FDI đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, sau hơn 20
năm mở cửa, dòng vốn FDI đã tác động tích cực đến nhiều mặt đời sống kinh tế-xã hội nước ta, FDI đóng góp cho nguồn vốn đầu tư phát triển, góp phần khai thác
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần mở rộng nguồn thu và tạo thế chủ động
trong cân đối ngân sách nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động Việt Nam, giảm lực lượng thất nghiệp trong xã hội, nâng cao vị thế Việt
Nam trên thương trường quốc tế, v.v. FDI có nhiều đóng góp như vậy, qua đó
khảng định một điều quan điểm mở cửa hội nhập vào kinh tế toàn cầu của Việt
Nam, đặc biệt là các chính sách thu hút FDI vào Việt Nam của Đảng và Nhà nước
là hoàn toàn đúng đắn.
21 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2683 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Làm rõ tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Làm rõ tác động của đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phân
công lao động trên thế giới ngày càng diễn ra mạnh mẽ đã làm cho hoạt động đầu
tư của một nước không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà đã vươn ra
nhiều nước trên thế giới. Do vậy, hoạt động đầu tư nước ngoài là tất yếu bởi các
nhà đầu tư luôn tìm kiếm một môi trường thuận lợi hơn trong nước nhằm thu
được lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những nguồn vốn quan
trọng đối với đầu tư và phát triển không chỉ ở các nước nghèo, mà kể cả các nước
đang phát triển và các nước đã phát triển. Việt Nam là một nước đang phát triển,
do vậy FDI đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm cho
người lao động, ... Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang chuẩn bị bước sang giai
đoạn tăng tốc, do vậy FDI càng có vai trò quan trọng hơn. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ “Tăng cường thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình
thức thu hút FDI hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn
kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng,
hiệu quả nguồn vốn FDI, v.v.. ”
Vì vậy để đánh giá tổng quan hoạt động FDI ở Việt Nam trong những năm
gần đây và đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này, tác
giả đã chọn đề tài: Làm rõ tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Tổng quan về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI)
1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư nói chung là việc bỏ vốn bằng tiền, tài sản, sức lao động, của cải vật
chất, v.v... ở hiện tại nhằm thu được những kết quả nhất định trong tương lai.
Hoạt động đầu tư (đầu tư vốn) là quá trình sử dụng vốn đầu tư để duy trì hoặc mở
rộng tiềm lực sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Hoạt động đầu tư là một quá trình
bắt đầu từ khi nghiên cứu xác định các cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi, khả
thi, quyết định đầu tư cho đến khi triển khai thực hiện đầu tư, vận hành hoạt động
sản xuất kinh doanh, thu kết quả và kết thúc đầu tư.
Căn cứ vào quan hệ quản lý, người ta phân hoạt động đầu tư thành hai loại:
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: là sự đầu tư của các tổ chức hoặc cá nhân
nước ngoài đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào nước tiếp nhận để thực
hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm thu hút lợi nhuận. Đây
là loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp sở
hữu, quản lý và điều hành việc sử dụng vốn, nhà đầu tư nước ngoài phải đóng góp
một lượng vốn tối thiểu tuỳ theo quy định của mỗi nước. Đứng trên góc độ của
nước tiếp nhận, dòng vốn nhận được theo hình thức đầu tư này gọi là vốn FDI
Quỹ tiền tệ quốc tế năm 1977 đưa ra khái niệm FDI là: việc đầu tư được
thực hiện nhằm thu hút những lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp hoạt động ở một
nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư. Mục đích của nhà
đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 12/11/1996, FDI là việc nhà đầu
tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến
hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Khái niệm này nhấn mạnh chủ đầu tư là người nước ngoài nhằm xác định
4
chủ tư bản được dịch chuyển trong FDI nhất thiết phải vượt ra khỏi phạm vi một
quốc gia.
2. Phân loại FDI
Tuỳ theo phạm vi và mục đích nghiên cứu, FDI được phân loại theo các
tiêu thức khác nhau.
2.1. Xét theo hình thức đầu tư
Căn cứ luật Đầu tư được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11
năm 2005, FDI vào Việt Nam được thực hiện theo các hình thức sau:
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (DN100%VNN): Là doanh nghiệp
thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài)
do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. DN100%VNN được thành lập theo hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước chủ
nhà.
* Doanh nghiệp liên doanh (DNLD): Do các bên nước ngoài và nước chủ
nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ
vốn góp. DNLD được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có
tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chịu
trách nhiệm đối với bên kia, với DNLD trong phạm vi phần vốn của mình trong
vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả
thuận.
* Hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD): Là văn bản ký kết giữa hai
hoặc nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh tại
Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho
mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới. Thời hạn cần thiết cho hợp
đồng hợp tác kinh doanh do các bên hợp tác thoả thuận phù hợp với tính chất,
mục đích kinh doanh. HĐHTKD phải được các bên có thẩm quyền của các bên
hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được
cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.
