo lớn nhất của cọc, sức chịu tải Case-Goble, hệ số độ nguyên vẹn... được quan sát trong quá trình thí nghiệm trên máy tính phân tích và hiển thị.
Các số liệu hiện trường được phân tích bằng chương trình CAPWAP (hoặc Case) nhằm xác định sức chịu tải tổng cộng của cọc, sức chống ma sát của đất ở mặt bên và ở mũi cọc cùng một số thông tin khác về công nghệ đóng và chất lượng cọc.
Kết quả phân tích bằng phần mềm CAPWAP
Nhờ phần mềm CAPWAP có thể in hoặc biểu thị ra được các kết quả dưới đây :
Sức chịu tải của cọc đơn :
Sức chịu tải của cọc tại từng nhát búa, từng cao độ ngập đất của cọc;
Ma sát thành bên; sức kháng của mũi cọc;
ứng suất trong cọc :
ứng suất nén lớn nhất, ứng suất kéo lớn nhất;
ứng suất nén tại mũi cọc;
Sự hoạt động của búa :
Năng lượng truyền lớn nhất của búa lên đầu cọc (hiệu quả đóng cọc);
Lực tác dụng lớn nhất lên đầu cọc; độ lệch giữa búa và cọc;
Tổng số nhát búa; số nhát búa trong một phút;
Chiều cao rơi búa hoặc độ nảy của phần va đập;
Hệ số hoàn chỉnh b của mặt cắt thân cọc.
Như vậy, phương pháp này ngoài việc xác định được sức chịu tải của cọc còn có thể phán đoán mức độ khuyết tật (có tính định tính) của cọc theo hệ số hoàn chỉnh b
Bảng : Phán đoán mức độ khuyết tật của thân cọc
Hệ số b
1,0
0,8 ¸ 1,0
0,6 ¸ 0,8
< 0,6
Mức độ khuyết tật
Hoàn chỉnh
Tốn thất ít
Phá hỏng
Nứt gãy
Báo cáo kết quả :
Báo cáo kết quả thí nghiệm thử động PDA gồm có các nội dung sau :
Tên, vị trí công trình.
Chủ đầu tư, tư vấn thiết kế/giám sát, nhà thầu thi công cọc, đơn vị thí nghiệm.
Số liệu về cọc thí nghiệm như kích thước cọc, ngày đổ bê tông, ngày thí nghiệm.
Bảng tổng hợp kết quả thí nghiệm.
Các biểu đồ quan hệ lực, vận tốc, sức chịu tải, năng lượng... theo thời gian.
Biểu đồ quan hệ tải trọng-biến dạng và các bản tính.
Kết luận và kiến nghị.
Phương pháp thử tải trọng tĩnh bằng hộp tải trọng Osterberg :
Để thay thế cho việc sử dụng các kích truyền thống, dầm neo và hệ thống neo người ta đã sử dụng kích và hộp tải trọng đặt sẵn trong cọc trước khi thi công để thực hiện thử tải thẳng đứng cọc. Kích và hộp tải trọng này được gọi là hộp tải trọng Osterberg.
Nguyên lý của phương pháp :
Về nguyên lý phương pháp này khá đơn giản. Dùng một hay nhiều hộp tải trọng Osterberg (hộp thuỷ lực làmn việc như một kích thuỷ lực) đặt ở mũi cọc hay hay ở hai vị trí mũi và thân cọc trước khi đổ bê tông cọc khoan nhồi. Sau khi bê tông dủ cường độ tiến hành thử tải bằng cách bơm dầu thuỷ lực để tạo áp lực trong hộp kích. Đối trọng chính là trọng lượng cọc và sức chống ma sát hông.
Theo nguyên lý phản lực, lực truyền xuống đất mũi cọc bằng lực truyền lên thân cọc. Việc thử tải sẽ đạt tới phá hoại khi một trong hai phá hoại xẩy ra ở mũi cọc và quanh thân cọc. Dựa theo các thiết bị đo chuyển vị và lực gắn trong hộp tải trọng Osterberg sẽ vẽ ra được các biểu đồ quan hệ giữa lực tác dụng và chuyển vị mũi cọc và thân cọc. Từ các biểu đồ này tiến hành phân tích để xác định được sức chịu tải của cọc.
Bố trí hộp tải trọng ở đáy lỗ khoan
Thiết bị kiểm tra :
Hộp tải trọng :
Hộp tải trọng Osterberg là thiết bị quan trọng nhất trong phương pháp này. Một hộp tải trọng Osterberg gồm hai pít tông, giữa chúng có một khoang có thể chứa chất lỏng (thường là dầu). Hai pit tông của hộp tải trọng được hàn vào các tấm thép dày đến 50 mm và có đường kính xấp xỉ đường kính cọc kiểm tra. Hộp tải trọng sẽ được tăng áp lực bằng việc bơm dầu thuỷ lực bằng một bơm ở trên mặt đất. Vì diện tích mặt cắt ngang của hộp bé hơn rất nhiều so với tấm thép nên sẽ tạo ra được một áp lực rất lớn lên cọc kiểm tra.
Hình ảnh hộp tải trọng Osterberg
Bảng: Các thông số kỹ thuật của hộp tải trọng Osterberg
Khả năng chịu tải
(T)
Đường kính
(inch)
Chiều cao
(inch)
Hành trình
(inch)
Tự trọng
(kg)
40
75
200
400
1000
3000
4
5-1/4
9
13
21-1/4
34-1/4
5-3/16
5-3/16
10-3/4
11-5/8
11-5/8
12-1/8
3
3
6
6
6
6
9
14,5
86
135
360
495
Hiện nay, công ty LOADTEST đang giữ độc quyền về công nghệ này. Dưới đây giới thiệu một số thông số kỹ thuật chính của hộp tải trọng Osterberg do công ty này sản xuất.
Bơm áp lực và thiết bị đo lực :
áp lực thử được truyền xuống hộp tải trọng nhờ bơm thuỷ lực đặt trên mặt đất. Tải trọng này được điều chỉnh bằng việc đo áp suất chất lỏng trong bơm. Do đó hộp tải trọng Osterberg cần phải được kiểm định bằng một máy thí nghiệm trước khi lắp đặt để tìm được mối liên hệ giữa áp suất đo được và tải trọng cung cấp bởi hộp tải trọng. Thông thường thì việc kiểm định được thực hiện bởi nhà cung cấp. Chú ý rằng khi thực hiện thí nghiệm thì áp lực dầu được đo trên mặt đất, còn hộp tải trọng thì được đặt dưới sâu. Do đó áp lực thực tế ở hộp tải trọng là áp lực đo được cộng với áp lực cột chất lỏng từ thiết bị đo xuống đến tâm hộp tải trọng. Việc hiệu chỉnh này cần phải được thực hiện trước khi vẽ đồ thị quan hệ tải trọng-chuyển vị.
Thiết bị đo chuyển vị :
Chuyển vị có thể được đo tại đỉnh hộp qua các đồng hồ đo được điều khiển bởi các cảm biến chuyển vị được treo trên các thanh dầm ổn định trên mặt đất. Tương tự như vậy, chuyển vị cũng có thể được đo ở đầu cọc thí nghiệm bằng các cảm biến chuyển vị được treo ở các dầm chuẩn, và chuyển vị của đáy tấm bản có thể được đo bằng việc đo chuyển vị của đầu hộp tải trọng Osterberg và đo chuyển vị tương đối giữa hai mặt của hộp bằng các cảm biến chuyển vị bằng điện gắn giữa đỉnh và đáy của tấm.
Các thiết bị khác :
Hệ thống ống dẫn phục vụ cho hộp tải trọng;
Máy bơm vữa áp lực cao và hệ thống ống dẫn vữa, các ống có măng sét để chôn sẵn trong cọc;
Thiết bị ghi nhận và xử lý tại chỗ;
Máy tính với phần mềm xử lý kết quả;
Trình tự tiến hành :
Bước 1 : Lắp sẵn các hộp Osterberg, các đường dẫn áp lực và các thiết bị khác được gắn vào các khung thép của cọc khoan nhồi. Bản gia cường của hộp tải trọng được hàn chặt vào khung cốt thép đảm bảo trùng với truục của khung trước khi hạ cốt thép vào trong hố cọc. Trong trường hợp có tầng hộp đặt ở giữa khung thì phải tiến hành cắt hết các cốt thép chủ tại cao trình đặt hộp sao cho hai đoạn cọc cho thể dịch chuyển ngược chiều nhau.
