Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ
chức và mọi loại tài sản nợ. Việc không tuân thủ cần bị xử phạt nghiêm khắc
thông qua việc áp dụng mức lãi suất phạt cao trên số thiếu hụt bình quân cả
kỳ. Ngân hàng Trung ương phải có quyền quy định cách thức tính toán và
loại tài sản nợ cũng như loại hình tổ chức áp dụng dự trữ bắt buộc.
Cùng với xu thế chung của thế giới, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được
giảm thấp hơn, nên xem xét việc trả lãi toàn phần hay một phần do dự trữ
bắt buộc vượt quá mức nhất định.
39 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3496 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lãi suất, những nhân tố ảnh hưởng và tác động của lãi suất đến nền kinh tế Viêt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hàng nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng ngoại tệ :
- Cho vay bằng đồng đô la Mỹ : Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của
ngân hàng thương mại đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh
hoạt phù hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn còn sự kiểm soát của nhà
nước.
Như vậy, so với cơ chế trần lãi suất tín dụng, cơ chế lãi suất cơ
bản có một số ưu việt sau:
- Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có thể
thoả thuận để lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi có điều chỉnh, có
lợi cho các bên khuyến khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn và cho
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 13 -
vay trung và dài hạn.
- Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VND – tỷ giá lãi suất ngoại tệ linh hoạt
hơn, phản ánh được chính xác hơn cung – cầu vốn, ngoại tệ tạo cơ sở cho
ngân hàng nhà nước khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường.
Đánh giá :
Gần 15 năm đổi mới hoạt động ngân hàng, chính sách lãi suất đối với nền
kinh tế đã có nhiều đổi mới tiến dần đến một chính sách lãi suất theo thị
trường, cụ thể:
- Chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương, xoá bỏ bao cấp qua lãi suất.
- Thực hiện lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn
hạn theo thông lệ quốc tế và phù hợp với rủi ro do thời hạn.
- Rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay nội tệ và ngoại tệ
phù hợp chính sách quản lý ngoại hối và lãi suất trên thị trường quốc tế.
- Từ việc quy định lãi suất cụ thể, ngân hàng nhà nước với việc công bố trần
lãi suất và tiếp tục áp dụng lãi suất cơ bản đã thực hiện ở một mức độ nhất
định sự tự do hoá lãi suất tiền gửi và tiền vay.
Lãi suất không còn mang tính chất là công cụ hành chính mệnh lệnh
cứng nhắc, với việc thông qua các công cụ trực tiếp và gián tiếp của chính
sách tiền tệ, nhà nước tác động đến lãi suất từ đó thực hiện các chính sách
của mình. Cùng với việc ngân hàng nhà nước công bố lãi suất cơ bản, lãi
suất tái cấp vốn để từ đó các tổ chức tài chính tự quyết định mức lãi suất
kinh doanh tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính cạnh tranh, bắt kịp nhu
cầu vay tín dụng và tiền gửi. Từ đó lãi suất bám sát tình hình cung cầu vốn
thị trường, nhà nước vẫn có thể sử dụng lãi suất như một công cụ của chính
sách tiền tệ, đồng thời tránh được sự mất cân đối giữa lãi suất và cung cầu
thị trường.
PHẦN II : NỘI DUNG LÃI SUẤT
A. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
LÃI SUẤT
I. Các nhóm yếu tố tác động
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 14 -
Căn cứ vào cơ chế lãi suất từ tháng 8/2000 đến nay của nhà nước, điều
hành chính sách lãi suất bằng lãi suất cơ bản, lãi suất được hình thành trên
cơ sở cung – cầu thị trường dưới sự điều hành của nhà nước. Ta có thể chia
những nhân tố tác động đến lãi suất thành hai nhóm chính bao gồm : Nhóm
yếu tố thuộc lực lượng thị trường và nhóm yếu tố thuộc chính sách tiền tệ.
1. Nhóm yếu tố thuộc lực lượng thị trường :
Như đã biết lãi suất cũng là một loại giá cả, lãi suất được xác định do tình
hình cung cầu thị trường, trong bài này xin nêu ảnh hưởng của cung cầu vốn
vay đối với lãi suất.
Các nhân tố ảnh hưởng cung vốn
Tăng Ảnh hưởng
cung vốn
Lý do
Tài sản và
thu nhập
Tăng Trong giai đoạn đang tăng trưởng kinh tế, tìa sản của các
chủ thể kinh tế tăng lên và từ đó tăng khả năng cung vốn.
Lợi tức dự
tính
Tăng Lợi tức dự tính của các công cụ nợ không chỉ phụ thuộc lãi
suất mà còn phụ thuộc biến động giá thị trường của công
cụ đó , lợi tức dự tính tăng làm tăng cầu về các công cụ đó
do đó làm tăng cung vốn vay.
Tính lỏng Tăng Nếu các công cụ nợ có thể mua bán dễ dàng sẽ tăng nhu
cầu đầu tư vào chúng vì vậy cung vốn sẽ tăng lên.
Rủi ro Giảm Nếu rủi ro tăng lên, làm cho đầu tư vào các công cụ nợ
kém hấp dẫn, kết quả là cung vốn giảm xuống.
Các nhân tố ảnh hưởng cầu vốn
Tăng ảnh hưởng
tới cầu vốn
Lý do
Khả năng sinh
lợi dự tính
tăng Trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế, càng có
nhiều cơ hội đầu tư sẽ làm tăng nhu cầu vay
vốn để đầu tư.
Có vốn cho vay
Các gia đình
(chủ yếu)
Các công ty
Chính phủ
Nước ngoài
Cần vốn đi vay
Các công ty
(chủ yếu)
Chính
phủ(chủ yếu
Các gia đình
Nước ngoài
NHTM
LÃI SUẤT
NHTW
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 15 -
Lạm phát dự
tính
Tăng Như ta đã biết, chi phí thực của việc vay tiền
được đo một cách chính xác hơn bằng lãi
suất thực là lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm
phát dự tính. Do đó một lãi suất cho trước,
khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực
hiện việc vay tiền giảm xuống nên cầu tiền
vốn vay tăng lên.
Ngân sách
chính phủ
Tăng Chính phủ đi vay bù vào thâm hụt ngân sách
lớn, làm tăng cầu về vốn vay.
Phân tích mô hình:
Khi lạm phát dự tính tăng
Khi kinh tế phát triển
Nhưng thường trong thời kỳ kinh tế phát triển thì cầu luôn lớn hơn cung.
2. Nhóm yếu tố thuộc chính sách tiền tệ:
Thành phần: Duy nhất là NHTƯ. Cơ quan có nhiệm vụ phát hành
tiền, quản lý hành chính hệ thống ngân hàng, vai trò người cho vay cuối
cùng, xâydựng chính sách tiền tệ. Nó tác động đến lãi suất bằng các công cụ
mang tính quyền lực nhà nước hoặc các công cụ mang tính thị trường để từ
đó thực hiện các mục đích cuối cùng của chính sách tiền tệ như:
Ổn định tiền tệ.
Tạo việc làm.
Tăng trưởng kinh tế.
