Trong quá trình "Nam tiến" của mình, người Việt khi tới đây dã cùng 
chung sống hoà bình với cư dân bản địa, họtiếp nhận nhiều yếu tốvăn hoáđặc 
sắc của người Chăm, cùng người chăm xây dựng làng xóm và tạo nên giá trị văn 
hoá rất đặc trưng góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hoá của xứ Quảng - 
Quảng Nam nói chung. 
Làng Mã Châu căn bản là làng Việt được ra đời, phát triển trên cơ tầng 
làng mạc Chăm. Yếu tố văn hoá Chăm tiềm ẩn, đan xen trong đời sống vật chất 
và sinh hoạt tinh thần của cộng đồng cưdân mới, tập hợp, dung hoà từnhiều 
miền quê lại.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 69 trang
69 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3301 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Làng nghề truyền thống của cư dân Mã Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, lăng la, các hàng hoa khác vừa tinh xảo, vừa đẹp mắt, 
không thua kém gì các thứ hàng bên tỉnh Quảng Đông"[8]. Nghề dệt chạy dọc 
theo hai bên bờ sông Thu Bồn và Bà Rén từđỉnh tam giác đồng bằng Duy Xuyên 
là Thi Lai (Tam Thi), Đông Yên - Duy Trinh qua Mã Châu, Trung Lương của 
thị trấn Nam Phước đến Long Châu - Duy Vinh, điều này được thể hiện qua các 
câu ca làng nghề: 
Mã Châu tơ lụa mỹ miều 
Ban mai cửi mắc, chiều chiều lụa giăng. 
với nhiều biến thể: 
Thi Lai tơ lụa mỹ miều... 
Đông Yên tơ lụa mỹ miều... 
và trở thành câu ca cho toàn vùng: 
Duy Xuyên tơ lụa mỹ miều... 
 Theo sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An thìở phủĐiện Bàn: 
"Long Châu sản xuất nhiều lụa trắng"[22.43]. 
 Đại Nam nhất thống chí, mục thổ sản cũng chép: "Lụa - sản ở xã Thăng 
Bình huyện Diên Phước thì chất dày, sản ở Mã Châu huyện Duy Xuyên thì chất 
mỏng". Vải các huyện đều có. Lời nhận xét dân ởđây "tục ưa xa xỉ, ít kiến thức, 
ăn mặc tất lượt là, thêu dệt tinh khoé, sa trừu không kém gì Quảng Đông" 
[19.336-339] cũng cho thấy nghề dệt ởđây rất tinh xảo. 
2.2.2. Trồng dâu nuôi tằm 
 Mã Châu nằm trong vùng trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa dọc theo 
hai bên bờ sông Bà Rén, hàng năm sông Bà Rén bồi đắp phù sa cho làng sau 
38 
mùa lũ lụt, đất được bồi tụ thường xuyên, thuận lợi cho việc trồng dâu nuôi tằm 
phát triển. 
 Trước đây diện tích đất bãi được chia đều cho các thành viên trong 
làng. đất được dùng để trồng lúa, trồng dâu (chủ yếu là trồng dâu). làng Mã 
Châu đã sớm phân chia thành những hộ chuyên làm nghề trồng dâu nuôi tằm và 
những hộ chuyên làm nghề dệt. Ít có hộ gia đình đảm nhận từ khâu đầu đến 
khâu cuối. 
 Cây dâu ởđây được trồng vào tháng 10, trên bãi đất bồi bằng những 
cành nhỏ (miền Bắc gọi là hom dâu). Cây dâu sau khi trồng thì 10 đến15 năm 
sau mới phải trồng lại. Mỗi năm vào tháng 11, người ta chặt hết cành dâu và chờ 
nảy ra vụ mới. Đó cũng là mùa nước lũ, nước sông Bà Rén dâng cao đem lại 
một nguồn dinh dưỡng lớn để nuôi cây dâu. Cây dâu ởđây có khả năng chịu hạn 
cao. 
 Tháng 3, lá dâu lên tốt cũng là lúc bước vào vụ tằm. Một năm ởđây 
nuôi được tám lứa tằm, trong đó có một lứa tằm xuân vào tháng 3. Từ tháng 4, 
tháng 5 bắt đầu vào vụ, kết thúc vào tháng 11 và tháng 7, tháng 8 là thời điểm 
thích hợp nhất để nuôi tằm. 