5
Hình thức này được phổ biến trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí và
trong lĩnh vực bưu chính viễn thông. Ngoài ra còn được áp dụng trong lĩnh vực
công nghiệp gia công và dịch vụ.
* Các hình thức BOT, BTO, BT
+ Hình thức BOT (Building Operate Transfer; Xây dựng-kinh doanh-chuyển
giao)
Đây là hình thức nhà ĐTNN ký với Chính phủ nước sở tại một hợp đồng
để nhà ĐTNN thành lập một công ty BOT (DN100%VNN) xây dựng và vận hành
một dự án trong một thời gian đủ để thu hồi vốn và có lãi hợp lý, sau đó bàn giao
hoàn toàn dự án cho nước sở tại.
Hình thức BOT chủ yếu áp dụng cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng,
đặc biệt trong giao thông đường bộ, đường sắt, cảng biển, nhiệt điện và thuỷ điện.
v.v…
+ Hình thức BTO (Building Transfer Operate; Xây dựng-chuyển giao-kinh
doanh)
Hình thức này giống như BOT, nhưng chỉ khác ở điểm trong hình thức
BTO công trình sau khi xây dựng được khai thác sử dụng trong một thời gian mới
chuyển giao cho nhà nước sở tại, còn lại hình thức BOT thì sau khi xây dựng
xong, công trình được chuyển nhượng cho nhà nước sở tại rồi chủ đầu tư mới
được khai thác.
+ Hình thức BT (Building Transfer; Xây dựng - chuyển giao)
Hình thức này giống BOT ở chỗ sau khi xây dựng xong, công trình cơ sở
hạ tầng được chuyển nhượng cho nhà nước sở tại, nhưng khác ở điểm, trong hình
thức BOT Chính phủ cho phép nhà ĐTNN được khai thác tại công trình đó, còn
trong hình thức BT, Chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà ĐTNN thực hiện
một dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Với nền kinh tế có cơ sở hạ tầng yếu kém thì hình thức BOT, BTO, BT rất
được nước chủ nhà ưa chuộng vì nước chủ nhà không thể có đủ vốn để xây dựng
các hệ thống hạ tầng cho nền kinh tế. Trên thực tế Việt Nam mới chỉ có FDI theo
6
phương thức BOT, hình thức là DN100%VNN.
* Các hình thức khác
Ngoài các hình thức nên trên, FDI còn được thực hiện dưới các hình thức
khác tuỳ theo mục đích và đặc điểm trong yêu cầu tiếp nhận đầu tư, chẳng hạn:
công ty cổ phần có vốn ĐTNN, doanh nghiệp FDI đa mục tiêu, doanh nghiệp hợp
danh, v.v…
2.2. Xét theo khu vực kinh tế đầu tư: Tương ứng với từng khu vực trong
nền kinh tế, FDI được phân loại như sau:
- FDI đầu tư vào khu vực I - Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản.
- FDI đầu tư vào khu vực II - Công nghiệp và Xây dựng.
- FDI đầu tư vào khu vực III - Dịch vụ.
2.3. Xét theo vùng kinh tế đầu tư: FDI được phân chia 8 vùng: Vùng Đông
Bắc Bộ, vùng Tây Bắc Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đồng Bằng Sông Hồng, vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long, vùng Bắc Trung Bộ, vùng Duyên Hải Nam Trung
Bộ và vùng Đông Nam Bộ.
2.4. Xét theo ngành kinh tế đầu tư: FDI được phân chia theo những ngành
kinh tế chủ yếu: Ngành Nông, Lâm nghiệp; ngành Thuỷ sản; ngành Công nghiệp,
ngành Xây dựng, ngành Khách sạn - Du lịch, ngành Giao thông vận tải, Bưu điện,
ngành Tài chính, Ngân hàng và các ngành Dịch vụ khác.
2.5. Xét theo hiện trạng vốn đầu tư: vốn FDI được phân chia ra: vốn thực
hiện vốn pháp định; vốn tăng thêm; vốn giải thể trước thời hạn,…
* Vốn thực hiện (VTH): là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện
các hoạt động đầu tư, vốn đầu tư để thực hiện dự án đầu tư, bao gồm vốn pháp
định và vốn vay.
* Vốn pháp định: vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn ĐTNN là mức
vốn phải có để thành lập doanh nghiệp được ghi trong điều lệ của doanh nghiệp.
Phần vốn góp của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp
định của DNLD không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của các
7
bên, nhưng không < 30% vốn pháp định, trừ trường hợp do Chính phủ quy định.
* Vốn đăng ký (VĐK): là vốn do doanh nghiệp có vốn ĐTNN đăng ký với
cơ quan cấp phép đầu tư dự kiến doanh nghiệp có vốn ĐTNN sẽ đầu tư.
