Trong xu thế hội nhập, ta không chỉ trang bị cho mình một tiềm lực kinh
tế mạnh mẽ để cạnh tranh với bạn bè thế giới mà cũng phải xây dựng đất
nước thành một môi trường thu hút đầu tư từ các quốc gia khác. Quá trình này
không thể nào không nhắc đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt
Nam, cơ sở pháp lý chính là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu trong
việc các nhà đầu tư nước ngoài chọn Việt Nam để mở rộng thị trường. Các
văn bản QPPL được ban hành không tránh khỏi những sai sót, vì vậy công tác
kiểm tra xử lý văn bản QPPL cần thiết phải được đặt ra như một nghiệp vụ
chuyên môn. Kiểm tra và xử lý văn bản QPPL không chỉ đơn thuần là việc
xem xét và phát hiện ra những điểm bất hợp pháp, bất hợp lý trong các văn
bản QPPL mà nó còn mang một tầm quan trọng trong việc tăng cường tính
minh bạch và hoàn thiện của hệ thống văn bản QPPL.
Để hoạt động kiểm tra diễn ra thuận lợi, mang lại hiệu quả thiết thực
giúp cho công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL được đảm bảo thống
nhất, đồng bộ thì cần phải tuân thủ nguyên tắc, nội dung và phương thức của
nó. Vì vậy đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền kiểm tra và xử lý văn bản và người
làm công tác kiểm tra phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật về kiểm
tra. Bên cạnh đó, cần có các giải pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động kiểm tra và xử lí văn bản QPPL trong thời gian tới,
trong đó cần tập trung vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về kiểm tra và xử lí văn bản
QPPL theo hướng: Hoàn thiện quy định của pháp luật về thời hạn, tiêu chí của
hoạt động kiểm tra; về các biện pháp xử lí văn bản QPPL; về truy cứu trách
nhiệm pháp lí đối với hành vi vi phạm trong việc xử lí, ban hành và tham mưu
ban hành văn bản QPPL101
Thứ hai, xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy cho các cơ quan chức
năng, tăng cường đội ngũ công chức thực hiện kiểm tra, xử lí văn bản QPPL
đủ về số lượng và có năng lực nghề nghiệp, trình độ chuyên môn vững vàng
thông qua công tác tập huấn nghiệp vụ và cử đi học tập, bồi dưỡng chuyên đề
chuyên sâu về kiểm tra văn bản QPPL.
Thứ ba, có sự phối hợp nhịp nhàng, hợp lý từ phía cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan trong việc tham mưu ban hành và kiểm tra văn bản cũng
như sự phối hợp đồng bộ giữa các hoạt động kiểm tra, xử lí văn bản QPPL
với xây dựng, rà soát, hệ thống hóa và theo dõi thi hành pháp luật.
Thứ tư, bảo đảm các điều kiện chất cho hoạt động kiểm tra và xử lí văn
bản QPPL. Trong đó, nhà nước cần đầu tư, hỗ trợ hơn nữa về kinh phí, trang
bị phương tiện vật chất, xây dựng hệ cơ sở dữ liệu cho phù hợp với tính chất
đặc thù của hoạt động này. Bên cạnh đó, cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, cơ
chế thu hút đội ngũ cộng tác viên trên các lĩnh vực, kinh nghiệm của các
chuyên gia giỏi vào các giai đoạn kiểm tra văn bản; nghiên cứu thực hiện chế
độ hợp đồng đối với các viện nghiên cứu, các trường đại học, trong hoat động
xây dựng văn bản, kiểm tra, xử lý văn bản ở địa phương.
Các giải pháp trên là những đóng góp giúp cho pháp luật cũng như hoạt
động kiểm tra xử lý văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp huyện có thể ngày
càng hoàn thiện hơn và đạt được những kết quả tốt đẹp, nhằm hướng đến một
hệ thống văn bản QPPL minh bạch và hoàn thiện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi nói riêng và của cả nước nói chung.
115 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 565 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nào cơ
quan ban hành cũng như công chức tham mưu soạn thảo, ban hành bị truy cứu
trách nhiệm pháp lý.
Thứ sáu, trước đây theo quy định tại Khoản 3 Điều 1 Nghị định 40 và
hiện nay là điểm d Khoản 1 Điều 103 Nghị định 34 quy định về đối tượng
kiểm tra là văn bản chứa QPPL nhưng không được ban hành bằng hình thức
văn bản QPPL, văn bản có chứa QPPL hoặc có thể thức như văn bản QPPL
do cơ quan, người không có thẩm quyền ban hành. Việc quy định như vậy nảy
sinh một vấn đề trong quá trình thực hiện là bằng cách thức nào và cơ quan
nào có trách nhiệm phát hiện ra nhóm văn bản này để chuyển cho cơ quan
kiểm tra để kịp thời xử lý, vì các văn bản này không gửi đến cho cơ quan
kiểm tra. Với loại văn bản này thông thường chỉ thông qua các phương tiện
thông tin truyền thông hoặc phản ánh của các nhân, tổ chức mới phát hiện ra
để kiểm tra và xử lý. Do vậy, cần bổ sung quy định chặt chẽ đối với việc kiểm
tra các văn bản này.
3.2.1.2. Xây dựng, ban hành mới các văn bản hướng dẫn
- Theo Khoản 4 Điều 154 Luật 2015 quy định: “Văn bản QPPL hết
hiệu lực thì văn bản QPPL quy định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng
81
thời hết hiệu lực”, tuy nhiên hiện nay một số văn bản chưa được ban hành để
hướng dẫn thực hiện, cụ thể cần ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật
2015, Nghị định 34. Bởi vì hiện nay, Luật 2015 có nhiều điểm mới, thay đổi
nhiều so với cách làm trước đây, đồng thời đặt ra yêu cầu cao hơn, chặt chẽ
hơn cho hoạt động xây dựng, ban hành nên ở địa phương còn gặp khó khăn,
vướng mắc trong việc triển khai thực hiện.
- Nhằm hoàn thiện cơ chế bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý và rà
soát, hệ thống hóa văn bản QPPL, ngày 17/8/2011 Bộ Tài chính và Bộ Tư
pháp đã ký ban hành Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP quy
định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho
công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL (Văn bản này
thay thế Thông tư liên tịch số 158/2007/TTLT-BTC-BTP ngày 28/12/2007
hướng dẫn về quản lý và sử dụng kinh phí hỗ trợ cho công tác kiểm tra văn
bản). Từ khi có hiệu lực, Thông tư này đã hiện thực hóa quy định về bảo đảm
kinh phí cho các hoạt động rà soát, hệ thống hóa; điều chỉnh tăng mức chi cho
hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Tuy nhiên, hiện nay do Thông tư
này được ban hành trước khi những văn bản quy định về nội dung thực hiện
hoạt động kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa được ban hành nên hoạt động lập dự
toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra,
xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL hiện nay chưa đảm bảo và không
phù hợp với thực tế. Vì vậy, trong thời gian đến các cơ quan có thẩm quyền
cần sớm ban hành văn bản thay thế Thông tư liên tịch 122/2011/TTLT-BTC-
BTP nhằm bảo đảm kinh phí cho hoạt động này.