Bước 2 : Khi thi công xong hố cọc, tiến hành đổ một lớp bê tông hay vữa thích hợp xuống đáy hố. Khi bê tông hay vữa còn tươi tiến hành đặt khung cốt thép đã gắn đầy đủ thiết bị xuống.
Bước 3 : Đổ bê tông thân cọc.
Bước 4 : Tiến hành bơm áp lực thử tải.
Bước 5 : Sau khi thử tải xong cần thu dọn ngay các thiết bị, vật tư... để không ảnh hưởng đến các bước thi công sau. Nếu cọc thử sẽ được dùng lại trong công trình thì cần phải tiến hành bơm vữa vào trong hộp và xung quanh hộp theo một công nghệ bơm đã được chuẩn bị trước.
Phân tích, xử lý số liệu :
Trên hình, hộp tải trọng được đặt ở đáy lỗ khoan để khi nó hoạt động sẽ truyền lực đều lên cọc ở phía trên hộp (theo hướng từ dưới lên) và địa tầng đáy cọc (theo hướng từ trên xuống). Do đó sức kháng thành bên và sức kháng đáy cọc là tương đương. Với việc bố trí như vậy sẽ xác định được quan hệ giữa sức kháng thành bên với chuyển vị thành bên và giữa sức kháng đầu cọc và chuyển vị đầu cọc cho đến khi thành bên hoặc đáy cọc bị phá vỡ như trên hình dưới đây.
Theo sơ đồ chất tải này thì nếu gọi tổng các lực ma sát thành bên trên toàn bộ chiều dài cọc là Pms và lực chống ở đầu cọc là Pd, lực do hộp tải trọng Osterberg gây ra là P0 ta có nhận xét như sau :
Khi tạo lực P0 trong hộp tải trọng Osterberg, theo nguyên lý cân bằng phản lực một lực P0 truyền lên thân cọc và hướng lên trên sẽ được cân bằng bởi lực ma sát thành bên và tải trọng bản thân cọc G. Phần phản lực P0 hướng xuống phía dưới và được cân bằng với sức chống của đất nền dưới đầu cọc. Như vậy trong quá trình chất tải (tăng dần P0) ta luôn có :
P0 = (G + Pms) < G + Pmsgh
hoặc :
P0 = Pd < Pdgh
Cọc thí nghiệm sẽ đạt đến phá hoại khi đạt đến cân bằng của một trong hai biểu thức nêu trên, tức là khi bị phá hoại đầu cọc trước (đất dưới đầu cọc đạt đến trạng thái phá hoại) hoặc bị phá hoại ở thành bên trước (cọc và đất bao quanh có chuyển dịch dẻo).
Đường cong tải trọng - chuyển vị khi tải trọng
giới hạn xuất hiện ở mũi cọc
Cách xác định tải trọng giới hạn của cọc :
Do kết quả thu được là hai biểu đồ tải trọng-chuyển vị mũi cọc và đầu cọc độc lập nhau nên để sử dụng và so sánh với với thử tải truyền thống phải dựng được biểu đồ tải trọng chuyển vị tương đương như trong thử tải tĩnh truyền thống. Để thực hiện được điều đó phải dựa vào các giả thiết cơ bản sau đây:
Đường cong tải trọng-chuyển vị mũi trong cọc được chất tải tĩnh truyền thống giống như đường cong tải trọng chuyển vị được xây dựng với dịch chuyển đi xuống của hộp tải trọng.
Đường cong tải trọng-chuyển vị ma sát bên của dịch chuyển đi lên trong this nghiệm hộp tải trọng được giống như dịch chuyển đi xuống trong thí nghiệm truyền thống.
Bỏ qua độ nén trong thân cọc khi coi nó là vật rắn.
Sau khi lập được biểu đồ tải trọng-chuyển vị đầu cọc tương đương, do chỉ xác định được một tải trọng giới hạn nên phải ngoại suy tìm giá trị tải trọng giới hạn thứ hai. Khi đó tải trọng giới hạn của cọc sẽ là :
Pcọcgh = Pmũigh + Pthângh
Nếu không tin tưởng ở giá trị ngoại suy và thiên về an toàn (lấy trị số bé) thì ta có thể lấy:
Pcọcgh = 2.Pthuđượcgh
Bố trí hộp tải trọng để chỉ
xác định sức chịu tải thành bên
Điều đặc biệt là cả sức kháng tới hạn của thành bên và đáy cọc đều có thể xác định được theo cách bố trí này. Nếu chỉ cần xác định sức kháng thành bên thì có thể bố trí hộp tải trọng như hình trên. Theo cách bố trí này thì hộp tải trọng không bố trí ở đáy cọc mà được đặt trên đỉnh của một đoạn đầu cọc. Đoạn cọc ở phía dưới hộp tải trọng để tăng phản lực ở dưới hộp và để chắc chắn nếu thiết kế hợp lý thì sự phá hoại sẽ xuất hiện ở phần cọc thí nghiệm phía trên hộp chứ không phải là phá hoại trong tổ hợp giữa sức kháng đầu cọc và thành bên ở đoạn cọc phản lực ở dưới hộp.
Đóng
Hoạt động
Đóng
Hoạt động
Phá hoại
Thành bên
Phá hoại mũi cọc
Mở
Hoạt động
Mở
Hoạt động
Phá hoại thành bên (chiều ngược lại)
Phá hoại
thành bên
A
B
A
B
A
A
B
B
Bước 1
Bước 2
Bước 3
Bước 4
Trình tự chất tải khi sử dụng hai hộp tải trọng
Cũng có thể có nhiều cách bố trí khác nhau để thực hiện thí nghiệm hộp tải trọng Osterberg. Trên hình trên cho phép đo được đầy đủ sức kháng thành cọc và sức kháng đáy cọc. Phải có hai hộp tải trọng được đặt ở hai độ sâu khác nhau. Với việc bố trí như thế thì có thể tạo được tải trọng thí nghiệm rất lớn. Cao trình đặt ở tầng thân phải đảm bảo điều kiện Pmũigh ³ PA-Bgh. Tuy nhiên trình tự trong trường hợp này sẽ phức tạp hơn. ở cầu Mỹ Thuận người ta đã tiến hành thử tải trọng cọc khoan nhồi theo phương pháp này.
Một điều quan trọng cần lưu ý khi sử dụng kết quả của tải trọng thử bằng phương pháp Osterberg là lực thử tác dụng lên cọc là lực nén nhờ việc đẩy cọc hướng lên phía trên (trừ đoạn cọc nằm dưới hộp tải trọng). Đây là loại tải trọng khác so với tải trọng trong giai đoạn sử dụng và do đó một số hiệu ứng vật lý nhất là hệ số Possion của đất đá xung quanh sẽ rất khác so với giai đoạn sử dụng. Do đó cũng cần phải nghiên cứu sâu hơn nữa về vấn đề này khi áp dụng phương pháp hộp tải trọng Osterberg xác định sức chịu tải cọc khoan nhồi.
Ưu nhược điểm của phương pháp :
Phương pháp thử tải trọng tĩnh bằng hộp tải trọng Osterberg cho đến nay đã được áp dụng rộng rãi và được đưa vào quy trình của nhiều nước nhờ các ưu điểm chính sau đây :
Chi phí thấp hơn nhiều so với thử tải tĩnh truyền thống;
Tiết kiệm được thời gian;
Không chiếm dụng mặt bằng trên đầu cọc, có thể thực hiện được đối với các cọc trên sông nước;
Có thể thử tải đối với cả cọc xiên;
Có khả năng tạo được tải trọng thử lớn;
Xác định được một cách riêng rẽ thành phần kháng lực thành bên và sức kháng mũi cọc.
Bên cạnh các ưu điểm nổi bật trên, phương pháp thử tải trọng Osterberg cũng có những nhược điểm cần lưu ý sau :
Cách xây dựng các chuẩn phá hoại của hai thành phần sức kháng thành bên và sức kháng mũi cọc khá khó khăn.
Khi cọc bị kéo lên, một vài hiệu ứng vật lý có thể khác so với tải trọng tác dụng thực tế của cọc.
Phương pháp thử tải tĩnh động Statnamic :
Phương pháp được tiến hành lần đầu tiên vào năm 1988 ở Canada với tải trọng thử là 10 T. Đến năm 1989 thì phương pháp này đã được áp dụng trên thực tế ở một số nước như Canada, Hà Lan, Mỹ, Nhật Bản,...Từ đó đến nay đã có các kết quả nghiên cứu ứng dụng phương pháp Statnamic (STN) trong nhiều loại hình cọc ở các nước trên thế giới.
