- Tỉnh cần có những chính sách ưu tiên phát triển như: Tiếp tục cho nông dân và
ngư dân vay vốn, điều chỉnh lại mức lãi xuất và thời gian cho vay để nông dân có thể đầu
tư trồng trọt các loại cây công nghiệp lâu năm, ngư dân có thể đóng mới các loại tàu đánh
bắt xa bờ, có phương án để điều chỉnh việc thu mua của tư nhân trong việc tiêu thụ sản
phẩm của bà con.
- Xây dựng các trung tâm dịch vụ phù hợp với từng địa bàn để cung ứng trực tiếp
các thiết bị vật tư, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và thủy sản
tránh qua nhiều khâu trung gian làm tăng giá cả và chất lượng dịch vụ kém.
87 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2842 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu tư mạnh cho công nghiệp
chế biến, xuất khẩu, hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng nghề cá tại Lộc An – Long Đất, Cảng Bến
Đầm – Côn Đảo; các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong các
ngành: Hải sản, Thương mại, Công nghiệp, Giao thông vận tải có trách nhiệm tổ chức tốt
các dich vụ hậu cần đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh hải sản, kiện toàn bộ máy lãnh
đạo ngành; phấn đấu đến năm 2005 đánh bắt được 170.000 tấn hải sản nuôi trồng đạt
5.000 tấn, giá trị hải sản chế biến xuất khẩu đạt 80 triệu USD tăng 2,5 lần so với năm
2000, và đến năm 2010 tăng 3 lần, xuất khẩu đạt 100 triệu USD.
Về nông nghiệp, lâm nghiệp: Để thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thì những công việc cần thiết trước
mắt là: Căn cứ vào các điều kiện thổ nhưỡng, để quy hoạch, xây dựng các vùng chuyên
canh tập trung vào sản xuất các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, có khả năng
cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu như: cao su, cà phê, tiêu v.v… khuyến khích
tạo điều kiện về chính sách thuế, vốn để phát triển kinh tế trang trại, đầu tư xây dựng công
nghiệp chế biến nông sản, áp dụng khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào
các khâu lai tạo giống cây trồng, vật nuôi có năng xuất cao, có khả năng kháng bệnh tốt;
thực hiện rộng rãi việc cơ giới hóa các khâu làm đất, thủy lợi, thu hoạch, tăng cường các
biện pháp khuyến nông; tăng cường đội ngũ cán bộ kỹ thuật nông nghiệp về các xã
phường thực hiện tốt việc sản xuất cung ứng giống và thức ăn gia súc, gia cầm có chất
lượng cao, thực hiện nghiêm các quy định về an toàn thực phẩm, tăng cường công tác tiếp
thị để mở rộng thị trường trong và ngoài nước như: thị trường châu Âu, Nhật, Mỹ v.v…
Khuyến khích nhân dân tiêu dùng các loại hàng hóa nông sản dưới nhiều hình thức, phát
triển các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất phục vụ sản xuất nông nghiệp như nông cụ, vật
liệu xây dựng các dich vụ nông nghiệp, ngư nghiệp, kết hợp giải quyết về nhu cầu việc làm
và từng bước cơ cấu lại lực lượng lao động theo hướng tăng dần tỷ lệ lao động trong công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn.
Đầu tư cải tạo và trồng mới ba loại rừng: rừng kinh tế, rừng phòng hộ và rừng đặc
dụng. Thực hiện tốt chính sách giao đất, giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình, tập thể, các
đơn vị quân đội, các tổ chức kinh tế theo chủ trương của Đảng và Nhà nước; tăng cường
đội ngũ kiểm lâm để bảo vệ có hiệu quả các nguồn tài nguyên rừng; tích cực phủ xanh đất
trống đồi núi trọc, thực hiện tốt mục tiêu 5 triệu ha của Đảng và Chính phủ, phấn đấu đến
năm 2005 toàn tỉnh sẽ nâng cao độ che phủ của cây xanh lên 45,7% tổng diện tích đất tự
nhiên (kể cả cây công nghiệp và cây ăn trái).
Về xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Đầu tư mạnh cho việc tăng
cường thiết bị công nghệ, chế biến các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, thực hiện ưu đãi về thuế
vốn cho vay để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển cơ
sở sản xuất hàng xuất khẩu, ra sức tìm kiếm mở rộng thị trường nước ngoài, tận dụng
những lợi thế có sẵn để " xuất khẩu tại chỗ" lao động và dịch vụ, tận dụng công xuất các
cảng để xuất - nhập, quá cảnh theo hợp đồng cho các nước xung quanh; chấn chỉnh công
tác hải quan, phấn đấu đến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu trong
5 năm (không kể dầu khí) đạt khoảng 760 triệu USD gấp 1,5 lần giai đoạn 1996 - 2000 và
mức tăng trung bình 16,63%/ năm. Tích cực cải thiện môi trường đầu tư đồng thời trong
phạm vi và quyền hạn cho phép tỉnh sẽ ra các quy định ưu đãi có sức thu hút đầu tư nước
ngoài nhiều hơn, kiểm tra lại những vướng mắc hiện nay mà các dự án đã được cấp giấy
phép không thực thi được, tìm ra biện pháp tháo gỡ nhanh chóng. Làm tốt việc dự báo và
thông tin kinh tế để có phương án kịp thời khai thác những lợi thế và ứng phó với những
khó khăn thử thách, chủ động trong việc hội nhập nền kinh tế thế giới.
Giúp đỡ về phương hướng kinh doanh thủ tục pháp lý, hoàn tất việc lập bản đồ địa
chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các thành phần kinh tế nhất là trong các
ngành nghề như: sửa chữa đóng tàu thuyền, làm hàng thủ công mỹ nghệ, trồng cây công
nghiệp, trồng và bảo vệ rừng, chăn nuôi sản xuất hải sản v.v… chủ động trong các hoạt
động của mình.
Hình thành và từng bước một số loại thị trường trên địa bàn tỉnh, như thị trường
hàng hóa và dịch vụ, thị trường sức lao đôùng, thị trường vốn, thị trường bất động sản.
Quản lý nhà nước về kinh tế phải bao quát được đầy đủ hơn hoạt động của các ngành, các
địa phương, các thành phần kinh tế trong tỉnh; tiếp tục đổi mới công tác quy hoạch, kế
hoạch, xây dựng các chương trình, mục tiêu, tính toán cụ thể đến các yếu tố cuả thị trường,
sử dụng đầy đủ các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước, giảm phiền hà trong thủ tục
hành chính để phát huy tác dụng tích cực, hạn chế tiêu cực trong cơ chế thị trường, đấu
tranh chống buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, những biểu hiện tiêu cực khác trong các
hoạt động kinh tế.
Trên cơ sở các nghị quyết về mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được đưa ra
trong Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam và các mục tiêu phát triển kinh tế chung
được đề ra trong văn kiện Đại hội lần thứ III Tỉnh Đảng bộ Bà Rịa - Vũng Tàu; để nâng
cao tỷ trọng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế ở địa phương từ 14,36% năm 2000 lên
17,4 - 18,7% năm 2010; điều cần thiết đặt ra cho các ngành các cấp trong tỉnh mà đặc biệt
là các ngành kinh doanh dịch vụ, phải xác định được những thuận lợi và khó khăn từ đó
đưa ra những giải pháp có tính khả thi để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của kinh tế dịch
vụ.
