Hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS về phiên tòa sơ thẩm là nhu cầu cấp
bách và phản ánh xu thế khách quan của quá trình phát triển. Công cuộc đổi mới của đất
nước ta đang bước sang một giai đoạn mới có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thực
hiện mục tiêu hướng tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Cải cách hoạt động tư pháp là một trong những nội dung của quá trình đổi mới đồng
thời cũng là đòi hỏi đối với năng lực quản lý nhà nước trong việc đảm bảo cho các lĩnh
vực trong đời sống kinh tế - xã hội phát triển lành mạnh.
68 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2775 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác quy định này
một mặt đã kế thừa được những ưu điểm, giá trị đã được thừa nhận và tồn tại tương đối ổn
định trong một thời gian khá dài trong các văn bản pháp luật TTDS trước kia về phiên tòa
sơ thẩm dân sự. Mặt khác, tiếp thu những giá trị tiến bộ của pháp luật TTDS một số quốc
gia có hệ thống pháp luật tiên tiến trên cơ sở tiếp thu, lựa chọn, kết hợp hài hòa phù hợp
với điều kiện, tình hình nền kinh tế - xã hội nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập
mạnh mẽ. Về mặt nội dung, trình tự, thủ tục xét xử vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm về
cơ bản đã được quy định tương đối đầy đủ, và chi tiết, đáp ứng nhu cầu giải quyết các
tranh chấp dân sự đang ngày càng gia tăng trong đời sống xã hội, giúp cho Tòa án xét xử
các vụ án dân sự một cách công bằng, chính xác và đúng thời hạn, nâng cao chất lượng
bản án cũng như giảm thiểu số lượng án tồn đọng. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của
đất nước ta đang trong quá trình phát triển và đổi mới, hệ thống pháp luật vẫn không
ngừng hoàn thiện, nhiều loại quan hệ pháp luật dân sự mới tiếp tục xuất hiện và định hình,
ý thức pháp luật của người dân ngày càng được nâng cao. Vì vậy, các quy định về phiên
tòa sơ thẩm phải tiếp tục được hoàn thiện. Việc sửa đổi, bổ sung BLTTDS nói chung và
chương XIV nói riêng trong thời gian tới là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của
thực tiễn.
Chương 3
Phương hướng hoàn thiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm
3.1. Thực trạng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm
Có thể nói sự ra đời của BLTTDS 2004 như "một làn gió mới" hòa chung vào bầu
không khí cải cách tư pháp đang diễn ra sôi động trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng được
chủ trương đã được đề ra trong Nghị quyết 08, đồng thời giúp cho Tòa án giải quyết tốt
các tranh chấp dân sự đang ngày càng gia tăng và có chiều hướng phức tạp.
Kể từ khi BLTTDS bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2005, các Tòa án đã có nhiều
cố gắng để giải quyết một khối lượng công việc khá lớn.
Công tác giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình:
Các Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý 134.332 vụ việc; đã giải quyết
115.186 vụ việc, đạt 86% (trong đó các Tòa án cấp huyện đã giải quyết 110.288
vụ việc; các Tòa án cấp tỉnh đã giải quyết 4.898 vụ việc)... Tỷ lệ các bản án,
quyết định bị hủy là 1,5%, bị sửa là 3,6%. So với năm 2004, tỷ lệ các bản án,
quyết định bị hủy tăng 0,2%, bị sửa giảm 0,1% [28, tr. 4].
Công tác giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại và yêu cầu tuyên bố
phá sản:
Các Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý 1.260 vụ việc; đã giải quyết 1.035 vụ
việc, đạt 82,1% (trong đó các Tòa án cấp huyện giải quyết 169 vụ việc; các Tòa
án cấp tỉnh giải quyết 866 vụ việc)... Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 2,5%,
bị sửa là 3,9%. So với năm 2004, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy tăng 0,3%, bị
sửa tăng 1,3% [28, tr. 4].
Công tác giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về lao động:
Các Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý 950 vụ việc; đã giải quyết 812 vụ
việc, đạt 86% (trong đó các Tòa án cấp huyện giải quyết 497 vụ việc; các Tòa
án cấp tỉnh giải quyết 315 vụ việc)... Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là
2,2%, bị sửa là 5,2%. So với năm 2004, tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy tăng
1,2%, bị sửa tăng 2% [28, tr. 5].
Tuy nhiên, các quy định của BLTTDS cũng như thực tiễn áp dụng Bộ luật này vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của tiến trình cải cách tư pháp, chưa ngang tầm với yêu
cầu và đòi hỏi của xã hội. Thực tiễn áp dụng các quy định về trình tự, thủ tục xét xử tại phiên
tòa sơ thẩm còn nổi lên một vài tồn tại như sau:
Đối với trường hợp thay đổi địa vị tố tụng tại phiên tòa, Điều 219 quy định còn
chung chung, thiếu cụ thể và chưa tiên liệu được hết các tình huống có thể xảy ra. Nếu
trường hợp nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút yêu cầu phản tố nhưng người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình, Tòa án đình chỉ
xét xử đối với yêu cầu và phản yêu cầu đó cũng đồng nghĩa với việc đình chỉ về mặt nội
dung vụ án theo như vụ án tại thời điểm thụ lý. Như vậy, nếu như phiên toà vẫn tiếp tục thì
nội dung ánvụ án sau khi đã thay đổi địa vị tố tụng sẽ không giống như nội dung vụ án tại
thời điểm thụ lý ban đầu, trong khi vụ án (theo số thụ lý ban đầu) vẫn là vụ án đang được
giải quyết tại phiên tòa. Trên thực tế các Tòa án đã giải quyết vấn đề này theo nhiều cách
khác nhau. Có Tòa án đã đình chỉ việc giải quyết vụ án và hướng dẫn cho người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan khởi kiện lại, có Tòa án kẻ thêm các cột trong biểu mẫu sổ thụ lý để
vào các thông tin sau khi có sự thay đổi và tiếp tục giải quyết vụ án.
Về các trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa quy định tại các điều 199, 200,
201 BLTTDS vẫn còn thể hiện nhiều bất cập. Các điều luật quy định nếu đương sự vắng
mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng là căn cứ hoãn phiên tòa nhưng không giải thích thế
nào là có lý do chính đáng. Điều luật cũng không đưa ra hậu quả pháp lý đối với trường hợp
đương sự vắng mặt lần thứ nhất không có lý do chính đáng. Vì vậy, trường hợp đương sự
vắng mặt lần thứ nhất dù có hay không có lý do chính đáng thì vẫn phải hoãn phiên tòa. Cách
quy định như vậy đã không khắc phục được hạn chế trước kia của PLTTGQCVADS. Thực
tiễn xét xử cho thấy đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho phiên tòa sơ thẩm
bị hoãn nhiều lần.