- Trên cơ sở Luật 2015 và Nghị định 34, Bộ Tư pháp cần sớm xây dựng
Quy chế kiểm tra văn bản áp dụng thống nhất từ trung ương đến địa phương,
xây dựng các cuốn Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ cũng như kỹ năng kiểm tra,
soạn thảo văn bản QPPL.
82
Trong phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm được giao, để tăng cường
công tác kiểm tra văn bản QPPL ở địa phương, các cấp lãnh đạo cần quan tâm
chỉ đạo việc ban hành văn bản QPPL về kiểm tra nhằm cụ thể hóa các quy
định của trung ương áp dụng cho địa phương mình như quy chế kiểm tra văn
bản, quy chế tổ chức quản lý đội ngũ cộng tác viên, chỉ thị đôn đốc công tác
kiểm tra văn bản... Đồng thời khi các văn bản QPPL của trung ương sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành mới thì cần nhanh chóng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với tình hình thực tế tại các địa phương.
3.2.2. Tạo cơ chế phối hợp đồng bộ, thuận lợi để công tác kiểm tra
văn bản quy phạm pháp luật có kết quả thiết thực
3.2.2.1. Kết hợp giữa các cơ quan có liên quan trong công tác kiểm tra
văn bản quy phạm pháp luật
Xác lập một cơ chế phối hợp tốt giữa các cơ quan có liên quan và bảo
đảm sự tham gia ngày càng rộng rãi của các tổ chức đoàn thể, chính trị, xã
hội, của các phương tiện thông tin đại chúng và của mọi tầng lớp nhân dân
vào quá trình kiểm tra. Trước hết, cần tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa
cơ quan kiểm tra với cơ quan ban hành trong kiểm tra văn bản QPPL. Để thực
hiện và phát huy hiệu quả mối quan hệ này, trước hết cơ quan kiểm tra hay cơ
quan ban hành văn bản QPPL đều có trách nhiệm tuân thủ quy định của pháp
luật về nhiệm vụ của mình. Thực hiện tốt nhiệm vụ được giao là tiền đề đầu
tiên thiết lập mối quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan. Về phía cơ quan ban
hành văn bản QPPL, cần gửi văn bản tới cơ quan kiểm tra đúng thời hạn theo
quy định của pháp luật (trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ban hành)
đảm bảo cho cơ quan kiểm tra có điều kiện để thực hiện hoạt động kiểm tra
kịp thời. Bên cạnh đó, nếu thông qua hoạt động kiểm tra văn bản QPPL, cơ
quan có thẩm quyền kiểm tra phát hiện thấy văn bản QPPL có dấu hiệu sai sót
cơ quan kiểm tra cần trao đổi trước khi ra kết luận về tính bất hợp hiến, bất
83
hợp pháp, cùng tìm hướng xử lý phù hợp nhất đối với văn bản QPPL đó. Nếu
văn bản QPPL có dấu hiệu bất hợp pháp, cơ quan ban hành phải tự kiểm tra
và xử lý văn bản của mình đồng thời gửi báo cáo về kết quả xử lý cho cơ quan
kiểm tra và đăng tải công khai kết quả xử lý về văn bản đó. Những hoạt động
thể hiện sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng và kịp thời giữa cơ quan kiểm tra
và cơ quan ban hành văn bản QPPL là phương án tuyệt vời nhất để mỗi bên
hoàn thành nhiệm vụ, có nghĩa công việc được giải quyết một cách có hiệu
quả, uy tín, danh dự của cơ quan ban hành văn bản QPPL cũng ít bị ảnh
hưởng. Thứ hai là cần xác lập cơ chế phối hợp tốt giữa các đơn vị có chức
năng, nhiệm vụ kiểm tra văn bản như: Cục Kiểm tra văn bản QPPL thuộc Bộ
Tư pháp; pháp chế các bộ, ngành; Sở Tư pháp; Phòng Tư pháp... để học tập,
trao đổi kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực, kiến
thức đáp ứng yêu cầu của công tác này. Ngoài ra cũng cần bảo đảm sự tham
gia rộng rãi của các tổ chức đoàn thể, chính trị, xã hội, của các phương tiện
thông tin đại chúng và của mọi tầng lớp nhân dân vào quá trình kiểm tra,
khuyến khích sự quan tâm, phát hiện và yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ
chức và công dân về văn bản QPPL.
3.2.2.2. Kết hợp công tác kiểm tra với các công tác thẩm định, rà soát,
hệ thống hóa, theo dõi thi hành pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính
Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng nhu cầu hội
nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật ngày
càng trở nên cấp thiết. Nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật được đặt ra từ
chính quá trình xây dựng cho đến khi tổ chức thực hiện văn bản QPPL trên
thực tế; từ việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng của từng văn bản QPPL
cho đến nâng cao chất lượng của cả hệ thống văn bản QPPL hiện hành với
mục đích bảo đảm hệ thống pháp luật thực sự có tính thống nhất nội tại cao.
Có rất nhiều hoạt động do cơ quan nhà nước tiến hành để đạt được mục tiêu
84
này như thẩm định, rà soát, hệ thống hóa, kiểm tra, xử lý và theo dõi thi hành
pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính. Mỗi hoạt động có ý nghĩa, vai trò
khác nhau, có nội dung, phạm vi, đối tượng và trình tự thực hiện khác nhau
nhưng đều có chung mục đích là bảo đảm cho hệ thống pháp luật hợp hiến,
hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, minh bạch.
Nếu cơ quan kiểm tra và xử lý văn bản QPPL chỉ tiến hành độc lập,
thực hiện theo cách "cắt khúc" việc của cơ quan, đơn vị nào thì cơ quan, đơn
vị đó làm chắc chắn hiệu quả đem lại không cao. Ngược lại nếu gắn kết chặt
chẽ các hoạt động này thì hiệu quả đem lại không chỉ với riêng kiểm tra mà
đồng thời cả với các hoạt động. Vì vậy, song song với các biện pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động kiểm tra và xử lí văn bản QPPL, trong thời gian tới các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cần kết hợp chặt chẽ những biện pháp này để
nâng cao hiệu quả của hệ thống văn bản QPPL..
Trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL, công tác thẩm định
văn bản đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đây là hoạt động xem xét, đánh giá
tổng thể về nội dung quy định và hình thức của dự thảo văn bản QPPL nhằm
đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của dự thảo trong
hệ thống pháp luật và việc tuân thủ trình tự, thủ tục xây dựng của dự thảo văn
bản. Hay nói cách khác, thẩm định là bước kiểm tra trước nhằm phát hiện để
loại bỏ những vi phạm, khiếm khuyết, hạn chế của dự thảo văn bản QPPL và
kiến nghị bổ sung những vấn đề còn thiếu sót, góp phần hoàn thiện nội dung
và hình thức dự thảo văn bản trước khi được xem xét ban hành. Do vậy, nếu
làm tốt công tác này thì hoạt động kiểm tra văn bản sẽ nhẹ nhàng hơn.