3.2. một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế dịch vụ trên địa bàn
tỉnh bà rịa - vũng tàu
3.2.1. Ưu tiên phát triển các dịch vụ cho công nghiệp dầu khí
Bà Rịa - Vũng Tàu là tỉnh duy nhất trong cả nước có hoạt động khai thác dầu khí
và các hoạt động khai thác dầu khí ngày càng có hiệu quả với tốc độ phát triển cao. Ngoài
việc khai thác dầu tại các mỏ Bạch Hổ, mỏ Rồng, Đại Hùng và hiện tại đang đi vào khai
thác các mỏ Lan Tây, Lan đỏ, Ru bi, và tiếp tục tìm kiếm các mỏ mới. Như đã đề cập ở
phần đầu cứ một hợp đồng khai thác dầu khí thì có trên 50% là các chi phí cho hoạt động
dịch vụ. Như vậy để phục vụ cho các hoạt động khai thác dầu khí yêu cầu một khối lượng
công tác dịch vụ rất lớn với chi phí lên tới hàng tỷ USD, đây là thị trường không nhỏ để
phát triển dịch vụ của địa phương. Nếu biết cách tổ chức thực hiện và biết đầu tư hợp lý thì
hoạt động dịch vụ dầu khí không chỉ đem lại nguồn ngân sách lớn mà còn thu hút tạo việc
làm cho một số lớn lao động của địa phương, đồng thời sẽ kéo theo sự phát triển của các
ngành kinh tế khác như: công nghiệp, giao thông vận tải v.v… làm thay đổi diện mạo của
địa phương.
Xuất phát từ "lợi thế tại chỗ " của một tỉnh có dầu khí. Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ trước tới nay đã dành mọi ưu tiên cho ngành sản xuất dầu khí với
khẩu hiệu "tất cả cho sự nghiệp dầu khí" [32], phát triển ngành dịch vụ công nghiệp dầu khí
trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong
tỉnh.
Tháng 5/1993 tại thành phố Hồ Chí Minh nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chủ
trì một cuộc họp về việc mở rộng công tác dịch vụ dầu khí, tại cuộc họp trước các ngành,
Thủ tướng đã khẳng định là phải động viên toàn bộ tiềm năng và lợi thế sãn có trong nước
để mở rộng khả năng phục vụ ngành dầu khí; các hướng được đặt ra và mở rộng và nâng
cao năng lực sửa chữa tàu thuyền, sửa chữa và lắp ráp các công trình dầu khí, phát triển
mạnh công nghiệp cơ khí; tham gia các quy trình bảo dưỡng, phục hồi các thiết bị khai
thác dầu khí, phucù vụ đời sống trên các công trình biển v.v... Và trong bài phát biểu của
Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm tại Đại hội lần thứ III tỉnh Đảng bộ đã nhấn mạnh Bà
Rịa – Vũng Tàu cần: "Khai thác lợi thế về địa lý, về vị trí để mở rộng các loại hình dịch vụ
như dịch vụ vận tải, dịch vụ phục vụ các khu công nghiệp mà đặc biệt là dịch vụ dầu khí"
[32]. Mục tiêu của ngành dịch vụ dầu khí đã được thông qua trong văn kiện Đại hội lần thứ
III của tỉnh Đảng bộ là đến năm 2000 mức doanh thu từ dịch vụ dầu khí đạt 4.000 tỷ đồng
và tổng doanh thu từ năm 2001 – 2005 là 15050 tỷ đồng, tốc độ tăng trung bình 16,6%/
năm. Dự kiến đến năm 2010 nâng tỷ lệ doanh thu về dịch vụ kỹ thuật lên 15% đến 17% và
dịch vụ đời sống từ 17% đến 19% trong tổng doanh thu dịch vụ dầu khí trên địa bàn tỉnh.
Xuất phát từ cơ sở trên với khả năng đầu tư vào ngành dịch vụ dầu khí cần áp
dụng một số giải pháp cụ thể như sau:
Đối với dịch vụ sửa chữa tàu thuyền: Hiện nay tuổi của các con tàu phục vụ dầu
khí ngày càng lớn, do đó nhu cầu sửa chữa, bảo dưỡng ngày càng nhiều hơn, do vị trí có ba
mặt giáp biển nên thành phố Vũng Tàu có đủ khả năng để phát triển loại hình dịch vụ này.
Tuy nhiên, để có thể thực hiện được cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng do đó chính quyền
tỉnh một mặt sẽ mạnh dạn đầu tư vào xây dựng các hạng mục công trình như: cảng, ụ tàu,
các phụ tùng thay thế, mặt khác tìm các đối tác để liên doanh, liên kết nhằm xây dựng các
hạng mục công trình quan trọng yêu cầu có vốn đầu tư lớn. Trước mắt, lên phương án đầu
tư hợp lý để có thể tham gia sửa chữa các loại tàu nhỏ (các loại tàu dịch vụ dầu khí lớn
hiện đại chủ yếu sửa chữa ở thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng kể cả ở Singapo…). ủy
ban nhân dân tỉnh chỉ đạo cho các Sở, Ngành có liên quan lập dự án khả thi để kêu gọi đầu
tư đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để trong những năm tới có thể
đảm nhận sửa chữa các loại tầu với yêu cầu, kỹ thuật và công nghệ phức tạp. Để có thể
mang lại hiệu quả lớn hơn cần chú ý đến việc phát triển công nghệ sửa chữa tàu có trọng
lượng và kích cỡ lớn như: tàu cẩu, tàu dầu, giàn tự nâng để đảm bảo sửa chữa hết các loại
tàu của Vietsovpetro, BHP, Petronas, JVPC v.v… Hiện tại công ty đóng tàu và dịch vụ dầu
khí đã được nhà nước cho vay vốn để đầu tư xây dựng một ụ tàu 3.000 tấn và đã có sự thỏa
thuận về hợp tác với các tổ chức kinh tế của CHLB Nga và họ sẵn sàng góp vốn ban đầu
khoảng 2,5 triệu USD cho đầu tư cơ sở sửa chữa và đóng tàu tại Bà Rịa – Vũng Tàu.
Xây dựng căn cứ dịch vụ trên bờ: Nhằm đáp ứng các yêu cầu hoạt động dầu khí
ngoài khơi với những hoạt động như dịch vụ cho thuê bến cảng, kho bãi, phương tiện bốc
xếp, trụ sở điều hành ngoài khơi v.v… những công việc này địa phương hoàn toàn có thể
đầu tư và quản lý. Thực tế trong thời gian qua cho thấy cảng dịch vụ dầu khí do công ty
dịch vụ kỹ thuật dầu khí quản lý chỉ đơn thuần dịch vụ căn cứ cho thuê bến cảng, kho bãi
và trong quá trình hoạt động đều gắn chặt quản lý nhà nước của địa phương như: thủ tục
hải quan, kiểm dịch, an ninh, thuế v.v… Như vậy nếu hoạt động này được địa phương trực
tiếp sử dụng và quản lý thì sẽ có hiệu quả cao hơn. Do vậy, để xây dựng căn cứ dịch vụ
trên bờ, tỉnh cần phải xúc tiến: 1- Nhanh chóng đầu tư phát triển căn cứ dịch vụ dầu khí
trên bờ ở khu công nghiệp Đông Xuyên, Phước Thắng, Long Sơn; trên cơ sở tốc độ phát
triển của khai thác dầu khí; trước mắt xem xét chuyển cảng Cát Lở thành cảng dịch vụ dầu
khí cùng cảng thương mại đê khai thác tối đa công xuất cảng. 2- Có thể nghiên cứu đề xuất
với Chính phủ để Petro Việt Nam bàn giao 450 m cảng hạ lưu cảng dầu khí hiện nay cho
địa phương để tập trung quản lý và khai thác. Đây là đề xuất hoàn toàn hợp lý và cần thiết để
Bà Rịa - Vũng Tàu có cơ sở phát triển ngành công nghiệp dịch vụ dầu khí.