Về quy định nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt cũng còn nhiều cách hiểu khác nhau. Theo
cách hiểu thứ nhất: "Triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt là hai lần Tòa triệu tập
và cả hai lần đương sự vắng mặt. Với quan điểm này, mỗi đương sự được vắng mặt một lần.
Do đó một vụ án có bao nhiêu đương sự thì có khả năng phải hoãn phiên tòa bấy nhiêu lần"
[30, tr. 13]. Quan điểm thứ hai thì cho rằng: "Phải lấy số lần tống đạt hợp lệ giấy triệu tập
để tính. Nếu đương sự đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, thì dù phiên tòa lần thứ nhất
đương sự có mặt hay không có mặt, mà phiên tòa lần thứ hai vắng mặt thì vẫn được coi là
triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hay xét
xử vắng mặt đương sự" [30, tr. 13]. Để việc áp dụng luật được thống nhất, cần có sự giải thích,
hướng dẫn các quy định này.
Khoản 1 và 2 Điều 201 BLTTDS quy định bản án và các quyết định như quyết định
thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án, hoãn phiên tòa được thảo luận và thông qua phòng nghị
án mà không quy định cho trường hợp ra quyết định công sự thỏa thuận của đương sự. Trong
khi đó quyết định này cũng không thể thông qua tại phòng xử án theo khoản 3 của điều này.
Đây cũng là một thiếu sót khiến cho các tòa án gặp khó khăn và có nhiều cách vận dụng khác
nhau.
Ngoài những tồn tại cụ thể nêu trên, một số quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự
theo BLTTDS 2004 còn bộc lộ những hạn chế, chưa thoát khỏi tư duy lập pháp của các giai
đoạn trước, thể hiện thái độ dè dặt, ngập ngừng trong tiến trình cải cách tư pháp vốn đã được
đề ra từ Nghị quyết 08:
Thủ tục hỏi tại phiên tòa (thay cho thủ tục xét hỏi tại phiên tòa trước kia) đã đánh giá
đúng bản chất của quan hệ TTDS tại tòa án, đề cao vai trò, vị trí của đương sự trong quá trình
giải quyết các tranh chấp dân sự. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy các quy định về nghe lời
trình bày và hỏi các bên đương sự (tại các từ Điều 221 đến Điều 225 BLTTDS) còn rườm rà
và không cần thiết. Đối với nguyên đơn, các yêu cầu và chứng cứ kèm theo để chứng minh
cho yêu cầu của họ đã được làm rõ trong quá trình khởi kiện, thụ lý, hòa giải và chuẩn bị xét
xử. Bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được tòa án thông báo về việc giải
quyết vụ án (Điều 174), họ có quyền đưa ra ý kiến, kèm theo tài liệu, chứng cứ, quyền yêu
cầu phản tố, yêu cầu độc lập, quyền yêu cầu tòa án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện của phía bên kia trước khi mở phiên tòa.
Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, các bên đương sự đã nắm được toàn bộ nội dung vụ kiện
và có sự chuẩn bị trước để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu có đương sự
vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình và các đương sự vẫn không tự thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án, không đưa ra tài liệu, chứng cứ mới thì việc nghe lời trình bày và
hỏi đương sự chỉ nên tiến hành nếu xét thấy cần thiết.
Theo tinh thần cải cách tư pháp, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa đóng vai trò
quan trọng, là cơ sở để tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng. Rất tiếc BLTTDS 2004 đã
không quy định tranh tụng là một nguyên tắc của TTDS. Các quy định về tranh luận tại
phiên tòa còn chưa nhiều và chưa được hướng dẫn cụ thể. Hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa theo quy định của BLTTDS 2004 trên thực tế chưa có nhiều chuyển biến đáng kể, chưa
tạo được sự "đột phá" đưa phần tranh luận trở thành trung tâm của phiên tòa xét xử. Trong
thời gian tới, các quy định về tranh luận tại phiên tòa nên tiếp tục được quy định đầy đủ và
cụ thể hơn, kết quả của hoạt động tranh tụng phải được phản ánh rõ trong phán quyết của tòa
án.
BLTTDS 2004 xác định việc giao nộp chứng cứ là quyền và nghĩa vụ của đương
sự, nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không
nộp hoặc không nộp đầy đủ đó (Điều 84). Tuy nhiên, việc không ấn định thời điểm giao
nộp chứng cứ dẫn đến việc các đương sự chỉ cung cấp chứng cứ vào thời điểm có lợi cho
họ. Nhiều trường hợp, đương sự không bổ sung thêm chứng cứ tại phiên tòa sơ thẩm mà
chờ đến phiên tòa phúc thẩm mới giao nộp chứng cứ vì cho rằng thành phần Hội đồng xét
xử cũng như diễn biến vụ án tại phiên tòa sơ thẩm không có lợi cho họ. Điều này đã ảnh
hưởng đến chất lượng xét xử của tòa án, kéo dài thời gian giải quyết vụ kiện, thậm chí vi
phạm nguyên tắc hai cấp xét xử.
Theo Điều 211 khoản 4 BLTTDS, người tham gia tố tụng có quyền được xem biên
bản phiên tòa ngay sau khi kết thúc phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên
bản và ký tên xác nhận. Đây là những quy định rất khó thực hiện trong thực tế. Hầu như tại
các phiên tòa sơ thẩm, thư ký phiên tòa không thể theo hết được các tình huống diễn ra tại
phiên tòa và thường ghi bút ký phiên tòa sau khi kết thúc việc xét xử. Nếu như các đương
sự yêu cầu được xem biên bản phiên tòa ngay tại chỗ thì Hội đồng xét xử sẽ đưa ra nhiều
lý do khác nhau để từ chối yêu cầu này.
3.2. Thực tiễn hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
về phiên tòa sơ thẩm
BLTTDS kể từ khi đi vào cuộc sống đã trở thành công cụ pháp lý hết sức quan trọng
giúp cho công tác xét xử của Tòa án được cải thiện một cách đáng kể.