Hoạt động rà soát, hệ thống hóa là một biện pháp hữu hiệu, giúp làm
sạch, thiết lập lại trật tự của hệ thống văn bản QPPL. Có thể nói, rà soát, hệ
thống hóa văn bản cũng chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng
văn bản. Xuất phát từ đặc điểm của hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều
85
hạn chế, thường xuyên được sửa đổi, bổ sung nhưng lại do nhiều cơ quan ban
hành, nhiều loại hình thức văn bản cùng tồn tại. Do đó, cũng với hoạt động
kiểm tra văn bản, các cơ quan nhà nước cần phải quan tâm tới hoạt động rà
soát, hệ thống hóa văn bản nhằm kịp thời loại bỏ các văn bản trái, mâu thuẫn,
chồng chéo, quy định hết hiệu lực, hoặc ban hành mới văn bản góp phần nâng
cao chất lượng của hệ thống pháp luật.
Hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính được thực hiện ngay từ giai
đoạn soạn thảo văn bản có chứa quy định về thủ tục hành chính và được tiến
hành thường xuyên, liên tục suốt quá trình tổ chức thực hiện thủ tục hành
chính khi văn bản có hiệu lực thi hành. Biện pháp xử lý trong hoạt động kiểm
soát thủ tục hành chính bao gồm sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, hủy bỏ.
Hoạt động kiểm tra văn bản và kiểm soát thủ tục hành chính có mối liên hệ
chặt chẽ, thể hiện rõ nét trong việc tiến hành kiểm tra, phát hiện và xử lý đối
với những quy định về thủ tục hành chính trái pháp luật trong văn bản QPPL
đã được ban hành. Hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật hướng đến
bảo đảm tính kịp thời, đầy đủ của hệ thống pháp luật và nhất là hiệu quả thực
thi pháp luật. Đối tượng chính của hoạt động theo dõi thi hành pháp luật là
thực tiễn thi hành pháp luật thông qua đó kiến nghị ban hành kịp thời, đầy đủ
các văn bản quy định chi tiết thi hành, bảo đảm về tổ chức, biên chế, kinh phí
và các điều kiện khác cho thi hành pháp luật; sửa đổi, bổ sung ban hành mới
các văn bản QPPL. Hoạt động này cũng có mối liên hệ gắn kết chặt chẽ về nội
dung với hoạt động kiểm tra văn bản QPPL, nhất là việc xem xét, đánh giá
tính thống nhất, đồng bộ của văn bản QPPL; phát hiện xử lý những khiếm
khuyết, bất cập của hệ thống pháp luật. Do vậy tổ chức thực hiện hoạt động
kiểm tra, kiểm soát thủ tục hành chính, theo dõi thi hành pháp luật bảo đảm
tính toàn diện, kịp thời, bảo đảm tăng cường năng lực phản ứng nhanh trong
86
phát hiện, xử lý những bất cập của thể chế, nhất là các quy định trái pháp luật,
bất hợp lý, mâu thuẫn, chồng chéo là vấn đề cần thiết.
Từ sự liên kết khá chặt chẽ của các hoạt động thẩm định, rà soát, hệ
thống hóa, kiểm tra, kiểm soát thủ tục hành chính, theo dõi thi hành pháp luật
trên đây, trong thời gian tới, nếu mỗi cơ quan, cán bộ, công chức phát huy hết
khả năng, tinh thần trách nhiệm của mình trong từng công đoạn; phát huy tính
chủ động trong việc phối hợp giữa các chủ thể với nhau thì chất lượng của
văn bản QPPL sẽ được nâng cao, việc tổ chức thực hiện văn bản trong cuộc
sống sẽ có tính khả thi và đem lại hiệu quả tác động tích cực cho sự phát triển
của xã hội.
3.2.3. Kiên quyết xử lý đối với các kiến nghị qua kiểm tra văn bản
quy phạm pháp luật
Công tác kiểm tra văn bản QPPL là hoạt động mang tính chất hậu kiểm.
Từ kết quả của hoạt động kiểm tra, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra sẽ kiến
nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý các văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
Theo đó, trên cơ sở kết quả kiểm tra, Sở Tư pháp đã có văn bản gửi đến các
huyện để thông báo kết quả kiểm tra và kiến nghị biện pháp xử lý đối với
những văn bản có sai sót lớn, để cơ quan ban hành văn bản có sai sót kịp thời
ban hành văn bản để sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế nhằm đảm bảo sự phù
hợp giữa văn bản do cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương với văn bản của
cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và tính thống nhất trong nội dung quy
định của hệ thống pháp luật. Các nội dung kiến nghị tại thông báo được tiếp
thu, nghiên cứu và thực hiện. Song, trong thời gian quan, việc tiếp thu, xử lý
văn bản trái pháp luật của cấp huyện còn thụ động, còn trường hợp sau khi
nhận được thông báo thì người đã ban hành văn bản trái pháp luật không tuân
thủ quy định về tự kiểm tra, xử lý văn bản, còn tình trạng nể nang, dè dặt, né
tránh, ngại va chạm, dẫn đến một số văn bản trái pháp luật không được xử lý
87
triệt để theo quy định, dẫn đến tác động tiêu cực, làm giảm hiệu quả công tác
kiểm tra văn bản. Vì vậy, trong thời gian đến các cơ quan có thẩm quyền kiểm
tra cần thực hiện việc theo dõi, nắm tình hình xử lý trái pháp luật đã được
thông báo. Việc này cần phải được thực hiện thường xuyên, liên tục để làm cơ
sở cho việc đánh giá, phân loại chính xác kết quả xử lý từng loại văn bản đã
được thông báo, từ đó xem xét, có hướng xử lý tiếp theo bảo đảm việc xử lý
đúng quy định (về thời gian xử lý, nội dung được đề nghị xử lý, biện pháp,
hướng xử lý hoặc kết quả xử lý cuối cùng).
Bên cạnh việc xem xét xử lý văn bản có nội dung trái pháp luật thì cũng
cần chú trọng đến việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người đã
ban hành văn bản trái pháp luật đó căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ trái
pháp luật của văn bản và hậu quả của nội dung trái pháp luật gây ra đối với xã
hội và mức độ lỗi của cơ quan, người đã ban hành cũng như người tham mưu
ban hành nhằm nêu cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong việc
ban hành văn bản.
3.2.4 Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác
kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
Công tác kiểm tra văn bản hiện nay không phải là một công việc mới
nhưng nó lại khá phức tạp. Hiện nay, ở các ngành, các cấp, đội ngũ cán bộ
làm công tác này còn rất ít, cần phải được tăng cường nhiều về biên chế
chuyên trách và kiện toàn lại tổ chức chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ này.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tinh giản biên chế, trong thời gian đến Sở Tư pháp,
Phòng Tư pháp cần phối hợp với các cơ quan hữu quan ở địa phương xây
dựng Đề án về tổ chức, biên chế chuyên trách thuộc cơ quan tư pháp làm
công tác kiểm tra văn bản ở địa phương báo cáo UBND cùng cấp phê duyệt
để thực hiện và cần sắp xếp, bố trí biên chế công chức và công việc cho hợp
lý, hiệu quả.