Làm cho lãi suất thực giảm , tăng cầu về
vốn
Làm lợi tích dự tính từ việc cho vay so
với các phương án đầu tư khác giảm , làm
cung vốn giảm
i tăng
lên
Khả năng sinh lời
tăng ,dẫn đến cầu
tăng
Tài sản tăng , dẫn
đến cung tăng
Nếu cung tăng ít
hơn cầu thì , I tăng
Nếu cung tăng nhiều
hơn cầu thì , I giảm
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 16 -
Các học thuyết , nghiên cứu về cơ chế điều hành lãi suất chỉ ra rằng,
NHTƯ có thể trực tiếp (sử dụng các công cụ manh tính mệnh lệnh hành
chính) hoặc gián tiếp tác động (thông qua sử dụng các công cụ thị trường)
lên lãi suất.
Với cơ chế lãi suất ở Việt Nam từ tháng 8/2000 đến nay, sử dụng công
cụ lãi suất cơ bản để điều hành lãi suất, nhà nước chủ yếu tác động một cách
gián tiếp đến lãi suất. Phần này chủ yếu sẽ phân tích ảnh hưởng của các công
cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ ảnh hưởng thế nào đến lãi suất.
Cơ chế tác động gián tiếp: NHTƯ sử dụng công cụ gián tiếp- mang
tính thị trường- của chính sách tiền tệ để tác động đến lãi suất thông qua
hành vi của hệ thống ngân hàng.
Các công cụ đó là:
Dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ.
Các ngân hàng thương mại được yêu cầu phải giữ lại một tỉ lệ phần trăm các
khoản tiền gửi của họ dưới dạng dự trữ hoặc là bằng tiền mặt tại quỹ hoặc là
bằng tiền gửi tại quỹ dự trữ của NHTƯ. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có
tác động mạnh mẽ lên khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng và cho cả
hệ thống tài chính.
Sự thay đổi về khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM ảnh hưởng
lớn đến tình hình cung vốn của thị trường, và từ đó sẽ làm thay đổi lãi suất
trên thị trường.
Khi NHTƯ muốn kiềm chế lạm phát, họ có thể nâng tỉ lệ dự trữ bắt
buộc, hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của cá tổ chức tín dụng và buộc
các ngân hàng thương mại phải nâng lãi suất cho vay. Ngược lại, khi NHTƯ
muốn đẩy mạnh tăng trưởng, họ giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc do đó các tổ chức
tín dụng có thể mở rộng tín dụng và hạ lãi suất cho vay.
Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất NHTƯ cho
các tổ chức tín dụng vay trên cơ sở những chứng từ có giá của ngân hàng
thương mại.Việc ấn định lãi suất tái chiết khấu cao hay thấp có tác động đến
khả năng cho vay của các NHTM và từ đó làm thay đổi lãi suất trên thị
trường.
Việc NHTƯ nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương
mại phải tăng dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán. Đồng thời ngân hàng
thương mại cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp những chi phí cho
những khoản tăng thêm dự trữ, do vậy mà lãi suất thị trường tăng lên. Ngược
lại, việc giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ cho phép các ngân hàng
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 17 -
thương mại giảm dự trữ và hạ lãi suất cho vay, do đó mà hạ lãi suất thị
trường.
Nghiệp vụ thị trường mở: nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua
bán chứng khoán (thường là chứng khoán nhà nước) trên thị trường tiền tệ
ngắn hạn. NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trưởng, mở rộng tín dụng, bằng cách
mua vào các chứng khoán có giá làm cho cung về tiền tệ tăng lên, dẫn tới
làm giảm lãi suất.
Ngược lại, khi NHTƯ muốn thu hẹp tín dụng bằng cách bán ra các
chứng khoán có giá làm cho cung tiền tệ giảm xuống dẫn tới tăng lãi suất
trên thị trường tiền tệ.
Hợp đồng mua lại: hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những chứng
khoán, trong đó người bán cam kết sẽ mua lại chứng khoán này vào một
thời điểm trong tương lai với mức giá được xác định trước trong hợp đồng.
Như vậy, thực chất hợp đồng mua bán lại là hợp đồng cho vay có thế chấp,
trong đó chứng khoán đóng vai trò thế chấp. Khi mua thế chấp (tức cho vay
), NHTƯ bơm tiền vào thị trường tài chính và do vậy làm giảm lãi suất
ngắn hạn.
Khi bán thế chấp từ tài khoản của mình NHTƯ rút tiền ra khỏi thị
trường tiền tệ và do đó tạo ra sức ép làm tăng lãi suất ngắn hạn.
II. Các tác động của lãi suất
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ
nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày
trên báo chí vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi
người chúng ta và có những hệ quả quan trọng đối với sức khoẻ của nền
kinh tế.
Nó tác động to lớn đối với việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu
thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn,
kích thích hay cản trở đầu tư, tạo lợi nhuận hay khó khăn cho hoạt động
ngân hàng.
Tóm lại, lãi suất là một phạm trù phức tạp có liên quan và tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp tới nhiều yếu tố của nền kinh tế vĩ mô.
Chúng ta sẽ lần lượt xem xét tác động của lãi suất lên các chủ thể
kinh tế, và các chỉ số của nền kinh tế vĩ mô như thế nào.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 18 -
1. Lãi Suất với quá trình huy động vốn.
Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ
và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc xây dựng đất
nước. Chính sách lãi suất có tác động trực tiếp tới tình hình cung – cầu vốn
trên thị trường, vì vậy một lãi suất hiệu quả sẽ thúc đẩy vốn từ nơi nhàn rỗi
đến nơi thiếu. Nâng cao hiệu quả và tận dụng đựơc hết giá trị vủa vốn.
Lượng cầu về hãng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất, để một dự án đầu tư
có lãi, lợi nhuận thu được phải cao hơn chi phí. Vì lãi suất phản ánh chi phí
vốn để tài trợ cho đầu tư, việc tăng lãi suất làm giảm số lượng dự án đầu tư
có lãi, bởi vậy nhu cầu về hãng đầu tư giảm do đó đầu tư tỷ lệ nghịch với lãi
suất.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc:
Tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi < lãi suất tiền vay < tỷ suất lợi
nhuận bình quân.
Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền
vay)
Nếu nguyên tắc này bị phá vỡ sẽ dẫn đến những đổ vỡ trong nền
kinh tế, lãi suất thực âm khiến cung vốn giảm, làm hạn chế khả năng mở
rộng sản xuất do thiếu vốn, lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân làm
cầu vốn giảm dẫn đến đình đốn sản xuất, sụt giảm kinh tế.
2. Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện
khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi
phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các
hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong
môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì
chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho
việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán khi
lãi suất có xu hướng giảm hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất của nó cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và
xuống giá, có dấu hiệu thiếu vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất
vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư,
sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô
đầu tư.
3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm:
Theo lý thuyết tài chính chúng ta có thể đưa ra phương trình về thu
nhập như sau :
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 19 -
Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn
đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm, trong đó
lãi suất có tác dụng phân chia tỷ lệ tiêu dùng và tiết kiệm.
Khi lãi suất thấp chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều
cho việc tiêu dùng hàng hoá nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Khi lãi suất cao
đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm,
do đó tiết kiệm tăng.
4. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu
Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ.
Lãi suất tiền gửi nội tệ :
Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực
không đổi) thì tỷ giá giảm.
Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát
không đổi) thì tỷ giá tăng.
Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình Xuất Nhập Khẩu: khi lãi
suất thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. tỷ giá hối đoái cao hơn
làm hàng hoá của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn lên và hàng hoá
nước ngoài ở nước đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng.
Lãi suất tiền gửi ngoại tệ
Khi lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của
đồng ngoại tệ dịch chuyển sang phải làm giảm tỷ giá hối đoái.
Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng: Lãi suất tiền gửi
bằng ngaọi tệ tăng dẫn đến hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với các quốc
gia khác, khuyến khích xuất khẩu.
5. Lãi suất vai trò của nó đối với Ngân Hàng Thương mại
NHTM với hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của mình
là huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của các
NHTM.
Với phương châm “đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm
thời nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và dân cư để cho vay phát triển kinh tế
và các nhu cầu tiêu dùng khác của nhân dân.
Nếu lãi suất thấp, sẽ không khuyến khích các chủ thể kinh tế gửi tiền
vào NHTM, dẫn tới giảm huy động vốn của các ngân hàng, làm giảm khả
năng mở rộng tín dụng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các tổ chức sản xuất
kinh doanh. Mặt khác lãi suất thấp khuyến khích vay vốn để đầu tư máy móc
trang bị sản xuất kinh doanh. Điều này làm cung cầu vốn trên thị trường mất
cân bằng, các ngân hàng không thể đạt được hiệu quả cao nhất.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 20 -
Ngựợc lại, khi lãi suất tăng cao sẽ khuyến khích gửi tiền vào ngân
hàng nhưng lại giảm cầu về vốn, làm tăng dư nợ của các ngân hàng, làm
tăng chi phí của ngân hàng từ những khoản trả lãi cho những khoản huy
động vốn, làm giảm lợi nhuận ngân hàng.
Do vậy, các NHTM phải xác định được một mức lãi suất phù hợp dựa
trên lãi suất cơ bản mà NHTW công bố để có thể kinh doanh một cách tốt
nhất
6. Lãi suất với lạm phát
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất
và lạm phát. Fishes chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, do
đó lãi suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát. Cụ thể tăng lãi suất, thu hẹp
được lượng tiền trong lưu thông, lạm phát được kìm chế.
Tuy nhiên, dùng lãi suất để chống lạm phát không thể duy trì lâu dài
vì nó sẽ làm giảm đầu tư, tổng cầu, sản lượng. Do vậy phải kết hợp nó với
các công cụ khác.
7. Lãi suất với tăng trưởng kinh tế
Trong bối cảnh kinh tế sụt giảm, NHTW giảm lãi suất cơ bản, sử dụng
các công cụ chính sách tiền tệ làm giảm lãi suất trên thị trường, khuyến
khích vay vốn để đầu tư, sản xuất mở rộng kinh doanh.
Tuy nhiên, lãi suất giảm khiến luồng tiền huy động được của các
NHTM giảm, vì vậy nhà nước thường kết hợp nó với các công cụ khác.
B. LÃI SUẤT VÀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
(GIAI ĐOẠN 2007 – 2008)
I. 2007 và những nhân tố gây ra tình hình lạm phát những
tháng đầu năm 2008
Hình 1: Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI)
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 21 -
Nguồn: IMF, International Financial Statistics
Trong các báo cáo, Chính phủ đã chỉ ra được hầu hết những nguyên
nhân gây ra những yếu kém kinh tế trong thời kỳ này. Cụ thể là, "cơ cấu
kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn
chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, giá trị gia tăng sản
xuất công nghiệp thấp. Tình trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước
vẫn còn dàn trải, không bảo đảm tiến độ, còn nhiều thất thoát, hiệu quả
thấp... kéo dài, chậm được khắc phục. Quản lý tài chính, tiền tệ, thị trường,
giá cả, xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ.
Các phân tích dưới đây sẽ chỉ ra rằng những nhược điểm của một chế
độ tỷ giá neo với đồng USD và mất cân đối cơ cấu kinh tế gây ra tình trạng
"thắt cổ chai" là nguyên nhân cơ bản của lạm phát. Lạm phát trong kinh tế
học được hiểu là sự tăng giá chung trong một thời gian dài. Lạm phát thường
có nguyên nhân từ tiền tệ do ngân hàng nhà nước cung ứng quá nhiều tiền
trong lưu thông. Lạm phát cũng có thể có nguyên nhân từ việc tăng giá do
cầu tăng mạnh đột biến lớn hơn khả năng sản xuất của nền kinh tế tạo ra lạm
phát do cầu kéo. Chi phí sản xuất gia tăng cũng đẩy giá hàng hóa lên cao tạo
ra lạm phát do chi phí đẩy. Có thể nói lạm phát ở Việt Nam hiện nay hội tụ
đủ các nguyên nhân do cả cầu kéo lẫn chi phí đẩy và tiền tệ.
Nhóm nguyên nhân thứ nhất có nguồn gốc từ các yếu tố bên
trong của nền kinh tế. Sự mở rộng mạnh mẽ của nhu cầu chi tiêu, đầu tư tư
nhân và công cộng là nhân tố làm cho tổng cầu tăng nóng. Tổng đầu tư của
toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43%. Tổng chi
ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 11,7% so với dự
toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng 4,95% GDP.
Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch
xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006. Tổng cầu tăng nóng vượt
quá khả năng của một nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề "thắt cổ chai" liên
quan tới hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát.
Nhóm nguyên nhân thứ hai có nguồn gốc từ các yếu tố bên
ngoài, đó là giá cả các loại hàng hóa trên thế giới đã tăng nhanh, tỷ lệ nghịch
với sự mất giá danh nghĩa của đồng USD đẩy mặt bằng giá nguyên nhiên vật
liệu đầu vào, đặc biệt là dầu thô, lên cao gấp 2 đến 3 lần so với năm 2003.
Giá dầu lửa đã tăng từ 53,4 USD/thùng tháng 1-2007 lên 89,4 USD/thùng
tháng 12-2007, và đạt đỉnh mới 125,96 USD/thùng vào ngày 9-5-2008. Tốc
độ tăng giá năng lượng, đặc biệt là giá lương thực trong nửa cuối năm 2007
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 22 -
và đầu năm 2008 là nguyên nhân dẫn tới tình trạng lạm phát trên diện rộng ở
tất cả các nước trên thế giới.
Nhóm nguyên nhân thuộc yếu tố tiền tệ với tốc độ tăng trưởng
tín dụng của Việt Nam tăng quá nhanh trong những năm vừa qua. Trong ba
năm từ 2005 đến 2007, cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%. Tốc
độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp
đôi so với tốc độ tăng của năm 2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương
tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31-12-2006. Tổng dư nợ cho vay của nền
kinh tế năm 2007 tăng 57,53% so với năm 2006.