Mặc dù các vụ việc dân sự mà các Tòa án phải thụ lý, giải quyết tăng
hơn 8.231 vụ so với cùng kỳ năm trước, nhưng do nắm vững và thực hiện đúng
các quy định của pháp luật, đặc biệt là Bộ luật tố tụng dân sự, …giúp cho việc
giải quyết vụ án nhanh chóng, dứt điểm, góp phần giải quyết mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân. giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết trong mỗi gia đình và cộng
đồng dân cư… Hầu hết các loại án này đều được giải quyết đạt và vượt chỉ tiêu
xét xử đã đề ra. Công tác giải quyết các vụ việc dân sự nói chung thực hiện
đúng các quy định của pháp luật, về cơ bản đảm bảo các quyền, lợi ích của các
đương sự [28, tr. 5].
Trong hoạt động áp dụng các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo Bộ luật
mới. Các Tòa án đã có sự chuẩn bị, chủ động, nắm vững những đòi hỏi, yêu cầu của công
cuộc cải cách tư pháp. Ngành Tòa án đã tổ chức nhiều đợt tập huấn cho cán bộ, thẩm phán
nhằm nhận thức và quán triệt sâu sắc trong quá trình áp dụng, giải quyết các vụ án dân sự.
Về cơ bản các Tòa án đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự trong quá trình giải
quyết vụ kiện như: Hướng dẫn họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng, hướng dẫn
đương sự đi thu thập tài liệu, chứng cứ, đảm bảo cho các bên đương sự phát huy quyền dân
chủ của mình. Tại phiên tòa xét xử thể hiện không khí dân chủ, cởi mở, Hội đồng xét xử
đã làm đúng vai trò là người trọng tài đứng giữa điều khiển phiên tòa, tạo điều kiện cho
các bên đương sự phát huy vai trò chủ động sáng tạo trong quá trình chứng minh hay phản
bác yêu cầu, đặc biệt là trong hoạt động tranh tụng với nhiều vụ án có sự tham gia của luật
sư.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự vẫn còn
một số khó khăn và tồn tại nhất định, là một trong những nguyên nhân làm cho tỷ lệ án sơ
thẩm bị hủy, sửa cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Có thể nêu ra một số sai sót trong hoạt
động áp dụng luật như sau:
Ví dụ: Trường hợp xác định sai tư cách người tham gia tố tụng. Vụ án kiện đòi nhà
61 Nguyễn Công Trứ - Hà Nội thụ lý số 13 ngày 24/2/2005, phiên tòa xét xử sơ thẩm từ
ngày 18/5/2005 đến ngày 23/5/2005 của TAND quận Hai Bà Trưng giữa nguyên đơn là
các bà Dương Thị Nguyệt, Dương Thị Nghĩa và các bị đơn là ông Nguyễn Văn Duyên,
ông Nguyễn Văn Tỉnh, bà Nguyễn Thị Hiếu, bà Nguyễn Thị Chung và bà Nguyễn Thị
Thúy. Ban đầu khi đi kiện, các nguyên đơn kiện các bị đơn như đã nêu trên. Trong quá trình
ghi lời khai của bà Hiếu, bà trình bày hiện em ruột bà Hiếu là bà Nguyễn Thị Hồng (cũng
là anh chị em ruột của các bị đơn) hiện đang sinh sống cùng bà Hiếu tại một phần diện tích
nhà 61 Nguyễn Công Trứ. Tại phần nhận định của Bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã
không xác định bà Hồng là bị đơn mà xác định bà Hồng là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan. Việc xác định tư cách tố tụng của bà Hồng như vậy là chưa chính xác, thay vì
nhận định bà Hồng và gia đình bà Hiếu đều là những người đang quản lý sử dụng nhà 61
Nguyễn Công Trứ, Hội đồng xét xử lại nhận định bà Hồng chỉ là một nhân khẩu sống
trong phần nhà của bà Hiếu đang quản lý sử dụng. Bản án phúc thẩm số 193 ngày
26/9/2005 của Tòa dân sự TAND thành phố Hà Nội đã quyết định hủy Bản án sơ thẩm số
09 ngày 23/5/2005 của TAND quận Hai Bà Trưng để xét xử lại theo thủ tục chung.
Ngoài ra còn có nhiều trường hợp Tòa án bỏ sót người người tham gia tố tụng, vi
phạm nghiêm trọng tố tụng dẫn đến việc hủy toàn bộ án sơ thẩm như vụ án: "Dương Thị S
kiện Dương R tranh chấp di sản thừa kế, án sơ thẩm do điều tra không đầy đủ xác định
các thừa kế gồm 3 người con nhưng thực tế ông Y và bà P có đến 5 người con" [31, tr. 6].
Hay:
Vụ Nguyễn Tấn P kiện Nguyễn Ngọc T tranh chấp thừa kế nhà đất, xét
thấy trong giai đoạn điều tra, cấp sơ thẩm không phát hiện là bà L và bà C là
người có quyền và nghĩa vụ liên quan, việc chứng minh thu thập chứng cứ chưa
đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được, do đó hủy án sơ thẩm và
chuyển hồ sơ cho tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung [31, tr.
6].
Về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu theo Điều 218 BLTTDS, thực tế cho thấy
quy định này chưa tiên liệu được hết các tình huống có thể xảy ra gây khó khăn cho hoạt
động xét xử của tòa án.
Ví dụ: Vụ kiện yêu cầu chia tài sản chung thụ lý số 57 ngày 11/9/2003, phiên tòa sơ
thẩm ngày 18 và 26/8/2005 của TAND quận Hoàn Kiếm giữa nguyên đơn là bà Lương Thị
Nghĩa và các bị đơn là ông Lương Nguyên Kế, bà Lương Bích Hạnh và bà Lương Ngọc
Oanh. Theo yêu cầu trong đơn khởi kiện, bà Nghĩa yêu cầu phía bị đơn chia ngôi nhà 19A -
19B phố Huế và hoa lợi phát sinh do cho thuê nhà từ trước đến nay. Tại thủ tục hỏi tại phiên
tòa phía nguyên đơn rút yêu cầu đối với phần hoa lợi. Sau khi kết thúc phần tranh luận và
trong khi Hội đồng xét xử nghị án, bà Nghĩa đã xin rút yêu cầu đòi chia nhà 19A - 19B phố
Huế. Như vậy, nếu Hội đồng xét xử không chấp nhận việc rút yêu cầu và đình chỉ việc giải
quyết vụ án sẽ vi phạm điểm c khoản 1 Điều 59 và điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS, vi
phạm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, trong trường hợp này rõ
ràng thông qua quá trình xem xét, đánh giá chứng cứ và tranh luận tại phiên tòa, phía nguyên
đơn thấy chưa đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nên đã rút yêu cầu tại thời điểm
nghị án (nếu việc rút yêu cầu được chấp nhận thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo Điều
193 khoản 1 BLTTDS). Tại phần nhận định của bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử lập luận việc
bà Nghĩa rút đơn khởi kiện tại thời điểm nghị án là không đúng thủ tục tố tụng vì vấn đề thay
đổi, rút yêu cầu của đương sự đã được xem xét giải quyết tại phần hỏi tại phiên tòa và việc rút
yêu cầu trên không phải là căn cứ để trở lại việc hỏi và tranh luận theo Điều 237 BLTTDS. Hội
đồng xét xử tiếp tục việc nghị án và ra bản án bác yêu cầu của bà Nghĩa. Nên chăng cần giới hạn
thời điểm thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu để việc giải quyết vụ án đạt chất lượng cao hơn.