 Tằm ởđây là giống tằm đa hệ, tức là một năm có thểđẻ nhiều lượt trứng 
liên tục (Khác với giống tằm đơn hệ - đẻ một lứa trứng một năm và giống tằm 
lưỡng hệ - đẻ hai lứa trứng một năm mới được nhập từ nước ngoài vào). Mỗi lứa 
tằm từ 20 - 22 ngày. Bệnh tằm trước đây thường gặp là bệnh gai: Con tằm bình 
thường toàn thân trơn láng, màu xanh lơ, khi bị bệnh thì nổi gai trên các khoang, 
tằm từ màu xanh lơ chuyển sang màu bạc. Bệnh này do vi rút gây bệnh có từ 
trong trứng. Vì vậy người nuôi tằm trước kia rất sợ, bởi nếu lứa tằm nào gặp 
bệnh này thì coi như bỏđi. Hiện nay công nghệ hiện đại đã sử lýđược trứng tằm 
do vậy bệnh này hầu nhưđã bị loại bỏ. 
39 
 Nhìn chung, cứ 20kg lá dâu/1kg kén. Khi tằm làm kén chuyển sang 
ngày thứ ba thì phải bán cho người ươm tơ (người nuôi tằm không sản xuất đến 
khâu cuối). Tơ tốt hoặc lứa kén tốt phải được "9 kén, 1 tơ" (9kg kén được 1kg 
tơ). Người ta đánh giá chất kượng tơ tốt hay không ngay từ khi cầm con kén trên 
tay, tức là phải hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm mà họđã tích luỹđược trong quá 
trình nuôi tằm. 
 Do cơ chế thị trường, người dân Mã Châu đi chuyên vào nghề dệt vải, 
lụa mà không phát triển nghề nuôi tằm. Nghề trồng dâu nuôi tằm của Mã Châu, 
hiện nay đã di chuyển sang làng Trung Lương. 
 Mã Châu hiện nay có khoảng 3/4 dân số sống bằng nghề dệt và 1/4 dân 
số sống bằng nghề nông và các nghề khác. 
2.2.3. Ươm tơ dệt lụa 
 Sau khi kén chín thì bắt đầu công việc kéo tơ. người ta nhúng kén vào 
nồi nước sôi, quấy đều sau đó bóc vỏ ngoài của kén và kéo sợi. Theo kinh 
nghiệm dân gian, kén chín vừa thì kéo sợi trơn và nhẹ tay, kén sống thì kéo nặng 
tay, kén chín quá thì sợi tơ nẫu ra không kéo được. 
 Kéo sợi xong, trước khi đưa vào dệt người ta tiến hành hồ sợi. Hồđể hồ 
sợi phải nấu không đặc và cũng không được loãng quá, hồ nấu đặc thì sẽ bị gai 
sợi và hồ nấu không kỹ thì sợi sẽ bị mốc. Nguyên liệu để nấu hồ là gạo tẻ, bột 
dong... được xay thành bột, sau đó rây lọc bã và nấu. 
 Sợi sau khi hồ, được đem phơi và quàng lên xa, cuộn vào các ống gọi 
làđánh ống. Tuy nhiên khâu hồ chủ yếu được tiến hành đối với sợi dọc. Sợi 
ngang sau khi phân loại, cho vào suốt là tiến hành dệt được. 
40 
 Trước đây người ta dệt bằng khung dệt khổ hẹp độ 0,4m có một lá go, 
người thợ dệt cuốn chỉ vào con suốt, bỏ vào thoi làm bằng sừng trâu, ném qua 
lại bằng tay. Sau mỗi làn ném thoi thìđập lá go vào, giống nhưđan phên tre lóng 
mốt. Cứ vậy đến khoảng quá tầm tay thì dừng lại để cuộn vải vào, người thợ giỏi 
nhất cũng chỉ dệt được từ 3,5 -4m vải một ngày [15]. 
 Sản phẩm dệt ra được phân loại theo nguyên liệu tơ. Người làm nghề 
dệt ở Mã Châu thường phân chia sản phẩm theo hai loại tơ tốt hay xấu. Nếu 
dùng nguyên liệu tơ tốt thì dệt ra vải lanh giá trị cao, phần lớn bán cho các nơi. 