Đối với các hoạt động sửa chữa, bảo dưỡng phương tiện thiết bị dầu khí: đây là
những công việc hết sức thường xuyên của các công ty dầu khí, mà nhất là trong điều kiện
khí hậu vùng biển nước ta thì nhu cầu sửa chữa, bảo dưỡng lại càng lớn. Trước mắt địa
phương có kế hoạch đảm nhận công việc bảo dưỡng phần trên mặt nước của các giàn
khoan (phía dưới do thiết bị và công nghệ cao, phức tạp chưa thể đảm nhận được) nội dung
công việc chủ yếu sử dụng lực lượng lao động phổ thông để cạo rỉ, sơn quét các khối chân
đế giàn khoan và một phần sử dụng lực lượng thợ hàn thay thế một số thanh giằng của
giàn do lâu ngày bị nước biển ăn mòn. Ngoài dịch vụ bảo dưỡng giàn khoan còn tham gia
thực hiện các dịch vụ súc rửa tàu dầu, bảo dưỡng các tàu dịch vụ, xây dựng một số cơ sở
xử lý có thiết bị và công nghệ cao để vừa có hiệu quả kinh tế vừa đảm bảo môi trường sinh
thái; tham gia một cách có hiệu quả vào các hoạt động dịch vụ cung cấp vật tư như:
ximăng, sắt, thép hóa phẩm các loại, phát triển ngành may mặc để cung ứng các loại trang
bị bảo hộ lao động, cung ứng các sản phẩm phục vụ sinh hoạt, trang thiết bị văn phòng và
các loại nhiên liệu xăng dầu, mỡ nhớt v.v...
Phát triển dịch vụ pha chế các loại hóa phẩm phục vụ cho công tác khoan dầu và
xử lý dầu. Việc xây dựng các nhà máy chế biến các loại hóa phẩm đòi hỏi vốn lớn, trình độ
khoa học công nghệ cao, do đó trước mắt địa phương chỉ đầu tư phù hợp với điều kiện của
mình để mua chất xám và công thức pha chế để thực hiện việc pha trộn ở Việt Nam theo
nhu cầu của từng loại hóa phẩm là mang lại hiệu quả nhất.
Tổ chức và thực hiện có hiệu quả hơn nữa việc cung ứng điện, nước sinh hoạt, các
dịch vụ thông tin liên lạc, các dịch vụ về nhà ở, nhà nghỉ, văn phòng làm việc tại địa
phương cho ngành dầu khí.
Đối với các hoạt động dịch vụ phục vụ sinh hoạt đời sống như: cung cấp các loại
lương thực, thực phẩm, các hoạt động du lịch dầu khí, nhà hàng, khách sạn v.v... Đây là
những công việc rất lớn và là những lợi thế của địa phương, do đó Sở Thương mại, Sở
Công nghiệp, Nông nghiệp, Thủy sản, Du lịch … phải chú trọng phát triển loại dịch vụ
này, tăng cường đầu tư để đảm bảo dịch vụ có chất lượng đáp ứng yêu cầu đời sống của
khách hàng. Hiện tại để phục vụ cho trên 2.000 người thường xuyên làm việc trên biển
(khoảng 750 ngàn xuất ăn/ năm) thì hàng năm cần tới 125 tấn thịt heo, 25 tấn thịt bò, 150
tấn thịt gà, 35 tấn cá và khoảng 1.000 tấn rau quả các loại. Với địa thế thuận lợi nếu Bà Rịa
– Vũng Tàu chiếm được 50% khối lượng dịch vụ này thì có thể phát triển các vùng chuyên
canh nông sản, sản xuất rau, quả sạch và vật nuôi phát triển công nghiệp chế biến nông sản
để sản xuất các sản phẩm hoặc bán thành phẩm cho tiêu dùng và sinh hoạt đem lại nguồn
lợi lớn cho địa phương. Tỉnh cần có kế hoạch hình thành công ty chuyên ngành phục vụ
đời sống trên các công trình biển, tiếp tục sử dụng ngân sách của địa phương để xây dựng
các khu vui chơi giải trí, nhà nghỉ cho cán bộ công nhân ngành dầu khí, nhất là cho chuyên
gia nước ngoài; đối với những người có thu nhập cao và chuyên gia nước ngoài thì nhu cầu
vui chơi giải trí, du lịch không ngừng nâng cao do đó cần tổ chức thực hiện các dịch vụ du
lịch đường dài đến các địa danh trong nước kể cả ra nước ngoài.
Mặc dù hiện nay Bà Rịa - Vũng Tàu chưa có lực lượng đủ mạnh để tham gia đấu
thầu tất cả mọi lĩnh vực hoạt động dịch vụ dầu khí. Tuy nhiên, chính quyền địa phương
cần có những can thiệp nhất định với Petro Việt Nam, với Chính phủ để có ưu tiên phát
triển những dịch vụ mà địa phương có thể đảm nhận được, làm tiền đề xây dựng cơ sở vật
chất cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho địa phương. Với những giải pháp
chủ yếu kể trên nếu thực hiện được thì trong thời gian tới tỷ lệ dịch vụ dầu khí của tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu sẽ được cải thiện đáng kể đem lại nguồn thu ngân sách lớn cho tỉnh.
3.2.2. Các giải pháp phát triển dịch vụ thủy sản
Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam là: "Phát
huy lợi thế về thủy sản, tạo thành ngành kinh tế mũi nhọn… Tăng cường năng lực và nâng
cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ; nâng cao năng lực quản lý, chế biến sản phẩm đáp
ứng yêu cầu thị trường quốc tế và trong nước. Mở rộng và nâng cấp các cơ sở hạ tầng, dịch
vụ nghề cá" [11]. Và để đạt mục tiêu đến năm 2005 tổng giá trị thủy sản giai đoạn 2001 –
2005 (theo giá hiện hành) là 6900 tỷ đồng và giá trị hải sản chế biến xuất khẩu đạt 80 triệu
USD vào năm 2005. ngành thủy sản Bà Rịa - Vũng Tàu kết hợp với các Sở Công nghiệp,
Thương mại, Kế hoạch đầu tư... đưa ra các biện pháp để phát triển các lĩnh vực nuôi trồng,
đánh bắt thủy sản làm cơ sở cho phát triển dịch vụ thủy sản.
Phát triển mạnh đội tàu khai thác xa bờ bằng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của nhà
nước và vốn tự có trong dân, dự kiến giai đoạn 2001 - 2005 mỗi năm đóng mới được 80 -
100 tàu đánh bắt xa bờ, du nhập một số hình thức đánh bắt, nuôi trồng thủy sản mới của
nước ngoài. Trong 5 năm sẽ đóng mới từ 3 - 5 tàu dịch vụ hậu cần nghề cá vùng khơi để
làm nhiệm vụ thu mua, bảo quản hải sản, tổ chức các dịch vụ hậu cần nghề cá ngay trên
biển. Đồng thời hỗ trợ ngư dân thí điểm đầu tư máy sản xuất nước đá trên tàu nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm khai thác.