3. Một số đặc điểm FDI
Về bản chất, FDI là đầu tư của tư nhân nước ngoài với mục đích căn bản là
lợi nhuận, nhà đầu tư trực tiếp bỏ vốn và điều hành hoạt động kinh doanh nên họ
phải làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, nhà đầu tư cùng
với việc đưa vốn vào còn đưa cả công nghệ, bí quyết, kỹ năng tiếp thị, quản lý,
đào tạo nhân công, v.v... cho nước tiếp nhận vốn. Như vậy, ngoài việc được bổ
sung nguồn vốn thiếu hụt, FDI còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và đào
tạo đội ngũ lao động của nước tiếp nhận vốn. Do vậy, FDI có một số đặc điểm
sau:
Thứ nhất, nhà ĐTNN trực tiếp bỏ vốn và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy, FDI một mặt vẫn bổ sung được
nguồn vốn thiếu hụt và tăng khả năng sử dụng các tiềm năng sẵn có của nước tiếp
nhận, mặt khác lại không làm tăng gánh nợ nước ngoài của nước tiếp nhận.
Thứ hai, các chủ đầu tư thực hiện đầu tư tại nước sở tại nên phải tuân thủ
theo các quy định mà pháp luật nước đó đề ra đối với doanh nghiệp có vốn
ĐTNN.
Thứ ba, sự phân chia quyền quản lý các doanh nghiệp phụ thuộc vào mức
độ đóng góp vốn. Nếu đóng góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ
ĐTNN điều hành và quản lý.
Thứ tư, FDI không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn liền với
chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý, và tạo ra
thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư. FDI hiện nay gắn liền với
các hoạt động kinh doanh quốc tế của công ty đa quốc gia.
8
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI Ở VIỆT NAM
1. Tổng quan chung về tình hình FDI ở Việt Nam
Cùng với chính sách đổi mới của đất nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam được ban hành, từ năm 1988-2005, Việt Nam đã thu hút được 7279 dự án
FDI, VĐK: 66.244,4 triệu USD, vốn FDI thực hiện: 34.429,8 triệu USD (bằng
51,97% VĐK). Tính đến thời điểm 1/1/2006 số dự án còn hiệu lực là 5.918 dự án,
tổng vốn đầu tư là hơn 50.534,6 triệu USD và vốn FDI thực hiện là hơn 26.963,1
triệu USD.
* Tổng quan hoạt động FDI theo các giai đoạn
- Thời kỳ 1988-1990 là giai đoạn khởi động thu hút FDI : Trong giai đoạn
này số dự án cấp mới chưa nhiều, quy mô VĐK bình quân cho một dự án nhỏ,
vốn FDI thực hiện chưa có bởi vì các doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép
phải làm nhiều thủ tục cần thiết mới đưa được vốn vào Việt Nam; khu công
nghiệp và khu chế xuất chưa hình thành. Kết quả đạt được trong thời kỳ 1988-
1990: cả nước có 214 dự án, tổng VĐK là 1.602,2 triệu USD,…
- Thời kỳ 1991-1996 FDI phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ : Giai đoạn
này hoạt động của khu vực FDI tại Việt Nam rất sôi động, cả về số dự án, VĐK,
vốn FDI thực hiện và quy mô bình quân 1 dự án, nhưng tỷ lệ giữa vốn FDI thực
hiện và VĐK còn chênh lệch khá nhiều, khu công nghiệp và khu chế xuất được
hình thành và phát triển mạnh ở phía Nam. Kết quả đạt được trong thời kỳ 1991-
1996: cả nước có 1781 dự án (cả cấp mới), tổng VĐK (cấp mới và tăng vốn) là
27.827,1 triệu USD, tổng số vốn FDI thực hiện: 10.064.8 triệu USD.
- Giai đoạn 1997-2000 FDI liên tục giảm sút : Trong giai đoạn này hoạt
động FDI có xu hướng giảm sút và kéo dài, VĐK và quy mô VĐK bình quân 1
dự án giảm nhanh liên tục, tuy nhiên số vốn FDI thực hiện bình quân 1 dự án tăng
gần gấp đôi giai đoạn 1991- 1996. Kết quả đạt được trong thời kỳ 1997-2000: cả
9
nước có 1352 dự án (cả cấp mới), tổng VĐK (cấp mới và tăng vốn) là 16.094,9
triệu USD, tổng số vốn FDI thực hiện: 10.513, triệu USD,…
- Giai đoạn 2001 - 2005 FDI phục hồi và phát triển : Trong giai đoạn này
FDI có dấu hiệu bắt đầu phục hồi trở lại. Số dự án (đặc biệt dự án tăng vốn) tăng
rất nhanh, quy mô VĐK và VTH bình quân 1 dự án giảm dần. Kết quả đạt được
trong thời kỳ 2001-2005: cả nước có 3935 dự án (cả cấp mới); tổng VĐK (cấp
mới và tăng vốn) là 20.720,2 triệu USD; tổng số vốn FDI thực hiện: 13.852,8
triệu USD.