Còn dùng tơ thô thì dệt ra loại vải tít xo với giá rẻ hơn. Thực ra hàng tơ lụa ởđây 
được phân ra làm nhiều loại sản phẩm tuỳ theo chất lượng tơ và cách dệt như bài 
ca công nghệđã mô tả: 
Làm ra đủ thứ mặt hàng 
Hàng đơn, hàng kép dọc ngang tinh tường 
 Lượt, là, lĩnh, lụa, xuyến, lương 
Ấy là những thứ mặc thường của ta 
Thứ trơn rồi lại thứ hoa 
Quế, vân, gấm, vóc, băng, sa, kỳ cầu 
Lụa hoa mỗi thứ một màu 
Đọ vào nào kém hàng Tàu, hàng Tây. 
 Hiện nay loại khung cửi trên không còn ở Mã Châu và những làng dệt 
xung quanh nhưng dựa vào bức tranh vẽ về nghề dệt ở trước cửa Đình Tiền hiền 
Mã Châu hiện nay (Bản ảnh 6) thì khung dệt cổ truyền ở Mã Châu khá giống 
loại khung dệt cổ truyền của các làng dệt ở châu thổ Bắc Bộ. 
 Làng Mã Châu trước còn có nghề nhuộm. Hiện nay người ta dùng 
thuốc nhuộm hoá học. Nhưng trước kia, khi chưa có thuốc nhuộm hoá học thì có 
thể họ sử dụng cách nhuộm như người Cơ Tu ở miền núi Quảng Nam hiện nay 
41 
vẫn còn bảo lưu. Người Cơ Tu dùng những bộ phận của cây rừng làm thuốc 
nhuộm. Muốn có màu đỏ họ dùng củ cây ahứ giã nát, nấu lấy nước làm thuốc; 
màu vàng thì lấy rễ cây vàng đắng, một loại cây dây leo (angoăn mrớt); màu đen 
thì dùng lá cây tarâm giã nát, ngâm lâu ngày. Riêng màu trắng thì có khi để 
nguyên màu trắng của bông nhưng tông màu này bị chói, nên họ lấy vỏốc dưới 
suối nướng chín giã thành bột và nhuộm để chúng không còn màu trắng loá nưã 
[28.20]. 
 Đầu thế kỷ XX, ông Cửu Diễn (tên thật là Võ Diễn - ở thôn Thi Lai 
Tây - làng Thi Lai - Duy Trinh hiện nay) đã phát minh ra phương pháp cải tiến 
khung cửi do học được công nghệ từ những xưởng máy dệt của Pháp đầu tư. 
 Máy dệt được cải tiến tương đối giống máy dệt hiện nay ở Mã Châu và 
khung dệt khổ vải được mở rộng từ 0,8 - 1m. Với loại máy này người dệt vải 
không phải đưa con suốt qua lại và mỗi lần đưa qua phải đập lá go xuống mà chỉ 
phải đạp chân để chạy các bánh nhông chuyền làm cho các con suốt và lá go tự 
chạy qua lại. 
 Lúc bấy giờđiều kiện vật tư thiếu thốn, nhất là các bánh nhông chuyền 
bằng gang như hiện nay không có. Ông Cửu Diễn đã chế ra các bánh nhông răng 
cưa bằng những lát gỗ mít cưa tròn. Con thoi thì dùng hai đầu nhọn của sừng 
trâu hoặc sừng bò ghép lại, mài nhẵn để khỏi cưa đứt canh dọc [15]. 
 Máy dệt lúc đầu dệt với một lá go sau cải tiến thành hai rồi bốn lá go 
nhằm tạo dáng mặt hàng đẹp hơn. Loại khung dệt này có năng xuất gấp ba, bốn 
lần so với khung dệt ném tay vàđã nhanh chóng phát triển ra toàn vùng Duy 
Xuyên. Khi vùng này cóđiện thì người ta chuyển sang dùng khung dệt chạy 
bằng mô tơ. Khung dệt được cải tiến, mở rộng đến 1,2 - 1,5m. Từđây mở ra cho 
ngành dệt Quảng Nam nói chung, Thi Lai, Mã Châu nói riêng một bước phát 
triển mới về mẫu mã, chất lượng sản phẩm như: tuyết, satin, nhung, crêpe... nhất 
42 
là kaki, cita, vải tám thời kỳ kháng chiến và phục vụ tiêu dùng. Thịnh hành nhất 
là thời kỳ 1956 - 1960 sợi tơ bóng của Nhật, sợi bông của Ấn Độ, thuốc nhuộm 
hoá chất được nhập vào cảng Sài Gòn, tràn về Duy Xuyên. 