Thực hiện tốt công tác khảo sát thiết kế và tư vấn để các dự án nuôi trồng thủy sản
có thể đi vào hoạt động một cách có hiệu quả, trước mắt là thiết kế, khảo sát chính xác 326
ha vùng nuôi tôm công nghiệp ở Lộc An, 200 ha khu vực Lộc An - Láng Dài, 1.000 ha ở
xã Long Hương thị xã Bà Rịa, 150 ha khu bàu sen ven sông Ray huyện Châu Đức, xây
dựng một nhà máy chế biến thức ăn cung cấp cho tôm công suất 3.000 tấn/ năm tại Tân
Thành, đầu tư và hỗ trợ về kỹ thuật thâm canh nhằm nâng cao năng suất cung cấp đủ
nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu.
Hàng năm ngành thủy sản sẽ chọn từ 2-3 hộ ngư dân thực hiện việc lập mô hình
trình diễn kỹ thuật nuôi, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật cho tất cả các loại thủy sản
nhằm nhân rộng mô hình cho bà con ngư dân.
Phối hợp với các đơn vị cho vay nhằm hỗ trợ vốn vay tín dụng nhà nước ưu đãi
cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu để đầu tư nâng cấp các điều kiện sản
xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn ngành.
Hoàn thiện và đưa vào sử dụng nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu tại Bà Rịa
theo tiêu chuẩn châu Âu, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng và đưa vào sử dụng thêm hai
nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu ở Lộc An, Phước Hòa, công suất 9.000 tấn thành
phẩm/ năm với vốn đầu tư 110 tỷ đồng vào năm 2005. Để đảm bảo cho nhà máy có
nguyên liệu hoạt động thường xuyên, các sở, ban, ngành, nhất là ngành ngân hàng đầu tư
phát triển cần xây dựng đề án hỗ trợ về vốn và kỹ thuật cho đánh bắt, nuôi trồng và chế
biến thủy sản.
Xây dựng các trung tâm dịch vụ cung ứng các loại dịch vụ phương tiện như tàu,
thuyền, ghe, lưới v.v... các loại vật tư như: Xăng, dầu, nước đá... các loại lương thực, thực
phẩm, nước ngọt v.v… Và có kế hoạch để điều chỉnh các hoạt động đánh bắt, quản lý khai
thác của ngư dân; xây dựng hệ thống thông tin toàn ngành, trong đó chú trọng thông tin
thương mại, thông tin về nguồn lợi, môi trường, thông tin về thời tiết khí hậu v.v...
Ngoài nguồn vốn địa phương, để có nguồn vốn đáp ứng cho các chương trình kinh
tế kể trên, ngành thủy sản cần huy động tối đa các nguồn vốn trong dân, đồng thời tìm mọi
biện pháp để thu hút vốn của Ngân hàng phát triển châu á (ADB), vốn ODA và các tổ chức
phi chính phủ khác, phối hợp với Viện Kinh tế và Kế hoạch của Bộ Thủy sản để xây dựng
quy hoạch tổng thể ngành thủy sản từ nay đến 2010, khảo sát và đánh giá các mô hình nuôi
trồng thủy sản.
Xây dựng các đề án phục vụ đánh bắt, nuôi trồng, bảo quản và chế biến các loại
hải sản sau khi thu hoạch.
Tiếp tục cụ thể hóa các chính sách của Đảng, Nhà nước và của địa phương nhằm
phục vụ cho ngành thủy sản.
Các Sở, Ngành cần chủ động quan hệ hợp tác và thương mại quốc tế với các công
ty, các tổ chức quốc tế nhằm tạo vốn, kỹ thuật công nghệ mới phục vụ cho việc nâng cấp
và xây dựng mới các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ hậu cần thủy sản.
Tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ chủ quản và địa phương để đẩy mạnh sự hợp tác
với các nước trong khu vực và thế giới trong việc đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật cho
ngành thủy sản. Đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo để tìm kiếm thị trường trong và ngoài
nước. ổn định và từng bước mở rộng thị trường châu á như: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc v.v... Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường châu Âu (EU) và thị trường Mỹ.
Tăng cường công tác khuyến ngư, bảo vệ các nguồn lợi thủy sản và phòng chống
lụt bão, duy trì thường xuyên công tác an ninh quốc phòng nhằm bảo vệ an toàn sự xâm
phạm về nguồn lợi thủy - hải sản.
Các biện pháp cơ bản trên đây vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược
lâu dài để phát triển ngành thủy sản và là cơ sở quan trọng cho sự tồn tại và phát triển
ngành dịch vụ thủy sản trong tương lai của Bà Rịa - Vũng Tàu.
3.2.3. Các giải pháp chủ yếu phát triển dịch vụ du lịch
Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi rõ:
"Phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống
văn hóa, lich sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế sớm
đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành
các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước" [11, tr. 178-179]. Để
thực hiện mục tiêu phát triển ngành du lịch và dich vụ du lịch đến năm 2005 do Đại hội
tỉnh Đảng bộ lần thứ III đề ra là đến năm 2005 dịch vụ du lịch đạt 800 tỷ đồng và tổng giá
trị dịch vụ du lịch từ 2001 - 2005 là 3.245 tỷ đồng, tốc độ tăng trung bình năm là khoảng
10,9%. "Ra sức nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch. Hướng chính là khai thác triệt để
điều kiện tự nhiên (biển, rừng, núi), đồng thời đầu tư hiện đại hóa dần các trọng điểm du
lịch (bao gồm các hải đảo) … Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, gắn phát triển du lịch sinh
thái với du lịch lịch sử, du lịch văn hóa, gắn nghỉ ngơi với vui chơi giải trí" [32]. Do đó
cần có những giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất: Tập trung mọi nguồn vốn trước hết là ngân sách nhà nước đầu tư
cho các chương trình trọng điểm nhằm phát triển du lịch
Tỉnh cần sử dụng nguồn ngân sách tập trung để đầu tư vào công tác quy hoạch du
lịch, xây dựng cơ sở hạ tầng trọng yếu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư trong
các khu du lịch đã được quy hoạch.
Các dự án quy hoạch du lịch đến 2005 – 2010 bao gồm:
+ Khu du lịch thác Hòa Bình huyện Xuyên Mộc
+ Khu du lịch Láng Dài huyện Long Đất
+ Điều chỉnh quy hoạch chi tiết khu du lịch Chí Linh - Cửa Lấp thành phố Vũng
Tàu.
+ Khu du lịch Cỏ ống huyện Côn Đảo.
Các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch.
+ Hai cầu tàu du lịch tại hai khu du lịch quy mô quốc gia là: khu du lịch Hoa Anh
Đào huyện Long đất; khu du lịch Côn Đảo huyện Côn Đảo: tổng số vốn 49,6 tỷ đồng.
+ Cáp treo Núi Lớn – Núi Nhỏ (phần hạ tầng kỹ thuật) 63,8 tỷ đồng.
+ Khu du lịch bãi tắm Thùy Vân: 30 tỷ đồng
+ Hạ tầng khu công viên công cộng Bãi Trước 14,59 tỷ đồng.
+ Hạ tầng khu du lịch Núi Dinh 26,6 tỷ đồng.
