Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát
triển nông nghiệp là vấn đề thiết thực cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Thực trạng kém
phát triển của nông nghiệp trong nhiều năm qua là một cản trở lớn đến tiến trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn tại địa phương hiện nay. Do nông nghiệp là một ngành kinh
tế lớn, có ảnh hưởng sâu rộng đến phát triển KT - XH của đất nước, nên việc tập trung đầu
tư vốn để phát triển nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong giai
đoạn hiện nay.
92 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2490 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lâm - Nông - Công nghiệp Thương mại, dịch vụ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam, giai đoạn 2006-2010, theo đó quy mô phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại đến
năm 2010 đảm bảo đạt được một số chỉ tiêu chủ yếu như
+ Hoàn thành việc cải tạo diện tích vườn tạp hiện có (5000 ha).
+ Xây dựng mới vườn đồi, vườn rừng : 5.000 ha.
+ Xây dựng mới mô hình kinh tế trang trại : 5.000 ha35.
- Về chăn nuôi: Phấn đấu tăng mạnh đàn gia súc, gia cầm để đến năm 2010 đạt tổng
đàn gia súc 20.000 con, tăng gần gấp đôi năm 2005. Trong đó chủ yếu là đàn bò cái lai
Zêbu đạt từ 50-60%, đạt tổng đàn trên 8.000 con, tăng gấp 3 lần hiện nay. Trong phát triển
chăn nuôi phải gắn với trồng cỏ; chăn nuôi phải chọn giống phù hợp có giá trị kinh tế cao,
có chuồng trại bảo vệ và phòng trừ dịch bệnh. Nâng diện tích ao hồ nuôi cá nước ngọt lên
28 ha năm 2010 tăng gấp đôi hiện nay14, tr.74. Tiếp tục thực hiện cơ chế hỗ trợ đầu tư
phát triển chăn nuôi bò trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, theo Quyết định số: 66/2004/QĐ-UB
ngày 20/8/2004 của UBND tỉnh giai đoạn 2004-2010 cụ thể: Mức vốn vay được hỗ trợ lãi
suất theo hợp đồng vay thực tế với các chi nhánh Ngân hàng như sau:
+ Bò cái lai : 10 triệu đồng/con
+ Bò cái địa phương : 5 triệu đồng/con ( thực hiện với hộ đồng bào dân tộc ít người).
+ Bò sữa : 15 triệu đồng/con.
+ Làm chuồng kiên cố (nền láng xi măng hoặc lát đá, tường xây hoặc gỗ đảm bảo yêu
cầu đông che hè thoáng) : 2,5 triệu đồng/con (bò cái sinh sản, bò sữa, bò chuyên thịt).
+ Trồng cỏ nuôi bò : 8 triệu đồng/ha.
- Về Lâm nghiệp: Thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ và phát triển vốn rừng hiện có.
Điều chỉnh diện tích rừng của các Lâm trường. Khoanh giao các khu sản xuất nương rẫy;
khu vực trồng rừng và tái sinh rừng để tạo điều kiện cho nhân dân vừa có đất sản xuất vừa
bảo vệ được trạng thái tự nhiên của rừng, nâng độ che phủ đạt 60% vào năn 2010, nhằm
phục vụ cho du lịch sinh thái. Đẩy nhanh công tác giao rừng, khoán quản lý bảo vệ rừng và
chăm sóc rừng. Trồng rừng 350 ha/năm tương ứng với 350 nghìn cây các loại (trong đó
cây quế nội 150 nghìn cây/năm).Giám sát chặt chẽ việc khai thác khoảng 10.000 m3 gỗ
làm nhà của chương trình 134 và gỗ rừng trồng đúng quy định 14, tr.74.
3.1.2.2. Phương hướng phát triển công nghiệp.
Từng bước đầu tư các cụm công nghiệp như cụm công nghiệp Khâm Đức, cụm công
nghiệp Phước Năng, cụm công nghiệp Phước Hiệp. Khuyến khích phát triển các loại hình
công nghiệp vừa và nhỏ phục vụ sản xuất và tiêu dùng tại chỗ như gia công cơ khí, sửa
chữa, chế biến nông lâm sản, chế biến thức ăn gia súc, khai thác vật liệu xây dựng… ưu
tiên thu hút đầu tư, kêu gọi các đối tác để phát triển các làng nghề, các ngành công nghiệp-
tiểu thủ công nghiệp như gia công chế tác song mây, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu…
tạo công ăn việc làm nhằm nâng cao mức sống người dân. Quản lý tốt việc khai thác
khoáng sản vàng nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên khoáng sản, tạo nguồn thu phù
hợp với quy định của pháp luật phục vụ cho đầu tư phát triển trên địa bàn huyện. Hợp tác
chặt chẽ với các đơn vị đầu tư thuỷ điện để phát triển hệ thống điện lưới quốc gia, làm tiền
đề cho phát triển công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông -
lâm nghiệp trên địa bàn tạo cơ sở thúc đẩy nông nghiệp phát triển 14.
3.1.2.3. Phương hướng phát triển thương mại, dịch vụ.
Động viên khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia mở rộng thị trường một
các lành mạnh theo đúng pháp luật. Đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường, đồng thời
làm tốt chức năng hỗ trợ sản xuất thông qua việc tiêu thụ sản phẩm và cung cấp vật tư
nông nghiệp. Tiếp tục thực hiện chính sách trợ cước, trợ giá đối với các mặt hàng chính
sách theo quy định của Chính phủ.
3.1.2.4. Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn
Việc xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn là điều kiện tiên
quyết để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, là tiền đề cơ bản giúp cho việc sản xuất,
giao lưu hàng hoá giữa các vùng trong cả nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn bao
gồm: mạng lưới đường giao thông, hệ thống cung cấp điện nông thôn, hệ thống thuỷ nông,
chế biến nông sản, hệ thống thông tin,v.v.
Thực trạng yếu kém về hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn đang là yếu tố cản trở để
khai thác có hiệu quả các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế nông thôn và thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Vì thế trong những năm đến cần tập trung sức
để xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn.
- Đối với hệ thống giao thông nông thôn
Cần tập trung giải quyết tốt các chương trình, dự án giao thông nông thôn ở các vùng,
các xã, nhất là các vùng có tiềm năng lớn, kết hợp phương thức Nhà nước và nhân dân
cùng làm. Trong công cuộc phát triển kinh tế nông thôn, đường giao thông đóng vai trò
quan trọng. Chúng cho phép hàng hoá nông sản dễ dàng tiếp cận thị trường, giảm bớt chi
phí và thời gian vận chuyển, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho cư dân nông thôn. Theo
nghiên cứu hiệu quả công của Ngân hàng thế giới, lợi ích do đầu tư vào đường xá là rất
cao. Cứ 1% tăng đầu tư cho đường xá thì sản lượng nông nghiệp tăng thêm 0,11%, mức lãi
này cao hơn nhiều so với đầu tư thuỷ lợi thậm chí cao gần bằng cấp thêm đất cho nông
dân.
- Về phát triển thuỷ lợi phục vụ nông nghiệp
Đầu tư phát triển thuỷ lợi luôn là ưu tiên hàng đầu, chiếm phần quan trọng trong đầu
tư xây dựng cơ bản của địa phương trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn.