 Trong chiến tranh vùng này bị tàn phá, dân cư ly tán (chủ yếu làđi Sài 
Gòn vàđem theo nghề dệt vào đây). Sau khi chiến tranh kết thúc, nhà nước với 
cơ chế kinh tế bao cấp đã lập ra ởđây 4 hợp tác xã (HTX), trong đó có 3 HTX 
dệt và 1 HTX ươm dệt để sản xuất đồ Katê (đồ vải bông sợi nhập từ nước ngoài) 
và vải lụa do nhà nước bao thầu thu mua. Sau 1986, khi chuyển sang cơ chế thị 
trường thì 3 HTX dệt bị giải thể, những người dân làm nghề dệt ởđây cũng 
chuyển sang sinh sống bằng nghề khác. 
 Từ năm 1995 người dân Mã Châu quay lại với nghề dệt. Khung dệt gỗ 
thì mua lại những khung dệt cũ từ Sài Gòn, mang vềđóng lại rồi đưa vào sản 
xuất. Máy dệt khung sắt ởđây cũng mới xuất hiện năm từ 2000 do người dân 
mua từ các nhà máy dệt Hà Nội, Sài Gòn, Nam Định do họ chuyển giao công 
nghệ. 
 Trồng dâu nuôi tằm hiện nay người dân Mã Châu không làm, chỉ còn 
một vài hộươm tơ dệt lụa, còn lại đa số người dân dệt hàng Katê (sợi bông vải 
và sợi tổng hợp); Nguyên liệu mua từ HTX ươm dệt thị trấn Nam Phước hoặc từ 
các đại lý trong làng. Ở Mã Châu có 24 đại lý cung cấp nguyên liệu và bao mua 
sản phẩm dệt của người dân làm ra. Từ các đại lý này hàng dệt được đưa đi các 
thị trường ở trong và ngoài nước. 
 Nghề dệt ở Mã Châu hiện nay đang bắt đầu khởi sắc do sự quan tâm 
bảo tồn và phát triển làng nghề của các cấp chính quyền, đặc biệt là chính quyền 
địa phương tỉnh, huyện, thị trấn. Ngày ra mắt làng nghề truyền thống 30.3.2003 
vừa qua, đã mở ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của nghề dệt 
ởđây. 
43 
2.3. Nghề dệt với đời sống văn hoá của cư dân Mã Châu. 
 Khác với những làng nghề miền Bắc coi nghề thủ công là nghề phụ, ở 
Mã Châu, người dân coi nghề dệt là nghề chính. Làm ruộng ba năm (không 
bằng) nuôi tằm một lứa. Nhiều hộ gia đình vàđặc biệt là một số dòng họở Mã 
Châu chỉ chuyên làm nghề dệt. Hiện nay có 3/4 lao động của làng tham gia vào 
nghề dệt, còn lại 1/4 là sản xuất nông nghiệp và làm các nghề khác. 
 Nghề dệt đãăn sâu vào đời sống và chi phối mọi hoạt động của những 
người dân nơi đây. Họđã tự hào: 
Làng nghề truyền thống Mã Châu 
Ươm tơ dệt lụa, trồng dâu nuôi tằm. 
 Nghề dệt là một nghề vất vả, họ phải gắn mình bên khung cửi hàng 
ngày và gắn bóđời mình với nó, họ phải thức khuya dậy sớm để làm nghề chỉ 
với mong ước có một cuộc sống ổn định. Sự cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu 
khó của họđã khiến một thi sĩ phải thốt lên: 
“Ơi cô thợ dệt nhà bên 
Thức chi sớm vậy bầu trời sáng sao 
Tôi còn nhớ giấc chiêm bao 
Sáng mai cô dậy gọi tôi với nào”. 
(Thơông Hiền Tâm). 
Nghề dệt ởđây không chỉ là nghề riêng của người phụ nữ, đàn ông cũng 
tham gia vào nghề dệt và cả việc buôn bán sản phẩm đi các vùng khác. Nhờ 
nghề dệt mà Mã Châu có một diện mạo khá trù phú. 