+ Đường du lịch trung tâm thị trấn Long Hải 28,5 tỷ đồng
Các chương trình lớn của ngành du lịch:
+ Chương trình phát triển mạng lưới tuyên truyền, quảng bá toàn ngành.
+ Dự án công nghệ thông tin ngành du lịch.
Thứ hai: Về cơ chế đầu tư
Sở Kế hoạch - Đầu tư đề xuất, quy định chi tiết chính sách ưu đãi đầu tư du lịch
trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, về giá cả và thủ tục thuê đất, các loại thuế trên cơ sở
quy định của pháp luật hiện hành, đảm bảo nguyên tắc dễ thực hiện, thủ tục hành chính
đơn giản thuận tiện cho các nhà đầu tư nhằm thu hút mạnh vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Đối với các dự án do các nhà đầu tư ngoài tỉnh xin đầu tư ở Chí Linh, Cửa Lấp, Núi Dinh,
Sông Lô, Bình Châu … Các ban ngành hữu quan bao gồm Sở Kế hoạch - Đầu tư, Xây
dựng, Du lịch, Địa chính, Nông nghiệp và phát triển nông thôn; trong phạm vi trách nhiệm
của mình cần giải quyết thủ tục đất đai để các nhà đầu tư sớm triển khai dự án, ngành địa
chính và nông nghiệp phát triển nông thôn tham mưu cho ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp
với các Bộ,Ngành chức năng sớm giải quyết các vướng mắc trong việc sử dụng đất rừng
phòng hộ, rừng đặc dụng vào xây dựng các công trình du lịch.
Sở Kế hoạch - Đầu tư cần hoàn tất để trình ủy ban nhân dân tỉnh quy định thống
nhất trong việc phối hợp quản lý dự án du lịch ngay từ khâu thỏa thuậnn địa điểm. Những
dự án du lịch có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động kém hiệu quả sẽ thành lập tổ công tác
liên ngành của tỉnh kiểm tra tình hình hoạt động, kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư giải
quyết dứt điểm từng trường hợp nhằm làm lành mạnh hóa môi trường đầu tư của tỉnh.
Thứ ba: Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch
Ngành du lịch tham khảo hướng dẫn của Tổng cục Du lịch, xây dựng quy định tiêu
chuẩn, trình độ đối với các chức danh trong các cơ sở kinh doanh nhằm chuẩn hóa đội ngũ
cán bộ, công nhân viên ngành du lịch. Trước mắt tổ chức một lớp đào tạo ngắn hạn nghiệp
vụ khách sạn cho các doanh nghiệp. Phối hợp với ngành văn hóa thông tin mở 1- 2 lớp bồi
dưỡng trình độ kiến thức lịch sử cho cán bộ làm công tác thuyết minh tại các di tích lịch
sử, các điểm tham quan. Xây dựng đề án đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên trong toàn
ngành giai đoạn 2001 - 2005 phối hợp với Tổng cục Du lịch, các trường đào tạo nghiệp vụ
du lịch tổ chức các khóa đào tạo dài hạn đội ngũ cán bộ quản lý nhân viên kỹ thuật có tay
nghề cao, ngoại ngữ giỏi để kịp thời đáp ứng nguồn nhân lực trong những năm tới.
Thứ tư: Cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội để phát triển du lịch
Ngành du lịch phối hợp với các ngành, địa phương xây dựng mô hình quản lý vệ
sinh môi trường và giữ gìn trật tự anh ninh theo hình thức đóng góp kinh phí của các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Ngành lao động, thương binh và xã hội phối hợp
với công an tỉnh, huyện, thị lập phương án thu gom các đối tượng ăn xin, các tệ nạn xã hội
có biện pháp phù hợp để xử lý các đối tượng này, Ngành thương mại phố hợp ngành Du
lịch lên phương án bố trí các hộ bán hàng rong vào điểm tập trung, tổ chức bán các mặt
hàng lưu niệm tại các điểm du lịch, giải tỏa di dời các hộ dân, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh dọc theo bãi biển vào phía trong tuyến đường ven biển để tạo cảnh quan du lịch.
Ngành Văn hóa thông tin có kế hoạch trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử làm tốt công tác
bảo tồn kết hợp phục vụ du lịch. Các địa phương tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong dân
cư về nếp sống văn minh, nét đẹp văn hóa, văn minh du lịch v.v... tạo ấn tượng tốt đẹp cho
du khách đến tham quan du lịch tại tỉnh.
Thư năm: Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước về du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, do
đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch là nâng cao nhận thức trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước, các đoàn thể chính trị trong sự nghiệp phát triển du lịch, giữ
gìn môi trường tự nhiên, xã hội trong sạch, giáo dục nhân dân ý thức văn minh du lịch,
quản lý đất đai quy hoạch du lịch… Chủ động đề xuất và tổ chức thực hiện các giải pháp
phát triển du lịch tại địa phương.
Sở Du lịch làm đầu mối thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với Tổng cục Du
lịch và các tỉnh bạn, gắn kết quy hoạch phát triển của tỉnh với quy hoạch phát triển du lịch
của vùng Đông Nam Bộ thể hiện qua việc triển khai các dự án du lịch, các loại hình du
lịch.
Ban hành quy chế làm việc giữa cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp
nhà nước, trung ương và địa phương, phân định rõ chức năng quyền hạn của Sở, phạm vi
trách nhiệm của doanh nghiệp trong các mặt: xây dựng chiến lược phát triển toàn ngành,
các chỉ tiêu kế hoạch, nhân sự, tuyên truyền, quảng bá... Sở Du lịch thành lập tổ chức
thanh tra du lịch theo quy định và hướng dẫn của Tổng cục Du lịch. Chuyển trung tâm tư
vấn đầu tư phát triển du lịch thành "Trung tâm xúc tiến du lịch" có chức năng nghiên cứu,
tư vấn, đầu tư và xúc tiến các hoạt động du lịch.
Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy quản lý các bãi tắm công cộng, đề xuất phương
án sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước về du lịch theo hướng sát nhập, cổ phần hóa
nhằm nâng cao sức canh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong kinh doanh du lịch.
Ngành du lịch phối hợp với ngành tư pháp, địa chính, xây dựng, nông nghiệp, tổ
chức chính quyền, và chính quyền các huyện đề xuất ủy ban nhân dân tỉnh cải cách thủ tục
hành chính để đầu tư kinh doanh du lịch, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và du khách
tham gia du lịch.
Thứ sáu: Tuyên truyền, quảng bá du lịch
Trên thế giới nhiều nước có tiềm năng về du lịch đã không ngần ngại đầu tư khoản
kinh phí lớn để phục vụ công tác tuyên truyền, quảng bá dưới nhiều hình thức, trong nước
và thế giới. Do vậy ngành du lịch cần xúc tiến hoàn thành các chương trình hướng dẫn du
lịch, xây dựng đĩa CD-ROM, hệ thống Panô, tuyên truyền cho hoạt động. Phối hợp với
ngành khoa học, công nghệ và môi trường nghiên cứu lập trang Web-site du lịch Bà Rịa -
Vũng Tàu.