Bảng 1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 1997 - 2007 (%)
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
GDP 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,44
NLTS 4,33 3,53 5,53 4,63 2,89 4,17 3,62 4,36 4,02 3,3 3,0
CNXD 12,62 8,33 7,68 10,07 10,39 9,48 10,48 10,22 10,69 10,37 10,4
DV 7,14 5,08 2,25 5,32 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 8,29 8,5
Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2006, tr 69)
Tốc độ tăng truởng kinh tế tăng cao, đồng nghĩa với nhu cầu vốn ngày
càng lớn, đòi hỏi một sự gia tăng về phương tiện thanh toán để đảm bảo tính
thanh khoản cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng tăng lên rất cao, từ 25,4%
(năm 2006) lên hơn 50% tính đến tháng 11 năm 2007. Trong giai đoạn mà
tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu của quốc gia, để đáp ứng được nhu
cầu của thị trường, nhà nước phải tăng lượng cung ứng tiền trong một thời
gian dài. Đây là một trong những nhân tố gây đến tình trạng bất ổn của nền
kinh tế, nguyên nhân cơ bản của lạm phát.
II. Giai đoạn lạm phát cao
Với những nguyên nhân như trên, nền kinh tế Việt Nam bước vào năm
2008 với những khó khăn to lớn. Bài toán lạm phát trở lên nhức nhối hơn
bao giờ hết với mức lạm phát kỷ lục trong vòng những năm trở lại đây. Lạm
phát tiếp tục trở thành chủ đề nóng bỏng trong tình hình kinh tế vĩ mô. Theo
Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tháng 3/2008 so với tháng 12/2007 đã
tăng tới 9,19%. Chính phủ đã phải điều chỉnh lại mục tiêu lạm phát cho năm
2008 ở mức không cao hơn năm 2007 (12,6%). Tính bình quân 3 tháng đầu
năm 2008 so với cùng kỳ năm trước chỉ số giá tiêu dùng cũng đã tăng tới
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 23 -
16,37%. Tình trạng lạm phát cao tác động xấu đến cán cân thương mại, Xuất
khẩu ước đạt 29,7 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm trước. Kim
ngạch nhập khẩu ước đạt 44,5 tỷ USD, tăng 60,3% so với vùng kỳ năm
trước. Nhập siêu hàng hoá lên tới 14,8 tỷ USD, bằng 49,8% kim ngạch xuất
khẩu, gần gấp 3 lần mức nhập siêu cùng kỳ năm 2007.
Trước tình hình đó chính phủ tập trung vào giải quyết vấn đề bài toán
lạm phát, chuyển đổi ưu tiên ngắn hạn từ tăng trưởng kinh tế sang thực hiện
kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả.
1) Những chính sách của NHTW trong việc giải quyết lạm phát:
Trong bối cảnh lạm phát tăng cao, Chính phủ thực hiện một cách đồng bộ
chính sách thắt chặt tiền tệ cụ thể như sau:
Nghiệp vụ thị trường mở: Ngày 13/2/2008, NHNN thông báo
phát hành tín phiếu bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng với tổng giá
trị là 20.300 tỷ, ngày hiệu lực 17/3/2008.
Dự trữ bắt buộc: Trong tháng 2 và tháng 3, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi
phải dự trữ bắt buộc ở tất cả các kỳ hạn (trước đây chỉ có tiền gửi dưới
24 tháng phải dự trữ bắt buộc)
Bảng 2: Diễn biến Dự trữ bắt buộc năm 2007-2008 Đơn vị %
Tỷ lệ Năm
DTBB
(%tổng số dư tiền
gửi phải DTBB)
2007 2008
Lần 1 Lần 2
- Không kỳ hạn và dưới 12
tháng
+ VND 10 11 10
+ Ngoại tệ 10 11 9
- Từ 12 -24 tháng
+ VND 4 5 4
+ Ngoại tệ 4 5 3
Biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu: Bắt đầu từ tháng 2/2008,
NHTW nâng mức lãi suất chiết khấu từ mức 6% năm lên đến 13%
năm.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 24 -
2) Tác động của chính sách tiền tệ đối với lãi suất:
Với việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTW đã tác động
một cách gián tiếp đến lãi suất, trong đó có việc đảm bảo lãi suất thực
dương, nhằm đảm bảo lợi ích của các thành viên của thị trường tiền tệ (ngân
hàng, người gửi tiền, người vay tiền).
Yếu tố thị trường : việc thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ của
NHTW thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc đã
tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ và hoạt động kinh doanh của các
NHTM, theo hướng làm giảm quy mô nguồn vốn; giảm khả năng cho vay.
Quá trình này tác động làm tăng chi phí kinh doanh, tăng lãi suất cho vay
của các NHTM và trực tiếp đến thanh khoản của các NHTM trong thời gian
này.
Yếu tố chủ quan: Lãi suất tăng nhanh và tăng cao ngoài yếu tố
mang tính khách quan, còn do yếu tố chủ quan đó là quá trình khai thác và
sử dụng nguồn vốn của các NHTM chưa hợp lý. Trong đó việc tăng trưởng
tín dụng quá nóng, vượt khả năng nguồn vốn của một số NHTM cổ phần đã
tạo ra áp lực về thanh khoản rất lớn. Trong khi đó nguồn vốn bị thu hẹp (do
phải tăng dự trữ bắt buộc, mua tín phiếu NHNN bắt buộc) càng làm cho một
số NHTM cổ phần khó khăn về vốn trong thanh khoản – diễn biến này đã
đẩy lãi suất huy động tăng cao và tăng nhanh nhằm thu hút nguồn tiền gửi từ
dân cư để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.Cùng với quá trình “hút” tiền về của
NHTW, quá trình này đã tác động hiệu ứng đến toàn hệ thống và làm xuất
hiện cuộc đua lãi suất trong khoảng thời gian cuối tháng 2 và nửa đầu tháng
3/2008.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 25 -
Lượng cung vốn bị hạn chế do tác động của chính sách tiền tệ và
trong bối cảnh lạm phát cao, cá nhân không mặn mà với việc đầu tư mà
chuyển sang nắm giữ ngọai tệ và vàng. Điều này đã làm giảm lượng vốn
cung cấp cho nền kinh tế. Trong khi đó cầu về vốn cho đầu tư sản xuất lớn
khiến cho lãi suất tăng cao trong những tháng đầu năm 2008.
3) Tác động của mức lãi suất cao đến các chủ thể trong nền kinh tế:
Tiêu dùng và tiết kiệm : Trong bối cảnh lạm phát, giá cả các mặt
hàng chung đều tăng, lẽ dĩ nhiên là các cá nhân sẽ hạn chế tiêu dùng, và
chuyển sang tiết kiệm để đầu tư thu lời. Với việc NHTW thực hiện chính
sách lãi suất thực dương, lãi suất huy động cao đã phần nào thu hút được
khoản tiết kiệm của xã hội cho thị trường tài chính, qua đó cải thiện được
tính thanh khoản trong bối cảnh nhà nước thực thi chính sách thắt chặt tiền
tệ để kiềm chế lạm phát. Đối với cá nhân, lãi suất thực dương góp phần tạo
ra cơ hội đầu tư trong khi mức độ rủi ro của các khoản đầu tư vào kênh bất
động sản hay USD cao.
Các ngân hàng thương mại: Sau khi Ngân hàng Nhà nước ( NHNN
) điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 14%/năm, đã xuất hiện cuộc chạy đua lãi suất
giữa các NHTM, mà mở đầu là các NHTM cổ phần nhỏ, buộc các NHTM
lớn cũng phải đ iều chỉnh để níu kéo khách hàng, kéo theo một lượng vốn
nhất định. Lãi suất huy động VND có kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới
nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng
sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục
“treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân
cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm.