* Cơ cấu FDI theo một số ngành
Đối với một số ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam như công
nghiệp dầu khí, điện tử, sản xuất ô tô, xe gắn máy, thép, dệt, may, chế biến nông
sản thực phẩm, v.v.... Theo số liệu thống kê công bố về cơ cấu sản lượng sản
phẩm chủ yếu ngành công nghiệp của khu vực FDI năm 2000 về dầu thô khai
thác chiếm 100%; ô tô lắp ráp chiếm 100%; năm 2003 chiếm 92,83%; ti vi rắp
ráp năm 2000 chiếm 84,44%, năm 2003 chiếm 89,48%; xe máy lắp ráp năm 2000
chiếm 66,75%, năm 2003 chiếm 83,68%.
Những sản phẩm mới có giá trị cao như: Dầu khí, ô tô, xe máy, đồ gia dụng
đắt tiền, thiết bị điện tử, viễn thông phần lớn do khu vực FDI sản xuất và đang
giữ vai trò quan trọng trong sản xuất hàng xuất khẩu. Cơ cấu ngành nghề được
điều chỉnh theo hướng ngày càng hợp lý hơn, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất
hàng xuất khẩu, đồng thời đã hình thành bước đầu hệ thống các khu chế xuất, xây
dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp, chế biến nông lâm thuỷ
sản, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nhiều lao động, ứng dụng
công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại. Nhìn chung khu vực FDI có nhiều tiềm năng
trong các ngành như: khai thác dầu khí và sản xuất hàng tiêu dùng chất lượng cao
và làm hàng xuất khẩu, v.v...
Những ngành dịch vụ: Khách sạn - Du lịch; Giao thông vận tải, Bưu điện;
Văn hoá - Y tế - Giáo dục; Tài chính - Ngân hàng, cơ cấu FDI có xu hướng giảm
(giai đoạn 1993-2000). Năm 1996, FDI trong các lĩnh vực khách sạn giảm 53%,
văn phòng cho thuê giảm 70% và tài chính ngân hàng giảm 44%. Mức giảm còn
10
mạnh hơn vào năm 1997 và đầu năm 1998; trong khi đó các ngành dịch vụ khác
có xu hướng tăng, nếu năm 1993 cơ cấu vốn đầu tư cho các ngành dịch vụ khác
chiếm 4,6% thì đến năm 2000 đạt 10,2% tổng vốn của khu vực FDI.
Vậy cơ cấu vốn FDI thực hiện đầu tư theo ngành còn mang đậm nét tự
phát, tập trung chủ yếu vào những ngành có thể thu được lợi nhuận nhanh như
khai thác dầu khí, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, khách sạn, bất động sản, v.v…
Trong khi đó chưa có nhiều dự án tập trung đầu tư vào chế biến nông sản và cơ
khí chế tạo.
* FDI theo nước đầu tư
Trong những năm đầu thực hiện luật đầu tư nước ngoài Đài Loan và Hồng
Kông luôn là những đối tác hàng đầu FDI vào Việt Nam, sau năm 1993 Nhật
Bản, Singapor, Hàn quốc và một số nước ASEAN khác trở thành những nước đầu
tư lớn, nhóm Nics và Nhật Bản chiếm tới 63,81% số dự án, VĐK chiếm 60,75%
và vốn FDI thực hiện chiếm tới 57,58% tổng vốn FDI thực hiện trong nước.
Trong khi đó các nước có nền kinh tế phát triển thuộc nhóm các nước Bắc
Mỹ trong đó có Hoa Kỳ và Canada vốn FDI thực hiện chiếm 2,77% và các nước
thuộc nhóm Châu Âu chiếm 18,28% tổng số vốn FDI thực hiện của khu vực FDI
đầu tư vào Việt Nam, điều này 1 phần lý giải, lý do tại sao ngành công nghệ cao ở
Việt Nam chỉ chiếm 19% trong tổng GTSX công nghiệp chế biến, trong khi đó
Malaxia chiếm tới 51,1% và Thái Lan là 30,8%. Các nước có nền kinh tế phát
triển như Mỹ, Canada, v.v… lượng vốn FDI thực hiện ở Việt Nam thấp, do đó nó
ảnh hưởng đến trình độ phát triển công nghệ ở nước nhận đầu tư.
Nếu so sánh tỷ lệ vốn FDI thực hiện so với VĐK giữa nhóm các nước đầu
tư vào Việt Nam thì nhóm các nước thuộc Châu Âu chiếm tỷ lệ cao nhất so với
nhóm các nước khác, điều này thể hiện: Tỷ lệ vốn FDI thực hiện so với VĐK các
nước thuộc nhóm Châu Âu là 68,12%; nhóm các nước NICs và Nhật Bản là
50,57%; các nước thuộc nhóm ASEAN là 55,29% và thấp nhất là nhóm các nước
Bắc Mỹ chỉ chiếm 43,17%, điều này chứng tỏ các nhà đầu tư nói chung và các
nhà đầu tư châu Âu nói riêng đã yên tâm hơn đối với môi trường đầu tư ở Việt
Nam.