Xây dựng chương trình tuyên truyền, quảng bá du lịch giai đoạn 2001 - 2005 gồm
các công tác như: Xây dựng cơ sở dữ liệu du lịch, cung cập thông tin cho các báo, đài
trung ương và địa phương. Tham gia hội chợ du lịch định kỳ do Tổng cục Du lịch tổ chức,
tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao thu hút khách du lich trong các lễ
hội; thực hiện các ấn phẩm du lịch, phối hợp với các tỉnh bạn tổ chức các hội thảo, hội chợ
triển lãm về du lịch tại Vũng Tàu.
3.2.4. Một số giải pháp để phát triển các dịch vụ cho nông nghiệp trong giai
đoạn 2001 – 2010
Trên cơ sở định hướng phát triển ngành nông nghiệp và nông thôn được ghi trong
Văn kiện Đại hội IX của Đảng:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị
trường, và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dich cơ cấu ngành, nghề,
cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn. Chú trọng
điện khí hóa, cơ giới hóa ở nông thôn; phát triển mạnh công nghiệp chế biến
gắn với vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia công và
dịch vụ; liên kết nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ trên từng địa bàn của cả
nước... Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Hình thành các
khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng
nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Chuyển một phần doanh
nghiệp gia công (may mặc, da giày) và chế biến nông sản ở thành phố về nông
thôn. Có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào
phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn [11, tr. 168-172].
Thứ nhất, về dịch vụ cung cấp giống. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần
thực hiện việc rà soát lại toàn bộ các cơ sở kinh doanh dịch vụ nông nghiệp trong toàn
tỉnh, trước hết là các cơ sở trực thuộc Sở quản lý để có kế hoạch xây dựng hoăùc thay đổi
một số cơ sở kinh doanh dịch vụ theo những địa bàn phù hợp với đối tượng phục vụ. Đồng
thời Trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp của tỉnh lên kế hoạch tổ chức sắp xếp lại
mạng lưới kinh doanh dịch vụ ở các đơn vị cấp huyện, xã, giao cho Phòng Nông nghiệp
huyện phố hợp với các Ban Nông nghiệp cấp xã, phường để thực hiện việc cung cấp các
loại giống cây trồng, vật nuôi, các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, kiểm dịch, thú y một cách
đồng bộ chặt chẽ từ trên xuống; các cá nhân, hộ gia đình có thể nhận đại lý một số vật tư,
thiết bị thuốc trừ sâu, thuốc thú y v.v… phục vụ nông nghiệp cho cấp huyện dưới sự giám
sát và quản lý chặt chẽ của cơ quan chủ quản.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn liên kết với Trung tâm nghiên cứu giống
cây trồng miền Nam (trên địa bàn tỉnh) và các Trung tâm giống cây trồng, vật nuôi ở các
địa phương khác để cung ứng trực tiếp các loại giống cây trồng vật nuôi theo đơn đặt hàng
của nông dân, đảm bảo số lượng, chất lượng, uy tín và thời gian sản xuất; khắc phục hiện
tượng nông dân tự phát đi mua các loại giống cây trồng vật nuôi kém chất lượng, tình
trạng này đã xảy ra ở nhiều nơi trong tỉnh cũng như các địa phương khác trong cả nước.
Các cơ quan chức năng kiên quyết xử lý và xóa bỏ các cơ sở kinh doanh các loại
giống cây trồng, vật nuôi không có nguồn gốc xuất xứ rõ rằng, không có giấy phép đăng
ký kinh doanh. Đặc biệt là các cá nhân, hộ gia đình buôn bán các loại thuốc trừ sâu, thuốc
thú y, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích, các loại thức ăn gia súc, gia cầm… Hiện nay
mạng lưới dịch vụ này các cơ quan chức năng trong tỉnh không kiểm soát hết.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Phòng nông nghiệp các
huyện hoàn thành đề án xây dựng một số trung tâm dịch vụ nông nghiệp ở các huyện có tỷ
lệ nông nghiệp cao như: Long Đất, Xuyên Mộc, Châu Đức, Tân Thành; để cung ứng các
loại thiết bị kỹ thuật, các loại vật tư, giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng đủ số lượng…
Hướng dẫn bà con nông dân cách trồng trọt, chăn nuôi, chăm sóc, thu hoạch bảo quản các
loại nông sản.
Trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp có thể kết hợp với một số địa phương
trong tỉnh, chọn một số điểm để trình diễn các loại giống cây trồng, vật nuôi có năng xuất
cao. Có kế hoạch trang bị cho nông dân những kiến thức tối thiểu về kỹ thuật nông nghiệp;
cần theo dõi chặt chẽ và đánh giá kịp thời quá trình sản xuất của nông dân để có biện pháp
đối phó, giải quyết khi có sự cố xảy ra.
Để thực hiện được hàng loạt công việc phục vụ trong lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh dịch vụ và quản lý nông nghiệp, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ kỹ
thuật, có tay nghề cao, do đó phải có kế hoạch tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán
bộ có trình độ chuyên môn, phải có đủ số lượng, chất lượng để thực hiện đồng bộ thường
xuyên trên địa bàn toàn tỉnh. Hiện nay đội ngũ cán bộ trong ngành nông nghiệp của tỉnh
còn thiếu và yếu, nên rất khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ của ngành nông
nghiệp và đảm nhận các hoạt động kinh doanh dịch vụ nông nghiệp trong tỉnh.
Thứ hai, xây dựng một mạng lưới thu mua, bao tiêu các loại nông sản cho nông
dân khi thu hoạch, đặc biệt là trong những thời điểm thu hoạch đại trà, tránh tình trạng tư
nhân ép giá; đảm bảo cho bà con yên tâm trong quá trình sản xuất, xây dựng hệ thống kho
chứa và áp dụng các biện pháp bảo quản hiện đại cho các loại nông sản sau khi thu hoạch.
Mặt khác tạo ra cơ chế hợp lý khuyến khích nông dân tiêu thụ sản phẩm, tích cực tìm kiếm
và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Nhằm bảo vệ quyền lợi của người nông dân và an toàn lương thực, thực phẩm,
chính quyền địa phương cần tiến hành các đợt kiểm tra và xử lý nạn hàng giả trong dịch vụ
sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, thức ăn gia súc, gia cầm và
máy móc nông nghiệp.
Ngoài ra, để phát triển tốt ngành dịch vụ nông nghiệp ở nông thôn, tỉnh cần có các
chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển các ngành thủ công mỹ nghệ ở nông
thôn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ
khách tham quan du lịch; có thể giải quyết được số đông lao động và tận dụng được nhiều
loại nguyên liệu tại chỗ, nâng cao thu nhập cải thiện đời sống nông dân. Tham khảo kinh
nghiệm cvủa một số địa phương trong nước làm rất tốt công việc này như: Hà Tây, Bắc
Ninh, Nam Định…
Thứ ba, địa phương cần có những chủ trương, chính sách đồng bộ trên tinh thần
khuyến khích mọi người, mọi thành phần kinh tế cùng tham gia các hoạt động kinh doanh
dịch vụ nông nghiệp góp phần phát triển nông thôn.