Đó cũng là thời điểm mà hoạt động cho vay của nhiều ngân hàng
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 26 -
thương mại cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao
lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng
trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới
1%/tháng; cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế
30%). Lãi suất tăng cao, một mặt có điều kiện để kiềm chế tăng trưởng tín
dụng nóng. Một mặt lại có tác động xấu đến các ngân hàng thương mại, chi
phí huy động vốn cao, làm giảm khả năng sinh lời, và khả năng rủi ro tă ng
trong hoạt động. Đối với thị trường tài chính: lãi suất tăng cao là một trong
những nguyên nhân làm cho giá chứng khoán bị ảnh hưởng , huy động vốn
của các DN trên thị trường tài chính càng khó khăn, gây áp lực lớn về vốn
trung và dài hạn đối với các NHTM.
Các doanh nghiệp: Do lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng cao ,
điều này gây không ít ảnh hưởng đến những nhà doanh nghiệp bởi họ sẽ gặp
khó khăn trong việc vay vốn từ ngân hàng cũng như việc phải cố gắng huy
động những nguồn vốn khác thay thế . Các doanh nghiệp cũng cần vay tiền
từ ngân hàng thương mại để duy trì hoạt động và mở rộng sản xuất. Một khi
các khoản vay từ ngân hàng trở nên đắt hơn thì các doanh nghiệp sẽ có tâm
lý ngại vay tiền và thực tế thì họ phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay.
Với một doanh nghiệp trong thời kỳ tăng trưởng thì điều này có thể tác động
nghiêm trọng, doanh nghiệp phải thu hẹp phạm vi hoạt động và kết quả là lợi
nhuận bị giảm sút.
4) Tác động của lãi suất đến các chỉ số kinh tế vĩ mô:
GDP : Trước hết có thể thấy rõ một điều, với chính sách tiền tệ thắt
chặt, lãi suất cho vay cao đã hạn chế khả năng mở rộng sản xuất của các
doanh nghiệp. Sự thu hẹp khả năng tín dụng của các ngân hàng thương mại
làm giảm đáng kể nguồn cung vốn cho hoạt động kinh doanh. Điều này
khiến GDP không còn giữ được mức tăng như những năm trước, ước GDP
năm 2008 đạt 6%.
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
GIÁ TRỊ (%)
2004 2005 2006 2007 2008
NĂM
TĂNG TRƯỞNG GDP CÁC NĂM
GDP
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 27 -
Tình hình lạm phát: với việc thu hút tiền mãnh mẽ từ nền kinh tế, thu
hẹp khả năng tín dụng của ngân hàng cùng chính sách lãi suất dương,
NHTW đã thành công bước đầu trong việc kiềm chế lạm phát. Nhìn chung,
các biện pháp thắt chặt chính sách tiền tệ đã phát huy tác dụng tích cực, chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 là 2,14%, giảm nhiều so với mức 3,19% của
tháng 5.
BIỂU ĐỒ LẠM PHÁT MĂN 2008
0
5
10
15
20
25
30
Thá
ng
1
Thá
ng
2
Thá
ng
3
Thá
ng
4
Thá
ng
5
Thá
ng
6
Thá
ng
7
Thá
ng
8
Thá
ng
9
Thá
ng
10
Thá
ng
11
Thá
ng
12
THÁNG
G
IÁ
T
R
Ị
(%
)
Series1
Về cán cân thương mại quốc tế: với việc cho phép nới rộng biên độ
tỷ giá, cùng với lãi suất danh nghĩa cao khiến cho các doanh nghiệp nhập
khẩu không còn đủ lượng vốn cần thiết để mở rộng kinh doanh, đồng thời
nới rộng biên độ tỷ giá, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu giúp giảm
thâm hụt cán cân thương mại.
Chỉ tiêu 6 tháng đầu năm
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6
XK 4,9 3,4 4,8 4,7 5,8 5,5
NK 7,2 6,2 8,1 7,9 7,7 6,8
Cán cân
TM
-2,3 -2,8 3,3 -3,2 -1,9 -1,3
Theo
quý
-8,3 -6,5
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 28 -
III. Giai đoạn suy thoái kinh tế
Năm 2008 là một năm đầy khó khăn đối với Việt Nam, khi bị ảnh
hưởng nặng nề bởi 2 cơn bão tài chính liên tiếp. Cơn bão thứ nhất là chỉ số
lạm phát tại Việt Nam tăng phi mã trong 9 tháng đầu năm. Cơn bão thứ hai
tác động còn lớn hơn trong 3 tháng cuối năm là cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu.
1) Bối cảnh nền kinh tế vĩ mô 3 tháng cuối năm 2008 và những tháng
đầu năm 2009
Nhờ chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ, nền kinh tế đang dần
thoát khỏi tình trạng lạm phát cao, nhưng ngay sau đó Việt Nam lại phải đối
mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất trong vài thập kỷ qua. Trong bối
cảnh Việt Nam đang hòa nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, tác động của
cuộc khủng hoảng lần này thật sự là 1 liều thuốc thử khả năng của nền kinh
tế Việt Nam, và khả năng điều hành chính sách tiền tệ của NHTW.
CPI tháng 12 năm 2008 giảm 0,68% so với tháng 11, như vậy đây là
tháng thứ 3 liên tiếp CPI tăng trưởng âm theo từng tháng, CPI quý 1 năm
2009 chỉ tăng 1,32% so với tháng 12/2008. Như vậy có thể thấy hiệu quả
trong việc kiềm chế lạm phát nhờ chính sách tiền tệ thắt chặt của NHTW,
lạm phát cao không còn là mối quan ngại hàng đầu.
GDP tháng 12/2008 ước đạt 6% , mức tăng trưởng thấp nhất trong
những năm trở lại đây, đặc biệt GDP quý I năm 2009 ước tính chỉ tăng 3,1%
so với cùng kỳ năm 2008, chủ yếu dựa vào dịch vụ (tăng 5,4%) và công
nghiệp - xây dựng (tăng 1,5%) trong khi tăng trưởng nông nghiệp rất thấp
(tăng 0,4%). Như vậy các mức tăng trưởng này thấp hơn từ 40% đến 80% so
với cùng kỳ nhiều năm trước.
Xuất khẩu và nhập siêu: xuất khẩu tháng 12/2008 đạt4,9 tỷ USD là
tháng đầu tiên có tăng trưởng so với tháng trước đó (kể từ tháng 7 kim ngạch
xuất khẩu sụt giảm liên tục theo tháng từ 6,6 tỷ USD tháng7 còn 4,3 tỷ USD
tháng 11. Xuất khẩu cả năm 2008 ước đạt 62,9 tỷ USD tăng trưởng gần
29,5% so với năm 2007.