11
2. Phân tích hiệu quả FDI ở Việt Nam
2.1 Tác động tích cực của FDI
Hiệu quả FDI ngày càng được cải thiện, mặc dù bị suy giảm đáng kể khi
xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á. Đặc biệt từ năm 2003
hiệu quả FDI ngày càng được cải thiện một cách rõ rệt hơn, năm 2003 tốc độ tăng
trưởng đạt 10,5%, năm 2005 khu vực FDI đạt tốc độ tăng trưởng là 13,2%.
FDI với tăng trưởng kinh tế
Khu vực FDI là một trong số các động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam trong thời gian qua. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân năm giai
đoạn 1993-2005, khu vực FDI ở Việt Nam là 7,5%, khu vực FDI luôn là khu vực
năng động và hoạt động có hiệu quả đối với nền kinh tế, điều đó được thể hiện tỷ
lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP ngày một tăng qua một số năm.
FDI với cải thiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Theo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, cơ cấu kinh tế Việt
Nam cần chuyển dịch theo hướng sau:
+ Giảm tỷ trọng ngành Nông, lâm nghiệp trong GDP xuống còn 16,5%.
Phát huy lợi thế về thuỷ sản, tạo thành một ngành mũi nhọn.
+ Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như công nghiệp chế biến trong đó đẩy
mạnh chế biến mặt hàng công nghệ cao.
+ Phát triển ngành xây dựng ứng dụng công nghệ hiện đại.
+ Đối với ngành dịch vụ, chủ trương phát triển các ngành: thương mại, dịch
vụ vận tải và thông tin liên lạc; tài chính tiền tệ tín dụng; hoạt động khoa học kỹ
thuật; hoạt động liên quan đến tài sản và dịch vụ tư vấn.
FDI cải thiện kim ngạch xuất khẩu
Các doanh nghiệp FDI đã góp phần quan trọng trong việc gia tăng kim
ngạch xuất khẩu. Nếu xem xét tỷ lệ giữa giá trị xuất khẩu của khu vực FDI so với
vốn FDI thực hiện, khu vực FDI ngày càng tạo ra nhiều giá trị xuất khẩu.
12
FDI cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Khu vực FDI tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán quốc tế thông qua
hoạt động xuất nhập khẩu của khu vực FDI.
- Đối với cán cân thương mại, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng từ 5 triệu
USD năm 1995 đã tăng 4274 triệu USD năm 2005. Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu
tăng nhanh là do khu vực FDI chiếm một tỷ trọng đáng kể trong ngành công
nghiệp dầu khí, trong khi đó năm 2004 hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giá
trị xuất khẩu chiếm 32,6%, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm
41,2% trong tổng trị giá hàng xuất khẩu.
FDI tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Nộp ngân sách nhà nước của khu vực FDI (không kể thu từ dầu khí và hoạt
động xuất nhập khẩu) không ngừng tăng lên cả về mặt giá trị lẫn tỷ trọng chiếm
trong tổng thu ngân sách nhà nước. Năm 2005 nộp ngân sách nhà nước của khu
vực FDI tăng mạnh nhất từ trước đến nay, đạt trên 1100 triệu USD, đây là lần đầu
tiên kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài đến nay đóng góp cho ngân sách
nhà nước (không kể thu từ dầu khí) vượt ngưỡng 1100 triệu USD và đạt tốc độ
tăng là 115,7% so với năm 2004.
FDI tạo thêm việc làm cho người lao động
Giai đoạn 1993 - 2005, khu vực FDI đã trực tiếp giải quyết việc làm hơn 1
triệu người, trong đó lao động tại khu công nghiệp và chế xuất chiếm hơn 75% số
người làm việc trực tiếp tại khu vực FDI. Ngoài ra còn gián tiếp tạo việc làm cho
hơn 2 triệu lao động làm việc trong các ngành xây dựng, thương mại, dịch vụ liên
quan đến FDI.
FDI với chuyển giao, đổi mới công nghệ và tăng NSLĐ
FDI góp phần nâng cao năng lực công nghệ và sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Thông qua FDI, nhiều công nghệ mới, tiên tiến đã được du nhập vào Việt Nam
như thiết kế, chế tạo máy biến thế, dây chuyền tự động lắp ráp, hàng điện tử, công
nghệ sản xuất cáp điện, công nghệ thông tin, v.v… đặc biệt trong các lĩnh vực
viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất, điện tử và phát triển một số ngành mũi
13
nhọn của đất nước. Một số ngành sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu trong nước
như dệt, may, sản xuất giầy dép cũng thu hút được công nghệ thuộc loại trung
bình và tiên tiến ở khu vực.
2.2 Một số hạn chế của FDI tại Việt Nam
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải bất cứ lúc nào và ở đâu cũng
phát huy tác động tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội. Nó chỉ có thể phát
huy tác dụng tốt trong môi trường kinh tế chính trị và xã hội ổn định và đặc
biệt là Nhà nước của nước nhận đầu tư biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý
của mình.