Trên đây là những giải pháp cơ bản để phát triển một số ngành dịch vụ trọng yếu
trong lĩnh vực kinh tế dịch vụ của địa phương. Có thể nói, đây là những ngành kinh tế dịch
vụ mũi nhọn có tính quyết định đến toàn bộ tỷ trọng của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh
tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngoài ra tỉnh cần phải có những giải pháp khác phối hợp
với các ngành ở Trung ương để phát triển một số ngành dịch vụ như: Xây dựng hệ thống
giao thông vận tải: đường không, đường biển, đường bộ, đường sắt v.v…; đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất để phát triển các ngành dịch vụ bưu chính viễn thông, bảo hiểm, thương mại,
dịch vụ y tế, giáo dục v.v… nhằm đưa kinh tế dịch vụ lên một bước phát triển cao hơn
trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
KếT LUậN
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đất nước trong mấy thập niên gần
đây, kết hợp với nghiên cứu những bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế của nhiều
nước trong khu vực và thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những mục tiêu, chiến lược
và các giải pháp để nhanh chóng thúc đẩy phát triển kinh tế dịch vụ đưa kinh tế dịch vụ lên
chiếm vị trí xứng đáng trong cơ cấu kinh tế của đất nước. Thực tế cho thấy, phát triển kinh
tế dịch vụ không chỉ đem lại nguồn ngân sách cho quốc gia mà còn góp phần quan trọng
giải quyết các vấn đề xã hội như: giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp, nâng cao thu nhập,
nâng cao đời sống nhân dân làm giảm tiêu cực xã hội, làm cho đời sống xã hội ngày được
đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về vật chất và tinh thần, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã
hội, góp phần mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa quốc tế. Phát triển kinh
tế dịch vụ còn góp phần bảo vệ tài nguyên, thiên nhiên, môi trường sinh thái; bảo vệ duy trì
và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc... góp phần vào sự văn minh
tiến bộ của xã hội loài người.
Phát triển kinh tế dịch vụ cũng như phát triển các ngành kinh tế khác, nó đòi hỏi
phải có các yếu tố cần thiết như: điều kiện tự nhiên, môi trường, yếu tố con người, các yếu
tố về văn hóa v.v..., ngoài ra còn có các yếu tố cần thiết khác như: chế độ chính sách, hệ
thống pháp luật phải hoàn thiện và đồng bộ.
Đối với nước ta, với nhiều tiềm năng và lợi thế to lớn về điều kiện tự nhiên, con
người và các yếu tố khác. Do vậy trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài, phát triển
kinh tế dịch vụ là một yêu cầu hết sức cần thiết, mang tính cấp bách nó quyết định quan
trọng trong sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
Trong các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của một địa bàn cấp tỉnh thì việc
xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý là hết sức quan trọng và cần thiết. Căn cứ vào các điều
kiện tự nhiên, xã hội và điểm xuất phát của Bà Rịa - Vũng Tàu trong những thập niên đầu
của thế kỷ XXI thì kinh tế dịch vụ được coi là một ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ
trọng cao trong cơ cấu kinh tế của địa phương. Là một tỉnh nằm ở miền Đông Nam bộ,
nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam; Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều tiềm năng và
lợi thế để phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển các ngành dịch vụ. Với lợi thế là một tỉnh
duy nhất trong cả nước có ngành khai thác dầu khí, phát triển ngành dịch vụ dầu khí sẽ đem
lại nguồn thu ngân sách lớn cho địa phương; với bờ biển dài, lặng gió, trong và sâu có thể xây
dựng nhiều hải cảng tầm cỡ quốc gia và quốc tế phục vụ cho giao thông vận tải và phục vụ
thương mại trong nước và quốc tế; đồng thời rất thuận lợi trong việc phát triển ngành du
lịch; Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều khu danh lam thắng cảnh với những di tích lịch sử, văn
hóa có một không hai của quốc gia, có các khu rừng nguyên sinh trong đất liền và hải đảo,
với nhiều loại động vật quý hiếm có thể phát triển du lịch sinh thái và nghiên cứu sinh vật.
Với vùng biển rộng, sâu hệ sinh vật biển đa dạng, phong phú, nhiều loại hải sản có giá trị kinh
tế cao, nên thúc đẩy tốt ngành khai thác thủy sản và dịch vụ thủy sản. Nông nghiệp tuy không
phải là ngành kinh tế mũi nhọn, song do chủ yếu là trồng trọt các loại cây công nghiệp có
giá trị kinh tế cao như cao su, cà phê, tiêu... vì vậy giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm
đem lại cho địa phương cũng không nhỏ; để nông nghiệp phát triển tốt thì ngành dịch vụ
phục vụ nông nghiệp cũng phải phát triển tương xứng, và dịch vụ luôn luôn đi trước một
bước để tạo điều kiện hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp phát triển.
Bà Rịa - Vũng Tàu có gần 80 vạn dân trong đó trên 50% dân số đang ở tuổi lao
động mà phần lớn là lao động phổ thông nên không thể tham gia trực tiếp vào các ngành
kinh tế có kỹ thuật cao, do đó phát triển dịch vụ là một đòi hỏi bức xúc để giải quyết việc
làm cho người lao động. Tuy nhiên, trong suốt 10 năm qua mặc dù đã có nhiều cố gắng để
tìm ra những hướng đi thích hợp, nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế và phát triển
các hoạt động dịch vụ trên địa bàn và cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng như đã
nêu trên. Song những gì mà các ngành tham gia hoạt động dịch vụ làm được chưa thực sự
tương xứng với những tiềm năng và lợi thế vốn có của mình, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ
dầu khí, du lịch... Bước vào đầu thế kỷ XXI, để thực hiện các mục tiêu kinh tế của Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và Đại hội tỉnh Đảng bộ Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ
III thì việc thực thi những giải pháp chủ yếu nêu trên nhằm phát triển kinh tế dịch vụ là có
tầm quan trọng nhất định đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của địa phương.
MộT Số KIếN NGHị
* Đối với lĩnh vực dịch vụ dầu khí:
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Tổng công ty Dầu khí Việt
Nam và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nên có những cuộc họp định kỳ giữa lãnh đạo hai bên để
đưa ra những quyết nghị cụ thể trong việc phối hợp, điều
hòa sử dụng dịch vụ giữa các đơn vị trong ngành, địa phương và các địa phương khác.
- Tỉnh cần có những phương án xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân
lành nghề làm dịch vụ theo các hướng mà địa phương có thể phát triển được, đồng thời có
các khoản đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng dịch vụ, có cơ chế, chính sách nhằm thu hút các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đầu tư vào Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Nhanh chóng xây dựng và đưa vào sử dụng một đốc tầu vừa phải khoảng 3.000
tấn để đảm bảo sửa chữa các tàu ngành dầu khí đang đóng trên địa bàn. Đây là cơ sở để
mở rộng và phát triển dịch vụ sửa chữa và đóng mới tàu thuyền ở địa phương.
- Trong lúc đang khó khăn về vốn đề nghị Chính phủ cho địa phương được giữ lại
phần thuế mặt đất, mặt biển, mặt sông của các xí nghiệp liên doanh trong một số năm
(khoảng 4-5 triệu USD /năm) để đầu tư xây dựng các cơ sở hoạt động dịch vụ dầu khí.
* Đối với ngành dịch vụ du lịch:
- Đề xuất với Bộ Văn hóa thông tin, Bộ Thương mại, Tổng cục Du lịch để Bà Rịa -
Vũng Tàu có thể đăng cai một số hoạt động như: hội chợ thương mại, các hoạt động văn
hóa thể thao (Festival) tầm cỡ quốc gia và quốc tế nhằm thu hút khách du lịch và quảng bá
du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Chính quyền địa phương nên nghiên cứu kết hợp với Công ty bay dịch vụ miền
Nam mở thêm các chuyến bay dịch vụ du lịch tham quan các công trình biển, Côn Đảo và
các địa phương khác trong nước kể cả quốc tế.