Kim ngạch nhập khẩu tháng 12/2008 là 5,1 tỷ USD tăng nhẹ 8,5% so
với tháng 11- tháng có mức nhập khẩu thấp nhất trong năm. Nhập siêu tháng
12 cũng là mức thấp nhất cả năm chỉ còn 184 triệu USD. Nhập khẩu cả năm
đạt 79,91 tỷ USD, tăng 27,5% so với năm 2007
2) Những chính sách của NHTW nhằm đối phó với tình trạng suy giảm
kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam sau giai đoạn lạm phát cao bước vào thời kỳ
suy giảm, một trong những nguyên nhân chủ yếu là cuộc khủng hoảng toàn
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 29 -
cầu bắt nguồn từ Mỹ trong bối cảnh Việt Nam đang dần hội nhập sâu rộng
với nền kinh tế thế giới. Cùng với đó nhũng tác động của tình trạng lạm phát
cao những quý đầu năm cũng là nguyên nhân đã dẫn tới tình hình khủng
hoảng kinh tế những tháng cuối năm 2008. Vậy NHTW đã có những chính
sách gì để giải quyết tình trạng này:
Nghị quyết đưa ra 5 giải pháp chính Ngân hàng Nhà nước phải triển
khai, trong đó có việc thực hiện cơ cấu lại hạn nợ cho doanh nghiệp, giảm
lãi suất cơ bản, hướng dẫn cho vay theo lãi suất thỏa thuận…
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước phải có các biện pháp cụ thể để tạo
điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho các doanh nghiệp,
nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
hàng xuất khẩu và doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, như
tiếp tục xem xét giảm dự trữ bắt buộc, điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản phù
hợp. Theo đó:
Giảm lãi suất cơ bản từ mức 14% xuống 8,5% năm.
Lãi suất cơ bản 8.5% 3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008
Lãi suất cơ bản 8,5% 3161/QĐ-NHNN 22/12/2008
Lãi suất cơ bản 10,0% 2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008
Lãi suất cơ bản 10% 2948/QĐ-NHNN 05/12/2008
Lãi suất cơ bản 11% 2809/QĐ-NHNN 21/11/2008
Lãi suất cơ bản 12% 2559/QĐ-NHNN Ngày 3/11/2008 05/11/2008
Lãi suất cơ bản 13.0 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008
Lãi suất cơ bản 14.00% 2131/QĐ-NHNN ngày
25 tháng 09 năm 2008 01/10/2008
Giảm tỷ lệ dữ trữ bắt buộc.
2008 (3 lần thay đổi)
Tỷ lệ DTBB (%tổng số
dư tiền gửi phải DTBB) Lần 1: Lần 2: Lần 3:
- Không kỳ hạn và dưới
12 tháng
+ VND 11 10 8
+ Ngoại tệ 11 9 9
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 30 -
- Từ 12 -24 tháng
+ VND 5 4 2
+ Ngoại tệ 5 3 3
Thông qua nghiệp vụ thị trường mở NHTW cung một lượng
tiền ra thị trường.
Giao dịch
Quý I Quý II Quý III Quý IV
LS
(%)
KL (tỷ) LS
(%)
KL (tỷ) LS
(%)
KL (tỷ) LS
(%)
KL
(tỷ)
Mua kỳ
hạn
12,18 190.214 11,88 445.000 15 283.100 13,6 28.891
Bán hẳn 8,5 1.867 7,75 1.578 4,5 74.986
Đặc biệt các khoản tiền gửi của NHTM tại NHTW được trả lãi.
Lãi suất dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng sẽ
được điều chỉnh tăng lên mức 5%/năm kể từ ngày 1/10/2008 theo Quyết
định 2133/QĐ-NHNN. Trước đó, lãi suất này ở mức 3,6%/năm.
Thứ hai, nghiên cứu, hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện cho
vay theo lãi suất thỏa thuận quy định tại Nghị quyết số 23/2008/QH12.
Thứ ba, các ngân hàng thương mại thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn
nợ và áp dụng các giải pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy
định của pháp luật.
Thứ tư, điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; điều chỉnh
linh hoạt tỷ giá ngoại tệ theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu,
kiểm soát nhập khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại
xem xét điều chỉnh áp dụng lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng
xuống phù hợp theo mức lãi suất hiện hành; không phạt do quá hạn đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ khó khăn.
3) Tác động của chính sách tiền tệ đối với lãi suất.
Để đối phó với tình trạng suy giảm kinh tế, thiếu hụt các phương
tiện thanh toán, thiếu hụt vốn đối với nền kinh tế. NHTW đã thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng tạ động lực để nền kinh tế hồi phục, những chính sách
đó ảnh hưởng thế nào đến diễn biến lãi suất trên thị trường, chúnh ta hãy
cùng theo dõi phân tích dưới đây.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 31 -
Việc NHTW cung một lượng tiền ra thị trường đảm bảo tính thanh
khoản cho nền kinh tế, cung một lượng vốn lớn ra thị trường thông qua các
biện pháp như trả lãi cho các khoản dự trữ bắt buộc, chiết khấu lại các giấy
tờ đã phát hành trong khoảng thời gian tháng 2, tháng 3 năm 2008 đã góp
phần làm tăng cung vốn trên thị trường, làm giảm lãi suất trên thị trường
Cùng với đó, NHTW giảm mức dự trữ bắt buộc (1% với tiền gửi
VND kỳ hạn 12 tháng và 2% với tiền gửi VND kỳ hạn 12-24 tháng) tạo
điều kiện cho các NHTM tăng cường khả năng cung cấp tín dụng, góp phần
tăng lượng cung vốn trên thị trường, giảm lãi suất cho vay.
4) Tác động của mức lãi suất thấp đến các chủ thể trong nền kinh tế
Tiêu dùng và tiết kiệm : với mức lãi suất tín dụng thấp, các cá
nhân có cơ hội vay với mức chi phí thấp hơn, từ đó khuyến khích cá nhân
vay tiền để mua sắm và tiêu dùng, qua đó giải quyết tình trạng ứ đọng hàng
hóa của nhà sản xuất, góp phần làm tăng doanh thu cho nhà sản suất hàng
hóa, thúc đẩy mở rộng sản xuất kinh doanh. Cụ thể chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tháng 4 năm 2009 tăng 0.35% so với tháng 3, đưa chỉ số CPI tháng 4/
2009 tăng 1,68 % so với tháng 12 năm 2008, tăng 9,23% so với cùng kỳ
năm 2008.
Các ngân hàng thương mại : với việc lãi suất cho vay thấp giúp
cho các NHTM mở rộng tín dụng, tăng doanh thu từ hoạt động cho vay.