Tác động tiêu cực của FDI tới nền kinh tế - xã hội Việt Nam
- Tình trạng sản xuất kinh doanh thua lỗ, nợ đọng kéo dài của các liên
doanh FDI
Bên cạnh các doanh nghiệp FDI làm ăn có lãi, tốc độ tăng trưởng cao, có
uy tín trên thị trường, là những thành viên tích cực trong cộng đồng doanh
nghiệp Việt Nam thì số các doanh nghiệp không thành công trong sản xuất
kinh doanh không phải là nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp liên doanh. Theo báo
cáo tổng kết 10 năm tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của bộ kế hoạch và
đầu tư thì hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh nhìn chung có hiệu quả
thấp. Nếu lấy tổng số lãi từ các doanh nghiệp làm ăn có lãi trừ đi tổng số lỗ của
các doanh nghiệp bị lỗ thì có thể kết luận là hoạt động của các liên doanh (theo
báo cáo) là hầu như không có lãi trừ ngành dầu khí. Liên doanh Coca Cola
Chương Dương là một ví dụ cụ thể và điển hình của thực trạng này. Sau hơn
hai năm hoạt động, số lỗ lũy kế đến năm 1998 là 12,4 triệu USD trong đó riêng
tháng 10-1998 lỗ 2,7 triệu USD. Trước thực trạng này, nhiều phương án đã
được đưa ra giải quyết song sau rất nhiều tranh cãi cuối cùng liên doanh này đã
chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Cùng với liên doanh Coca
Cola Non Nước và Coca Cola Ngọc Hồi, một số liên doanh sản xuất nước giải
khát giữa công ty Coca Cola Indochine và các doanh nghiệp Việt Nam đã lần
14
lượt chuyển thành công ty 100% vốn và thương hiệu nước ngoài. Có rất nhiều
sâu xa dẫn đến hiện tượng này nhưng rõ ràng là bên Việt Nam bị mất vốn cùng
với sự ra đi của đối tác đầu tư. Trên phương diện nước tiếp nhận đầu tư, Việt
Nam mong muốn có được sự kết hợp một cách xuôi chèo mát mái nhằm học
hỏi, trau dồi kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Tuy nhiên,
với kết cục thua lỗ này thì bên Việt Nam đã mất “cả chèo lẫn chài”. Đồng thời,
với kết cục này thì ngân sách Nhà nước sẽ bị mất đi một nguồn thu đáng kể từ
các doanh nghiệp FDI hạch toán kinh doanh bị lỗ. Không những thế trong khi
vấn đề cải thiện môi trường đầu tư hiện nay luôn được quan tâm thì những
khoảng tối này sẽ làm cho môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam ít nhiều
kém hấp dẫn hơn so với các nước trong khu vực đặc biệt là nước láng giềng
Trung Quốc.
Hậu quả và tác động không tốt tới cơ cấu kinh tế và chính sách phát
triển ngành nghề địa phương của Nhà nước
Chúng ta đều biết rằng, thu hút vốn FDI cũng như cơ cấu các ngành nghề
và lĩnh vực được phép có sự tham gia của FDI đều được nằm trong kế hoạch
phát triển tổng thể của nền kinh tế dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay, cơ cấu ngành nghề và địa phương của các dự án có vốn FDI còn có
vấn đề. Điều này được biểu hiện rất rõ trong cơ cấu FDI các năm. Ví dụ như
trong năm 2001, nếu như số dự án được cấp phép đầu tư trong lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng là 373 dự án với tổng vốn đăng ký 2,066 tỷ USD, chiếm
84,8% tổng vốn đăng ký thì trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản chỉ có 20 dự
án với tổng số vốn đăng ký là 25,26 triệu USD, chiếm hơn 1% tổng số vốn
đăng ký. Tính đến cuối năm 2002, có trên 528 dự án có tổng số vốn đăng ký
2,193 tỷ USD đã được thực hiện. Tuy vậy bức trang đầu tư nước ngoài vẫn còn
rất ảm đạm, đó là việc đầu tư không đi vào chiều sâu và chưa đáp ứng được
yêu cầu nâng cao năng suất của ngành. Mặt khác, việc đầu tư mang tính tự phát
mà không theo đúng quy hoạch và mục đích của Nhà nước.
15
Hơn nữa, hầu hết các dự án đầu tư nước ngoài đều được thực hiện thông
qua các liên doanh với các doanh nghiệp Nhà nước, khu vực được coi là kém
năng động hơn khu vực tư nhân. Mặt khác, các dự án có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tập trung chủ yếu vào những địa phương có sẵn điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển như những tỉnh và thành phố lớn như thành phố Hồ Chí
Minh, Vũng Tàu, Hà Nội….Đây cũng là sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư và
việc tận dụng các lợi thế của FDI cũng trở nên kém hơn. Có thể thấy rằng sự
phát triển của các vùng càng trở nên mất cân bằng hơn và đi ngược lại với chủ
trương của Nhà nước. Nhược điểm này là điểm phản tác dụng trong đầu tư trực
tiếp nước ngoài nước ta hiện nay.