Quan điểm của chính quyền địa phương trong những năm tới là tập trung hơn đến việc
nâng cấp, bảo dưỡng hệ thống thuỷ lợi sẵn có, thay vì chỉ đầu tư xây dựng công trình mới.
Biểu 3.3: Công trình thuỷ lợi của Nhà nước trên địa bàn
Tên Công trình Địa điểm xây dựng Năng lực tưới
1. Thuỷ lợi Xà Ca
2. Thuỷ lọi nước Chung
3. Thuỷ lợi Trường Đảng
4. Thuỷ lợi Thôn 1
5. Thuỷ lợi Xà Lung
6. Thuỷ lợi Đăk Nôn
7. Thuỷ lợi nước Xuyên
8. Thuỷ lợi nước Zút
9. Thuỷ lợi Trà Văn
10. Thuỷ lợi thôn 3
11. Thuỷ lợi thôn Nước Kiết
12. Thuỷ lợi Đăk Ba Sao
Phước Năng
Phước Năng
Phước Hiệp
Phước Chánh
Phước Hiệp
Phước Xuân
Phước Lộc
Phước Năng
Phước Kim
Phước Chánh
Phước Kim
Phước Thành
Tổng cộng
40
40
5
20
10
10
10
20
5
10
5
6
181 ha
Nguồn: Báo cáo thống kê huyện Phước Sơn
Nhìn chung trong định hướng phát triển thuỷ lợi, từng bước đang được điều chỉnh kết
cấu đầu tư để tăng dần hiệu quả. Phấn đấu trên 80% diện tích gieo trồng được chủ động
tưới tiêu. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 54/2006/NQ-HĐND ngày 4/5/2006 của Hội
đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam Về phát triển thuỷ lợi nhỏ, thuỷ lợi đất màu và kiên cố hoá
kênh mương trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006 - 2010. Cụ thể cơ chế đầu tư đối
với các xã thuộc (khu vực III) huyện miền núi cao, ngân sách tỉnh đầu tư toàn bộ công
trình, kể cả phần đầu mối và hệ thống kênh mương; các xã thuộc khu vực II, ngân sách
tỉnh đầu tư 80% kinh phí xây dựng công trình (kể cả phần đầu mối và phần kênh mương)
phần còn lại do địa phương huy động nhân dân thực hiện 21.
Hiện tại còn số đông nông dân các xã vùng cao, vùng xa nhất là đồng bào dân tộc tại
địa phương, chưa được hưởng những dịch vụ thuộc cơ sở hạ tầng cơ bản như hệ thống
đường xá trong mọi thời tiết, hệ thống tưới tiêu, hệ thống nước sạch, chợ cố định… đây là
mục tiêu cần tiếp tục phấn đấu xây dựng lâu dài cho mọi vùng nông thôn.
3.2. Giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp, nông thôn huyện Phước Sơn,
tỉnh Quảng Nam
3.2.1.Nhóm giải pháp cơ bản tạo đà, tạo môi trường, là cơ sở thu hút, huy động
vốn (cầu về vốn) có hiệu quả.
3.2.1.1.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần gắn với đa dạng hoá các hình thức
tổ chức sản xuất nông nghiệp
Thực chất của giải pháp này là giải phóng năng lực sản xuất, huy động mọi nguồn lực
trong nông nghiệp, nông thôn để đạt mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững.
Thực tiễn trong nông nghiệp ở huyện Phước Sơn - Quảng Nam, việc khẳng định sự
tồn tại và phát triển kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu
đã tạo ra khả năng huy động nguồn lực tại chỗ, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp.
Kinh tế nhà nước mà cụ thể là các nông, lâm trường quốc doanh, các doanh nghiệp
phục vụ phát triển nông nghiệp,… trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường cũng
đang chuyển sang sản xuất kinh doanh tổng hợp. Tuy vai trò của các doanh nghiệp, các
nông, lâm trường hiện còn mờ nhạt, tác động đối với nông nghiệp còn yếu, song cần
khẳng định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành
phần. Cần phát triển các doanh nghiệp nhà nước trong phục vụ phát triển nông nghiệp
và dịch vụ nông thôn để gắn bó chặt chẽ nông, lâm nghiệp và dịch vụ nông thôn với
nhau.
Phát triển kinh tế hộ nông nghiệp theo hướng có quy mô trung bình sẽ chiếm phần
lớn hộ, hộ quy mô nhỏ giảm dần; trang trại nông - lâm gia tăng. Đảm bảo sự bình đẳng
giũa kinh tế hộ với các thành phần kinh tế khác, khuyến khích kinh tế hộ mạnh dạn tự sản
xuất kinh doanh vào những ngành, những lĩnh vực mà họ có tiềm năng và đủ điều kiện để
phát triển.
Tổng kết và nhân rộng những điển hình tiên tiến, những hình mẫu về tổ chức sản xuất
và phát triển kinh tế nông thôn theo cơ chế thị trường. Tiến hành rà soát lại các nông, lâm
trường trên địa bàn. Nông lâm trường nào sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì tiếp tục đầu
tư phát triển, ngược lại kinh doanh kém hiệu quả thì tiến hành giải thể, phá sản, giao đất.
giao rừng cho kinh tế hộ quản lý.
Thực hiện bảo hiểm trong sản xuất nông nghiệp, tuy hình thức này chưa được áp
dụng rộng rãi và còn mới lạ. Nhưng trong sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng lớn của
thời tiết khí hậu, dễ bị thiên tai, dịch họa, giá cả nông sản lên xuống thất thường. Do vậy
cần thực hiện bảo hiểm nông nghiệp nhằm phân tán rủi ro, tổn thất, góp phần hạn chế thiệt
hại của nông dân có tác dụng thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Để bảo hiểm nông nghiệp
có kết quả, cần tư vấn kỹ thuật cho nông dân nhằm giúp sản xuất nông nghiệp đạt năng
suất cao, tránh được dịch bệnh, triển khai hoạt động bảo hiểm nông nghiệp nhằm bảo vệ an
toàn quá trình sản xuất, tạo môi trường thuận lợi khuyến khích người nông dân mạnh dạn
đầu tư, thu hút đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng nông sản.
3.2.1.2. Tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một quá trình có nhiều phức tạp đòi hỏi phải
có thời gian. Quá trình này diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều yếu tố nhưng yếu
tố quan trọng không thể thiếu đó là mức độ đầu tư nguồn vốn.
CNH, HĐH nông nghiệp có nội dung chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng thị trường - hiện đại, gắn với công nghiệp chế biến, thực hiện cơ khí
hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại
vào sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông
sản 38, tr.296.
CNH, HĐH nông thôn có nội dung chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng; tổ chức đời
sống xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và hiện đại ở nông thôn trên cơ sở nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân38, tr.296.
Như vậy cần tiếp tục mở rộng chính sách tín dụng, huy động vốn trong xã hội để
nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Nhà nước tạo các khuôn khổ luật pháp cần thiết
để các đối tượng này hoạt động công khai, thường xuyên được đánh giá, tổng kết rút kinh
nghiệm và diều chỉnh.