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự còn cho thấy có nhiều tranh chấp dân sự đơn
giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận yêu cầu của nguyên đơn nhưng vì lý do nào đó
không thực hiện nghĩa vụ của mình. Rất tiếc BLTTDS đã không quy định thủ tục rút gọn
để áp dụng cho loại tranh chấp này mặc dù đã có chủ trương theo tinh thần Nghị quyết số
08.
Ví dụ: Vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản thụ lý số 22 ngày 22/4/2005, phiên tòa
xét xử sơ thẩm ngày 12/8/2005 của TAND quận Hai Bà Trưng giữa nguyên đơn là anh Lê
Ngọc Minh và bị đơn là chị Đỗ Thị Yến và anh Lê Long Giang. Nội dung vụ án như sau:
anh Minh có cho chị Yến và anh Giang vay số tiền là 48.000.000 đồng theo giấy vay nợ
ngày 8/4/2001 và thỏa thuận lãi suất 2% một tháng. Từ khi vay nợ, chị Yến và anh Giang
đã trả lãi đến tháng 9/2003 sau đó thôi không trả cả gốc lẫn lãi. Anh Minh sau nhiều lần
đến đòi nhưng chị Yến, anh Giang không trả nên đã khởi kiện ra tòa án. Tại phiên tòa, anh
Minh yêu cầu chị Yến và anh Giang trả cho anh số tiền 48.000.000 đồng mà không cần trả
lãi. Gia đình chị Yến trình bày do hoàn cảnh khó khăn nên xin trả dần anh Minh số nợ trên
là 1.000.000 đồng/tháng. Do anh Minh không đồng ý với thỏa thuận trên nên Hội đồng xét
xử đã xử buộc chị Yến và anh Giang phải trả khoản nợ 48.000.000 đồng cho anh Minh.
Thực tế trong đời sống xã hội có rất nhiều loại quan hệ dân sự giống với vụ kiện nêu
trên như yêu cầu thanh toán cước phí bưu chính viễn thông, tiền điện nước… số lượng các
quan hệ dân sự kiểu như thế này cũng chiếm tỉ lệ không nhỏ. Nếu quy định thủ tục rút gọn
để áp dụng cho các trường hợp này thì sẽ giảm bớt công sức, phiền hà cho người dân, giảm
bớt công việc cho tòa án.
Tình trạng hoãn phiên tòa sơ thẩm vẫn còn diễn ra phổ biến xuất phát từ những
khó khăn trong việc áp dụng các quy định về hoãn phiên tòa do đương sự vắng mặt, về
triệu tập hợp lệ. Có trường hợp hoãn vì luật sư không có mặt tại phiên tòa, hay hoãn phiên
tòa vì đương sự yêu cầu giám định, định giá, có trường hợp hoãn vì không có người phiên
dịch thậm chí phiên tòa phải hoãn vì đương sự vắng mặt không có lý do. Việc tống đạt hợp
lệ theo đúng quy định của pháp luật cũng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là các đương sự ở
vùng sâu, vùng xa, đương sự không nhận được giấy báo qua đường bưu điện. Việc hoãn
phiên tòa làm giảm tốc độ giải quyết án, gây phiền hà cho các bên đi kiện, không bảo vệ
kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Về Bản án sơ thẩm, vẫn còn tình trạng một số bản án tuyên không rõ ràng, gây khó
khăn cho công tác thi hành án dân sự.
Có trường hợp trong một vụ án, nhưng Tòa án ra hai bản án cùng số,
ngày nhưng nội dung khác nhau dẫn đến không biết thi hành bản án nào... Có
trường hợp bản án, quyết định không viện dẫn điều luật hoặc viện dẫn không
chính xác; có trường hợp phần quyết định của bản án giao đất cho một bên,
nhưng tài sản trên đất như cây, tường rào…không giao cho ai dẫn đến khó
khăn khi thi hành án [29, tr. 6].
Về trình tự tiến hành phiên tòa, nhiều Tòa án còn chưa thực hiện đúng các trình tự
thủ tục được quy định tại chương XIV BLTTDS. Một số thủ tục bắt đầu phiên tòa còn bị
bỏ qua, thực hiện không đúng hay làm tắt, làm qua loa. Việc xem xét, đánh giá tài liệu,
chứng cứ tại phiên tòa còn chưa đảm bảo về mặt tố tụng, nhiều tài liệu, chứng cứ có tính
chất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc giải quyết vụ án chỉ là photocopy không có
chứng thực, không có ký xác nhận đã đối chiếu bản chính của thẩm phán được đem ra xem
xét tại phiên tòa. Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa chưa được đề cao đúng mức, hạn chế sự
chủ động, sáng tạo của đương sự trong việc chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Chưa thực sự tôn trọng và đánh giá cao vai trò của luật sự, "chưa tạo điều kiện
thuận lợi để luật sư đọc hồ sơ vụ kiện, việc triệu tập phiên tòa quá gấp làm luật sư không
kịp bố trí thời gian để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trước khi mở phiên tòa
hoặc tại phiên tòa", thậm chí có trường hợp "Hội đồng xét xử chưa tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của luật sư, cá biệt còn tư tưởng coi thường vai trò của luật sư tại phiên tòa, làm
phiên tòa thiếu dân chủ" [16, tr. 27].
Chất lượng của phiên tòa xét xử sơ thẩm phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của thẩm
phán với tư cách là chủ tọa phiên tòa. Thực tế cho thấy:
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực xét xử… của thẩm phán còn
hạn chế; tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật và phẩm chất đạo đức…
chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi nhiệm vụ trong tình hình hiện
nay, còn thiếu ý thức cầu thị, phấn đấu học tập và rèn luyện để năng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ và rèn luyện tư cách, phẩm chất đạo đức… việc nghiên
cứu các tài liệu chứng cứ của vụ án không đầy đủ, đánh giá chứng cứ thiếu
khách quan, toàn diện, dẫn đến quyết định sai lầm; thậm chí có những trường
hợp cá biệt tiêu cực vi phạm pháp luật [28, tr. 17].