Nghè dệt đã thúc đẩy sự giao thương buôn bán giữa Mã Châu với các 
vùng xung quanh. Nơi đây từ rất sớm đã trở thành một điểm giao thương sầm 
uất, hàng hoáđi về tấp nập. Hàng đi là những cây vải, tơ lụa được sản xuất từ Mã 
44 
Châu, được các thương nhân từ nơi khác tới mua hoặc người dân ởđây đem đi 
bán: 
Tơ, cau thuốc trởđầy ghe 
Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần. 
 Hàng đến là các loại sản vật ở các vùng, các làng khác đem đến để 
cung cấp cho nhu cầu của cư dân Mã Châu. Với 3/4 dân số làm nghề dệt dẫn đến 
việc sản xuất nông nghiệp ở Mã Châu không đủđểđáp ứng cho nhu cầu của 
người dân nơi đây. Vì vậy người dân ởđây cũng có nhu cầu mở rộng giao lưu 
buôn bán với các vùng khác. Mặt khác, nghề dệt cùng sự giao thương tấp nập đã 
làm cho đời sống kinh tế của cư dân Mã Châu tương đối ổn định và người dân 
có mức sống khá cao. Trong thời kỳ phát triển nhất của làng thì Mã Châu là nơi 
tập hợp những của ngon vật lạ, những đặc sản của các vùng xung quanh. 
 Là làng chuyên nghề dệt nên đời sống của cư dân ởđây cũng phụ thuộc 
rất nhiều vào việc buôn bán sản phẩm. Khi sản phẩm làm ra bán được thì cuộc 
sống của họ tương đối ổn định nhưng khi sản phẩm làm ra không bán được hoặc 
buôn bán thua lỗ thìđời sống của họ cũng rất vất vả, cơ cực. Nóđược thể hiện 
qua câu ca dao hóm hỉnh: 
Con gái có chồng vềđất Mã Châu 
Cái bụng xẹp lép, áo quần láng o. 
 Truyền thuyết dân gian ở Mã Châu cho biết nghề dệt là do những bậc 
Tiền hiền khai canh mang từ miền Bắc tới; nhưng cũng có truyền thuyết rằng 
nghề dệt là do bà Mã Chấu - một người Chăm, dạy cho cư dân ởđây (và tên làng 
Mã Châu cũng là tên Mã Chấu nhưng do lâu ngày đọc chệch nên thành Mã 
Châu)11. 
11VÒ sù h×nh thµnh lµng M· Ch©u theo truyÒn thuyÕt nµy, do t×nh tr¹ng thiÕu t− liÖu th− tÞch vµ 
nh÷ng t− liÖu tr−íc n¨m 1945 vÒ lµng nªn t«i ch−a kiÓm chøng ®−îc. 
45 
 Với truyền thống "uống nước nhớ nguồn", người dân Mã Châu tuy 
không nhớ nguồn gốc xuất xứ của vị tổ nghề dệt nhưng họ vẫn thờ phụng tổ 
nghề dệt tại Đình, chung với các vị Tiền hiền khai canh. Mỗi năm một lần họ tổ 
chức tế lễ (lễ này làm chung với lễởđình thờ Tiền hiền khai canh vào mungf 
mười tháng 3 Âm lịch) vàở mỗi nhà, mỗi khi đưa một khung cửi mới vào hoạt 
động hoặc khi hết một trục sợi, họ thường có một đĩa bánh trái, hoa quả và vài 
nén hương được đặt ngay trên khung cửi để báo với tổ nghề phù hộ cho công 
việc của họ. 
 Đối với những người có công với sự phát triển của nghề dệt, tuy không 
có thờ cúng nhưng người dân ởđây vẫn truyền miệng cho nhau nghe về sựđóng 
góp của họ cho nghề dệt như bàĐoàn Quý Phi, người đã có công mở rộng nghề 
dệt ra khắp vùng đồng bằng Quảng Nam; Ông Trần Văn An, người làng Mã 
Châu đã cùng ông Cửu Diễn người làng Thi Lai đưa loại khung dệt mới có năng 
suất cao hơn về vùng Duy Xuyên. 
 Hiện nay với công cuộc CNH - HĐH đất nước, nghề dệt ở Mã Châu đã 
vàđang phát triển mạnh, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp cho những người 
dân làng Mã Châu và tạo công ăn việc làm cho hơn 300 lao động từ những làng 
xung quanh đến đây. Đó là chưa kể những lao động ở các làng khác đến học 
vàđem nghề dệt phát tán đi những vùng xung quanh. 