Tính đến cuối tháng 5-2009, tổng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế, bao gồm
dư nợ tín dụng bằng tiền đồng và dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ, đã tăng
14,91%, theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong khi đó,
mức tăng trưởng dư nợ tín dụng cùng kỳ năm ngoái là 17,66%. Theo đó, dư
nợ tín dụng bằng tiền đồng ước đạt 1.213,6 ngàn tỉ đồng, tăng 20,6% so với
cuối năm 2008. Dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ 251,6 tỉ đồng, giảm 6,3% so
với cuối năm 2008. Tổng vốn đầu tư cho nền kinh tế trong tháng 5-
2009, tính đến 31-5, ước đạt 1.537,9 tỉ đồng, tăng 4,1% so với tháng trước
và tăng 14,8% so với cuối năm 2008.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 32 -
Bên cạnh đó việc lãi suất thấp khiến cho các NHTM gặp khó khăn
trong việc huy động tiền gửi, gây ra sự mất cân bằng trong cơ cấu tài sản của
các ngân hàng, phát sinh nguy cơ thiếu hụt vốn để cung ứng. Vì vậy NHTW
đã có quyết định đúng đắn khi giảm dự trữ bắt buộc nhằm tránh gây căng
thẳng về tính thanh khoản của các NHTM. Ngày 30/9, lần đầu tiên trong
năm 2008, lãi suất cho vay VND kỳ hạn 1 ngày trên thị trường liên ngân
hàng thấp nhất, chỉ còn 8%/năm (giảm hơn 30% so mức lãi suất thời điểm
cao nhất trong những tháng đầu năm 2008). Đồng thời, việc trả lãi cho các
khoản tiền gửi tại NHTW và cho phép chiết khấu các giấy tờ có giá cũng
góp phần làm tăng khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại.
Các doanh nghiệp : việc lãi suất cho vay thấp cùng gói kích cầu trị
giá 6 tỷ USD của chính phủ, giúp cho các doanh nghiệp mạnh dạn tiếp cận
với nguồn vốn với chi phí thấp này. Với chính sách hỗ trợ lãi suất 4% kỳ hạn
2 năm của chính phủ, các doanh nghiệp có thể đầu tư vào sản xuất kinh
doanh với chi phí thấp. Chi phí đầu vào thấp giúp giảm giá cả các loại hàng
hóa, tăng cường khả năng tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp. Tính theo giá
so sánh 1994, sản xuất công nghiệp tháng 4/2009 ước tăng 5.31% so với
cùng kỳ năm 2008. Một số sản phẩm công nghiệp chủ chốt đều có tốc độ
tăng khá, như dầu thô tăng 21.9%, khí hóa lỏng tăng 33%, phân hóa học tăng
10.6%. Tính chung 4 tháng sản xuất công nghiệp vẫn tăng 3.3% nếu tính
theo giá so sánh.
5) Tác động của lãi suất đối với các chỉ số nền kinh tế vĩ mô
GDP : lãi suất thấp tăng nhu cầu tiêu dùng và mở rộng sản xuất, góp
phần vào mức tăng GDP nhũng tháng đầu năm 2009. Sau Quý I/2009 có tốc
độ tăng trưởng GDP chỉ đạt 3,1% - là quý có tốc độ tăng thấp nhất trong
những năm gần đây; quý II/2009 tốc độ tăng GDP 4,5% cao hơn quý 1/2009.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 3,9% so
với cùng kỳ.
So với quý 1/2009 sản xuất công nghiệp (SXCN) rơi vào tình trạng
trì trệ với tốc độ tăng chỉ đạt 2,5%, quý 2 SXCN đã có dấu hiệu phục hồi:
tháng 4 tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước, tháng 5 tăng 7,2%, ước tính
tháng 6 tăng 8,2%. Do vậy, tính chung 6 tháng đầu năm 2009, giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 4,8% so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2009 tăng 8,8%, là mức khá
tích cực.
Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu : lãi
suất thấp kéo theo tỷ giá giảm, làm hàng hóa của các doanh nghiệp trong
nước tại nước ngoài rẻ hơn, khuyến khích xuất khẩu. Làm bức tranh thâm
hụt cán cân thương mại trở lên tốt đẹp hơn. Xuất khẩu hàng hoá đã tăng trở
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 33 -
lại trong tháng 5 và tháng 6 năm 2009 (tháng 5, 6 tăng 3,2% và 6.5% so với
tháng trước). Nếu loại trừ vàng tái xuất của quý I thì kim ngạch xuất khẩu
quý II tăng 16,1%; trong đó đáng chú ý thủy sản tăng 27,7%, dầu thô tăng
25,8%, gạo tăng 23%, giày dép tăng 20,4%, hàng dệt may tăng 9,8%. Tốc độ
nhập khẩu giảm mạnh hơn: Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu 6 tháng đầu năm
2009 ước tính đạt 29,7 tỷ USD, giảm 34,1% so với cùng kỳ năm 2008, trong
đó hàng máy móc, thiết bị giảm 22,7% trong khi hàng tiêu dùng tăng 2,6%
phản ánh cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu đã có sự thay đổi. Tính chung 6
tháng đầu năm 2009 nhập siêu 2,1 tỷ USD, bằng 14,7% cùng kỳ năm trước.
PHẦN III : GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG CƠ CHẾ LÃI
SUẤT TẠI VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI
Thông qua những phân tích về cơ chế lãi suất tại Việt Nam từ trước
tháng 3/1989 cho đến nay. Ta có thể thấy những bước chuyển tích cực trong
chính sách điều hành lãi suất tại Việt Nam, phân tích trên cho thấy những
mặt hạn chế của một cơ chế quản lý mệnh lệnh hành chính đối với lãi suất.
Để giải quyết những hạn chế đó, Việt Nam đang có những bước đi lớn trong
quá trình tự do hóa lãi suất, trong đó việc áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản do
NHTW công bố là một bước đệm cho quá trình đó. Vậy tại sao phải tiến
hành tự do hóa lãi suất, tự do hóa lãi suất có những ưu thế như thế nào:
A. NHỮNG LỢI ÍCH TỪ VIỆC TỰ DO HÓA LÃI SUẤT.
Bất kỳ cơ cấu lãi suất dựa trên cơ sở thị trường nào cân bằng được
cung cầu tiền tệ và tín dụng trên thị trường tiền tệ và toàn bộ nền kinh tế thì
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 34 -
bản thân nó đã là một cơ chế kiểm soát tiền tệ hiệu quả nhất và giảm đáng kể
sự cần thiết phải dựa vào bất kỳ công cụ kiểm soát nào khác. Lãi suất do thị
trường tự do xác định mang lại những thuận lợi sau:
Đảm bảo điều chỉnh tự động và tức thì, do đó giảm rủi ro đối
với những sai lầm về chính sách.
Truyền tải các tín hiệu chính sách và tác động tới tất cả các bộ
phận của nền kinh tế.
Đảm bảo việc phân bổ tiền tệ và tín dụng tối ưu trên cơ sở lãi
suất, mức độ rủi ro tương đối và lợi nhuận thu được.
Đảm bảo nhất quán giữa chính sách tiền tệ, ngân sách và tỷ giá.
Làm cho áp lực thị trường tiền tệ thể hiện rõ tức thì.
Hỗ trợ và bổ sung cho việc quản lý tỷ giá hối đoái.
Làm giảm sự nhạy cảm chính trị đối với những thay đổi lãi
suất.
Cho phép NHTƯ rút về sau thị trường mà không mất khả năng
kiểm soát.