Tại phiên tòa sơ thẩm, còn nhiều thẩm phán vẫn điều hành phiên tòa dựa trên thói
quen mà ít chú ý đến tính căn cứ của điều luật, việc áp dụng các trình tự, thủ tục tại phiên
tòa còn sơ sài, tùy tiện, nhiều thẩm phán có biểu hiện lồng ghép lợi ích cá nhân, thiên vị
trong quá trình xét xử. Tình trạng thỉnh án, duyệt án vẫn còn tồn tại làm cho phiên tòa xét
xử sơ thẩm rơi vào hình thức, việc giải quyết vụ án không minh bạch, thiếu khách quan và
công bằng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, gây nghi
ngờ và mất niềm tin trong nhân dân đối với hoạt động xét xử của tòa án.
Vai trò của hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử sơ thẩm đang là vấn đề nóng
bỏng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Hội thẩm nhân dân thường là các cán bộ về
hưu, người làm công tác phong trào không đủ trình độ, kiến thức pháp luật cũng như kỹ
năng nghiệp vụ xét xử, không giành nhiều thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa
xét xử, hội thẩm nhân dân thường không phát huy được vai trò của mình, bị động và phụ
thuộc vào thẩm phán. Việc hỏi đương sự, xem xét, đánh giá tài liệu chứng cứ bị sa vào
hình thức, chiếu lệ. Trong giai đoạn nghị án hội thẩm nhân dân ít khi thể hiện quan điểm
của mình và thường quyết định theo hướng của thẩm phán. Nhìn chung quy định hội thẩm
nhân dân tham gia xét xử làm giảm đi tính chuyên nghiệp và chất lượng của hoạt động xét
xử. Quan điểm hội thẩm nhân dân tham gia xét xử là để gần dân hơn hiện nay không còn
phù hợp nữa. Việc gần dân phải được xây dựng bằng thiết chế như luật sư, luật sư công,
luật sư cho người nghèo... Trong thời gian tới cần phải nâng cao vị trí, vai trò của hội thẩm
nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
Việc triệu tập bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng
tham gia phiên tòa sơ thẩm là một trong những khó khăn nổi cộm trong giai đoạn hiện nay.
Do chưa thành lập cơ quan cảnh sát tư pháp, sự phân công phối hợp nhiệm vụ quyền hạn
giữa chính quyền cơ sở với tòa án trong lĩnh vực hỗ trợ tư pháp cũng chưa được quy định
rõ ràng, chưa có chế tài áp dụng cho các trường hợp không đến tòa án theo giấy triệu tập.
Có nhiều trường hợp cán bộ tòa án phải đến nhà gặp đương sự để "động viên" họ tham gia
phiên tòa, hoặc nếu không thuyết phục được thì chỉ cần ghi lời khai, và hướng dẫn họ viết
đơn xin xử vắng mặt, làm giảm chất lượng xét xử, không thể hiện được tính văn minh
trong quan hệ tố tụng.
Mặc dù BLTTDS quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp các tài liệu, chứng cứ
nhưng các cơ quan, tổ chức còn chưa sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của họ cũng như tòa án về
việc thu thập chứng cứ. Tình trạng các cơ quan, tổ chức giám định, định giá hoạt động
thiếu đồng bộ và còn nhiều bất cập, có trường hợp cơ quan giám định từ chối tham gia
phiên tòa, có trường hợp cùng một tổ chức giám định đưa ra hai kết luận giám định trái
ngược nhau gây khó khăn trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Hiện nay hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật của ngành tòa án còn thiếu và yếu,
chưa đáp ứng được nhu cầu của hoạt động xét xử, nhiều phòng xử chật hẹp, xuống cấp làm
mất đi tính nghiêm trang của phiên tòa. Cách bố trí phiên tòa cũng không giống nhau và
nhiều nơi còn chưa hợp lý. Nhiều tòa án ở vùng sâu vùng xa, việc đi lại của đương sự gặp
nhiều khó khăn. Điều 288 BLTTDS quy định các trường hợp Hội đồng xét xử cho nghe
băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình nhưng vì điều kiện cơ sở vật chất
nên không phải tòa án nào cũng có thể thực hiện được quy định này.
3.3. Một số kiến nghị cụ thể
3.3.1. Quán triệt một số quan điểm cải cách tư pháp chỉ đạo trong hoàn thiện
pháp luật tố tụng dân sự nói chung và phiên tòa sơ thẩm dân sự nói riêng
Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới đất nước đang diễn ra một cách sôi
động và toàn diện, kết quả đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trên tất cả mọi mặt
của đời sống xã hội, hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Nền kinh tế đất nước đã tạo được đà phát triển nhanh và ổn định, các thiết chế
của nền kinh tế thị trường đã được hình thành và vận hành một cách đồng bộ. Quá trình
hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế diễn ra sâu rộng. Đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân ngày càng được nâng cao. Chính vì vậy, việc nâng cao năng lực quản lý nhà
nước trong lĩnh vực tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng phát huy quyền dân
chủ, tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân là một xu thế tất yếu, phản ánh nhu cầu khách quan của sự phát triển. Về vấn
đề hoàn thiện hệ thống pháp luật và đổi mới hoạt động tư pháp, Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X có nêu: "Xây
dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng
tâm..." [6, tr. 127]. "Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định
trong văn bản pháp luật" [6, tr. 126].
Về phương hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng, Nghị quyết số 49 có đoạn viết:
1. "Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công
khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi
đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp".
Phiên tòa xét xử là biểu hiện tập trung nhất của hoạt động tư pháp. Để đưa ra một
phán quyết công bằng, khách quan và đúng pháp luật. Chế định phiên tòa sơ thẩm phải
được quy định một cách khoa học, đồng bộ và có tính khả thi. Quyền hạn và trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng được quy định cụ thể và theo hướng họ chỉ được thực hiện
nhiệm vụ quyền hạn của mình trong phạm vi pháp luật quy định. Đề cao tính độc lập, chủ
động và phát huy tính dân chủ trong các quy định về quyền và nghĩa vụ của những người
tham gia tố tụng. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa là vấn đề then chốt, đảm
bảo một nền tư pháp văn minh, tiến bộ, thể hiện đúng bản chất của việc giải quyết tranh
chấp dân sự xuất phát từ quyền tự định đoạt và trách nhiệm chứng minh thuộc về đương
sự.