88
Việc bố trí, sử dụng cán bộ kiểm tra phải phù hợp với khả năng, sở
trường của từng người; nắm chắc tình hình đội ngũ cán bộ kiểm tra về phẩm
chất, năng lực thực tiễn, hiểu rõ về bản chất, tâm lý, điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của từng người, kết hợp với yêu cầu của công việc để bố trí, sử dụng cán
bộ phù hợp với từng vị trí, cương vị công tác. Đồng thời, làm tốt công tác tư
tưởng, tạo môi trường đoàn kết, nhất trí, thuận lợi về mọi mặt để cán bộ kiểm
tra phấn khởi, không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu vươn lên
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Đội ngũ công chức kiểm tra văn bản QPPL không chỉ được tăng cường
về số lượng mà còn rất cần được nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có
ý thức kỷ luật và trách nhiệm cao trong công việc. Để đạt được mục tiêu này,
các cơ quan có thẩm quyền cần chú trọng một số vấn đề sau:
Một là, việc tuyển dụng công chức chuyên trách kiểm tra văn bản ở các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện
phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn như: Có trình độ cử nhân luật
hoặc tương đương trở lên; có chứng chỉ đã qua bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra
văn bản; có thời gian thực hiện công tác pháp luật nhất định; đạt yêu cầu
trong kỳ thi tuyển dụng kiểm tra viên. Sở dĩ cần thiết phải đặt ra tiêu chí này
khi tuyển dụng bởi hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL khá phức tạp,
công chức kiểm tra không chỉ giỏi về kiến thức pháp lý mà cần hiểu biết về
lĩnh vực chuyên môn thuộc nội dung văn bản QPPL là đối tượng của hoạt
động kiểm tra.
Hai là, công tác kiện toàn cơ cấu, tổ chức của các cơ quan kiểm tra văn
bản tại địa phương cần được thực hiện dựa trên những quy định pháp luật
hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức các cơ quan
chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương.
Đối với các Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: các địa
89
phương căn cứ vào tình hình thực tế và khối lượng công việc trong từng lĩnh
vực công tác cụ thể để xác định số lượng và cơ cấu phòng chuyên môn nghiệp
vụ cho phù hợp. Để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản, có thể cơ cấu thành
lập Phòng kiểm tra và xử lý văn bản độc lập hoặc thành lập Phòng xây dựng,
thẩm định và kiểm tra văn bản. Nếu chọn mô hình Phòng xây dựng, thẩm
định và kiểm tra văn bản thì cần được bố trí, tổ chức thành hai nhóm thực
hiện hai nhiệm vụ: xây dựng, soạn thảo, thẩm định văn bản và kiểm tra, xử lý
văn bản QPPL. Nhóm kiểm tra văn bản phải chiếm 1/3 số biên chế của Phòng
nhưng không ít hơn 02 người, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể theo hướng
chuyên môn hóa công tác này. Đối với Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh: để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định, Phòng
cần phân công một lãnh đạo phụ trách và ít nhất 01 công chức chuyên trách.
Ba là, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công tác kiểm tra văn bản
QPPL
Kiểm tra văn bản là việc xem xét, kiểm tra về tính hợp hiến, hợp pháp
của văn bản QPPL để kiến nghị các hình thức xử lý văn bản sai trái cho phù
hợp với quy định của pháp luật; đồng thời xử lý trách nhiệm đối với người
ban hành, tham mưu ban hành văn bản đó. Để thực hiện được nhiệm vụ này,
người kiểm tra phải được trang bị những kiến thức cơ bản về pháp luật, những
chủ trương, chính sách của Đảng và những kỹ năng cần thiết để hoạt động
kiểm tra văn bản đạt kết quả tốt. Chính vì thế, cần xây dựng chiến lược đào
tạo lâu dài những kiến thức cơ bản về công tác kiểm tra văn bản tại các trung
tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trường đào tạo cử nhân luật và
trường đào tạo các chức danh tư pháp.
Tuy nhiên, để kịp thời đáp ứng nhu cầu cấp thiết, trước mắt phải ưu
tiên tập trung vào hoạt động tập huấn chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn
hạn, tại chỗ đối với cán bộ, công chức hiện đang thực hiện công tác kiểm tra
90
văn bản. Cụ thể như: Bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ cho công tác kiểm
tra văn bản. Phương thức bồi dưỡng: tổ chức xây dựng các lớp tập huấn ngắn
ngày, hội thảo, tọa đàm hoặc tổng kết kinh nghiệm kiểm tra văn bản của các
bộ, ngành, địa phương. Có thể tổ chức bồi dưỡng độc lập về công tác kiểm tra
văn bản hoặc kết hợp với bồi dưỡng soạn thảo, ban hành văn bản QPPL. Nội
dung bồi dưỡng bao gồm: kỹ năng kiểm tra một văn bản QPPL và các kiến
thức bổ trợ khác như về soạn thảo văn bản, kỹ năng kiểm tra văn bản và kỹ
năng rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL, xây dựng, sử dụng cơ sở dữ liệu,
cách thức tổ chức, phối hợp công việc và những kiến thức khác theo nhu cầu
đào tạo của người kiểm tra văn bản; Phát hành tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ
về kỹ năng soạn thảo, ban hành, kiểm tra văn bản, rà soát, hệ thống hóa văn
bản QPPL.
Bốn là, xây dựng cơ chế thu hút, nâng cao chất lượng kiểm tra văn bản
QPPL của cộng tác viên:
Để hỗ trợ cho công tác kiểm tra văn bản QPPL, các bộ, ngành, địa
phương phải quan tâm đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cộng tác viên,
không chỉ phát triển về số lượng mà còn về chất lượng; có cơ chế phối hợp
giữa các đơn vị trong bộ, ngành, địa phương để mời các cộng tác viên nhiệt
tình, có trách nhiệm, có trình độ pháp luật và chất lượng kiểm tra cao. Để thu
hút và tổ chức, quản lý đội ngũ cộng tác viên, cơ quan kiểm tra văn bản phải
xây dựng được cơ chế tài chính, cơ chế giao văn bản, nhận kết quả kiểm tra,
thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra, xác định rõ quyền và
nghĩa vụ của cộng tác viên. Ngoài ra, cần cung cấp thông tin, các chính sách
pháp luật cho cộng tác viên và tạo điều kiện để họ tiếp cận hệ thống cơ sở dữ
liệu dưới nhiều hình thức khác nhau, cung cấp một số tài liệu cần thiết khác
phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản theo yêu cầu cộng tác viên.
91
Năm là, cần xây dựng các chức danh kiểm tra viên kiểm tra văn bản.
Bởi vì, Kiểm tra, xử lý văn bản QPPL là hoạt động mà kết quả của nó có thể
ảnh hưởng đến hiệu lực của các văn bản QPPL, đến tính hợp hiến, hợp pháp
và đến tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Đây là một công tác đặc thù,
yêu cầu cao về chuyên môn, nghiệp vụ. Quá trình thực thi công vụ đòi hỏi
công chức thực hiện không những phải giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà
còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, vượt qua
được các trở ngại. Về tính chất nghề nghiệp, công tác kiểm tra văn bản tương
tự như hoạt động kiểm tra, thanh tra của đội ngũ thanh tra viên ngành Thanh
tra, hoạt động kiểm sát văn bản của đội ngũ kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân các cấp trước đây. Chính vì vậy mà Nghị định 40 và Nghị định 34 đã yêu
cầu công chức kiểm tra văn bản phải chuyên trách nhằm chuyên môn hóa
công tác này và đảm bảo cho đội ngũ này chuyên tâm thực hiện nhiệm vụ.