Phương pháp STN được thực hiện không cần đến các thiết bị chất tải tốn kém. Ưu điểm của phương pháp STN so với phương pháp hộp tải trọng Osterberg là không cần thiết bị tải trọng đặt sẵn trong cọc. Có nghĩa là phương pháp thử tải tĩnh động STN có thể thực hiện đối với các cọc không có kế hoạch thử tải trước khi thi công.
Nguyên lý của phương pháp :
Phương pháp này được trình bày trên hình. Cũng giống như phương pháp Osterberg, phương pháp này khá đơn giản. Tải trọng tĩnh được đặt lên trên đầu cọc. Dưới tĩnh tải đặt một khối nhiên liệu rắn và một hộp tải trọng. Khối nhiên liệu này được đốt cháy tạo ra một lực lớn đẩy khối tính tải phía trên. Khi đó đầu cọc sẽ nhận một phản lực bằng trọng lượng tĩnh tải nhân với gia tốc ban đầu gây ra bởi nhiên liệu bị đốt cháy. Lực này tăng dần trong thời gian từ 1 đến 120 mili giây, làm cho cọc lún xuống. Khi nhiên liệu được đốt hết, phản lực giảm một cách nhanh chóng và cọc sẽ phục hồi vị trí. Độ lún của đầu cọc sẽ được đo bằng tia laze nhờ một gương đặt trên đầu cọc. Có thể vẽ được đồ thị quan hệ giữa tải trọng và thời gian cũng như độ lún ngay lập tức.
Với gia tốc ban đầu gây ra là 20g (g là gia tốc trọng trường) thì một khối tĩnh tải 30 T sẽ tạo ra được một áp lực lên cọc thử là 600T. Có nghĩa là để tạo ra dược một tải trọng thử tương đương thì khối tĩnh tải theo phương pháp STN chỉ bằng 1/20 của khối tĩnh tải theo thí nghiệm truyền thống. Tải trọng STN được tăng tuyến tính và việc dỡ tải từ từ được đảm bảo do khống chế áp suất tạo ra.
Phương pháp thử tải tĩnh động STN
Trình tự lắp đặt thiết bị thử tải STN
Phương pháp STN có thể được giải thích bằng một trong 3 định luật chuyển động của Newton như sau :
Định luật 1 Newton (Định luật quán tính) :
Một vật sẽ giữ nguyên trạng thái đứng yên hoặc chuyển động đều mãi mãi nếu trừ khi có ngoại lực tác động làm thay đổi trạng thái đó.
SF = 0;
Trong thí nghiệm, có hai ngoại lực tác động lên cọc: tải trọng thử gây cho cọc chuyển động và sức kháng của cọc cản trở chuyển động ấy. Sức kháng của cọc là một hàm của khối lượng cọc với độ cứng của cọc và đất đá xung quanh dọc theo suốt chiều dài cọc và tại chân cọc. Bằng việc đo chuyển vị của cọc trong quá trình thử tải có thể xác định được sức kháng của cọc và do đó sự làm việc giữa đất và cọc cũng được xác định.
Định luật 2 Newton (Định luật về gia tốc) :
Khi chịu một ngoại lực tác dụng, vật rắn sẽ được gia tốc theo phương của ngoại lực đó và tỷ lệ với độ lớn của lực đó:
F = ma.
Khối tĩnh tải phía sau và khối tải STN tương đương
Định luật 3 Newton (Định luật tác động và phản lực) :
Mỗi tác động sẽ có một phản lực cân bằng và ngược hướng :
F1.2 = - F2.1
Trong thử tải STN, buồng ứng suất tạo ra một lực đẩy lên trên khối tĩnh tải đồng thời một phản lực tương đương và ngược hướng sẽ tác động lên đầu cọc. Hơn nữa, vì phương của lực là dọc theo trục xi lanh nên tải trọng thử tác dụng lên cọc là hoàn toàn đúng tâm.
Thời lượng chất tải :
Mỗi phương pháp thử tải có một thời lượng tải trọng khác nhau. Thời lượng chất tải có ảnh hưởng đến kết quả của thí nghiệm thử tải.
Đối với tải trọng tĩnh thì do vận tốc và gia tốc gần như bằng không nên ảnh hưởng sức cản động và thế năng là không đáng kể. Tuy nhiên khi thời lượng tải trọng giảm đối với các thử tải tĩnh nhanh thì kết quả có thể khác so với thử tải tĩnh truyền thống do mức độ ứng suất phụ tuộc vào bản chất của đất.
Thời lượng tải trọng trong thử tải STN là 120 mili giây. Đây là thời lượng khá dài so với thử tải động biến dạng lớn.
Đối với thử tải động thì thời lượng tải trọng chỉ là 4 mili giây. Thời lượng tải trọng ngắn sẽ tạo ra sóng ứng suất trong cọc và do đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự làm việc của cọc và đất. Sức cản động và thế năng sẽ có ảnh hưởng lớn đến kết quả thí nghiệm và rất khó xác định.
Năm 1995, Middendorp đã đưa ra khái niệm về chỉ số sóng Nw được xác định như sau :
;
Trong đó :
T - thời lượng tải trọng, mili giây;
L - chiều dài cọc, m;
C - Vận tốc của xung trong bê tông, m/mili giây.
Nếu:
Nw < 6
thí nghiệm được coi là động
Nw > 1000
thí nghiệm được coi là tĩnh
Nw=(12 ¸ 15)
thí nghiệm STN
Nw=(6 ¸ 12)
thí nghiệm được coi là giả STN vì tồn tại vấn đề sóng ứng suất. Để giải quyết vấn đề này phải dùng phương pháp dỡ tải và các công cụ và các công cụ phân tích truyền sóng ứng suất như trong phương pháp thử động biến dạng lớn.
Vấn đề sóng ứng suất trong thử nghiệm STN :
Trong thử nghiệm chất tải tĩnh truyền thống, cọc được nén trong suốt quá trình chất tải và có thể được nghiên cứu như một vật rắn. Khi thời lượng chất tải giảm sẽ xuất hiện sóng ứng suất trong cọc và ảnh hưởng đến sự làm việc giữa cọc và đất. Sóng ứng suất truyền dọc theo chiều dài cọc với tốc độ âm thanh trong vật liệu cọc.
;
Trong đó :
C - tốc độ sóng ứng suất, m/s;
E - mô đun đàn hồi của hệ cọc/đất;
r - tỷ trọng của hệ thống cọc đất.
Đối với các cọc bê tông cốt thép thì C vào khoảng 3500 đến 4000 m/s. Đối với các cọc tương đối dài thì sóng ứng suất ban đầu ở đỉnh cọc sẽ truyền tới mũi cọc trong vòng 6 mili giây, tương ứng với chu kỳ tự nhiên của cọc.
Thời lượng chất tải của phương pháp STN là 120 mili giây, dài hơn chu kỳ tự nhiên của ngay cả các cọc cứng nhất. Do đó ảnh hưởng của sóng ứng suất đã giảm nhiều và cọc được nghiên cứu như là như là một vật rắn và áp dụng các phân tích tĩnh truyền thống.
Thu nhận và phân tích số liệu :
Thu nhận số liệu :
Các số liệu về tải trọng và chuyển vị được đo tại vị trí đầu cọc bởi một hộp tải trọng và đầu đo laze. Số liệu đo này sẽ được xử lý bởi một hệ thống thiết bị thí nghiệm STN là hệ thống FPDS của Công ty xây dựng TNO (Hà Lan). Với hệ thống thiết bị đo đạc của phương pháp STN thì số liệu tải trọng có độ chính xác là 0,1% còn số liệu chuyển vị có độ chính xác là 0,1 mm. Các thiết bị ghi nhận số liệu gồm có:
Hộp tải trọng :
Tải trọng thử STN được đo bằng hộp tải trọng đặt giữa piston và đầu cọc. Một số thiết bị đo biến dạng được gắn trên chu vi của hộp tải trọng để giảm ảnh hưởng của các tải trọng không đúng tâm. Các số liệu đo từ các thiết bị sẽ được trung bình hoá và khuếch đại trong hộp tải trọng để giảm sai số và lại được khuếch đại một lần nữa bằng FPDS.
Đầu đo laze :
Người ta gắn một đầu đo laze kiểu ảnh điện thế vào tâm của đáy piston để đo các chuyển vị đầu cọc. Đầu đo này được điều khiển từ xa bởi một nguồn laze. Trong quá trình thử tải sự thay đổi vị trí tương đối của đầu đo laze so với nguồn laze cố định sẽ được ghi lại.