2. "Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số
điều kiện nhất định".
Với tốc độ phát triển các quan hệ dân sự ngày càng đa dạng và phong phú cùng
với sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các tranh chấp dân sự. Việc xây dựng cơ chế xét xử theo
thủ tục rút gọn đối với các vụ án dân sự là hết sức cần thiết. Thủ tục rút gọn giúp cho tòa
án giảm bớt số lượng án tồn đọng hàng năm, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân và phù hợp với xu thế đơn giản hóa mối quan hệ giữa công dân với các cơ quan
công quyền.
3. "Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự… để tạo điều kiện cho các đương sự
chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lời ích hợp pháp của mình".
Trong thời gian tới, tiếp tục xây dựng các quy định của pháp luật nhằm tạo điều
kiện cho các đương sự thu thập chứng cứ một cách thuận lợi. Hình thành loại hình dịch vụ
công trong các cơ quan, tổ chức để phục vụ các cá nhân, tổ chức có nhu cầu lấy tài liệu,
thông tin sử dụng vào hoạt động chứng minh tại phiên tòa. Hoàn thiện các quy định về
pháp luật tố tụng phải đi đôi với việc hoàn thiện các quy định của các ngành luật khác để
đảm bảo tính đồng bộ, khả thi. Trách nhiệm cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương
sự sẽ không thực hiện được nếu như không có cơ chế pháp lý tạo điều kiện cho họ trong
quá trình đi thu thập chứng cứ.
Nghị quyết 49 đồng thời cũng chỉ ra những thách thức đòi hỏi phải đẩy nhanh tốc
độ cải cách tư pháp:
Các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh
chấp có yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa
dạng hơn. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày
càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc
bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ
pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa [5, tr. 1].
Theo Nghị quyết 49, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng nhằm hướng tới
mục tiêu "xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh…hoạt
động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và có hiệu lực
cao" [5, tr. 2]. Về quan điểm chỉ đạo, "cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ
của Đảng", "phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" [5, tr. 2], phát
huy sức mạnh của toàn xã hội và phải tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng
điểm với những bước đi vững chắc.
Trước đó, Nghị quyết số 08 cũng đã gợi mở những định hướng hoạt động xét xử
của tòa án:
Khi xét xử, các tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân bình đẳng trước
pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn
và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng
pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định [4, tr. 5].
* Trong tình hình hiện nay, hoàn thiện hệ thống pháp luật còn là đòi hỏi cấp thiết
của thực tiễn. Trong cuộc sống kinh tế thị trường, thu nhập của người dân ngày càng được
nâng cao, đời sống xã hội ngày càng văn minh và tiến bộ, người dân có quyền đòi hỏi
những giá trị dân chủ đích thực mà trước hết là một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ,
công khai và minh bạch, các quy định của pháp luật phải cụ thể, rõ ràng, có sức mạnh, làm
công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Sự phù hợp giữa các hệ
thống pháp luật sẽ đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài cũng
như tăng cường trao đổi thương mại quốc tế.
3.3.2 Một số kiến nghị cụ thể hoàn thiện chế định phiên tòa sơ thẩm dân sự
3.3.2.1. Bổ sung vào BLTTDS những nội dung sau
* Bổ sung vào các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS nguyên tắc tranh tụng với nội
dung sau: "Tòa án bảo đảm cho các đương sự tranh tụng tại phiên tòa một cách dân chủ,
bình đẳng và đúng pháp luật".
Việc quy định nguyên tắc tranh tụng vào các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS một
mặt khẳng định vị trí, vai trò cũng như tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa đồng thời là tư tưởng chỉ đạo, đòi hỏi hoạt động xét xử của tòa án phải tuân thủ đầy đủ
trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên tòa. Coi tranh tụng là hoạt động trung tâm của phiên
tòa xét xử, kết quả của việc tranh tụng là căn cứ để tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng.
* Bổ sung các quy định về thủ tục rút gọn:
- Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn:
Các tranh chấp dân sự xuất phát từ hợp đồng mua bán, hợp đồng dịch vụ ổn định,
thường xuyên được thanh toán bằng hóa đơn;
Các tranh chấp dân sự mà đối tượng tranh chấp đơn giản, xác định được giá trị
ngay, chứng cứ rõ ràng;
Bị đơn trong thủ tục rút gọn là các cá nhân, tổ chức có lai lịch, địa chỉ rõ ràng,
hiện đang cư trú tại địa bàn nơi tòa án có thẩm quyền.
- Trình tự giải quyết theo thủ tục rút gọn:
Các tranh chấp được giải quyết theo thủ tục rút gọn phải có Quyết định giải quyết
vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn.
Thủ tục rút gọn được giải quyết bởi một thẩm phán.
Quyết định giải quyết theo thủ tục rút gọn có hiệu lực ngay và được thi hành theo
thủ tục thi hành án.
- Thời hạn giải quyết theo thủ tục rút gọn:
Thời hạn giải quyết theo thủ tục rút gọn là một tháng kể từ ngày thụ lý vụ kiện.
Thủ tục rút gọn giải quyết các tranh chấp dân sự đang còn là vấn đề mới mẻ trong
pháp luật TTDS Việt Nam. Tuy nhiên, việc quy định thủ tục rút gọn trong giai đoạn hiện
nay là phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, đồng
thời đáp ứng nhu cầu giải quyết số lượng các tranh chấp dân sự đang ngày càng gia tăng,
giảm bớt số lượng án tồn đọng hàng năm của ngành tòa án, bảo vệ kịp thời quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
3.3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định hiện hành trong BLTTDS
* Bổ sung Điều 233 thành nội dung như sau:
1. "Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải
quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng đã thu thập được
và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết quả việc hỏi tại phiên tòa. Người
tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Bị đơn luôn là người đối đáp
sau cùng nếu họ không muốn phát biểu thêm. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế
thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý
kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án, những nội dung đã
tranh luận xong".
2. "Nếu tranh luận kéo dài sang ngày khác thì việc tranh luận được tiếp tục vào
ngày làm việc tiếp theo. Chủ tọa phiên tòa phải thông báo cho những người có mặt tại
phiên tòa thời gian và địa điểm tiếp tục việc tranh luận".