Để phát huy tác dụng tích cực hơn nữa Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông
thôn cần tìm mọi biện pháp để nâng cao tỷ trọng vốn trung, dài hạn/tổng dư nợ, đáp ứng
nhu cầu tín dụng đầu tư để phát triển sản xuất kinh doanh mới, đặc biệt là các ngành nghề
phi nông nghiệp hoặc đầu tư vào cây lâu năm. chuồng trại chăn nuôi…Đồng thời
NHNo&PTNT cũng cần làm rõ các khoản cho vay có hiệu quả, tạo ra sự phát triển tốt ở
nông thôn, làm rõ các khoản cho vay kém hiệu quả cần phải xem xét và cắt giảm hoặc xoá
bỏ.
3.2.1.3. Đẩy mạnh và hỗ trợ việc nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học- công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp
Khoa học - công nghệ là động lực của CNH, HĐH nông nghiệp. Việc ứng dụng các
thành tựu mới của khoa học - công nghệ vào sản xuất không chỉ làm tăng sức sản xuất, tạo
giá trị gia tăng của sản phẩm, mà còn góp phần chủ yếu vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hưóng tiến bộ.
Thực tế quá trình phát triển nông nghiệp tại địa phương trong nhiều năm qua cho thấy
việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông - lâm nghiệp chưa phổ
biến, chính vì thế năng suất, sản lượng trong những năm qua đạt chưa cao, chưa làm thay
đổi lớn diện mạo trong sản xuất nông nghiệp. Để đâỷ mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng
các thành tựu khoa học- công nghệ phải được coi là giải pháp quan trọng để phát triển
nông nghiệp, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trong quá trình sản xuất và phải
coi đó là động lực phát triển. Nhưng đây là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có
đội ngũ cán bộ nghiên cứu giỏi, nhiều kinh nghiệm và phải có kinh phí… Vì vậy cần có sự
chỉ đạo thường xuyên của huyện uỷ, uỷ ban nhân dân huyện tại địa phương: Cụ thể là:
- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, triển khai đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào
nông nghiệp.
Muốn nâng cao hiệu quả đầu tư, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp thì yêu cầu
đầu tiên là phải coi trọng việc nghiên cứu đầy đủ về cơ cấu cây trồng, vật nuôi có phù hợp
với điều kiện từng vùng không ? Chính vì vậy cần:
+ áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong việc cải tạo giống cây trồng, vật nuôi,
để tạo ra một sự đột phá về năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá
nông sản trên thị trường. Coi trọng nghiên cứu- ứng dụng công nghệ sinh học để có các
giống mới về cây, con phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai của huyện. Mở rộng phạm vi
áp dụng biện pháp sinh học trong các khâu chính của sản xuất nông nghiệp.
+ Lập chương trình nghiên cứu khoa học có hệ thống, từ khâu nghiên cứu đến triển
khai đối với từng vùng sản xuất hàng hoá nằm trong quy hoạch của huyện. Trước hết cần
tập trung ưu tiên đối với các chương trình cao su, Sâm Ngọc Linh, các vùng cây nguyên
liệu cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến nguyên liệu trên địa bàn tỉnh; chương
trình phát triển chăn nuôi lợn, trâu, bò…
+ Lựa chọn và đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi, kể cả thuê chuyên gia nước ngoài
có kinh nghiệm, có khả năng làm việc với nông dân trong các điều kiện khác nhau để
thực hiện các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp.
- Nâng cao năng lực tiếp thu và ứng dụng khoa học- công nghệ cho nông dân thông
qua đẩy mạnh công tác khuyến nông - khuyến lâm phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Thực tiễn tại địa phương lực lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất nông
nghiệp phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số đời sống còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí
thấp, lại phân bố không đều giữa các vùng, còn hạn chế rất nhiều trong việc tiếp thu và
ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ. Do vậy những kỹ thuật hiện đại, những loại
cây trồng, vật nuôi, giống mới đưa vào sản xuất cần đến sự hỗ trợ của các trung tâm
nghiên cứu và phát triển khoa học- công nghệ.
Công tác khuyến lâm, khuyến nông cần tổ chức linh hoạt, phù hợp với điều kiện xã
hội, tâm lý và dân trí từng vùng, song phải có địa điểm và cơ sở vật chất cụ thể để hướng
dẫn rộng rãi các tầng lớp dân cư, giúp nông dân có kiến thức khoa học kỹ thuật trong nông
nghiệp từ tuới tiêu, chọn giống, chọn nguồn thức ăn, bón phân, dùng thuốc kích thích tăng
trưởng, thuốc trừ sâu bện đến việc chế biến bảo quản. Đưa các trung tâm khuyến nông
thành cầu nối giữa việc chuyển giao kỹ thuật cho người dân đến việc thu nhận những yêu
cầu, khó khăn trong sản xuất để đề đạt cho những nhà nghiên cứu giải quyết. Cùng với tổ
chức khuyến nông Nhà nước cần khuyến khích và phát triển các hình thức khuyến nông
của các tổ chức sản xuất, các hội đoàn thể, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các thông tin
đại chúng phát thanh, truyền hình tham gia vào hoạt động phát triển nông nghiệp.
Việc mở rộng ứng dụng các thành tựu khoa học- công nghệ tạo ra khả năng nâng cao
năng suất lao động nông nghiệp, giải phóng một bộ phận lao động ra khỏi nghề nông. Đó
là cơ sở quan trọng để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Công nghiệp chế biến vói những
kỹ thuật và công nghệ mới được ứng dụng càng tạo thuận lợi để thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Một thực tế hiện nay sản phẩm hàng nông
sản của ta còn ít, giá thành còn cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường cùng một sản
phẩm còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng sản phẩm của ta còn thấp, mẫu
mã, bao bì còn nghèo nàn, hàm lượng khoa học- công nghệ kết tinh trong sản phẩm còn
thấp. Vì vậy cần phải đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật- công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp, tiến tới một nền nông nghiệp với sản phẩm đa dạng, phong phú chất lượng
cao đủ sức cạnh tranh cả thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.
3.2.1.4. Về chính sách thị trường sản phẩm của kinh tế nông thôn
Thị trường nông thôn về cơ bản đã được tự do hoá, các mặt hàng là sản phẩm của
kinh tế nông thôn cũng như các hàng hoá công nghiệp tiêu dùng và tư liệu sản xuất được
tự do lưu thông rộng rãi trong cả nước, tiềm năng của các thành phần kinh tế được phát
huy, trong đó khu vực tư nhân, hộ gia đình đã từng bước vươn ra chiếm lĩnh thị trường, tạo
sự cạnh tranh thị trường theo hướng tiến bộ.
Sau những năm tác động của chính sách đổi mới, sản xuất đã phát triển nhanh ở nông
thôn và đang chuyển dần từ tự cấp, tự túc sang hàng hoá và từ thiếu hụt sang trạng
thái có biểu hiện dư thừa cục bộ dẫn đến ách tắc trong tiêu thụ. Chính tình trạng này đang
là một cản trở, làm trì trệ sản xuất đòi hỏi phải có sự điều chỉnh các biện pháp, chính sách
điều tiết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm từ phí Nhà nước.