Trong suốt quá trình thử tải, các tín hiệu tải trọng và chuyển vị được số hoá và ghi vào một tệp số liệu điện thế thô. Sau khi thử tải xong, các tín hiệu thô này sẽ được chuyển đổi thành các giá trị tải trọng và chuyển vị. Ngay sau đó các đồ thị quan hệ tải trọng - chuyển vị sẽ được lập tại hiện trường. Các đồ thị bổ sung như đồ thì về vận tốc và gia tốc cũng được lập ra. Tất cả các số liệu được lưu giữ cho việc phân tích và tham khảo sau này.
Phân tích số liệu :
Hiện nay đang có nhiều phương pháp để phân tích tín hiệu thu của STN. Tất cả các phương pháp đều mô hình hoá hệ cọc và đất như là khối cọc đơn được giữ bởi một lò xo và một tụ song song (Hình dưới). Cọc được mô hình hoá như một khối cứng có khối lượng M. Lò xo thể hiện sự biến dạng của đất cũng như của cọc. Chuyển vị đầu cọc đo được sẽ coi là chuyển vị của lò xo. Phản lực hình thành trong lò xo thể hiện sức kháng tĩnh Fu. Tụ thể hiện sức kháng đất, Fv = C.v phụ thuộc vào mức độ xuyên v của cọc. Tuy nhiên các phương pháp này lại sử dụng các cách tính các giá trị độ cứng lò xo K và sức cản động C khác nhau.
Mọi phương pháp nêu trên tuy có khác nhau nhưng đều sử dụng phương trình cân bằng sau :
FSTN = Fđất + Fa = Fđất + M.a;
Trong đó :
FSTN - lực đặt vào đầu cọc khi thử tải STN;
Fđất - sức kháng tổng cộng của đất;
Fa = M.a - lực ban đầu của cọc;
a - gia tốc của khối cọc.
Mô hình cọc và đất khi thử tải STN
Bảng: Các phương pháp phân tích tín hiệu STN
TT
Phương pháp
Năm
Các tác giả
Lò xo
Tụ
1
Phương pháp độ cứng ban đầu
1993
Middendord và những người khác
Tuyến tính/ phi tuyến
Tuyến tính/ phi tuyến
2
Phương pháp độ cứng ban đầu có sữa đổi
1994 1995
Masumoto và những người khác
Tuyến tính/ phi tuyến
Tuyến tính/ phi tuyến
3
Phương pháp khối thay thế
1995
Uno và những người khác
Tuyến tính/ phi tuyến
Tuyến tính/ phi tuyến
4
Phương pháp điểm cân bằng
1993
Horvath và những người khác
Tuyến tính/ phi tuyến
Tuyến tính/ phi tuyến
5
Phương pháp điểm dỡ tải
1994
Nhóm nghiên cứu các phương pháp thử tải nhanh của Kusakabe
Tuyến tính/ phi tuyến
Tuyến tính/ phi tuyến
Các ưu nhược điểm của phương pháp STN :
Nhìn chung so với các phương pháp thử tĩnh và động đã trình bày, phương pháp thử tải STATNAMIC có những ưu điểm sau :
Phương pháp STN có thể tạo ra lực thử tải lớn tới hơn 3000 T.
Có thể thử tải móng cầu, cả nhóm cọc, cọc mở rộng đáy và các cọc ở ngoài biển.
Có thể kiểm tra sức chịu tải ngang của cọc.
Có thể kiểm tra các cọc không có kế hoạch kiểm tra trước đó.
Có thể đo đạc trực tiếp tải trọng và biến dạng nhờ các hộp tải trọng và đầu dò lazer.
Có thể lập được đồ thị tải trọng-biến dạng ngay lập tức tại công trường.
Nhược điểm lớn nhất của phương pháp này là tính chất động của nó và cần phải đánh giá lực động tạo ra trong quá trình thử tải.
Khuyết tật của cọc khoan nhồi– các vấn đề thường gặp, nguyên nhân và giảI pháp khắc phục
Một số hình ảnh về khuyết tật trong cọc khoan nhồi
đối với cọc khoan nhồi, do bê tông được đổ tại chỗ (thường là thi công trong dung dịch vữa khoan) nên chất lượng bê tông thân cọc và khả năng làm việc thực tế của cọc phụ thuộc nhiều vào điều kiện địa chất và phương pháp thi công cọc. Dưới đây là hình ảnh một số khuyết tật đối với cọc khoan nhồi:
-Trong thi công cọc nhồi : công đoạn đổ bê tông cọc thường dễ làm sai qui trình thi công và để lại kích thước thân cọc hầu hết bị biến dạng thu hẹp, không thẳng.
Hình1. Kích thước thân cọc bị biến dạng thu hẹp do áp lực nước ngầm cao
-Trục cọc biến dạng không còn thẳng, cường độ bê tông biến động giảm yếu trên suốt chiều dài thân cọc
Hình 2. Tình trạng bêtông thân cọc bị lồi lõm và không thẳng,giảm cường độ
Hình 3. Phương pháp siêu âm phát hiện thân cọc có khuyết tật.
Hình 4. Khuyết tật đáy cọc do sập vách cốt thép không bêtông bám dính
Hình 5. Thân cọc nhồi đứt đoạn trơ cốt thép do rút ống sai qui trình.
- Các ống chống lại đặt ở vùng biên cọc nên quá trình đổ bê tông cọc vữa ximăng khó chảy đến vùng biên hoặc khi bê tông chảy đến nơi mất hết xi măng kết dính do ảnh hưởng bùn betonit tràn vào hoặc nước ngầm cuốn hết vữa ximăng làm trơ cốt thép cọc
Hình 6. Bê tông không chảy đến biên làm cọc trơ cốt thép
- Tại các cọc có lấy được mẫu lõi khoan cho thấy chất lượng bê tông không đều, nõn khoan bị gãy thành nhiều đoạn ngắn ở nhiều chỗ bê tông kết dính kém
Hình 7. Các nõn khoan bị gãy khi khoan lấy mẫu từ cọc công trình ở Hà Nội.
- Đất dưới mũi cọc sau khi thi công bê tông cọc hầu như chỉ là cặn lắng mùn cát, betonit hoặc trống rỗng.
Hình 8. Mũi cọc bị rỗng không có bê tông.
- Khuyết tật thường xẩy ra ở công nghệ ướt dung dịch bentonite để giữ đất cát hoặc cát lẫn cuội sỏi trên thành vách khoan làm bê tông thân cọc đứt đoạn, thu hẹp, độ đặc chắc của bê tông cục bộ kém và lớp cặn lắng ở dưới đáy hố khoan quá dầy
Hình 9. Thân cọc bị hang hốc cát sỏi, đoạn gần đầu cọc nằm trong đất yếu bị phình và đáy cọc bị lắng mùn cát .
Hình 10. Phần cọc trong bùn thân cọc bị biến dạng và bị phình
Hình 12. Cọc nhồi thi công đạt chất lượng
Các vấn đề sự cố trong thi công cọc thường gặp, nguyên nhân và các biện pháp giải quyết:
Vấn đề thường gặp, nguyên nhân và biện pháp xử lý cọc nhồi khoan lỗ tuần hoàn thuận
Vấn đề thường gặp
Nguyên nhân chủ yếu
Biện pháp xử lý
1
2
3
Khoan trong đất sét tiến vào rất chậm
Độ dính bùn quá lớn
Điều chỉnh tính năng dung dịch đất
áp lực quá lớn, cặn khoan đáy lỗ không ra kịp
Điều chỉnh tham số khoan vào
Bị bết đất hoặc đầu khoan có bùn bọc
Điều chỉnh tỷ trọng và độ dính của dung dịch sét, tăng thoả đáng kượng bơm, hoặc bỏ 1 lượng vừa phải cát đá vào lỗ để trừ bỏ bùn bọc đầu khoan.
Trong tầng cuội cát, khoan tiến vào chậm chạp
Tốc độ chảy ngược lên của dịch nước rửa nhỏ
Tăng thêm lượng bơm, tăng tốc độ chảy ngược lên
Cặn khoan không thể đẩy lên kịp thời
Mỗi đợt khoan vào 4-6m làm sạch cặn 1 lần
Đầu khoan bị mài mòn nghiêm trọng
Sửa chữa hoặc thay đầu khoan
Dụng cụ khoan nhẩy lên mạnh, lực cản quay lớn. Dụng cụ gọt bị long rơi ra
Trong lỗ có nhiều cuội sỏi to nhỏ khác nhau
Dùng ống vớt cặn côn cào rửa để vớt đá to lên
Trong lỗ có gạch đá lấp lẫn vào
Có thể dùng đầu khoan xung kích phá vỡ hoặc đẩy cho hòn đá chạy qua tầng đất ấy.