Trên đây là những thuận lợi của lãi suất tự do hoá, song cơ sở lý luận của
quá trình tiến hành tự do hoá là nhữg điểm trình bày dưới đây:
Ở đây, lãi suất tự do hoá, biến động theo cung cầu thị trường về
vốn có ý nghĩa phân bổ nguồn vốn khan hiếm cho những người vay cạnh
tranh nhau, đáp ứng nhu cầu của họ và có hiệu quả nhất; đồng thời có tác
dụng thu hút tiền gửi từ các nguồn lực trong nền kinh tế với chi phí hợp lý
nhất được cả ngân hàng và người gửi chấp nhận. Có thể nói rằng lập luận
phân bổ nguồn vốn hiệu quả là trung tâm của vấn đề. Điều này không thể
thực hiện trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát hành chính, làm cho các hoạt
động đầu tư bị biến dạng. Lãi suất được tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so với khi
bị kiểm soát, có khả năng điều tiết, thích nghi với điều kiện thay đổi, tạo sự
kích thích cho tăng trưởng tài chính.
Tự do hoá lãi suất cũng suất phát từ một thực tế là không một
chính phủ hay một NHTƯ nào có đủ khả năng để phân bổ và kiểm soát sự
phân bổ nguồn vốn một cách có hiệu quả cho hàng ngàn nhu cầu sử dụng
vốn khác nhau.
Trên thế giới đang diễn ra quá trình toà cầu hoá nhanh chóng
mà toàn cầu hoá tài chính là điển hình nhất của quá trình này. Trong quá
trình này, nhờ những phát triển vượt bậc của công nghệ và những nỗ lực của
các nước đang phát triển cạnh tranh thu hút các nguồn vốn quốc tế, các
luồng vốn quốc tế đã chảy từ nước này qua nước khác tự do hơn rất nhiều.
Nói chung, lợi ích của toàn cầu hoá là rất lớn mà mỗi quốc gia phải nắm lấy,
không thể bỏ qua. Trong lĩnh vực tài chính, toàn cầu cầu hoá đặt ra những cơ
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 35 -
hội và thách thức mới, trong đó một thách thức lớn là việc làm xói mòn và
giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp, như các
quy định trần sàn lãi suất; thay vào đó để đảm bảo kiểm soát tiền tệ các nước
dần chuyển sang thực hiện công cụ kiểm soát lãi suất gián tiếp như nghiệp
vụ thị trường mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại..., tức là các công cụ định
hướng thị trường để đảm bảo hội nhập thành công trong lĩnh vực tài chính,
trước hết lãi suất phải được tự do hoá.
B. GIẢI PHÁP CHUYỂN SANG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT:
1. Thiết kế và đưa vào sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền
tệ:
a) Dự trữ bắt buộc:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ
chức và mọi loại tài sản nợ. Việc không tuân thủ cần bị xử phạt nghiêm khắc
thông qua việc áp dụng mức lãi suất phạt cao trên số thiếu hụt bình quân cả
kỳ. Ngân hàng Trung ương phải có quyền quy định cách thức tính toán và
loại tài sản nợ cũng như loại hình tổ chức áp dụng dự trữ bắt buộc.
Cùng với xu thế chung của thế giới, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được
giảm thấp hơn, nên xem xét việc trả lãi toàn phần hay một phần do dự trữ
bắt buộc vượt quá mức nhất định.
b) Lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn:
Cần hợp nhất các thể thức tái cấp vốn thành một thể thức với một lãi
suất cho vay tái cấp vốn duy nhất. Thường cần có một thể thức chiết khấu
chung để cung cấp vốn khả dụng cho thị trường và ngăn chặn biến động quá
mức của lãi suất ngắn hạn, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng. Thể thức này
cần áp dụng thống nhất với mọi ngân hàng và cho phép được vay tự động
với các quy tắc và hạn mức quy định trước.
c) Nghiệp vụ thị trường mở:
Hoạt động thị trường mở đòi hỏi phải có thị trường thứ cấp với khối
lượng giao dịch lớn. Để thực hiện nghiệp vụ này, cả Ngân hàng Trung ương
và Ngân hàng thương mại cần phải nắm giữ và sẵn sàng nắm giữ trái phiếu.
Nếu không có thị trường chứng khoán thứ cấp sôi động, thì trên thực tế, các
Ngân hàng Trung ương sẽ bị hạn chế và khả năng sử dụng thị trường mở
một cách có hiệu quả trên thị trường sơ cấp. Điển hình là các nghiệp vụ đó
bao gồm đấu thầu chứng khoán được phát hành mới để thu hút tiền dự trữ
hoặc đấu thầu tín dụng của Ngân hàng Trung ương để cung ứng tiền dự trữ.
2. Xây dựng thị trường tiền tệ và thị trường vốn:
Điều hành chính sách tiền tệ bằng các công cụ gián tiếp, tự do hoá lãi
suất đòi hỏi phải có thị trường tiền tệ hoặc thị trường liên ngân hàng tốt để
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 36 -
truyền tải những biến số chính sách và lãi suất. Do vậy, cần phải thiết lập
những thị trường này có khả năng hình thành nên lãi suất thị trường, cho
phép Ngân hàng Trung ương can thiệp để thực hiện chính sách tiền tệ và
Ngân hàng thương mại có cơ chế quản lý vốn khả dụng dôi dư một cách tích
cực.
3. Cải cách hơn nữa hệ thống ngân hàng:
Ngân hàng Trung ương phải tiếp tục củng cố và phát huy vai trò
điều hành chính sách tiền tệ của mình. Với việc sử dụng các công cụ và cơ
chế thị trường để can thiệp, Ngân hàng Trung ương cần phải có được thông
tin cập nhật và tiếp xúc thường xuyên với thị trường. Điều này đòi hỏi phải
có sự thay đổi trong phương thức hoạt động của Ngân hàng Trung ương,
chuyển từ theo dõi thụ động và định kì việc tuân thủ các quy định bắt buộc
sang tham gia một cách tích cực và thường xuyên. Việc theo dõi hàng ngày
các diễn biến và tỉ giá, lãi suất và vốn khả dụng trên thị trường tiền tệ sẽ cho
biết thời điểm có sự căng thẳng trên thị trường và mức độ can thiệp. Ngân
hàng Trung ương có thể can thiệp khi cần thiết trên thị trường tiền tệ hoặc
ngoại hối một cách công khai hoặc gián tiếp thông qua các đại lý.
4. Chuyển lãi suất cơ bản từ lãi suất cho vay sang lãi suất tiền gửi:
Bước sang trung gian để chuyển sang tự do hoá lãi suất là cần
phải điều hành lãi suất qua việc điều hành lãi suất cơ bản của Ngân hàng
Trung ương. Hiện nay lãi suất cơ bản đưa ra cho các tổ chức tín dụng là lãi
suất cho vay. Tuy nhiên vì một sự cạnh tranh lành mạnh và an toàn hệ thống,
chúng ta cần chuyển dần sang cơ chế khống chế lãi suất tiền gửi tối đa làm
lãi suất cơ bản theo thông lệ quốc tế. Cụ thể:
Lãi suất tiền gửi tối đa = Lạm phát dự kiến + Lãi thực của người gửi tiền
Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi mức
khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ thể
phù hợp với cung cầu vốn. Thực chất của lãi suất cơ bản theo loại này là
Ngân hàng Trung ương chỉ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự
do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất cho vay thông
qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp của chính sách
tiền tệ.
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 37 -
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 38 -
Tiểu luận tài chính tín dụng Nhóm tiểu luận Anh 1/ K4
- 39 -
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lai_suat_nhung_nhan_to_anh_huong_va_tac_dong_cua_lai_suat_den_nen_kin_.pdf