Khảo sát gần đây của nhiều cơ quan nghiên cứu cho thấy hiện nay đang diễn ra tình
trạng phát triển sản xuất không, hoặc chưa gắn bó mật thiết với thị trường tiêu thụ. Sự
thiếu gắn bó thể hiện cả về khối lượng, chất lượng, mẫu mã và giá cả các mặt hàng nông
sản làm ra. Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất có biểu hiện thiếu tính toán, hướng dẫn,
nghiên cứu về dung lượng thị trường đã dẫn đến cung - cầu không ăn khớp, khi giá cả tăng
lên thì nông dân đổ xô vào đầu tư, khi giá hạ, sản phẩm không tiêu thụ được lại cùng nhau
huỷ bỏ sản xuất đã trở thành căn bệnh kinh niên. Trong thực tế những năm vừa qua tình
trạng đó vừa không tạo ra một cơ cấu sản xuất ổn định, vừa gây nhiều thua thiệt cho người
sản xuất, nhà đầu tư.
Thực tế trên đây đòi hỏi Nhà nước cần phải có chính sách can thiệp trực tiếp hoặc
gián tiếp nhằm tạo ra sự cân bằng cung - cầu để ổn định tương đối giá tiêu thụ hàng nông
sản, không để người sản xuất bị quá thua thiệt khi cần bán sản phẩm. Chính sách điều tiết
khối lượng sản xuất theo nhu cầu của thị trường là một chính sách rất quan trọng mà nhiều
nước đang áp dụng.
Bên cạnh đó cần phải giúp nông dân tổ chức ra các kênh tiêu thụ sản phẩm của chính
họ có như vậy mới giúp họ tiếp cận thị trường một cách hợp lý, kịp thời và tự bảo vệ mình
trong thương trường.
Hiện tại, trong nước cần tập trung phát triển thị trường ở các tỉnh duyên hải Miền
Trung và các tỉnh , thành trong cả nước, các thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,
Thành phố Hồ Chí Minh,… các khu công nghiệp chế xuất, công nghiệp chế biến .
Thị trường xuất khẩu ngoài nước, trong những năm tới vẫn tiếp tục giữ vững thị
trường truyền thống như: Trung Quốc, Đài Loan, Cộng hoà Liên bang Nga…Bên cạnh đó
cần có chính sách tiếp thị thâm nhập vào các thị trường mới khi Việt Nam chính thức gia
nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, trong đó chú trọng thị trường trong khu vực như
Nhật Bản, ASEAN…với thị trường ASEAN đây là một thị trường đầy tiềm năng nó
không những là một thị trường lớn mà còn là thị trường dễ tính.
Nhà nước cần có chính sách thực sự khuyến khích mạnh ở tầm vĩ mô, như chính sách
thuế xuất nhập khẩu, hàng rào thuế quan, bảo trợ sản phẩm xuất khẩu tạo điều kiện đẩy mạnh
xuất khẩu hàng nông sản trong thời gian tới.
3.2.1.5. Phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định tốc độ và kết quả của tiến trình CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn. Con người là yếu tố trung tâm của sự phát triển nhanh và bền
vững, quy định mức tăng năng suất lao động. Do vậy, phải coi phát triển nâng cao nguồn
nhân lực là một trong những giải pháp quan trọng nhất cần được quan tâm đúng mức. Để
đáp ứng nhu cầu cán bộ khoa học và lực lượng lao động được đào tạo để phục vụ phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong thời gian tới cần phải:
- Tiến hành điều tra, đánh giá trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế,
cán bộ khoa học- kỹ thuật và trình độ văn hoá, kỹ thuật của lực lượng lao động nông
nghiệp, có chương trình và tổ chức tốt mạng lưới đào tạo dạy nghề, hướng nghiệp để vừa
đào tạo đội ngũ lao động lành nghề phục vụ thiết thực tại địa phương, vừa tạo đội ngũ cán
bộ quản lý kinh tế, chuyên gia giỏi ở nhiều lĩnh vực đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn trong từng giai đoạn.
- Thu hút các nguồn tài trợ trong nước và ngoài nước, tăng ngân sách cho phát triển
giáo dục đào tạo ở nông thôn, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị trường học, bồi
dưỡng đào tạo cho giáo viên, lập các quỹ khuyến học cho học sinh. Thực hiện đa dạng hoá
hình thức đào tạo, xã hội hoá giáo dục, khuyến khích các tổ chức kinh tế, xã hội, cá nhân,
hộ gia đình đầu tư phát triển giáo dục- đào tạo, mở các trường lớp, hiến đất xây dựng
trường, đóng góp tiền, công lao động cho xây dựng trường sở.
- Xây dựng chương trình và nội dung đào tạo phù hợp với từng loại đối tượng trong
nông nghiệp, tăng cường đào tạo kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, làm vườn để tăng năng suất
và hiệu quả sản xuất của người nông dân. Tăng cường đào tạo nghề cho phát triển công
nghiệp chế biến nông sản, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch.
- Xây dựng và kiện toàn đội ngũ viên chức nhà nước tại địa phương, từng bước thực
hiện chuẩn hoá đội ngũ cán bộ theo quy định của nhà nước, xây dựng quy chế tuyển dụng
công chức, đảm bảo có năng lực, trình độ thực hiện tốt công việc được giao. Đồng thời
tăng cường bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh để tăng khả năng
quản lý nông nghiệp, thực hiện liên kết giữa nông dân với nhà nước, nhà doanh nghiệp và
nhà khoa học trong phát triển nông nghiệp.
- Thực hiện đào tạo nghề cho thanh niên vào tuổi lao động, đảm bảo cho mọi thanh
niên được học nghề trước khi bước vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và hoạt
động dịch vụ nông thôn. Mở rộng các hình thức đào tạo như: đào tạo, kèm cặp tại chỗ
các cơ sở sản xuất, xí nghiệp; đào tạo tại trung tâm giáo dục thường xuyên, gửi đi đào
tạo. Ngoài ra cần liên tục mở các lớp tập huấn ngắn ngày về kỹ thuật - công nghệ và
chuyển giao công nghệ cho nông dân.
- Có chính sách thu hút nguồn cán bộ khoa học kỹ thuật, lao động kỹ thuật có kiến
thức, trình độ tay nghề cao từ nơi khác về công tác tại địa phương. Ngoài ra, cũng cần tạo
điều kiện cho cán bộ, học sinh có nhu cầu nâng cao trình độ, đi nghiên cứu, thực tập, du
học ở nước ngoài.
- Từng bước thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở trên địa bàn. Tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 22 tháng 12 năm 2004 của Ban Thường vụ tỉnh
uỷ về việc đào tạo và sử dụng cán bộ dân tộc ít người. Đối với 6 huyện miền núi cao, trong
kế hoạch 5 năm 2005-2010 phải tăng tỷ lệ cán bộ dân tộc ít người lên 30-40%(hiện nay
bình quân mới chỉ đạt xấp xỉ 19,6%). Trong đó có từ 30% trở lên cán bộ giữ các chức vụ
trưởng, phó phòng, ban, uỷ viên thường vụ, ban chấp hành các đoàn thể cấp huyện, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp thôn 1.
3.2.1.6. Vận dụng có hiệu quả hệ thống chính sách kinh tế thúc đẩy nông nghiệp
phát triển.
- Chính sách đất đai
Đối với sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam nói chung và tại huyện Phước Sơn nói
riêng, vấn đề ruộng đất luôn luôn là sự quan tâm hàng đầu của người nông dân, vì nó là tư
liệu sản xuất cơ bản nhất. Mặc dù hiện nay tại địa phương đất rộng người thưa, nhưng
phần lớn diện tích đất thuộc các nông lâm trường quốc doanh là các chủ quản lý sử dụng
đất, song trong thực tế những người chủ quản lý cụ thể gắn bó với từng diện tích đất sản
xuất lại không rõ ràng. Do vậy, sự gắn kết giữa người lao động với tư liệu sản xuất (đất
đai) rất lỏng lẻo dẫn đến kìm hãm động lực của sự phát triển.