Vấn đề thường gặp, nguyên nhân và biện pháp xử lý khi làm lỗ cọc nhồi bằng gầu khoan
Vấn đề
Nguyên nhân chủ yếu
Biện pháp xử lý
1
2
3
Lỗ cọc nghiêng lệch
Máy khoan lắp dựng không cân bằng
Điều chỉnh cho cân bằng
Cần khoan hình vuông không thẳng đứng
Bảo đảm cho thẳng đứng
Sụt lở thành lỗ
Vị trí chôn ống giữ thành không hợp lý như ống chôn trong tầng cát bột hoặc cát thô, đất cát bị thấm nước sẽ dễ sinh sụt lở.Ngoài ra do ảnh hưởng của chấn động và xung kích làm nhão đất ở xung quanh ống và đất nền ở dưới đáy nên bị sụt lở.
Cho ống giữ thành sâu vào trong tầng đất sét khoảng 0.5m trở lên.
Do chấn động của các máy nặng thi công trên mặt đất và các loại thao tác khác cộng với ảnh hưởng của ứng suất trọng lượng bản thân thường dẫn tới ảnh hưởng sụt lở thành lổơ chỗ độ sâu lỗ khoảng 10-15m.
Trước khi thi công phải điều tra kỹ xem chất đất ở độ sâu khoảng 10-15m có phải là tầng đất cát xốp dễ sụt lở không, cố gắng giảm ảnh hưởng của chân động khi thao tác thi công
Tốc độ lên xuống gầu khoan quá nhanh, làm cho dòng nước chảy nhanh trong khi giữa thành gầu với thành lỗ khoan, tát vào thành hố. Có khi nâng gầu lên, dưới gầu có áp lực âm làm sụt lở thành lỗ.
Phải điều chỉnh tốc độ lên xuống của gầu theo điều kiện chất đất và đường kính lỗ khoan, phải dựa vào lực cản lỗ khoan để tính toán mômen quay cần thiết, quyết định số vòng quay gầu khoan.
Quản lý không tốt ổn định của dịch sét thi công
Tỉ lệ pha chế dịch sét ổn định thành, đặc biệt là về các mặt: độ nhớt, độ qua sáng, tính ổn định lý hoá...phải tính đến điều kiện của nền đất và điều kiện của thiết bị thi công để từ đó định ra những số liệu hợp lý rồi lấy đó làm mục tiêu quản lý chất lượng
Có tầng cát sỏi ngấm nước mạnh
Cho dịch giữ thành có tỷ trọng và độ nhớt lớn hơn
Hạ lồng côt thép va vào thành hố, làm cho màng bùn và thành hố bị phá vỡ
Chú ý thật đầy đủ đến việc tự buộc, cẩu hạ cốt thép, đến đặt bản đệm...
Lưỡi dao của gầu khoan bị mài mòn, khi gầu khoan lên xuống quay tròn va vào thành lỗ.
Hàn đắp vào lưỡi dao theo yêu cầu, điều chỉnh khoảng cách giữa đường kính ngoài của gầu khoan với lưỡi dao.
Mặt cắt thân cọc thiếu khuyết
Sự thế đổi giữa bê tông và dịch giữ thành không đựơc hoàn chỉnh ăn khớp
Chọn loại dịch giữ thành không dễ trộn lẫn vào bê tông
Vấn đề thường gặp nguyên nhân và biện pháp xử lý cọc nhồi khoan lỗ bằng máy thả chìm trong nước
Vấn đề
Nguyên nhân chủ yếu
Biện pháp xử lý
1
2
3
Đồng hồ Ampe ba pha không cân bằng
Ba pha nguồn điện bên ngoài điện áp không cân bằng
Báo cho bộ phận điều chỉnh
Đầu áp có chỗ không tiếp xúc
Dỡ đầu nối cáp ra, kiểm tra, sửa chữa hoặc thay thế
Đồng hồ Ampe hai pha có 1 pha không
Nguồn điện 1 pha bị đứt dây chì
Thay dây chì, kiểm tra lại mạch điện
Đầu nối cáp 1 pha bị tuột
Kiểm tra kỹ mạch điện từ nguồn điện đến cuộn dây môtơ
Khoan bị cháy một pha cuộn dây
Kiểm tra kỹ mạch điện từ nguồn điện đến cuộn dây môtơ
Khi nối điện môtơ kêu u u, trục chính rung lên chứ va không quay
Do máy khoan quay ngược, nắp bên trên đè chặt
Thay đổi chiều quay của máy khoan
ổ trục trong hộp số bị hỏng, bị rơi bi
Sau khi mở nắp bên trưên ra, nếu trục vẫn không quay được thì mở hộp số ra kiểm tra bánh xe hành trình và ổ trục xem có hư hỏng không
Máy khoan giảm áp, toàn áp khởi động đều không thể quay được
Đứt dây nguồn điện
Kiểm tra và sửa chữa
Dây cuón 3 pha mô tơ đều đã cháy
Sửa chữa hoặc thay thế
Máy khoan giảm áp, khởi động không quay, sau toàn áp có thể quay được
Dầu bánh xe trong hộp số đặc quá hoặc quánh lại (thường vào mùa đông)
Toàn áp khởi động, cho máy khoan chạy không tải 15 phút
Điện áp nguồn thấp quá
Kiểm tra điện áp nguồn
Đang chạy đột nhiên dừng máy
Đứt dây nguồn điện
Kiểm tra sửa chữa đường dây
Đầu nối cáp điện bị tuột hoặc môtơ cháy
Mở bọc đầu nối cáp ra, nếu vẫn không có điện mà trục chính có thể quay được thì mở môtơ ra kiểm tra
Đang chạy đột nhiên ỳ máy, đồng hồ Ampe nhảy kim
Bánh xe hoặc ổ trục trong hộp số bị hỏng
Thay bánh xe hoặc ổ trục
Đầu khoan gặp chướng ngại vật
Khắc phục chướng ngại vật
Máy khoan dò điện
Bọc cách điện đầu nối cáp bị hỏng, nước ngấm vào trong
Thay bọc cách điện mới, xử lý lại đầu nối
Cáp điện có chỗ bị mài vỡ hoặc bị xoắn đứt
Kiểm tra bọc lại hoặc thay đổi cáp bị hỏng
Dây dẫn ra của cuộn dây môtơ và đầu nối cáp nguồn bị hở điện
Thay đổi dây dẫn ra của cuộn dây môtơ và dầu nối môtơ
Cách điện của môtơ bị hỏng
Kiểm tra và xử lý
Hố khoan nghiêng lệch
Nền đỡ giá khoan không phẳng
Đệm lại, kê lại cho phẳng
Lỗ cọc khoan vào một bên đất cứng một bên đất mềm
Quét lại lỗ nhiều lần để điều chỉnh, nếu không dược thì lấy đất sét đắp vào lỗ cho đến bên trên chỗ nghiêng lệch 0.5m rồi khoan lại
Sụt thành hố khoan
Tỉ trọng và độ dính nhớt của dung dịch khoan không đủ
Tăng thêm tỉ trọng của dung dịch khoan hoặc vứt đất sét bùn nhão vào hố
Dung dịch khoan đột nhiên chảy mất
Phải lập tức lấp đất sét vào, chờ thành hố ổn định rồi khoan lại
Nguyên nhân và biện pháp xử lý khi ống khô nhỏ hoặc không nhổ lên được trong phương pháp dùng ống chống giữ thành
Vấn đề
Nguyên nhân chủ yếu
Biện pháp xử lý
1
2
3
(1) Khi lực ma sát ở xung quanh ống lớn hơn nhiều so với năng lực nhổ lên của thiết bị
Khi thấy là khó nhổ lên: khó nhổ lên bao giờ cũng gắn với khó lắc. Vì vậy trước tiên là phải làm cho nó ở trạng thái có thể lắc được
Lợi dụng van chuyển thao tác, lúc lắc với một độ góc nhỏ làm cho lực cản giảm đi, để cho nó từ từ trở lại trạng thái bình thường rồi lại nhổ lên
(2) Khi thấy không thể nhổ lên được : phải làm cách khác như kích, nếu cứ lắc bừa.