 Việc phát triển làng nghề truyền thống đã góp phần nâng cao đời sống 
vật chất cho người dân ởđây. Đa số các hộ gia đình ở làng đã có nhà cửa khang 
trang với đầy đủ tiện nghi sinh hoạt như: ti vi, tủ lạnh, quạt điện, xe máy... Cả 
làng hiện chỉ có 14% hộ nghèo, chủ yếu là những hộ mất sức lao động, leo đơn 
già cả, đông con và những hộ làm nông nghiệp. 
 Nghề dệt cũng góp phần ngăn chặn những tệ nạn xã hội đang theo "cơ 
chế thị trường" len lỏi vào khắp nơi như: cờ bạc, nghiện hút, mại dâm... Do đặc 
46 
điểm của nghề dệt có thể tận dụng nguồn lao động trẻ, nhàn rỗi (ở làng người ta 
học nghề và biết dệt từ khi 13 -14 tuổi ). Nên giới thanh niên ởđây có công ăn 
việc làm từ rất sớm dẫn đến hạn chếđược những tiêu cực xã hội (tuy nhiên cũng 
phải kểđến những ảnh hưởng của sự giáo dục trong gia đình, họ hàng và cộng 
đồng làng xóm thể hiện qua những Quy ước văn hoá, Tộc ước văn hoá... của 
làng). 
 Chính vì nghề dệt đãăn sâu vào đời sống của người dân nơi đây. "Đã 
mang lấy cái thân tằm. Không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ" nên qua bao 
thăng trầm lịch sử, làng nghề Mã Châu nói riêng và nghề dệt trên toàn vùng Duy 
Xuyên- Quảng Nam nói chung vẫn tồn tại và phát triển. GS Trần Quốc Vượng 
đã tiên đoán: Trong tương lai Nam Trung Bộ là vùng bông đặc sản của cả nước, 
cũng như vùng dâu tằm ven sông Thu Bồn cũ sẽ thịnh vượng như xưa và hơn 
xưa [37.429]. 
Chương 3:ĐÔINÉTVỀTÍNNGƯỠNG, 
TÔNGIÁOVÀPHONGTỤCTẬPQUÁNCỦACƯDÂN MÃ CHÂU 
 Người Việt đến vùng đất mới đã giao lưu và tiếp thu những yếu tố văn 
hoá của người Chăm. Đồng thời trong quá trình giao lưu buôn bán, người Việt 
47 
cũng đã tiếp thu một số yếu tố văn hoá của người Hoa để từđó tạo nên một bản 
sắc văn hoá riêng, đặc sắc, góp phần hình thành nên diện mạo của xứ Quảng - 
Quảng Nam. 
3.1. Sự thờ cúng. 
3.1.1. Thờ Tiền Hiền khai canh. 
 Hơi khác với những làng Việt ở miền Bắc, đình làng ở Mã Châu (và 
miền Trung nói chung) dùng để thờ Tiền hiền, Hậu hiền - những người có công 
đến khai canh, khai cư thành lập làng. 
 Theo hồi cố của các cụ già trong làng thì trước đây ở bốn thôn (Đông - 
Thành - Tây - Thượng) mỗi nơi có một ngôi đình thờ Tiền hiền riêng và ngôi 
đình (Tiền hiền Tứ Mã) thìở trong khuôn viên của HTX ươm dệt Nam Phước 
hiện nay. Trong chiến tranh tất cả các ngôi đình đã bị tàn phá và các đồ vật 
trong đình cũng đã bị thất lạc hết. 
 Ngôi đình Tiền hiền Tứ Mã hiện nay được làm mới vào năm 2001. 
Đình được xây theo kiểu nhà ngang, các cột và trên nóc đình có trang trí rồng, 
phượng. Phía ngoài, trước cửa đình qua một khoản sân có một bức bình phong, 
một góp sân có bàn thờ thổđịa và phía ngoài cùng là cổng tam quan. 