Nhằm khắc phục hạn chế đó, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã quyết định giao
khoán ổn định đến hộ nông dân xã viên với thời gian 15 năm đối với cây trồng hàng năm
và 50 năm đối với cây lâu năm, với mức khoán ổn định trong 5 năm.
Để hoàn thiện và nâng cao chủ trương trên, Nghị quyết Trung ương 5 khoá VII (tháng
6năm 1993) đã khẳng định: ruộng đất được giao cho các hộ nông dân để sử dụng lâu dài,
tạo điều kiện để hộ nông dân thực sự tự chủ trên ruọng đất được giao. Trong thời gian sử
dụng đất, hộ nông dân được hưởng 5 quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế
và thế chấp quyền sử dụng. Kết quả cuối cùng là năng suất, sản lượng cây trồng đã tăng
liên tục trong những năm qua.
- Về chính sách đầu tư phát triển
Chính sách đầu tư của nhà nước nói chung và đối với nông nghiệp, nông thôn nói
riêng trong những năm gần đây đã được điều chỉnh theo hướng: Nhà nước tập trung, cắt
giảm các khoản đầu tư hiệu quả thấp hoặc chưa bức xúc; tạo điều kiện và khuyến khích
các thành phần kinh tế cùng bỏ vốn đầu tư vào sản xuất- kinh doanh; đồng thời với chính
sách mở cửa và hội nhập quốc tế Việt Nam đã có thêm nhiều nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, các nguồn vốn đầu tư chính cho nông nghiệp là:
+ Vốn ngân sách: nguồn vốn này được tập trung đầu tư vào các lĩnh vực chủ yếu
như:
Thủy lợi, đường giao thông, xây dựng các viện, trung tâm nghiên cứu khoa học nông
nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản.
Phủ xanh đất trống đồi núi trọc (trồng, khoanh nuôi bảo vệ rừng);
Khai thác đất hoang hóa bãi bồi ven sông, ven biển;
Xây dựng các cảng cá;
Xây dựng cơ sở hạ tầng trong các nông trường quốc doanh, nhà máy chế biến nông-
lâm thủy sản.
+ Vốn tín dụng:(thường với lãi suất ưu đãi) được đầu tư vào.
Trồng mới các cây công nghiệp như cao su, chè, cà phê, mía đường;
Nâng cấp xây mới các cơ sở chế biến;
Đóng mới, cải hoán các tàu có công suất lớn (từ 45CV trở lên) phục vụ đánh cá xa
bờ;
Cho vay theo nhu cầu sản xuất;
Các mục tiêu cho vay khác.
+ Vốn của các doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư.
+ Vốn của tư nhân và các hộ nông dân tự đầu tư.
+ Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Nhờ có sự đa dạng hoá các nguồn vốn và kênh đầu tư mà tổng đầu tư cho nông
nghiệp và nông thôn đã tăng lên đáng kể trong những năm qua.
- Chính sách khoa học kỹ thuật
Mục đích CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn là triển khai, ứng dụng các thành tựu
khoa học kỹ thuật hiện đại vào các khâu nuôi trồng, sản xuất, chế biến sản phẩm nông
nghiệp. Vì vậy hàng năm địa phương nên dành một tỷ lệ ngân sách thích đáng cho nghiên
cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp.
Khuyến khích các thành phần kinh tế, các hội khoa học kỹ thuật thành lập các tổ chức
khoa học- công nghệ để đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và triển khai dịch vụ khoa
học- công nghệ phục vụ CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn.
Ban hành các chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ công nghệ-
kỹ thuật vào nông nghiệp. Tạo điều kiện về trang thiết bị, kỹ thuật mà địa phương có
thể, nhằm phục vụ việc nghiên cứu, ứng dụng có hiệu quả.
- Chính sách bảo trợ cho nông dân
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bảo trợ sản xuất là yêu cầu
tất yếu đối với kinh tế nói chung và nông dân nói riêng. Xuất phát từ những yêu cầu đặc
thù vốn có của nông nghiệp, chu kỳ sản xuất của một số cây trồng, vật nuôi; những sản
phẩm nông nghiệp lại trực tiếp bảo đảm sự tồn tại và phát triển của con người. Cho nên,
yêu cầu của sự ổn định sản phẩm nông nghiệp được đặt lên hàng đầu, nhất là đối với
những sản phẩm thiết yếu.
Sản xuất nông nghiệp trong điều kiện cơ chế thị trường tất yếu cũng phải tuân thủ
những quy luật chung của nó. Nhưng để không làm rối loạn quan hệ cung - cầu đối với các
sản phẩm nông nghiệp, không gây biến động và làm mất cân đối trong sản xuất, làm
phương hại lợi íh chính đáng của người nông dân và phát triển kinh tế nông nghiệp theo
những cơ cấu đã được xác định, cần thiết phải có vai trò điều tiết của Nhà nước. Chính
sách bảo trợ là biện pháp can thiệp trực tiếp của Nhà nước để khắc phục tình trạng biến
động về giá cả do quan hệ cung - cầu của thị trường trong và ngoài nước gây ra. Đây chính
là giải pháp để ổn định sản xuất, ổn định thu nhập và nâng cao đời sống của dân cư nông
thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo ra sự ổn định về kinh tế - xã
hội.
Nhà nước có thể sử dụng nhiều chính sách để tiến hành bảo trợ sản xuất cho người
nông dân: bảo trợ trực tiếp hoặc gián tiếp; cũng có thể bảo trợ "đầu vào" thông qua giảm
giá vật tư, nhiên liệu, giống và các dịch vụ do Nhà nước đảm bảo; hoặc bảo trợ "đầu ra"
bằng việc Nhà nước bao tiêu những sản phẩm cần khuyến khích.
Hiện nay, do nguồn vốn từ ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, thì hình thức bảo trợ tốt
nhất là bảo trợ gián tiếp, Nội dung của phương thức này là Nhà nước không dùng ngân
sách để can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm ở thị
trường, mà thông qua hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô để tác động vào quá trình CNH,
HĐH nông nghịêp, nông thôn. Những biện pháp hỗ trợ bao gồm: bảo trợ về giá, hỗ trợ về
vốn, hoặc chính sách thuế, tín dụng: miễn giảm thuế, lãi suất ưu đãi và hỗ trợ lãi
suất…Trong các biện pháp đó, bảo trợ về giá tỏ ra có ưu thế tích cực. Tuy nhiên, do
nguồn ngân sách có hạn, cần lựa chọn những sản phẩm, những ngành, những lĩnh vực
có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế trên địa bàn để tiến hành bảo trợ, bên cạnh đó
cần kết hợp với các biện pháp khác để tạo điều kiện kinh tế nông nghiệp luôn giữ được
ổn định và tăng trưởng một cách bền vững.
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với NHNo &PTNT nhằm đầu tư, đầu tư có trọng
điểm và hiệu quả phục vụ sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải xác định: nông thôn là thị
trường cho vay, nông nghiệp là đối tượng cho vay, nông dân là khách hàng chủ yếu của
mình. Tạo mọi điều kiện thuận lợi về nguồn vốn để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp.