Tuy nhiên, để khẳng định vị trí của người kiểm tra trong đơn vị, tạo động lực
phấn đấu cho người kiểm tra văn bản thì cần phải xây dựng chức danh kiểm
tra viên kiểm tra văn bản. Chỉ những người trực tiếp kiểm tra văn bản và có
đủ tiêu chuẩn của kiểm tra viên mới được bổ nhiệm và được hưởng những chế
độ chính sách đi kèm. Có thể nói đây là động lực phấn đấu, nỗ lực học tập,
trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao sự hiểu biết của người kiểm tra để
thực hiện tốt công việc, từ đó đẩy nhanh tiến độ, chất lượng công tác kiểm tra
văn bản, góp phần công khai, minh bạch hóa và hoàn thiện hệ thống pháp
luật. Trong thời gian tới, các cơ quan chức năng phải nghiên cứu, xây dựng
chức danh và ngạch công chức kiểm tra viên kiểm tra văn bản QPPL với
những tiêu chuẩn cụ thể, áp dụng cho từng cấp và được bổ nhiệm theo nhiệm
kỳ. Về nguyên tắc, các tiêu chuẩn cụ thể đối với chức danh kiểm tra viên
kiểm tra văn bản phải phù hợp với tiêu chuẩn của công chức và tiêu chuẩn các
ngạch công chức hành chính nhà nước ngành tư pháp.
92
Ngoài ra, để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức kiểm tra văn bản
cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức
của đội ngũ làm công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó:
Tăng cường tập huấn chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ
Tăng cường tập huấn về chuyên môn là tạo điều kiện để cán bộ công
chức nắm bắt những kiến thức khoa học mới, hiểu biết sâu hơn về công việc
đang đảm nhận; thực hiện chuẩn xác những yêu cầu, thao tác cần thiết để giải
quyết công việc một cách hiệu quả nhất, phù hợp với yêu cầu đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động chuyên môn. Trong điều kiện hiện nay thì chỉ có
trình độ chuyên môn là chưa đủ bởi lẽ nhiều khi cán bộ, công chức có kiến
thức, hiểu biết chuyên môn nhưng vẫn bị động, lúng túng khi vận dụng chúng
trong thực tiễn. Do đó, ngoài việc tăng cường tập huấn chuyên môn còn phải
tăng cường tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm
công tác kiểm tra văn bản. Bên cạnh sự hiểu biết khoa học về công việc kiểm
tra, họ còn phải có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn bằng
những thao tác nhanh, chính xác, chuyên nghiệp và hiệu quả, nghĩa là phải có
năng lực để thực hiện, có phương pháp làm việc khoa học. Kỹ năng nghiệp vụ
thể hiện ở quy trình làm việc, cách thức tổ chức thực hiện và thực hiện công
việc một cách hiệu quả, chính xác cũng như khả năng thích ứng với mọi đòi
hỏi, yêu cầu của hoạt động kiểm tra.
Tăng cường tập huấn chuyên đề pháp luật, bồi dưỡng kiến thức pháp luật
Đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản
lý xã hội dựa trên các nguyên tắc, quy định của pháp luật nên họ phải nắm
vững các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi
cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước đều phải triệt để tuân thủ pháp luật, đề
cao pháp luật trong việc giải quyết các công việc chuyên môn. Điều đó đòi
93
hỏi cán bộ, công chức phải có kiến thức, hiểu biết pháp luật như: nội dung các
văn bản điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước; quy định nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ, công chức; các quy định
liên quan trong đời sống kinh tế, xã hội. Ngoài ra, cán bộ, công chức thực
hiện công tác kiểm tra văn bản còn phải có sự hiểu biết chuyên sâu về pháp
luật có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ mà mình đang đảm
nhiệm để lý giải, vận dụng đúng đắn pháp luật trong việc tham mưu, xử lý các
văn bản trái pháp luật. Tập huấn chuyên đề pháp luật là hình thức giáo dục
pháp luật ngắn hạn, do các chủ thể giáo dục pháp luật khác nhau thực hiện,
hướng tới cung cấp cho đội ngũ cán bộ, công chức những kiến thức pháp luật
về các văn bản QPPL hoặc văn bản QPPL mới được ban hành, sửa đổi, bổ
sung, liên quan trực tiếp đến lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ mà mình đảm
nhiệm; bổ sung, cung cấp lại cũng như cập nhật cho đội ngũ cán bộ làm công
tác này những kiến thực pháp luật cụ thể, thiết thực phục vụ công việc hàng ngày.
Chính vì thế, trong thời gian đến Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp các địa
phương cần coi trọng, quan tâm và triển khai thường xuyên công tác tập huấn
chuyên môn nghiệp vụ về kiểm tra và xử lí văn bản QPPL. Đây là biện pháp
khá hữu hiệu để nâng cao hiểu biết kỹ năng, nghiệp vụ kiểm tra và xử lí văn
bản QPPL. Thông qua các buổi tập huấn, mọi quy định pháp luật, kỹ năng,
nghiệp vụ và nhất là sự chia sẻ kinh nghiệm của công chức trong quá trình
triển khai thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và xử lí văn bản QPPL được đề cập,
trình bày. Mỗi năm, Cục Kiểm tra văn bản QPPL cũng như Sở Tư pháp cần tổ
chức từ 2 đến 3 đợt tập huấn, đảm bảo sao cho mọi công chức kiểm tra đều
được tham gia tối thiểu 01 lần trong một năm. Nội dung và phương pháp tập
huấn cũng cần được cơ quan tổ chức quan tâm theo hướng chọn chủ đề nội
dung mang tính trọng tâm, cốt lõi của hoạt động kiểm tra, tìm những vấn đề
94
vướng mắc, khó khăn nhất hiện nay của hoạt động này để trình bày và trao
đổi trực tiếp tại buổi tập huấn. Từ đó tìm các giải pháp tháo gỡ vướng mắc để
công chức có kỹ năng, kinh nghiệm giải quyết trong thực tế.
3.3.5. Chuyên môn hóa lĩnh vực kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật
Phạm vi ban hành văn bản QPPL của UBND các cấp bao quát trên
nhiều lĩnh vực, được tham mưu bởi nhiều sở, ban, ngành, phòng, ban nên dẫn
đến việc phân công, bố trí công chức thực hiện kiểm tra là người am hiểu kiến
thức pháp luật và thực tiễn đối với lĩnh vực mà văn bản dự kiến điều chỉnh.
Để giúp cho việc phân công kiểm tra phù hợp, mang lại hiệu quả cao thì cần
thiết trong nội bộ cơ quan kiểm tra cần có sự phân công nghiên cứu theo từng
lĩnh vực như: đất đai; đầu tư; y tế; văn hóa... hoặc theo nhóm lĩnh vực liên
quan như: đất đai - công nghiệp - xây dựng - giao thông; văn hóa, thể thao, du
lịch - thông tin, truyền thông; giáo dục, đào tạo - y tế - lao động, thương binh
và xã hội... để người làm công tác kiểm tra có sự đầu tư nghiên cứu chuyên
sâu, tiến đến chuyên trách lĩnh vực được phân công kiểm tra.