Tác động tiêu cực đối với môi trường kinh doanh, ô nhiễm môi trường
và vấn đề văn hoá Việt Nam
Biểu hiện rõ nét nhất của vấn đề này là việc nhập khẩu máy móc thiết bị
cũ, lạc hậu, đã hết khấu hao dưới hình thức góp vốn của các đối tác nước ngoài
trong liên doanh. Lợi dụng sự yếu kém và chưa có cơ chế giám sát kỹ thuật
công nghệ của Việt Nam nên các nhà đầu tư nước ngoài đã trút sang Việt Nam
những máy móc thiết bị lạc hậu được tân trang lại. Theo kết quả khảo sát 42
doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nhẹ có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
cho thấy trong 727 thiết bị và dây chuyền sản xuất hàng tiêu dùng có tới 76%
số máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 1950-1986, hơn 70% số máy đã
hết khấu hao, 50% là thiết bị có được tân trang lại. Đương nhiên các nhà đầu tư
nước ngoài đó có lợi rất nhiều trong hành vi này: vừa có tỷ lệ vốn góp cao
trong liên doanh vừa không phải tốn chi phí để xử lý rác thải. Như vậy chỉ có
nước tiếp nhận đầu tư là thiệt hại nhiều mặt.
Không chỉ có vậy mà môi trường của chúng ta cũng bị ảnh hưởng trầm
trọng do những thiết bị lạc hậu này mang lại. Chi phí cho vấn đề này không
phải là nhỏ mà hậu quả của nó không lường trước được.
16
Ngoài các vấn đề trên ra, FDI còn có một số những tiêu cực đó là những
tác động không tốt tới cán cân thương mại quốc tế hay những tác động tới
thuần phong mỹ tục, văn hóa truyền thống của nước ta. Để tránh được những
ảnh hưởng xấu này đứng về mặt kinh tế thì Chính phủ chắc chắn phải bỏ ra
những khoản chi phí không nhỏ để tuyên truyền, giáo dục hay khắc phục hậu
quả…
Như vậy theo những phân tích trên đây chúng ta thấy, bên cạnh những
tác động tích cực đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế thì FDI cũng mang
trong nó những tác động không tốt cho Việt Nam. Tuy vậy, phân tích như vậy
không có nghĩa là chúng ta đi tới thái độ cực đoan với FDI mà là tạo dựng
những biện pháp phù hợp nhằm phát huy những tác động tích cực của FDI,
giảm thiểu những tác động xấu tới nền kinh tế xã hội, để đảm bảo an ninh tài
chính quốc gia và phát triển một nền kinh tế vững chắc trong xu hướng hội
nhập như hiện nay. Muốn vậy chúng ta cần thiết phải có một cơ chế quản lý
cũng như các chính sách thích hợp.
2.3) Kinh nghiệm quản lý và thu hút FDI của một số nước.
Trong sự phát triển của một số nền kinh tế những thập niên gần đây, có
sự tác động to lớn của FDI. Việc tham khảo kinh nghiệm quản lý FDI của các
nước này là việc làm cần thiết, đặc biệt là với các nước cơ điều kiện tương
đồng với Việt Nam như Singapo, Thái Lan, Trung Quốc. Điều đó sẽ giúp ta có
thêm cứ liệu để hiểu rõ sự tác động của FDI cả về mặt tích cực và hạn chế
đồng thời thấy được quản lý như thế nào nhằm tăng cường vai trò của FDI và
tránh những sai lầm mà các nước phải.
Đối với Singapo, để giải quyết nhu cầu về vốn, Chính phủ đã ban hành
các chính sách tạo môi trường hấp dẫn, khuyến khích các nhà tư bản nước
ngoài bỏ vốn vào thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, ít khống chế
số lĩnh vực đối với các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính sách
huy động vốn của Singapo như trên không những đã đưa lại hiệu quả cho sự
17
thành công của quá trình công nghiệp hóa mà còn tạo điều kiện cho nền kinh tế
thế giới cũng như khu vực.
Đối với Thái Lan, điều tương đối nổi bật là Chính phủ Thái Lan đã có
nhiều chính sách khuyến khích mạnh các nguồn vốn thuộc mọi thành phần
kinh tế trong nước cùng tham gia với các nhà đầu tư nước ngoài để hình
thành các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là một trong những yếu tố
quyết định sự phát triển nhanh chóng của các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Tuy nhiên, bài học trong quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thái
Lan là dự thiếu quy hoạch, tình trạng mất cân đối do thiếu sự chuẩn bị về cơ
sở hạ tầng…nên phần lớn các hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đều bị bên đối tác nước ngoài chi phối là chủ yếu.