3.2.2.1. Những giải pháp về huy động vốn
- Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn theo phương châm " đi vay để cho vay",
chủ yếu là huy động vốn tại chỗ, thực hiện mô hình người vay vốn lúc này là người cung
ứng vốn những lúc khác, nhằm làm cho đồng vốn vận động liên tục, mang lại hiệu quả tối
đa của đồng vốn trong các doanh nghiệp và hộ dân cư. Ngoài những hình thức huy động
vốn truyền thống của mình. NHNo&PTNT cần đưa ra nhiều hình thức tiết kiệm có kỳ hạn
với lãi suất tiết kiệm được vận dụng năng động phù hợp với diễn biến của thị trường trong
từng thời kỳ, như trả lãi trước, tiền gửi có khuyến khích, tiết kiệm dự thưởng bằng vàng,
kỳ phiếu có mục đích kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng,…Tăng cường
mở rộng các điểm huy động tiết kiệm đến từng cụm dân cư, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là
các tụ điểm kinh tế như thị xã, thị trấn, thị tứ, chợ, vận động mọi đối tượng dân cư sử dụng
hình thức tiết kiệm "bỏ ống" và có cán bộ định kỳ đi thu gom tiền tiết kiệm này.
Biểu 3.4: Chiến lược tăng trưởng nguồn vốn huy động NHNo&PTNT huyện Phước
Sơn ( 2005 - 2010)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005 Năm 2010
Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng
Tổng nguồn vốn huy động
1. Tiền gửi dân cư
Trong đó:
- Tiền gửi tiết kiệm
- Tiền gửi phát hành kỳ phiếu
Trong đó:
+ Kỳ phiếu trên 1 năm
2. Tiền gửi các tổ chức kinh tế
3. Các loại tiền gửi khác
47.670
26.218
10.487
15.731
9.438
7.151
14.301
100%
55%
22%
33%
19,79%
15%
30%
95.340
57.204
22.881
34.323
20.539
14.301
23.810
100%
60%
24%
36%
21,54%
15%
25%
Nguồn: Ngân hàng No&PTNT huyện Phước Sơn tháng 5/2005
- Để đáp ứng đầu tư chiều sâu cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, cần phải có
vốn trung và dài hạn để cung ứng cho nhu cầu bức xúc này. Cần tăng loại hình tiết kiệm
dài hạn, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có kỳ hạn từ 3 -5 năm và từ 5 - 10 năm với lãi suất
được điều chỉnh thoả đáng theo nguyên tắc thời gian huy động càng dài lãi suất càng cao.
Đồng thời, áp dụng bảo hiểm tiền gửi theo giá trị vàng để đảm bảo giá trị tiền gửi cho
người gửi tiền.
- Tham gia tích cực hơn vào thị trường vốn của hệ thống ngân hàng nói chung (thị
trường liên ngân hàng, thị trường đầu tư tín phiếu, trái phiếu kho bạc và các thị trường thứ cấp
khác…) để tạo nguồn vốn lớn cho đầu tư tín dụng.
- Huy động tiền gửi tiết kiệm gắn với tín dụng, để tạo ý thức tiết kiệm trong toàn dân
tăng khả năng thu hút và cung cấp tín dụng của ngân hàng. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ
vốn huy động tăng bình quân hàng năm là 20%, trong đó vốn có kỳ hạn trên một năm đạt
20,5 tỷ đồng, chiếm 21,54%/tổng nguồn vốn huy động (biểu 3.4).
3.2.2.2. Những giải pháp về sử dụng vốn
Trên cơ sở chiến lược tăng trưởng dư nợ đến năm 2010 tại chi nhánh NHNo&PTNT
huyện Phước Sơn (Biểu 3.5), phấn đấu tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân hàng năm là
19%/năm, trong đó dư nợ cho vay kinh tế cá thể, Hộ gia đình chiếm 50% tổng dư nợ, với
2.032 hộ có dư nợ, chiếm 54,77% số hộ trên địa bàn, đồng thời tăng dư nợ cho vay trung,
dài hạn từ 5.550 triệu đồng lên 23.087 triệu đồng, đáp ứng nhu cầu vốn đối với các Hộ gia
đình phát triển kinh tế trang trại tại địa bàn. Để đạt được tốc độ tăng trưởng nêu trên, phải
thực hiện đồng bộ một số giải pháp:
- Đa dạng hoá các hình thức cho vay kết hợp với chu kỳ sản xuất và thu hoạch. Thời
gian qua, NHNo&PTNT đã từng bước đa dạng hoá các hình thức cho vay, góp phần tích
cực thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, song cần phải kết hợp giữa thời hạn cho
vay với chu kỳ sản xuất và thu hoạch của nông sản, vì đối tượng cho vay chủ yếu của
Ngân hàng Nông nghiệp là các hộ nông dân và các doanh nghiệp phục vụ phát triển nông
nghiệp, thời hạn cho vay phải tương ứng với chu kỳ sản xuất cộng với thời gian tiêu thụ
sản phẩm, như vậy mới tạo cho hộ nông dân thu hồi được vốn và có lãi.
Biểu 3.5: Chiến lược tăng trưởng tín dụng NHNo&PTNT huyện
Phước Sơn (2005 - 2010)
Đơn vị tính : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005 Năm 2010
Dư nợ Tỷ
trọng
Dư nợ Tỷ
trọng
Tổng dư nợ
1. Dư nợ Kinh tế Quốc Doanh
2. Dư nợ kinh tế ngoài Quốc
doanh
3. Dư nợ kinh tế tập thể
4. Dư nợ kinh tế cá thể, Hộ gia
39.464
16.764
4.200
0
18.500
100%
42,48%
10,65%
46,87%
76.954
15.390
23.087
37.477
100%
20%
30%
50%
đình
Trong đó:
- Ngắn hạn
+ Số hộ
+ Số tiền
- Trung, dài hạn
+ Số hộ
+ Số tiến
1.015 hộ
12.950
449
5.550
32,81%
14,06%
1.269 hộ
15.390
763
23.087
20%
30%
Nguồn: Ngân hàng No&PTNT huyện Phước Sơn tháng 5/2005
- Đơn giản hoá thủ tục vay vốn đối với các hộ nông dân. Cần coi việc dùng tài sản
thế chấp chỉ là phương tiện, là biện pháp đề phòng rủi ro đối với các khoản vốn vay lớn,
còn đối với hộ nông dân vay món nhỏ có thể thực hiện cấp sổ vay vốn để hộ nông dân vay
trả nhiều lần, thông qua bảo lãnh của trưởng thôn, của xã, hoặc lấy thu nhập gia đình làm
căn cứ cho vay.
- Xử lý lãi suất là vấn đề nan giải trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng,
làm thế nào để lãi suất cho vay phải vừa bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
Nông nghiệp, vừa tạo được động lực chính sách khuyến khích kinh tế hộ nông dân phát
triển. Đây là vấn đề lớn trong điều kiện kinh tế thị trường, khi mà lạm phát trong nền kinh
tế không ổn định. Việc xử lý lãi suất phải được phối hợp và điều hành trong toàn hệ thống
của Ngân hàng Nông nghiệp. Cần căn cứ vào điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội của từng
miền, từng vùng, từng khu vực để có những quy định thích hợp, mềm dẻo và linh hoạt.