Tuy nhiên, việc chuyên môn hóa lĩnh vực không nên hoàn toàn cứng
nhắc mà cần có sự linh động trong phân công kiểm tra. Đối với những văn
bản mang tính phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực như: đất đai, tài nguyên
và môi trường, nông nghiệp...thì nên phân công cho một số công chức cùng
phối hợp kiểm tra để phát huy tính hiệu quả làm việc theo nhóm, tránh trường
hợp giao cho một người kiểm tra dẫn đến việc kiểm tra thiếu chặt chẽ, hình
thức, không phát hiện hết được những vấn đề cần kiến nghị.
95
3.3.6. Giải pháp về bảo đảm các điều kiện kiểm tra văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện
3.3.6.1. Về chỉ đạo, đôn đốc
Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND các cấp cần nhận thức đúng về ý
nghĩa và tầm quan trọng của công tác kiểm tra xử lý văn bản QPPL; quan
tâm, đôn đốc, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện công tác kiểm tra văn bản của địa
phương mình.
Có kế hoạch thực hiện công tác kiểm tra hàng năm và định kỳ tổ chức
sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị định 34 của Chính phủ trong địa phương
mình; phê duyệt kinh phí hàng năm cho công tác kiểm tra văn bản.
Khi tiếp nhận báo cáo kết quả kiểm tra và kiến nghị xử lý văn bản trái
pháp luật của cơ quan kiểm tra, cần xem xét và chỉ đạo kịp thời, đẩy nhanh
tiến độ kiểm tra, xử lý văn bản.
Chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp với các cơ quan kiểm tra nhằm
thực hiện tốt công tác kiểm tra văn bản; khi soạn thảo, trình cơ quan người có
thẩm quyền ban hành văn bản cần phải ghi rõ tên cơ quan kiểm tra theo thẩm
quyền trong mục “Nơi nhận”, đảm bảo thực hiện nghiêm túc việc gửi văn văn
bản QPPL đến cơ quan kiểm tra sau khi ban hành; tự kiểm tra, rà soát các văn
bản theo lĩnh vực phụ trách dưới sự theo dõi, đôn đốc của cơ quan đầu mối là
cơ quan tư pháp ở địa phương mình; tham gia đoàn công tác liên ngành về
kiểm tra văn bản khi có yêu cầu; tạo điều kiện cho công chức tham gia làm
cộng tác viên kiểm tra văn bản; phối hợp trong các hoạt động khác theo Nghị
định 34 của Chính phủ.
Các cơ quan kiểm tra thuộc địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ,
chia sẻ thông tin kịp thời trong công tác kiểm tra văn bản: phối hợp kiểm tra
văn bản (họp trao đổi, thảo luận về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, cử đại
diện tham gia đoàn kiểm tra văn bản liên ngành...) thẩm tra kết quả kiểm tra,
96
tiến hành các hoạt động nhằm tham mưu việc xử lý văn bản trái pháp luật cho
cơ quan, người có thẩm quyền xử lý văn bản...thực hiện tốt chế độ báo cáo
công tác, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra văn bản.
3.3.6.2. Về tài chính, ngân sách phục vụ công tác kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật
Cơ chế tài chính bảo đảm cho hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL
được hình thành trên cơ sở cơ chế quản lý tài chính hiện hành áp dụng đối với
các đơn vị hành chính nhà nước được quy định tại Luật Ngân sách nhà nước
và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính. Bộ máy kiểm tra văn bản được
hình thành ở trung ương và địa phương tuy không được tổ chức theo hệ thống
dọc nhưng đều có một bộ phận kiểm tra chuyên trách nằm trong UBND cấp
tỉnh, cấp huyện. Hoạt động kiểm tra văn bản là hoạt động có quy trình nghiệp
vụ rõ ràng, xác định được tương đối về quy mô, khối lượng công việc. Hoạt
động kiểm tra đòi hỏi tính chủ động của cơ quan kiểm tra, đồng thời bảo đảm
tính kịp thời, thường xuyên của công tác kiểm tra. Do vậy, để hoạt động này
được thuận lợi, cơ chế tài chính và bảo đảm ngân sách phải rõ ràng trong dự
toán, nhanh chóng kịp thời trong cấp phát và thuận lợi trong việc quyết toán
sử dụng ngân sách, phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động.
Việc bảo đảm ngân sách cũng được căn cứ trên cơ sở các bộ phận đầu
mối trực thuộc và số lượng biên chế cán bộ, công chức được giao. Đây là hai
yếu tố quan trọng bởi bảo đảm ngân sách chủ yếu phải nhằm cung cấp các
điều kiện tài chính cho bộ máy, con người trong hoạt động thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao. Việc phân bổ ngân sách cho hoạt động kiểm tra
văn bản cũng căn cứ vào các tiêu chuẩn định mức phục vụ dự toán ngân sách.
Bên cạnh những tiêu chuẩn định mức do Nhà nước quy định, có những tiêu
chuẩn định mức chi phí do đơn vị xây dựng được Nhà nước cho phép áp dụng
đối với các đơn vị có hoạt động mang tính đặc thù. Hoạt động kiểm tra, xử lý
97
văn bản QPPL là một hoạt động mới, có thể vận dụng cơ chế phân bổ ngân
sách này. Ngoài ra, còn có những chi phí mà không thể xây dựng được định
mức phải thanh toán theo thực tế nhưng có thể dự trù tương đối (văn phòng
phẩm, điện, nước) Để phục vụ thật tốt cho công tác kiểm tra, xử lý việc bảo
đảm ngân sách cũng là một yếu tố không thể xem nhẹ, do đó, cơ quan có trách
nhiệm lập dự toán ngân sách cũng cần lưu ý đến vấn đề này. Cần lưu ý một số
hoạt động trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản sau đây nên được ưu tiên
bảo đảm ngân sách: tổ chức phối hợp hoạt động kiểm tra; tổ chức đội ngũ
cộng tác viên; tổ chức thu thập thông tin, tư liệu, lập cơ sở dữ liệu pháp luật
phục vụ cho công tác kiểm tra; hỗ trợ cho nghiên cứu, xem xét kiểm tra văn
bản để phát hiện nội dung trái pháp luật. Kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm
tra văn bản được dự toán chung trong kinh phí hoạt động thường xuyên của
các cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, xử lý văn bản.
Mặt khác, bên cạnh việc ấn định mức chi cho hoạt động kiểm tra văn
bản QPPL như hiện nay, về lâu dài cần thiết nghiên cứu xây dựng cơ chế kinh
phí theo hướng mở để khuyến khích cho người làm công tác kiểm tra văn bản.
Theo đó, mức chi dành cho việc kiểm tra văn bản QPPL nên được xây dựng
theo hướng quy định mức tối thiểu, sau đó giao quyền cho HĐND cấp tỉnh tự
quyết định mức chi cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương để tạo
điều kiện thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công tác kiểm tra
trên địa bàn.
3.3.6.3. Về cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc
Các cơ quan có liên quan cần tổ chức khảo sát về thực trạng trụ sở, các
trang thiết bị làm việc, từ đó xây dựng kế hoạch tổng thể yêu cầu các cấp, các
ngành trang bị máy móc, thiết bị phục vụ công tác kiểm tra, xử lý văn bản,
tiến hành tin học hóa công tác kiểm tra văn bản, xử lý văn bản.