Việc bổ sung quyền phát biểu sau cùng thuộc về bị đơn dựa trên nguyên lý bị đơn
là người bị nguyên đơn kiện, bị đơn là người bị cho là đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn. Chính vì vậy, việc đánh giá tài liệu, chứng cứ và các quan điểm, đề
nghị của bị đơn về việc giải quyết vụ án bao giờ cũng trên cơ sở yêu cầu, lập luận của
nguyên đơn, do đó bị đơn phải là người phát biểu sau cùng mới đảm bảo cho họ chứng
minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình là có căn cứ và hợp pháp. Quy định trên đồng
thời phù hợp với trình tự phát biểu khi tranh luận quy định tại Điều 232 BLTTDS. Việc bổ
sung nội dung trên nhằm tránh trường hợp chủ tọa phiên tòa kết thúc phần tranh luận ngay
sau khi nguyên đơn phát biểu xong.
Theo quy định của Bộ luật hiện hành, việc tranh luận không hạn chế về thời gian
nên việc tranh luận có thể kéo dài sang những ngày tiếp theo. Việc bổ sung khoản 2 vào Điều
233 đảm bảo cho quy định trên chặt chẽ và đầy đủ hơn.
* Điều 236 khoản 3 bổ sung phần tranh luận vào như sau:
3. "Khi nghị án chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét
tại phiên tòa, kết quả việc hỏi tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa và phải xem
xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên".
Kết quả tranh luận tại phiên tòa là căn cứ quan trọng làm cơ sở tòa án đưa ra quyết
định cuối cùng để giải quyết vụ án. Việc bổ sung nội dung trên nhằm khắc phục thiếu sót
của BLTTDS đồng thời phù hợp với tinh thần của Nghị quyết 08.
* Khoản 1 Điều 221 sửa đổi, bổ sung theo hướng đương sự và người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không trình bày lại về yêu cầu, yêu cầu độc lập,
yêu cầu phản tố, đề nghị để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp
mà trước đó họ đã trình bày tại tòa án và sau khi đã được hỏi về việc thay đổi, bổ sung, rút
yêu cầu mà chỉ trình bày những vấn đề mới chưa có trong lời khai của họ trước đó:
1. "Trong trường hợp có đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình và các đương
sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, nếu có đương sự trình bày
những vấn đề mới chưa có trong đơn khởi kiện hoặc lời khai của họ trước đó thì Hội đồng
xét xử bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự theo trình tự
sau đây:
a) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày những vấn đề
bổ sung cho lời khai của nguyên đơn trước đó để chứng minh cho yêu cầu của họ là có căn cứ
và hợp pháp. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến;
b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến bổ sung cho
lời khai của bị đơn trước đó đối với yêu cầu của nguyên đơn; trình bày những vấn đề bổ
sung cho lời khai của bị đơn trước đó để chứng minh cho yêu cầu phản tố, đề nghị của họ
là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trình bày ý kiến bổ sung cho lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước
đó đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn; trình bày những vấn đề bổ sung cho
lời khai trước đó của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để chứng minh cho yêu cầu
độc lập, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
quyền bổ sung ý kiến.
Việc sửa đổi nội dung trên nhằm giảm bớt các thủ tục không cần thiết như đã phân
tích tại phần thực trạng các quy định của BLTTDS về phiên tòa sơ thẩm, hướng tới nội
dung trọng tâm là hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Qua đó từng bước xây dựng phiên tòa
sơ thẩm dân sự với các trình tự, thủ tục cơ bản như các phiên tranh tụng tại tòa án.
* Bổ sung thời điểm kết thúc việc tiếp nhận chứng cứ vào khoản 1 Điều 84 theo
nội dung như sau:
1. "Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa
vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì
phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác. Đối với vụ án dân sự, Tòa án chỉ tiếp nhận chứng cứ đến thời
điểm kết thúc việc hỏi tại phiên tòa sơ thẩm".
* Khoản 3 Điều 221 sửa từ "tại phiên tòa" thành "trước khi kết thúc việc hỏi tại
phiên tòa" thành nội dung sau:
3. Trước khi kết thúc việc hỏi tại phiên tòa, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề
nghị của mình".
Việc xác định thời điểm kết thúc việc giao nộp chứng cứ nhằm khắc phục tình
trạng đương sự không giao nộp chứng cứ khi nhận thấy việc giao nộp đó không có lợi cho
họ, gây khó khăn cho toà án trong việc tìm ra sự thực nộpkhách quan của vụ án. Cần chấm
dứt việc đương sự giao nộp chứng cứ được thực hiện và được xem xét ở cấp xét xử phúc
thẩm vì vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử và lợi dụng để kéo dài việc giải quyết vụ án
theo hướng có lợi cho họ.
* Điều 230 khoản 4 sửa đổi, bổ sung nội dung tố cáo chứng cứ giả mạo tại phiên
tòa thành nội dung sau:
"4. Khi có người tham gia tố tụng không đồng ý với kết luận giám định được công
bố tại phiên tòa; tố cáo chứng cứ giả mạo và có yêu cầu giám định bổ sung, giám định
lại, giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo, nếu xét thấy việc giám định bổ sung, giám
định lại, giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo là cần thiết cho việc giải quyết vụ án
thì Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại, giám định chứng cứ bị
tố cáo là giả mạo; trong trường hợp này Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa".
Việc sửa đổi nêu trên nhằm bổ sung thêm vào trường hợp người tham gia tố tụng
không đồng ý với kết luận giám định được công bố tại phiên tòa theo hướng mở rộng
quyền về tố tụng cho họ, đảm bảo quyền dân chủ trong hoạt động xét xử, tạo điều kiện tốt
hơn cho các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
* Bổ sung vào khoản 2 Điều 210 thành nội dung như sau:
"2. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự, thay đổi người tiến hành tố
tụng, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải
quyết vụ án, hoãn phiên tòa phải được thảo luận, thông qua phòng nghị án và phải được
lập thành văn bản".
Đây cũng là trường hợp khắc phục thiếu sót của BLTTDS 2004 nhằm đảm bảo thủ
tục ra bản án, quyết định của tòa án tại phiên tòa đầy đủ và chặt chẽ hơn.
* Khoản 4 Điều 211 nên được quy định lại theo nội dung sau: "Sau ba ngày kể từ
ngày tuyên án, Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng có quyền được xem biên bản
phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận".
Đây là khoảng thời gian hợp lý để tòa án có thể vào biên bản phiên tòa đầy đủ
những nội dung diễn biến tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng và Kiểm sát viên
vẫn còn nắm bắt được những tình tiết đã diễn ra tại phiên tòa để có thể yêu cầu sửa đổi, bổ
sung vào biên bản phiên tòa. Từ đó nâng cao tính khả thi của điều luật.