Đồng thời ngân hàng phải tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay.
- Tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thấp tỷ lệ nợ qúa hạn:
Chính vì việc cho vay ở nông thôn, nỗi ám ảnh về rủi ro, thất bát luôn đè nặng lên tâm lý
người cho vay và người sản xuất nông nghiệp và hàng loạt các nhân tố gây rủi ro của nền
kinh tế thị trường đối với hàng nông sản, thực phẩm… Ngân hàng Nông nghiệp phải có
những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và giảm thấp tỷ lệ nợ xấu, không ngừng nâng
cao chất lượng tín dụng.
- Tiếp tục đào tạo lại nhân viên và sử dụng máy vi tính nối mạng trong toàn hệ thống
để quản lý điều hành thống nhất, tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong quá trình
hoạt động là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tăng cường sức mạnh nội lực trong hoạt động
của toàn hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, là nhân tố
quyết định sự phát triển ổn định vững chắc trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình là phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu giai đoạn 2006 - 2010 tín dụng Ngân hàng cần
phối hợp tập trung thực hiện các nội dung sau đây:
Một là, xây dựng chính sách huy động vốn, đầu tư theo mô hình tổng hợp lực nguồn,
gồm tất cả mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn trong nước là quyết định,
nguồn tại chỗ là cơ bản, nguồn bên ngoài (từ nước ngoài, địa phương khác) là quan trọng.
Nguồn vốn ngân sách là nhân tố "dẫn đường, dọn đường, nền tảng" của mọi công cuộc đầu
tư vào nông nghiệp, nông thôn, do đó càng phải tiết kiệm, bảo toàn, nâng cao hiệu quả
kinh tế - xã hội của nguồn vốn này. Tập trung đầu tư cải tạo, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ
tầng nông nghiệp, nông thôn từ nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn ODA và các nguồn tài
trợ ưu đãi khác. Xây dựng những dự án đầu tư tổng thể vào nông nghiệp để cứ một đồng
vốn ngân sách đầu tư phải kéo theo, thu hút hàng trăm ngàn lần vốn của mọi thành phần
kinh tế khác.
Hai là, đa dạng hoá việc huy động vốn đầu tư cho nông nghiệp trên cơ sở khai
thác, sử dụng có quy hoạch, có kế hoạch và có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh: lao
động, đất đai, thổ nhưỡng, tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái…đặc biệt chú
trọng thu hút "chất xám", các phát minh, tiến bộ khoa học - kỹ thuật và kinh nghiệm
quản lý, xúc tiến thương mại. Bên cạnh đó cần tôn trọng nguyên tắc " lấy ngắn nuôi
dài", bảo toàn, tái tạo và tăng trưởng giá trị vốn bằng tiền, dưới các dạng vốn tài chính,
vốn tín dụng, vốn sử dụng đất, vốn góp liên doanh, vốn cổ phần. Tranh thủ thu hút và
sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nước ngoài viện trợ không hoàn lại, nguồn vốn tài
trợ ưu đãi cho các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Ba là, xây dựng hệ thống chính sách phát triển nông nghiêp, nông thôn thống nhất,
đồng bộ ở tầm quốc gia, trong đó có chính sách đầu tư là bộ phận cấu thành quan trọng
nhất, xuyên suốt nhất. Để triển khai chính sách đầu tư cho nông nghiệp cần kiện toàn chính
sách tài chính - tiền tệ, với khâu then chót là ưu đãi cho khu vực nông nghiệp, nông thôn
về thuế, lãi suất tín dụng và phân bổ vốn ngân sách. Chính sách bảo trợ xuất khẩu, chính
sách tiêu thụ hàng nông sản, chính sách đất đai, chính sách mặt hàng, giá cả và thị trường,
là những cấu thành hết sức quan trọng góp phần tháo gỡ ách tắc " đầu vào - đầu ra" trong
lưu thông hàng nông sản, thiết lập môi trường tốt thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp,
nông thôn.
Bốn là, xây dựng chính sách đầu tư tín dụng cho nông nghiệp vừa thích ứng với cơ
chế thị trường, vừa tuân thủ sự điều tiết quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tuân thủ nguyên
tắc tín dụng trong sự kết hợp hài hoà với đầu tư phát triển theo quy hoạch, kế hoạch có
trọng tâm, trọng điểm, coi trọng hiệu quả kinh tế - xã hội về lâu dài, khắc phục tư
tưởng cho theo lợi ích cục bộ, kinh doanh đơn thuần, trước mắt. Từng bước tiến tới xoá
bỏ mọi bao cấp qua con đường tín dụng. Lấy tín dụng làm phương thức đầu tư chủ yếu
mọi nguồn vốn, phân biệt rạch ròi tài trợ chính sách xã hội với đầu tư tín dụng kinh
doanh.
Năm là, phát huy vai trò đòn bẩy lãi suất tín dụng một cách hợp lý và linh hoạt,
giảm nhẹ gánh nặng lãi suất cho nông nghiệp, nông dân. Cần nâng lãi suất tiền gửi của
đồng tiền cao chút ít để thu hút nguồn nội lực trong nước hơn việc chú trọng vay nợ
nước ngoài đưa đến gánh nặng nợ ngoại tệ chồng chất. Kiện toàn cơ chế tín dụng và
từng bước áp sát thị trường, sử dụng đồng tiền tín dụng định hướng sản xuất - kinh
doanh, đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn của nông dân, hạn chế dần những hợp
đồng ít ỏi, rải mành mành, thủ tục tiếp nhận vốn nhiêu khê, lãi suất thực sự bị tăng cao do
phụ phí lớn.
Sáu là, nhà nước cần có chính sách ưu đãi tích cực hoạt động tín dụng dài hạn trong
nông nghiệp, chuyển dần từ bù lỗ do " bao cấp " lãi suất sang trợ giá lâu dài một số hàng
nông sản chiến lược, miễm giảm hoặc giãn thuế cho hệ thống các tổ chức tín dụng phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn; thậm chí có chính sách ưu đãi rõ ràng đối với bất kỳ
chương trình đầu tư nào của mọi tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, tư nhân trong và ngoài
nước vào nông nghiệp, phục vụ xuất khẩu, tự cân đối ngoại tệ, tạo nguồn thu ngoại tệ lớn.