 Cách bài tríở trong đình: có năm bàn thờ, ở giữa thờ Tiền hiền Mã 
Châu; bàn thờ hai bên tả hữu thờ Hậu hiền và tổ nghề dệt; hai bàn thờở ngoài 
cùng, một bên thờ những người đỗđạt thời phong kiến và một bên thờ những 
anh hùng, liệt sỹ - con em của làng Mã Châu có công với nước; Phía trên bàn 
thờ, ở gian giữa treo bức hoành phi đề bốn chữ "Tuấn mã hoa lưu" (Hoa Lưu 
: là tên một con ngựa trong số tám con ngựa tốt của Chu Mục vương). 
 Hàng năm đến ngày mùng 10/3 Âm lịch dân làng tổ chức cúng tế. 
Trước ngày đó dân làng họp lại và bầu ra ban trị sự lo việc chung (đó là những 
48 
cụ già cao tuổi, giàu kinh nghiệm) và một ban tế (một số cụ già cao tuổi nhất 
hoặc có kinh nghiệm nhất và thầy cúng). 
 Sáng ngày 10/3 lễ tếđược tiến hành, người ta bầy biện toàn bộ các lễ 
vật lên bàn gồm: Hương đăng, hoa quả, giấy tiền, vàng mã, heo gà... 
 Ban tế mặc khăn đóng áo dài, chủ tế mặc áo đỏ, hai người bồi tế mặc 
áo xanh. Trước khi tế người ta kiểm tra lại lễ vật lần cuối, sau đó các thành viên 
trong ban tếđứng vào vị tríđể làm lễ. Quá trình hành lễ tiến hành theo mệnh lệnh 
của người nội xướng (người đọc các quá trình làm lễ). Lễ tếđược tiến hành theo 
trình tự: 
 - Đánh ba hồi trống, ba hồi chiêng và cử nhạc lễ. 
 - Chủ tế tiến lên dâng hương. 
 - Chủ tế và bồi bái lạy bốn lạy. 
 - Chủ tế dâng rượu. 
 - Đọc văn tế. 
 - Chủ tế dâng rượu lần hai, sau đó lui ra để dân làng vào lễ. 
 - Tại lễ, ban lễ lạy bốn lạy và nổi chiêng trống kết thúc quá trình tế lễ. 
 - Đốt vàng mã. 
 Trong văn tế Tiền hiền Mã Châu cóđoạn: "Nhân tùng bắc địa, trạch thử 
nam thiên, quy dân lập xã, thất thổ khai điền, dũ nhân dân chi lạc lợi, thuỳđức 
hạnh di diên niên: Tư nhân kỵ nhật, kính dõng (dũng) hương yên, thượng kỳ 
gián giám..." . 
 (Tạm dịch: Người từđất Bắc, đến ở phía Nam, quy dân lập xã, vỡđất 
làm rộng, làm lợi cho nhân dân, đểđức hạnh muôn đời: Ngày kỵ hôm nay, kính 
dâng nén hương, mong ở trên chứng giám...). 
 Sau khi tế mọi người cùng ra Đình ngồi ăn uống. Thứ tựởđình, gian 
giữa dành cho ban tế và các cụ già, còn hai bên là dân đinh trong làng. Vì là lễ 
49 
lớn cho cả làng nên phụ nữ cũng phải ra đình làm cỗ, nhưng họ chỉđược ở nhà 
sau để chuẩn bị cỗ bàn. 
 Lễ tế Tiền hiền Mã Châu là một dịp để tưởng nhớ công ơn của những 
người đi trước, thể hiện đạo nghĩa "uống nước nhớ nguồn" của những người dân 
ởđây và cũng là dịp để mọi người trong làng gặp gỡ, thăm hỏi nhau và củng cố 
thêm sự cố kết trong cộng đồng. 
3.1.2. Thờ tổ tiên trong các dòng họ. 
 Làng Mã Châu có hơn 20 dòng họ với 16 nhà thờ họ. Tuy nhiên trong 
chiến tranh những nhà thờ họ cũđã bị phá huỷ, những nhà thờ họ hiện nay mới 
được xây dựng lại từ năm 1992. 
 Các nhà thờ họ hiện nay có kiến trúc giống nhau, nhà xây theo kiểu ba 
gian hai mái, lợp ngói, có trang trí rồng phượng, lân... ở các cột nhà và trên mái 
nhà. Phía ngoài sân là bức bình phong là một cây hương ở góc sân để thờ thổđịa. 