a. Khi ống nhọn của ống chống bị mài mòn làm hẹp khoảng cách với đường kính ngoài của ống
Để đảm bảo khoảng cách giữa đường kính ngoài của ống với đường kính ngoài của lưỡi nhọn, có thể hàn chống lưỡi nhọn lên theo yêu cầu cần thiết
b. Khi lực cản của ma sát xung quanh lưỡi khoan lớn quá
Khi nhổ mãi mà vẫn tháy khó khăn thì phải nghĩ đến khả năng đã chọn sai phương pháp
c. Khi phương thức làm lỗ không phù hợp
Mặc dù đất sét hoặc bùn tích là loại chất đất dễ làm lỗ, cũng phải đưa ống chống xuống một cách thoả đáng, phải bảo đảm cho gầu ngoạm và đầu nhọn của ống có cùng một độ sâu. Trong khi làm lỗ phải nhiều lần cẩn thận lắc ống chống, vừa nhắc lên hạ xuống vừa làm lỗ
đi thì phía sau của máy sẽ bị trượt hoặc làm cho máy không ổn định, hoặc làm cho bộ phận lắc bị sự cố hoặc làm cho khoá cố định bị hỏng. Khi nhận thấy đã thể hiện trạng thái có thể nhổ lên được thì phải chuẩn bị trước các điều kiện có thể nhổ liên tục
d. Khi phương pháp dổ bêtông không đúng, tác dụng dính ở phía trong ống quá lớn
(1) Không nên để cho mặt dâng lên của bê tông có độ cao tiếp xúc với lưỡi nhọn của ống chống dài quá
(2) ở đầu trên của ống chống lắp một đoạn ống ngắn, khi bắt đầu đổ bê tông thì cho ít hơn để hình thành ngay được trạng thái có thể nhổ lên
(3) Sau khi trộn xong, nếu thời gian để hơi lâu mới đổ thì phải đặc biệt chú ý đến đặc tính của bêtông
Làm cho hướng nhổ lên của máy trùng với hướng nhổ lên của ống
(2) Khi máy không thể phát huy được hết năng lực nhổ lên hoặc năng lựe của máy bị giảm đi
Trước khi bắt đầu làm việc, nhất là trước khi bắt đầu đổ bêtông, nhất định phải làm động tác rung lắc để nhổ lên
Trường hợp này nếu ống bị nghiêng lệch thì phải sửa đổi thế của máy cho chuẩn
a. Khi ống chống lệch, không cùng hướng với hướng nhổ của máy
Bất cứ trường hợp nào,nếu để cho hướng nhổ lên của máy chệch với hướng của ống cũng dẫn đến trở lực của đất tăng lên rất nhiều, cho nên phải làm cho nền đất của máy đặt máy thật vững chắc đảm bảo độ thẳng đứng của ống chống
b. Khi nền đất chỗ đặt máy không tốt hoặc do lắp máy không dùng làm cho máy bị nghiêng không trùng với hướng của ống chống
c. Khi mặt trong tay cầm để lắc bị mài mòn không lắc được , không nhổ lên được
Nhất thiết phải thay đổi tấm đệm ở mặt trong tay cầm
Biện pháp ứng cứu tức là cho một tấm sắt đệm mỏng vào giữa tay cầm và ống chống
d. Sự cố ở bộ phận áp lực dầu ( nhấc lên, rung lắc)
Phải duy tu dảo dưỡng thường xuyên
Sửa ngay thiết bị
Vấn đề thường xuyên gặp, nguyên nhân, biện pháp xử lý cọc nhồi tạo lỗ bằng xung kích
Vấn đề thường gặp
Nguyên nhân chủ yếu
Biện pháp xử lý
1
2
3
Lỗ cọc không tròn, ống vớt cặn khó xuống
Cái quay đầu khoan không nhậy, khi xung kích đầu khoan không quay
Thường xuyên kiểm tra độ nhạy của cái quay đầu khoan
Độ dính của bùn cao quá, lực cản quay xung kíck quá lớn, đầu khoan khó quay
Điều chỉnh độ nhớt và tỉ trọng của dung dịch sét
Lỗ khoan nghiêng lệch
Khi xung kích gặp đá to nhỏ không đều, đầu khoan chịu lực không đều
Phát hiện đá, phải lấp đá vụn vào hoặc chuyển nhẹ máy khoấnng bên có đá, xung kích cao đánh mạnh vào đá, phá vỡ đá rồi khoan tiếp
Mặt đá gốc có dạng khá dốc
Gặp đá dốc thì dùng xung trinh thấp, đồng thời cho đầu khoan quay mạnh, tăng nhanh tần số xung kích, sau khi tiếp vào đá gốc thì dùng xung trình cao để khoan, nếu thấy lỗ bị nghiêng phải lấp vào khoan lại
Để máy khoan đặt không cân bằng hoặc bị lún xuống không đều
Thường xuyên kiểm tra kịp thời điều chỉnh
Đàu khoan xung kích bị kẹt không nâng lên được
Hố khoan không tròn, đầu khoan bị kẹp ở chỗ hẹp (gọi là kẹt dưới)
Nừu hố không tròn, phía dưới đầu khoan còn có chỗ để quay, có thể cho đầu khoan xuống và quay đến chỗ đường kính hố to hơn thì nâng khoan lên
Đầu khoan xung kích gặp phải đá trong lỗ (gọi là kẹt trên)
Cho đầu khoan hoạt động trở xuống để thoát khỏi điểm kẹt
Rơi đầu khoan
Đá rơi vào giữa đầu khoan và thành hố
Cho đầu khoan hoạt động lên xuống để đá rơi ra
Không kịp thời hàn bù đầu khoan, đường kính đầu khoan nhỏ dần, đầu khoan vào lỗ xung kích bị kẹt
Kịp thời tu sửa đàu khoan nếu lỗ đã bị nhỏ, phải nghiêm khắc khống chế đường kính đầu khoan và xung nạo đi lại nhiều lần ở chỗ bị nhỏ cho hố to ra
Thành hố bên trên bị kẹt lấy đầu khoan
Dùng móc neo hoặc vòng leo để trợ lực kéo lên
Xung trình trong đất sét cao quá, độ dính của bùn cao quá mức hút chặt lấy đầu khoan
Dùng bơm dung dịch sét dẻo bơm loại dịch sét tốt vào hố, dọn các thứ sụt lở, thay đổi loại dung dịch bị quá dính trong hố
Thả dây nhiều quá, đầu khoan xung kích bị nghiêng và kịch vào thành hố
Dùng loại dụng cụ gia công chuyên dụng dể kéo thẳng đầu vào khoan lên
Dây bị mài đứt ở chỗ nối bộ chuyển hướng hoặc bị vặn đứt ở gần chỗ nối bộ chuyển hướng, hoặc dây bị tuột kẹp, hoặc bản thân trùng xung bị gẫy ở chỗ yếu hơn.
Chỗ nối bộ chuyển hướng với trùng bị tuột ra
Dùng vòng vớt để vớt len, dùng móc vớt để vớt lên.
Dùng đầu ngoạm để ngoạm lấy đoạn bị rơi kéo lên.
Phòng ngừa trùng bị rơi, thường xuyên kiểm tra những chỗ mau hỏng.
Sụt lở thành hố
Đầu khoan xung kích hoặc ống vớt cặn bị nghiêng va vào thành hố
Tìm đúng chỗ sụt lở, lấy cát và sét ( hoặc cát cuội và hoàng thổ) lấp lại cho đến chỗ cao hơn chỗ sụt lở 1-2m, chờ cho vật lấp lún chặt xuống rồi xung lại hố
Tỉ trọng dung dịch sét thấp không giữ được thành hố
Sử dụng các loại dung dịch có tỉ trọng khác nhau cho từng loại tầng đát khác nhau
Mặt dung dịch sét trong hố thấp hơn mặt nước ngoài hố.
Gặp các địa tầng cát chảy,bùn nhão, đá vụn hoặc cát lỏng mà tốc độ khoan vào quá nhanh
Nâng cao mặt dung dịch sét
Bị sụt nghiêm trọng,ném sét, bùn vào, chờ thành hố ổn định rồi khoan với tốc độ thấp.
Cọc treo chân
Sau khi dọn hố, tỉ trọng dung dịch sét quá thấp, thành hố sụt lở hoặc đáy h bị bùn cát ào vào, hoặc không đổ bê tông ngay lập tức
Làm kỹ việc dọn hố đạt yêu cầu, đổ bê tông ngay lập tức.
Dọn cặn không sạch, cặn tồn lại quá dày
Chú ý mật độ dung dịch sét, kịp thời dọn cặn
Hạ khung thép, ống dẫn va vào thành hố làm thành sụt lở xuống đáy hố
Chú ý thành hố, không cho vật nặng va vào thành hố
Cát chẩy
áp lực nước ngoài hố lớn hơn trong hố, thành hố bị xốp lỏng, nhiều cát chảy ào vào đáy hố
Khi nước chảy mạnh có thể cho đá vụn, đất sét vào hố, dùng búa xung vào tầng cát chảy làm thành khối kết bùndể làm cứng thành hố ngăn chảy vào.