Bảy là, kết hợp nguyên tắc tín dụng với các công cụ tài chính khác (như nới lỏng
thuế, phí, bù lỗ lãi suất, trợ giá hàng nông sản, cấp đủ vốn lưu động…) để giảm thiểu rủi
ro, bảo toàn vốn tín dụng ngân hàng. Tăng cường thanh tra, giám sát việc đầu tư vốn trong
nông nghiệp, đảm bảo chất lượng mọi quy trình thẩm định, xét duyệt, phân bổ, sử dụng
vốn đầu tư. Cải tiến đa dạng hoá các hình thức cho vay và thanh toán nhằm vừa rút ngắn
quãng đường vận động của đồng vốn đến đúng các địa chỉ đầu tư, vừa tiết kiệm đồng vốn,
giảm chi phí tín dụng; phòng ngừa tốt rủi ro bằng cách phát huy tín dụng đồng tài trợ theo
dự án; tín dụng khép kín, hoàn chỉnh theo quy trình sinh trưởng cây trồng, vật nuôi; quy
trình cung ứng vật tư - sản xuất - thu mua - chế biến - tiêu thụ - xuất khẩu nông sản hàng
hoá, tín dụng tập thể, tương hỗ đến từng hợp tác xã, tổ, đội, đoàn thể hoặc nhóm người lao
động…
Tám là, tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống tổ chức đầu tư vốn trong nông nghiệp, nông
thôn thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi nhà đầu tư trong và ngoài nước,
trong đó kênh đầu tư vốn ngân sách, vốn tín dụng tập trung (Nhà nước thống nhất quản lý)
đóng vai trò chủ đạo. Thống nhất các loại hình tín dụng nông thôn theo một số định chế
thích hợp hoàn cảnh, địa bàn cụ thể: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Ngân hàng phục vụ người nghèo, Quỹ tài trợ xuất khẩu nông sản, Quỹ tín dụng nhân dân,
Quỹ trợ giúp áp dụng tiến bộ kỹ thuật…Tập trung quản lý các nguồn vốn đầu tư thông qua
phát triển thị trường vốn nông thôn có sự tham gia cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng của
mọi thành viên. Kiện toàn hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động đầu tư tín dụng
nông thôn. Xây dựng cơ chế đầu tư thích hợp tính chất nguồn vốn đầu tư.
Chín là, hướng mạnh chính sách đầu tư tập trung vốn cho các chương trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Nâng cấp, đổi mới trang thiết bị máy móc, kỹ thuật,
xây mới cơ sở hạ tầng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ nông nghiệp, nông
thôn, áp dụng các thành tựu công nghệ sinh học, chú trọng bảo vệ môi trường, dự báo thời
tiết, phòng ngừa thiên tai. Chú trọng đầu tư nâng cấp các khâu bảo quản, chế biến, vận
chuyển, tiêu thụ hàng nông sản. Tranh thủ những kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiến
tới xây dựng và mở rộng thị phần một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam ra thị trường bên ngoài.
Ngoài ra cần phải phát huy vai trò kinh tế hộ gia đình, xây dựng thiết chế dân chủ
nông thôn và lành mạnh hoá tài chính cơ sở. Đó cũng là những điều kiện hết sức cơ bản
góp phần thực hiện huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư để phát triển nông nghiệp,
nông thôn hiện nay.
Hệ thống hai nhóm giải pháp trong một chỉnh thể, là môi trường, điều kiện cần và đủ
đảm bảo phát triển cầu và cung vốn có hiệu quả kinh tế-xã hội bền vững.
kết luận
Đa số người nghèo ở Việt Nam sống ở vùng nông thôn. Chiến lược phát triển kinh tế
của quốc gia sẽ không thành công trọn vẹn nếu không nâng cao được chất lượng cuộc sống
của khu vực đông dân cư này, đặc biệt là những người sống ở vùng núi, nơi chiếm tới 70%
diện tích đất Việt Nam. Thất bại trong việc nâng cao đời sống nông dân sẽ càng nới rộng
khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị, tạo nên
những khác biệt lớn về sức khỏe cũng như về giáo dục giữa hai vùng trên. Điều này sẽ dẫn
tới những thành phố đông đúc chật hẹp quá tải ngoài ý muốn, nghèo đói ở khu vực nông
thôn sẽ ảnh hưởng đến khu vực thành thị kéo theo sự sa sút trong sản xuất và tụt hậu về
kinh tế. Chính vì vậy:
Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát
triển nông nghiệp là vấn đề thiết thực cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Thực trạng kém
phát triển của nông nghiệp trong nhiều năm qua là một cản trở lớn đến tiến trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn tại địa phương hiện nay. Do nông nghiệp là một ngành kinh
tế lớn, có ảnh hưởng sâu rộng đến phát triển KT - XH của đất nước, nên việc tập trung đầu
tư vốn để phát triển nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong giai
đoạn hiện nay.
Phước Sơn là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam có nhiều tiềm năng, thế
mạnh. Song bên cạnh đó vẫn còn nhiều mặt khó khăn, hạn chế để đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp. Đó là tiềm năng lao động, đất đai, mặt nước chưa được khai thác triệt để, cơ
cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm. Sản xuất nông nghiệp nhiều nơi còn phân tán,
mang yếu tố tự phát; trình độ khoa học- công nghệ của sản xuất còn lạc hậu nên năng suất,
chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp còn thấp, kém hiệu
quả, đời sống một bộ phận nông dân, nhất là ở vùng sâu, vừng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số còn nhiều khó khăn. Từ năm 2000 đến nay, bằng việc triển khai thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng sáng tạo vào điều kiện địa phương,
toàn huyện đã triển khai phát triển nông nghiệp một cách sâu rộng và đã thu được một số
kết quả nhất định: Bước đầu đã chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất tự cung tự cấp khép
kín sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, đáp ứng yêu cầu cung cấp lương thực, thực
phẩm tại địa phương, cơ cấu kinh tế nông nghiệp được chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Sự
phát triển của sản xuất nông nghiệp đã góp phần to lớn vào ổn định kinh tế - xã hội, xoá
đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người dân nông thôn. Đặc biệt là đã có tác động lớn
đối với số đông đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương trong việc nhận thức chuyển đổi
phương thức canh tác, cách thức làm ăn, xoá bỏ dần tình trạng sản xuất manh mún, phân
tán, nhỏ lẻ.
Do đặc thù của một huyện miền núi, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống,
nên việc triển khai phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng một nền sản xuất hàng hóa
là hết sức khó khăn và phức tạp, không thể một sớm một chiều là xong, mà phải trải qua
nhiều nấc thang với nhiều bước đi cụ thể. Để quá trình này thực hiện với tốc độ nhanh và
có hiệu quả, cần đặc biệt coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước, đồng thời phát huy cao
độ tính chủ động, sáng tạo của người nông dân, sự hỗ trợ của các doanh nghiệp và các tổ
chức đoàn thể. Tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực
tiếp là tỉnh Đảng bộ Quảng Nam, huyện Đảng bộ Phước Sơn cùng với truyền thống cách
mạng của nhân dân tại địa phương, sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa
bàn nhất định sẽ thu được những kết quả tốt đẹp.
Mặc dù tác giả luận văn có nhiều cố gắng trong nghiên cứu, nhưng do trình độ năng
lực có hạn, nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của
các nhà khoa học, các thầy cô và những ai quan tâm đến vấn đề này. Tác giả xin tiếp thu
và xin chân thành cảm ơn./.
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở lý luận về huy động và cho vay vốn của Ngân
hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường
7
1.1. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh
tiền tệ
7
1.2. Vai trò của tín dụng NHNo&PTNT trong quá trình phát
triển nông nghiệp, nông thôn
21
Chương 2:
2.1.
2.2.
Thực trạng huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông
nghiệp ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn
2001-2005
Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng đến
quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện
Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam
Thực trạng của NHNo&PTNT Việt Nam và việc tìm kiếm
39
39
46
Chương 3:
3.1.
3.2
thị trường nông nghiệp, nông thôn
Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả huy động
và cho vay vốn để phát triển nông nghiệp của
NHNo&PTNT huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và phương hướng phát
triển nông nghiệp ở huyện Phước Sơn
Giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp, nông thôn
huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
74
74
82
103
105
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Lâm - Nông - Công nghiệp Thương mại, dịch vụ (2).pdf