98
3.3.6.4 Ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng, hiệu
quả kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
Trong xu thế hội nhập quốc tế và phát triển bền vững, công nghệ thông
tin có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng một nền hành chính
hiện đại. Công nghệ thông tin là yếu tố quan trọng trong việc cải cách hành
chính, cải cách chế độ công vụ, công chức; là công cụ quan trọng, thúc đẩy
các ngành phát triển, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Ưu tiên
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính, cung cấp dịch vụ
công nói chung và trong hoạt động kiểm tra văn bản QPPL nói riêng có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác này.
Trước hết, đó là đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu. Có thể nói, cơ sở dữ
liệu quốc gia về pháp luật, nếu được cập nhật đầy đủ, đúng quy định và được
phổ biến rộng rãi thì sẽ mang lại giá trị to lớn đối với người dân, doanh
nghiệp. Đối với cơ quan nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm tra, rà soát, hệ
thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL, pháp điển hệ thống QPPL.
Theo quy định, Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật là tập hợp các văn
bản quy phaṃ pháp luâṭ và văn bản hợp nhất văn bản QPPL dưới dạng văn bản
điện tử do Chính phủ thống nhất quản lý, bao gồm các cơ sở dữ liệu thành
phần: Cơ sở dữ liệu văn bản pháp luật Trung ương và Cơ sở dữ liệu văn bản
pháp luật địa phương. Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luâṭ được xây dựng
thống nhất, dùng chung trên toàn quốc nhằm cung cấp chính xác, kịp thời văn
bản phuc̣ vu ̣ nhu cầu quản lý nhà nước, phổ biến pháp luâṭ, nghiên cứu, tìm
hiểu, áp duṇg và thi hành pháp luâṭ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối với
công tác kiểm tra văn bản QPPL, việc ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về
pháp luật là hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định
nội dung trái pháp luật của văn bản. Cơ sở dữ liệu là một trong những điều
kiện quyết định đến hoạt động kiểm tra văn bản, hay nói cách khác nếu không
99
có cơ sở dữ liệu thì rất khó để tiến hành hoạt động này. Vì vậy, việc xây dựng
và đầu tư cơ sở dữ liệu cho công tác kiểm tra là vô cùng cần thiết và cần được
quan tâm thực hiện thường xuyên.
Thứ hai, phát huy hiệu quả các hệ thống thông tin, hệ thống phần mềm
dùng chung của tỉnh, của huyện như: Quản lý văn bản và điều hành, quản lý
hồ sơ và đánh giá kết quả làm việc, cổng thông tin điện tử, thư điện tử... Từng
bước đầu tư các hệ thống thông tin, các phần mềm dùng chung đồng bộ thống
nhất,.. ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin, thúc đẩy cải cách hành chính
một cửa điện tử; dịch vụ hành chính công,...
Thứ ba, cần nghiên cứu xây dựng các phần mềm hỗ trợ người làm công
tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL. Với tiêu chí xây dựng phần
mềm nhằm hỗ trợ người làm công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản
QPPL, phần mềm cần được xây dựng trên cơ sở bám sát các quy trình nghiệp
vụ, quy định pháp luật về kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL ngoài
ra, phần mềm cần có đầy đủ các chức năng hỗ trợ thực hiện các thao tác
nghiệp vụ dành cho công chức làm trực tiếp công tác kiểm tra, rà soát, hệ
thống hóa văn bản và công chức làm công tác báo cáo, thống kê văn phòng.
Bên cạnh đó, phần mềm cần có các chức năng tra cứu, tìm kiếm, khai thác
thông tin và hỗ trợ hoạt động lãnh đạo, quản lý trong việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của các công chức do mình quản lý.
100
KẾT LUẬN
Trong xu thế hội nhập, ta không chỉ trang bị cho mình một tiềm lực kinh
tế mạnh mẽ để cạnh tranh với bạn bè thế giới mà cũng phải xây dựng đất
nước thành một môi trường thu hút đầu tư từ các quốc gia khác. Quá trình này
không thể nào không nhắc đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt
Nam, cơ sở pháp lý chính là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu trong
việc các nhà đầu tư nước ngoài chọn Việt Nam để mở rộng thị trường. Các
văn bản QPPL được ban hành không tránh khỏi những sai sót, vì vậy công tác
kiểm tra xử lý văn bản QPPL cần thiết phải được đặt ra như một nghiệp vụ
chuyên môn. Kiểm tra và xử lý văn bản QPPL không chỉ đơn thuần là việc
xem xét và phát hiện ra những điểm bất hợp pháp, bất hợp lý trong các văn
bản QPPL mà nó còn mang một tầm quan trọng trong việc tăng cường tính
minh bạch và hoàn thiện của hệ thống văn bản QPPL.
Để hoạt động kiểm tra diễn ra thuận lợi, mang lại hiệu quả thiết thực
giúp cho công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL được đảm bảo thống
nhất, đồng bộ thì cần phải tuân thủ nguyên tắc, nội dung và phương thức của
nó. Vì vậy đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền kiểm tra và xử lý văn bản và người
làm công tác kiểm tra phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật về kiểm
tra. Bên cạnh đó, cần có các giải pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động kiểm tra và xử lí văn bản QPPL trong thời gian tới,
trong đó cần tập trung vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về kiểm tra và xử lí văn bản
QPPL theo hướng: Hoàn thiện quy định của pháp luật về thời hạn, tiêu chí của
hoạt động kiểm tra; về các biện pháp xử lí văn bản QPPL; về truy cứu trách
nhiệm pháp lí đối với hành vi vi phạm trong việc xử lí, ban hành và tham mưu
ban hành văn bản QPPL
101
Thứ hai, xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy cho các cơ quan chức
năng, tăng cường đội ngũ công chức thực hiện kiểm tra, xử lí văn bản QPPL
đủ về số lượng và có năng lực nghề nghiệp, trình độ chuyên môn vững vàng
thông qua công tác tập huấn nghiệp vụ và cử đi học tập, bồi dưỡng chuyên đề
chuyên sâu về kiểm tra văn bản QPPL.
Thứ ba, có sự phối hợp nhịp nhàng, hợp lý từ phía cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan trong việc tham mưu ban hành và kiểm tra văn bản cũng
như sự phối hợp đồng bộ giữa các hoạt động kiểm tra, xử lí văn bản QPPL
với xây dựng, rà soát, hệ thống hóa và theo dõi thi hành pháp luật.
Thứ tư, bảo đảm các điều kiện chất cho hoạt động kiểm tra và xử lí văn
bản QPPL. Trong đó, nhà nước cần đầu tư, hỗ trợ hơn nữa về kinh phí, trang
bị phương tiện vật chất, xây dựng hệ cơ sở dữ liệu cho phù hợp với tính chất
đặc thù của hoạt động này. Bên cạnh đó, cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, cơ
chế thu hút đội ngũ cộng tác viên trên các lĩnh vực, kinh nghiệm của các
chuyên gia giỏi vào các giai đoạn kiểm tra văn bản; nghiên cứu thực hiện chế
độ hợp đồng đối với các viện nghiên cứu, các trường đại học, trong hoat động
xây dựng văn bản, kiểm tra, xử lý văn bản ở địa phương.
Các giải pháp trên là những đóng góp giúp cho pháp luật cũng như hoạt
động kiểm tra xử lý văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp huyện có thể ngày
càng hoàn thiện hơn và đạt được những kết quả tốt đẹp, nhằm hướng đến một
hệ thống văn bản QPPL minh bạch và hoàn thiện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi nói riêng và của cả nước nói chung.