Vấn đề thường gặp, nguyên nhân và biện pháp xử lý cọc nhồi làm bằng lỗ phá nổ.
Vấn đề thường gặp
Nguyên nhân chủ yếu
Biện pháp xử lý
1
2
3
Lỗi cọc bị di chuyển hoặc nghiêng lệch
Giá máy lắp đặt không thẳng, không ổn định
Phải lắp cho chắc chắn, thẳng và ổn định
Khoan xoắn ốc làm việc đã lâu ngày, các chi tiết bị mài mòn nhiều độ chính xác kém
Khống chế độ cao rơi búa, thường không quá 1.5m
Khi dùng trùng xung ngoạm, đầu truỳ còn đang đung đưa đã vội hạ xuống
Độ cao nâng đầu truỳ là 1.5-2.5m, chờ đầu truỳ giữ yên đã mới hạ xuống
Một bên cửa lỗ cọc gặp phải đá to
Kịp thời loại bỏ đá to
Khi mở rộng hố bằng bộc phá, lỗ dẫn không thẳng
Làm sao cho lỗ dẫn không nghiêng, không lệch, ống thuốc nổ đặt thẳng, lấp chặt
Chất đất mềm cứng khác nhau rõ rệt
Chú ý biến đổi của chất đất kịp thời kiểm tra xử lý
Không nổ (bấm điện mà gói buộc phá xịt)
Thuốc nổ hoặc kip nổ bị quá hạn, hỏng
Thuốc và kip phải có người chuyên kiểm tra
Thuốc nổ hoặc kip nổ bị ẩm , quá hạn, hỏng
Thuốc bị ẩm hoặc lạnh băng kết cục phải sấy khô nghiền nhỏ rồi mới dùng, kiểm tra kỹ kíp
Gói thuốc nổ bị ngấm nước hỏng
Phải dùng loại bao có chống thấm để bọc thuốc nổ
Nước ngầm
Mặt đất ngấm nước
Nếu làm lỗ xong mấy giờ mới ngấm nước thì làm lỗ xong đổ bêtông ngay lập tức
Lượng nước ngấm không lớn
Nếu trong hố đựng nước có thể dùng máy bơm trục mềm hút ra
Lượng nước ngấm lớn
Hạ ống giữ thành xuống đã rồi rút nước ra
Lượng nước ngầm quá lớn không thể hút ra hết được
Dùng kiểu rút nước bằng điểm giếng hoặc dùng phương pháp đổ bê tông dưới nứơc
Đá mồ côi
Khi làm lỗ gặp đá mồ côi, khoan vào gặp trở ngại
Căn cứ vào hòn đá cụ thể to nhỏ cứng mềm, thường có thể dùng thuốn sắc chọc và lấy lên, đá to thì bộc phá cho vỡ ra rồi lấy lên
Vấn đề thường gặp, nguyên nhân, biện pháp xử lý khi đổ bê tông dưới nước
Vấn đề thường gặp
Nguyên nhân chủ yếu
Biện pháp xử lý
1
2
3
Nút cách nước kẹt trong ống dẫn
1.Nút cách nước chế tạo không thích hợp
(1) Đường kính nút to quá, không rơi xuống được trong ống
Lấy ra, thay nút khác
(2) Vòng đệm cao su của nút to quá
Lấy ra, sửa lại đường kính vòng đệm cao su
(3) Đường kính nút bé quá hoặc thiếu chiều dài, nút bị quay kẹt trong ống
Lấy ra, thay nút khác
2. Chất lượng gia công ống dẫn kém
Sửa chữa hoặc thay đổi
(1) ống dẫn gia công độ đòng tâm kém, biến dạng
Chỗ đầu nối có khấc
Trong ống thô nhám
Mặt pích không tiện vòng
Mặt pích hàn không thẳng
Mặt phẳng của mặt pích không vuông góc với đường tim của ống
3. Bị vật lạ kẹt lại
Lấy que dài chọc hoặc lắc ống, nếu không được thì nâng ống dẫn lên lấy vật lạ ra
ống dẫn rỉ nước
Chỗ nối ống dẫn không kín
Vòng đệm đặt không phẳng
Vòng đệm bị lôi ra hoặc hỏng
Bulông mặt pích bị lỏng
Kiểm tra, đặt lại
Kiểm tra đặt lại hoặc thay đổi
Nhắc ống lên vặn lại thật đều
2. Lượng đổ đầu tiên không đủ, không giữ được ống dẫn, nước rửa từ đáy ống dẫn vào
Nhấc ống dẫn lên,làm sạch bê tông đã đổ, bắt đầu đổ lại
3. ống dẫn nâng lên nhiều quá, chôn xuống ít quá, nước rửa ngấm vào theo vữa nổi
Nếu trong hố đã đổ vào 1 lượng nhỏ bê tôngthì phải làm sạch đi rồi mới đổ.Nếu đã đổ vào khá nhiều bê tông thì phải tạm ngưng đổ, cho 1 đầu khoan nhỏ hơn cũ 1 cấp vào khoan đến độ sâu nhất định thì nhấc khoan lên, dùng nước cao áp rửa sạch mặt bê tông, hút hết cặn lên, cho ống dẫn xuống đến giữa trong lỗ nhỏ rồi đổ lại bê tông
Tắc ống (Bê tông trong ống không ra được)
Bê tông trộn không hợp lý
Tỉ lệ trộn bê tông không đạt yêu cầu, tỉ lệ nước xi măng nhỏ quá, độ sụt quá thấp, tính lưu động kém
Cốt liệu thô vượt quá yêu cầu quy định
Thao tác kỹ thuật trộn không thành thạo hoặc nạp liệu không đúng định lượng, thời gian trộn ngắn quá, hỗn hợp không đều, hoặc bị phân tầng mạnh khi vận chuyển
Trộn lại theo đúng tỉ lệ yêu cầu và kiểm tra độ sụt
Chọn cốt liệu thô theo yêu cầu quy định
Trộn và vận chuyển theo đúng yêu cầu quy định
Thời gian trộn nhiều quá, bê tông trên mặt đát đã sơ mình
Chuẩn bị không đầy đủ nên thời gian đổ kéo dài
Xẩy ra một trở ngại nào đó, đổ bê tông giữa chừng phải ngừng lại
Phân công công việc cho rõ ràng, phối hợp chặt chẽ, bảo dảm đổ liên tục. Các loại thiết bị dụng cụ, đường điện đường nước phải qua kiểm tra kỹ lưỡng
4. Không kịp thời phát hiện nước vào trong ống, bê tông bị quá lỏng, nước vữa xi măng tách khỏi cát đá
Cho lên xuống hoặc lắc ống dẫn làm cho ống thông tắc. Nếu không được thì kéo ống lên làm sạch rồi cắm lại vào đủ độ sâu trong bê tông, dùng bơm nước chìm hoặc máy hút bùn không khí hút sạch vữa, tạp vật trong ống đổ, đổ lại bê tông
5. Bê tông tiết nước phân tầng nghiêm trọng
Trộn lại bê tông theo nguyên tắc không tăng tỷ lệ nước:XM
6. Kết thành lớp trong ống, bê tông bị lắc
Mùa hè nhiệt độ cao, nước trong bê tông dễ bốc hơi, ống dẫn nóng lên ko kịp nguội đi làm cho bê tông kết ở trong thành ống thành lớp rắn chắc, bê tông không đi qua được
Thi công mùa hè tránh đổ bê tông khi thường dau quá, thường lên đổ sau 4 giờ chiều
Dây dẫn bị đứt
Không dùng dây dẫn để kéo gói thuôc nổ, gói thuôc xuống hồ dây dẫn phải thả lỏng phòng bị đứt
Nối dây sai
Sửa lại cach nối dây
Pin yếu điện
Khi dùng pin khô -khi dùng pin co gây ra>nếu điện yếu tì ngay thay oin mới
Không rơi (kẹt cổ, nổ rồi mà bê tông không rơi)
Đường kính côt liệu bê tông to quá, độ sụt nhỏ quá
Chọn độ sụt và đường kính hạt cho thích hợp
Khối lượng bê tông đổ đợt 1 lớn quá
Chọn lượng đổ cho thích hợp
Khi dẫn nổ bê tông đã quá hạn sơ minh
Nên làm trước khi bê tông sơ minh
Trong đất có kẹp tầng mềm yếu, sau khi nổ sinh ra co cổ
Khi có kẹp tầng mềm yếu phải hạ ống bảo vệ thành, trước khi nổ nâng ống lên với độ cao bằng 1.2 lần đường kính đầu mở rộng. Sau đó vừa đổ bê tông vào vừa nhổ ống lên
Đất rơi ( hố bị sụt lở, đất rơi xuống)