Tóm lại, các quy định của BLTTDS về phiên tòa sơ thẩm về cơ bản phù hợp với
điều kiện, tình hình nước ta hiện nay. Tuy nhiên còn một số quy định thể hiện sự bất cập
và chưa đầy đủ. Thực tiễn áp dụng các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự còn gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc. Các giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành là
rất cần thiết nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại của chế định này.
Kết luận
Hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS về phiên tòa sơ thẩm là nhu cầu cấp
bách và phản ánh xu thế khách quan của quá trình phát triển. Công cuộc đổi mới của đất
nước ta đang bước sang một giai đoạn mới có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thực
hiện mục tiêu hướng tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Cải cách hoạt động tư pháp là một trong những nội dung của quá trình đổi mới đồng
thời cũng là đòi hỏi đối với năng lực quản lý nhà nước trong việc đảm bảo cho các lĩnh
vực trong đời sống kinh tế - xã hội phát triển lành mạnh.
Trên cơ sở phạm vi đã xác định, đề tài được nghiên cứu theo một chỉnh thể thống
nhất. Các nội dung của đề tài có mối quan hệ biện chứng, logic với nhau, từ đó giải quyết
được mục đích, nhiệm vụ đặt ra đối với đề tài.
Quá trình nghiên cứu, luận văn đã giải quyết về cơ bản và toàn diện các vấn đề lý luận về
phiên tòa sơ thẩm dân sự và đã đạt được một số kết quả cụ thể như: Đưa ra khái niệm phiên
tòa sơ thẩm dân sự; đặc điểm, vị trí và ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm dân sự; các nguyên tắc
điều chỉnh hoạt động của phiên tòa sơ thẩm dân sự; sơ lược lịch sử hình thành và phát triển các
quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự. Trong phần làm rõ nội dung của các quy định hiện hành,
luận văn đi sâu phân tích bản chất pháp lý của các điều luật, bên cạnh đó có những so sánh giữa
các quy định của BLTTDS 2004 so với các văn bản trước kia, đồng thời đưa ra những đánh giá,
nhận xét về các quy định này. Tiếp theo, đề tài đã nêu được thực trạng các quy định của BLTTDS
về phiên tòa sơ thẩm cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này. Từ đó đưa ra những giải
pháp, kiến nghị có cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần vào quá trình hoàn thiện các quy định
của pháp luật TTDS về phiên tòa sơ thẩm.
Trên đây là những kết luận rút ra từ quá trình nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm theo tinh thần cải cách tư
pháp". Kết quả nghiên cứu đề tài hy vọng đóng góp một phần nhỏ về mặt lý luận cũng như
thực tiễn nhằm hoàn thiện hơn nữa BLTTDS theo tinh thần cải cách tư pháp.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 (2004), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ luật tố tụng dân sự Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà nội.
3. Bộ luật tố tụng hình sự Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TƯ ngày 2/1 của Bộ Chính trị
khóa IX về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà
Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TƯ ngày 2/6 của Bộ Chính trị
khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Ngọc Đào (1994), Luật La Mã, Trường Đại học Tổng hợp - Khoa Luật, Hà
Nội.
8. Nguyễn Ngọc Đào (2000), Luật La Mã, Nxb tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai.
9. Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Khai trí, Sài Gòn.
10. Nguyễn Thị Thu Hà (2003), Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội.
11. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hồ Chí Minh - Nhà nước và pháp luật (1995), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
13. Bùi Thị Huyền (2005), "Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự", Luật học, (4),
tr. 49-55.
14. Nguyễn Duy Lãm (1998), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Trần Huy Liệu (2005), Tìm hiểu pháp luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
16. Nguyễn Quang Lộc (2002), "Luật sư dưới góc nhìn của Thẩm phán", Dân chủ và pháp
luật, (2), tr. 27.
17. Luật tổ chức Tòa án nhân dân (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Nhà luật Việt - Pháp (2002), Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh
tụng. Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm, quản lý
thẩm phán, Hà Nội.
19. Những quy định pháp luật về tố tụng dân sự (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đinh văn Quế (2001), Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Hoàng Ngọc Thỉnh (2005), Tổng quan về Bộ luật tố tụng dân sự, Bài giảng Chuyên đề,
Lớp CH XI - Trường Đại học Luật Hà Nội, ngày 22/5.
22. Hoàng Ngọc Thỉnh (2005), Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Bài giảng Chuyên đề,
Lớp CH XI - Trường Đại học Luật Hà Nội, ngày 25/5.
23. Phan Hữu Thư (2001), Xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Tòa án nhân dân tối cao (1969), Báo cáo tổng kết công tác ngành tòa án năm 1969, Hà
Nội.
25. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng dân sự đã ban
hành đến 31/12/1974, Hà Nội.
26. Tòa án nhân dân tối cao (1978), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng dân sự đã ban
hành từ 1975 đến 1977, Hà Nội.
27. Tòa án nhân dân tối cao (1996), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự, Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số 95-98-
046/ĐT, Hà Nội.
28. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết công tác ngành tòa án năm 2005, Hà
Nội.
29. Tòa án nhân dân tối cao - Tòa Dân sự (2005), Báo cáo tham luận của Tòa Dân sự tại
Hội nghị tổng kết ngành tòa án năm 2005, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân tối cao - Tòa Lao động (2006), Tham luận của Tòa Lao động Tòa án
nhân dân tối cao về công tác xét xử các vụ án lao động năm 2005, Hà Nội.
31. Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Chuyên đề
chất lượng của công tác xét xử phúc thẩm, việc hạn chế án tồn đọng, án quá hạn
luật định và việc sửa, hủy án của tòa án cấp sơ thẩm, Thành phố Hồ Chí Minh.
32. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế
giới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Nghiên cứu Nhà nước và
pháp luật (2001), Những vấn đề cơ bản về Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam, Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
36. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Nghiên cứu Nhà nước và
pháp luật (2001), Những vấn đề cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam, Báo
cáo tổng quan đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
37. Từ điển luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà nội.
38. Từ điển Tiếng Việt (2002), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
39. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật về
tố tụng hình sự và tố tụng dân sự, Hà Nội.
40. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ tư pháp (1996), "Chuyên đề luật tố tụng dân
sự", Thông tin khoa học, (6).
41. Nguyễn Thành Vĩnh (1990), Luật sư với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
42. Vụ Công tác lập pháp (2004), Những vấn đề cơ bản của Bộ luật dân sự, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62_0541.pdf