102
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
- Bài viết: “Một vài khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai thi hành
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi”, tác giả Nguyễn Thị Cẩm Giang, đăng trên Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số tháng 4 (301) năm 2017, trang 62.
- Bài viết “Nâng cao chất lượng thẩm định văn bản quy phạm pháp
luật trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” và “Nhìn lại ba năm thực hiện công tác
pháp chế trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi”, tác giả Cẩm Giang, đăng trên Bản
tin Tư pháp Quảng Ngãi, số 9 -10 (tháng 10/2014), tr 6 và tr 18.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nội vụ, Văn Phòng Chính phủ (2005), Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/5 về hướng dẫn thể thức và kỹ
thuật trình bày văn bản.
2. Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp (2011), Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-
BTC-BTP ngày 17/8 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và
quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát,
hệ thống hóa văn bản QPPL.
3. Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp (2012), Thông tư liên tịch số 47/2012/TTLT-
BTC-BTP ngày 16/3 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và
quyết toán ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng và
hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND.
4. Bộ Tư pháp (2010), Thông tư số 20/2010/TT-BTP ngày 30/11 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày
12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm
pháp luật.
5. Chính phủ Việt Nam (2006), Nghị định số 91/2006/NĐ-CP ngày 06/9 quy
định chi tiết một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL của Hội
đồng nhân dân, UBND năm 2004.
6. Chính phủ Việt Nam (2010), Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4 về
kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
7. Chính phủ Việt Nam (2010), Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6 về
kiểm soát thủ tục hành chính.
8. Chính phủ Việt Nam (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011
ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn từ năm 2011 - 2020.
9. Chính phủ Việt Nam (2013), Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ngày
14/5/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan
đến kiểm soát thủ tục hành chính.
10. Chính phủ Việt Nam (2016), Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày
14/5/2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Ban hành văn bản QPPL.
11. Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (2013), “Một số vướng mắc
trong quá trình áp dụng Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-
BTP”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 10, tr 28.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
15. Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật (2007), nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr 281-290.
16. Harold Koontz- Cyril O’Donnell- HeinzWeihrich, Những vấn đề cốt yếu
của quản lý, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1999, tr540.
17. Hoàng Minh Hà (2008), “Bàn về tính hợp lý của văn bản quy phạm pháp
luật”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3.
18. Nguyễn Mai Hương (2010), Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp
luật của HĐND và UBND trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, luận văn
thạc sỹ luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Hiên (2013), Kiểm tra và xủ lý văn bản quy phạm pháp luật
(qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang), luận văn thạc sỹ luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
20. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2011), Sổ tay kỹ thuật soạn thảo, thẩm định,
đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
21. Cao Vũ Minh (2010), “Tính hợp pháp và hợp lý trong quyết định quản lý
nhà nước của UBND”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 07.
22. Uông Chu Lưu (chủ biên 2005), Bình Luận Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
23. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1996), Luật
Ban hành văn bản QPPL.
24. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2002), Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL.
25. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2004), Luật
Ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân, UBND.
26. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2008), Luật
ban hành văn bản QPPL.
27. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013), Hiến
pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
28. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Ban hành văn
bản QPPL năm 2015.
29. Tào Thị Quyên (2011), “Cơ sở pháp lý của hoạt động kiểm tra, giám sát
tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, tr 61.
30. Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi (2002), Giải pháp tăng cường năng lực các
cơ quan tư pháp địa phương trong việc giúp UBND các cấp xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đề tài khoa học, Lê
Công Hòa chủ nhiệm đề tài.
31. Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi (2010), Báo cáo kết quả thực hiện quy định
pháp luật về ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND giai đoạn
2005 - 2010.
32. Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi (2010), Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp.
33. Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi (2010), Báo cáo tình hình, kết quả thực hiện
rà soát đội ngũ công chức, viên chức Tư pháp trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
34. Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi (2012), Báo cáo tình hình kiểm tra, xử lý và
rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh
từ ngày 01/10/2011 đến ngày 31/12/2012.
35. Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi (2013), Báo cáo kết quả công tác kiểm tra,
xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên địa
bàn tỉnh trong thời gian từ ngày 01/01/2013 đến ngày 31/12/2013.
36. Sở Tư pháp Quảng Ngãi (2015), Báo cáo công tác tư pháp năm 2014 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2015.
37. Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi (2016), Báo cáo công tác tư pháp năm 2015
và phương hướng, nhiệm vụ năm 2016.
38. Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi (2017), Báo cáo về công tác tư pháp năm
2016 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2017.
39. Lê Hồng Sơn (2013), “Hành trình mười năm công tác kiểm tra, xử lý văn
bản quy phạm pháp luật”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 10, tr2.
40. Phạm Hồng Thái (2011), “Văn bản văn bản quy phạm pháp luật và pháp
luật về văn bản quy phạm pháp luật”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, tr. 3-9.
41. Từ điển Tiếng Việt (1992), Viện Khoa học và Xã hội Việt Nam, Trung
tâm từ điểm ngôn ngữ, Hà Nội.
42. Từ điển bách khoa Việt Nam (2002), Nhà xuất bản Từ điển Hà Nội, Hà Nội, tr 565.
43. Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 839.
44. Đoàn Thị Tố Uyên (2009), “Khái niệm văn bản QPPL nhìn từ góc độ lí
luận và thực tiễn”, Tạp chí luật học, tr. 55 – 61.
45. Đoàn Thị Tố Uyên (2011), “Pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10
(282), tr16.
46. Đoàn Thị Tố Uyên (2012), “Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp
luật của nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội
47. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2010), Báo cáo tổng kết viêc̣ thi hành Luâṭ Ban
hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 trên điạ bàn tỉnh
Quảng Ngaĩ.
48. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2013), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi.
49. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2013), Báo cáo tình hình công tác tư pháp năm 2013.
50. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo về đánh giá tình hình tổ chức bộ
máy và nhân lực làm công tác tư pháp, pháp chế.
51. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2012), Báo cáo về tình hình soạn thảo, ban
hành văn bản QPPL trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
52. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2007), Chỉ thị số 23/2007/CT-UBND ngày
28/9về việc củng cố tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của
Phòng Tư pháp các huyện, thành phố và Ban Tư pháp các xã,
phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
53. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2006), Quyết định số 3465/QĐ-UBND ngày
28/12/2006 về việc quy định tạm thời kinh phí hỗ trợ xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật.
54. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2007), Quyết định số 04/2007/QĐ-UBND ngày
19/01/2007 ban hành quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban
hành văn bản QPPL của UBND các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi.
55. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2010), Quyết định số 160/QĐ-UBND ngày 05/10
về việc phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt
động cho đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp Quảng Ngãi, giai đoạn
2010 – 2015.
56. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2012), Quyết định số 05/2012/QĐ-UBND ngày
19/03/2012 về việc bổ sung quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo,
ban hành văn bản QPPL của UBND các cấp trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi ban hành kèm theo Quyết định số 04/2007/QĐ-UBND
ngày 19/01/2007 của UBND tỉnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_kiem_tra_van_ban_quy_pham_phap_luat_cua_hoi_dong_nh.pdf