Chất đất thành hố tơi xốp
Hạ ống để giữ thành
ảnh hưởng chấn động khi nổ cọc lân cận
Khi có ảnh hưởng của nổ cọc bên cạnh, có thể 2 hố cọc cùng đổ bê tông
Khi nổ miệng hố chưa tạo thành hình loa
Đào miệng hố thành hình loa
Miệng hố hoặc thành hố bị nước mưa ngấm vào
Nổ mở rộng hố ngay ngày hôm ấy
Co nổ
Chất đất không tốt, có tầng mềm yếu, đất mềm bão hoàbị chèn ép chấn động sinh ra tác dụng áp lực nước lỗ rỗng, làm trọn bùn chảy vào trong hố
Làm lỗ nhanh, đổ bê tông nhanh, tranh thủ hoàn thành toàn bộ cọc mở lỗ trước khi xẩy ra co cổ, hoặc vừa làm lỗ vừa hạ ống, hoặc làm lỗ rồi hạ ống ngay, hoặc dùng phương pháp đóng kép
ảnh hưởng của bộc phá lân cận
Khi có ảnh hưởng bộc phá cọc bên cạnh thì dùng cách bộc phá cùng nhiều cọc
Rút ống lên quá gấp
Khống chế tốc độ rút ống và độ sâu chôn ống trong bê tông
Lệch đầu ( đầu mở rộng lệch về 1 bên)
Chất đất chỗ dầu mở rộng không đều
Lựa chọn tầng có chất đất đồng đều, cường độ cao hơn để làm tăng sức chịu đựng đầu cọc
Vị trí đặt thuốc nổ và kíp nổ không đúng
Khi bọc thuốc, vị trí kip phải ở đúng giữa gói thuốc, gói thuốc phải đặt giữa tim hố và cố định chặt
Cự ly cọc nhỏ quá
Tăng cự ly cọc hoặc thi công nhảy quẳng (tức thi công cách 1 hố cọc)
Trình tự dẫn nổ không đúng
Xác định đúng trình tự dẫn nổ
Đứt cọc
Khi đổ bê tông ống dẫn nhấc lên cao quá, phần đáy tách khỏi tầng bê tông
Đo độ sâu bê tông trong ống không đúng dẫn đến phán đoán sai
Thao tác không chuẩn nhấc lên mạnh quá, ống bị nâng lên quá bê tông chỉ chìm xuống ít quá
Tăng cường tập huấn kỹ thuật cho người đo sâu, đo thật kỹ mặt bê tông, vẽ tỉ mỉ đường cong đổ bê tông, chỉ đạo chính xác việc nhấc ống lên
Nghiêm khắc tuân thủ qui trình đổ bê tông.
Nhấc ống lên phải đều tay, ổn định, từ tốn.
Chất lượng đổ bê tông kém
(1) Do sự cố nên đổ bê tông bị ngừng giữa chừng lâu quá, bê tông mặt đã mất tính lưu động, bê tông mặt đã mất tính lưu động, bê tông đốt tiếp vào đội trên lớp mặt, bao bọc lấy lớp mặt có lớp vữa cặn nổi thành ra đứt cọc
Kiểm tra kỹ các khâu thao tác trước khi đổ bê tông, có các biện pháp dự phòng hữu hiệu, khi đổ phải theo đúng qui trình, bảo đảm thao tác nhịp nhàngliên tục
(2)Chất lượng bê tông đổ xuống kém
Tắc ống mà không giải quyết kịp sinh ra đứt cọc
Tăng cường quản lý chất lượng bê tông. Trước khi bê tông sơ minh thì có thể dùng phương pháp rửa, phương pháp ống chìm (P.P bao bọc bịt kín) để nối cọc. Sau khi bê tông sơ sinh thì có thể dùng các phương pháp rửa, P.P ngàm để nối cọc
Kẹp tầng
1. Độ sâu chôn không đủ, bùn lẫn vào
Xác định độ sâu chôn ống theo đường kính cọc và ống đổ cụ thể
2.Thành hố bị sụt lở, đất kẹp lẫn vào trong bê tông
Phát hiện sụt lở, phải dừng đổ bê tông, đo lấy vị trí mặt bê tông trong hố, nâng ống dẫn lên, đổi dùng nước sạch để rửa hố, đẩy các chất bẩn bỏ đi, giữ vững thành hố, dùng đầu khoan nhỏ hơn 1 cấp khoan lỗ nhỏ, làm sạch hố xong, hạ ống đổ tiếp
3. Nước vào trong ống làm cho bê tông bị nhão lỏng nghiêm trọng
Giải quyết việc nước vào ống xem mục 2 trong biển này “ ống dẫn rỉ nước”
Co cổ
Nước có áp lực ở địa tầng xâm thực vào bê tông xung quanh cọc
Xác định dúng vị trí nước có áp lực, trước khi đổ bê tông hạ ống bảo vệ xuống để ngăn cách nước. Sau khi đổ bê tông cọc kiểm tra thấy có co cổ, nếu ở nông thì đào đất lên vá lại, nếu ở sâu mà co cổ nghiêm trọng thì phải tính việc bu cao
Bê tông ly tán nghiêm trọng
1. ống dẫn dò nước
Giải quyết ống dẫn dò nước, xem mục 2 trong biểu này
2.Tỉ lệ trộn bê tông không hợp lý
(1) Cấp phối cốt liệu không tốt
(2) Tỷ lệ Nước: XM quá cao
(3) Xi măng kém chất lượng hoặc không đúng loại
3. Bê tông trộn không đều
Chọn cốt liệu cho hợp lý cấp phối
Khống chế chặt tỉ lệ N:XM
Chọn đúng loại XM và có chất lượng tốt
Kiểm tra chặt chẽ, trộn đúng qui định
Khung cốt thép sai vị trí
Khung cốt thép tụt xuống
Chủ yếu xảy ra trong lỗ mà chiều dài khung thép chỉ có nửa cọc, khi hạ khung thao tác không tốt, không cố định khung lại nên bị tụt xuống
Khi hạ ống dẫn bị mắc vào khung nên kéo cả khung xuống
Hạ khung thép thật chặt chẽ tỉ mỉ, buộc hoặc hàn chặt vào trên miệng lỗ
Khi hạ ống phải chõuongs theo đúng tim lỗ. Khi đổ bê tông cọc nghiêng, ở mỗi chỗ đầu nối của ống dẫn phải có 1 cái trao có mặt ngoài trên nhẵn để tránh móc vào khung thép
Khung cốt thép nổi lên
Khi đổ mẻ bê tông đầu tiên vào lỗ sẽ có lực đẩy lên, nếu khung thép không cố định lại sẽ nổi lên
Khi nhấc ống dẫn lên móc cả khung kéo lên theo
Khung thép lệch về 1 bên thành hố
Khi hàn khung thép không đổi chuẩn trên dưới
Cục định vị cốt thép hoặc cục bảo vệ bê tông không đủ số lượng
Đường kính lỗ cọc bị quá to làm cho khung thép đổ về 1 bên
Buộc chặt hoặc hàn chặt khung cốt thép vào miệng hố
Nt
Hàn theo đúng qui định
Tăng thêm thoả đáng cục định vị hoặc cục bảo vệ
Đối chiếu cho thật đúng giữa
Kết luận và kiến nghị
- Do sự phức tạp cũng như vai trũ to lớn và giỏ thành của cọc khoan nhồi đối với công trỡnh nờn cụng tỏc kiểm tra chất lượng cũng như xác định sức chịu tải của cọc là hết sức quan trọng. Trong quỏ trỡnh thi cụng, cỏc cụng đoạn yêu cầu phải được thi công đúng quy trỡnh một cỏch nghiờm ngặt, bất cứ một sự hư hỏng nào cũng dẫn đến hậu quả khó sửa hoặc nếu sửa được thỡ sẽ rất tốn kộm.
- Nhất thiết phải đề ra quy trỡnh thi cụng cọc khoan nhồi và phải tuõn thủ nghiờm ngặt quy trỡnh đó.
- Việc nghiờn cứu ỏp dụng cỏc phương pháp mới để phát hiện và khắc phục các khuyết tật cọc khoan nhồi cần được đầu tư và cập nhật liên tục.
Do thời gian làm ngắn nên không thể tránh khỏi các sai sót, rất mong mọi người có ý kiến đóng góp và chỉ bảo.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- coc_khoan_nhoi_phuong_phap_kt_va_phat_hien_khuyet_tat_5949.doc