- Đề xuất với Trung ương tiếp tục đầu tư kinh phí cho địa phương hoặc địa
phương được giữ lại một tỷ lệ ngân sách phải nộp cho Trung ương để đầu tư vào các công
trình phục vụ du lịch.
- Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa thông tin cần có những văn bản pháp lý hướng
dẫn cụ thể các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch nhằm khắc phục tối đa các tiêu cực
trong kinh doanh dịch vụ du lịch.
* Đối với ngành thủy sản và nông nghiệp:
- Tỉnh cần có những chính sách ưu tiên phát triển như: Tiếp tục cho nông dân và
ngư dân vay vốn, điều chỉnh lại mức lãi xuất và thời gian cho vay để nông dân có thể đầu
tư trồng trọt các loại cây công nghiệp lâu năm, ngư dân có thể đóng mới các loại tàu đánh
bắt xa bờ, có phương án để điều chỉnh việc thu mua của tư nhân trong việc tiêu thụ sản
phẩm của bà con.
- Xây dựng các trung tâm dịch vụ phù hợp với từng địa bàn để cung ứng trực tiếp
các thiết bị vật tư, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và thủy sản
tránh qua nhiều khâu trung gian làm tăng giá cả và chất lượng dịch vụ kém.
- ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sớm triển khai dịch vụ Bảo hiểm xã hội
cho nông dân trên địa bàn tỉnh như một số địa phương khác đã làm.
- Đề nghị các cơ quan chức năng trong tỉnh có những biện pháp cụ thể và kiên
quyết để chấn chỉnh lại các cơ sở kinh doanh dịch vụ phục vụ nông nghiệp, ngư nghiệp
trên địa bàn toàn tỉnh.
Trên đây là một số kiến nghị nhằm phát triển hơn nữa các ngành kinh tế dịch vụ
chủ yếu trên địa bàn tỉnh.
Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay đang trở thành một tỉnh có sức phát triển nhanh,
mạnh và đa dạng về nhiều mặt của Việt Nam. Dựa trên những tiềm năng và lợi thế của
mình Bà Rịa - Vũng Tàu đang vừa khai thác, xây dựng công nghiệp dầu khí hiện đại, vừa
khai thác thế biển, thế núi liên hoàn; đồng ruộng tốt tươi để phát triển nghề nông, phát
triển nghề thủy sản, phát triển cảng sông, cảng biển; phát triển kinh tế du lịch, giao lưu văn
hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong công cuộc đổi mới cơ cấu kinh tế,
Bà Rịa - Vũng Tàu đang tiếp tục chuyển đổi, chỉ một thời gian nữa, các đường cao tốc, sân
bay, bến cảng, các khu chế xuất, khu du lịch nghỉ ngơi quốc tế, các cửa hàng, siêu thị sẽ
mọc lên nhiều hơn. Bà Rịa – Vũng Tàu vùng đất năng động, giàu tiềm năng đang chuyển
mình, đang nỗ lực phấn đấu để mãi xứng đáng là một tỉnh nằm trong vùng trọng điểm kinh
tế phía Nam và cả nước.
danh MụC tài liệu THAM KHảO
1. Bà Rịa - Vũng Tàu Đất và Người (2000), Nxb Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh.
2. Bộ Tài chính - Viện Nghiên cứu tài chính, Niên giám thống kê năm 2000.
3. GS.TS. Chu Văn Cấp (2000), Tập bài giảng Lịch sử kinh tế quốc dân, Khoa kinh tế
chính trị - Học Viện CTQG Hồ Chí Minh 2000.
4. PGS.TS Trần Văn Chử (2002), Kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2010 và 2020 (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hoàng Đức Cường (1999), Phát triển kinh tế du lịch ở Nghệ An, Luận văn thạc sĩ kinh
tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Tấn Dũng (2001), Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, văn
hóa, Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội Đảng IX.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đại từ điển kinh tế thị trường (1998), Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa,
Hà Nội.
13. GS.TS Nguyễn Điền (2001), "Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong 10
năm đầu thế kỷ XXI", Nghiên cứu kinh tế, (275).
14. PGS. Đào Duy Huân (1997), Kinh tế các nước Đông Nam á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Trần Văn Khánh (2001), "Bà Rịa - Vũng Tàu chặng đường phấn đấu 10 năm", Tạp Chí
cộng sản, (24), tr. 50.
16. Kinh doanh dịch vụ trong cơ chế thị trường (1994), Nxb Thống kê, Hà Nội.
17. C.Mác (1969), Học thuyết giá trị thặng dư, Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. C.Mác (1973), Tư bản, tập 1, cuốn 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 26, Phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
20. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Ngọc Nhật (1995), Phát triển kinh tế du lich ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Luận văn thạc
sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
23. Nguyễn Đình Phan (1997), Về môi trường thể chế nhằm phát triển các hoạt động dịch
vụ và sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. PGS.TS Bùi Tiến Quý (2000), Phát triển và quản lý nhà nước về kinh tế dịch vụ, Nxb
Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
25. Sở Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Chương trình phát triển ngành du lịch tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu 2000 – 2050.
26. Sở Nông nghiệp Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Chương trình phát triển ngành Nông
nghiệp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 2001 - 2005.
27. Sở Thủy sản Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Chương trình phát triển ngành Thủy sản Bà
Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2001 - 2050.
28. PTS Nguyễn Thị Xuân Thảo (1999), Phát huy những nhân tố ... trong kinh doanh dịch
vụ ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. PGS.TS Lê Đình Thắng (1994), Dịch vụ nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
30. Võ Thị Thắng (1998), "Phát triển du lịch trong cơ chế thị trường hiện nay", Nghiên
cứu trao đổi, (11).
31. Phạm Xuân Thu (1995), Những vấn đề về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở tỉnh
Ninh Bình, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
32. Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Văn kiện Đại hội tỉnh Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu lần thứ 3.
33. Trần Trác (2001), "Phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam", Nghiên cứu kinh tế,
(270).
34. "Trích báo cáo của Tổng cục Thống kê" (2001), Con số và sự kiện, (1+2), tr. 4-11.
35. Trần Ngọc Tư (2000), Phát triển kinh tế du lịch Tỉnh Vĩnh Phúc - tiềm năng và giải
pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
36. Lê Nam Tư (2001), "Bà Rịa - Vũng Tàu nhìn từ điểm xuất phát mới", Báo Nhân Dân,
ngày 18/12.
37. Lê Nam Tư (2001), "Thêm tám dự án nước ngoài đầu tư vào Bà Rịa - Vũng Tàu", Báo
Nhân dân, ngày 24/12.
38. Từ điển tiếng Việt (1997), Viện Ngôn ngữ học - Nxb Đà Nẵng.
39. ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Trung tâm thông tin (1990), "Những vấn đề ở Việt Nam",
trong sách: Kinh tế dịch vụ, tập 1.
40. ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Trung tâm thông tin (1990), "Quan điểm và thực tiễn ở
nước ngoài", trong sách: Kinh tế dịch vụ, tập 2.
41. ủy ban nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu (1997), Chương trình phát triển ngành dịch vụ
dầu khí trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 1995 - 2005.
42. Trần Vinh (2001), "Dịch vụ hậu cần nghề cá", Báo Nhân Dân, ngày 28/2.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay (2).pdf