Còn đối với Trung Quốc, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực sự trở
thành một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển, là điều kiện quyết định
những kết quả đạt được của quá trình thực hiện công nghiệp hóa. Một số yếu tố
cơ bản đảm bảo sự thành công đó là chiến lược mở cửa, thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài để phát triển kinh tế theo vùng lãnh thổ tuân thủ quy hoạch ưu tiên;
thực hiện đa dạng hóa các nguồn huy động vốn, kết hợp có hiệu quả việc sử
dụng vốn FDI với các nguồn vốn tín dụng huy động trong nước. Đồng thời,
từng bước hạn chế dần việc vay nợ nước ngoài, cố gắng tăng nhanh huy động
vốn từ các nguồn trong nước và FDI.
18
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI Ở
VIỆT NAM
FDI đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, sau hơn 20
năm mở cửa, dòng vốn FDI đã tác động tích cực đến nhiều mặt đời sống kinh tế-
xã hội nước ta, FDI đóng góp cho nguồn vốn đầu tư phát triển, góp phần khai thác
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần mở rộng nguồn thu và tạo thế chủ động
trong cân đối ngân sách nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động Việt Nam, giảm lực lượng thất nghiệp trong xã hội, nâng cao vị thế Việt
Nam trên thương trường quốc tế, v.v... FDI có nhiều đóng góp như vậy, qua đó
khảng định một điều quan điểm mở cửa hội nhập vào kinh tế toàn cầu của Việt
Nam, đặc biệt là các chính sách thu hút FDI vào Việt Nam của Đảng và Nhà nước
là hoàn toàn đúng đắn.
Việt Nam là một nước đang phát triển, muốn thành công trong công cuộc
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, tất yếu phải có nhiều vốn, đặc biệt là
nguồn vốn của nước ngoài. Do vậy cần phải thiết lập các điều kiện tiếp nhận vốn
FDI có hiệu quả, đồng thời phải biết phát huy các nhân tố ảnh hưởng tích cực bên
trong và bên ngoài cũng như làm giảm thiểu các nhân tố gây bất lợi tới quá trình
đó. Các giải pháp tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam cần phải tiến hành một
cách đồng bộ thì mới thực sự có hiệu quả, đó là :
- Tiếp tục củng cố, giữ gìn và đảm bảo môi trường kinh tế, chính trị ổn
định trong nước và mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới. Phải
có chiến lược huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế một cách cụ thể, sát thực.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về ĐTNN của Việt Nam, tạo
cơ hội bình đẳng hoạt động đầu tư giữa TPKT nhà nước; TPKT ngoài nhà nước
và TPKT có vốn FDI
- Cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng và nâng cao trình độ nguồn lao động
Việt Nam
19
- Tạo điều kiện thuận lợi phục vụ hoạt động FDI ở Việt Nam và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các dự án FDI đã triển khai.
- Tham khảo kinh nghiệm thu hút FDI và nâng cao hiệu quả hoạt động FDI
của các nước trong khu vực và trên thế giới trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới.
- Tăng cường phát triển của đội ngũ lao động, khoa học công nghệ và hệ
thống doanh nghiệp trong nước
- Đề cao và hướng các nhà đầu tư thấy rõ các nguồn lực và lợi thế so sánh
của Việt Nam.
20
KẾT LUẬN
Với chính sách mở cửa, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên
thế giới, Việt Nam đã từng bước đạt được những thành công trong thu hút FDI
đầu tư vào Việt Nam. Hiệu quả FDI và tác dụng FDI ở Việt Nam ngày càng được
nâng cao, mức độ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngày càng gia tăng; số việc làm được tạo ra trong khu vực FDI ngày càng nhiều
do vậy kéo theo số lượng lao động làm việc trực tiếp trong khu vưc FDI ngày
càng tăng; mức độ đóng góp vào ngân sách nhà nước của khu vực FDI ngày càng
được mở rộng; tỷ trọng giá trị xuất khẩu của khu vực FDI chiếm trong tổng giá trị
xuất khẩu cả nước ngày càng tăng và góp phần chuyển giao công nghệ và nâng
cao năng lực công nghệ mới của nền kinh tế, góp phần tăng năng suất lao động ở
Việt Nam, ...
Việt Nam muốn thành công trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước, tất yếu phải có nhiều vốn, đặc biệt là nguồn vốn của nước ngoài.
Do vậy cần phải thiết lập các điều kiện tiếp nhận vốn FDI, đưa ra các giải pháp
tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam một cách cụ thể. Đồng thời các chính sách
này cần phải tiến hành một cách đồng bộ thì mới thực sự thu hút FDI có hiệu quả.
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng (2004), Kinh tế quốc tế, Nxb Lao
động - Xã hội.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
3. Nguyễn Văn Chỉnh, Vũ Quang Việt, Trần Vân và Lê Hoàng (2002), Kinh
tế Việt Nam đổi mới những phân tích và đánh giá quan trọng, Nxb Thống
kê
4. Lê Huy Đức, ảnh hưởng của FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế , Tạp chí
Kinh tế và dự báo số 281, tháng 9 năm 1996
5. Tổng cục Thống kê (2006), Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển 1986-
2005, Nxb Thống kê
6. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê qua các năm, Nxb Thống kê.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Làm rõ tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.pdf