Bên trong nhà thờ họ thường có ba gian thờ: gian giữa thờông tổ dòng họ; hai 
gian bên thờ cúng các chi tộc và những người đỗđạt hoặc anh hùng liệt sĩ - 
người của dòng họ. Phía trên, gian giữa thường treo một bức hoành phi và hai 
bên bàn thờ treo (nay là viết) các câu đối. Trên bàn thờ chính giữa cóđặt phúý 
(gia phả) của dòng họ. Tuy nhiên ở Mã Châu chỉ còn dòng họ Trịnh và họ Phạm 
còn giữđược bản gia phả từ trước năm 1945. Trong đó chỉ có gia phả của họ 
Trịnh còn ghi chép đầy đủ và có ghi năm lập gia phả là vào niên hiệu Bảo Đại 
thứ 6. 
 Ởđây việc xây dựng nhà thờ họ không câu nệ, không nhất thiết người 
đứng ra xây dựng nhà thờ họ phải là người con trưởng mà người ở trong họ nếu 
ai cóđiều kiện thìđứng ra xây dựng (tất nhiên phải thông qua việc họp họ vàđược 
50 
cả họ nhất trí) và nhà thờ họ phải được xây dựng ở chỗ thuận lợi cho việc họp 
họ. 
 Nhà thờ họ nhìn chung được xây dựng đểđáp ứng yếu tố tâm linh. Là 
nơi để con cháu tụ họp và tưởng nhớ tổ tiên thông qua công việc giỗ chạp, tế lễ 
trong họ, từđây tinh thần cố kết của dòng họđược củng cố và nâng cao. Đồng 
thời cư dân ởđây vốn mang trong mình tâm lý hoài cổ của những người dân đi 
"khai hoang lập nghiệp" trước kia và nhà thờ họ là một trong những minh chứng 
rõ nét nhất cho điều đó. Hiện nay việc xây dựng nhà thờ của họ còn đáp ứng một 
nhu cầu khác - hơi tiêu cực - đó là "thi đua" với các dòng họ khác trong làng. 
Việc thờ cúng ở nhà thờ của các họ trong làng tương đối giống với việc 
thờ cúng ởĐình Tiền hiền Mã Châu. Có lẽ lúc đầu, đình Tiền hiền mang ý nghĩa 
là nhà thờ họ chung của cả làng, là nơi thờ những tổ họ, những người đầu tiên có 
công khai cư lập làng Mã Châu. Bởi khi mới vào đây, do nhiều lý do nên những 
người đầu tiên đến khai canh, khai cư không cóđiều kiện ghi chép lại tên họ nên 
những thế hệ sau không nhớ rõ họ tên của những người tổ họ12. Vì vậy những 
người dân làng lập nên nhà thờ họ chung này và nó cũng đáp ứng nguyện vọng, 
tâm lýuống nước nhớ nguồn của những người dân ởđây. Nhưng qua thời gian, 
cùng sự phát triển của làng, đình Tiền hiền trở lại với đúng nghĩa của nó là trung 
tâm của làng, là nơi hội họp, sinh hoạt và thể hiện mối cộng cảm chung của cư 
dân làng Mã Châu. 
3.1.3. Thờ Thành Hoàng. 
 Tục thờ thần Thành Hoàng ở Bắc Bộ, khi vào đây được tích hợp với 
những yếu tố Chăm và thờ Thành Hoàng là Cao Các - Nam Hải đại vương (thờ 
12Khi t«i ®i t×m hiÓu vÒ c¸c dßng hä ë lµng M· Ch©u th× thÊy r»ng nh÷ng dßng hä l©u ®êi nhÊt 
ë lµng hiÖn nay ë ®©y ®−îc 17 ®êi, nh−ng lu«n lu«n kh«ng râ hä tªn cña kho¶ng bèn ®Õn n¨m 
thÕ hÖ ®Çu tiªn cña c¸c dßng hä. 
51 
cáông, cá voi). Đây là một tín ngưỡng phổ biến của cư dân đi biển ở vùng ven 
biển miền Trung. 
 Người Việt khi tới "vùng đất mới" đã tiếp thu nghềđi biển của người 
Chăm. Khi đi biển, họ thường xuyên phải đối mặt với sóng gió mà không có 
cách gìđể chống chọi lại với hiểm nguy vì vậy lòng tin vào các thế lực siêu 
nhiên càng mạnh, nhiều lăng Ông, lăng Bàđược dựng lên để cầu mong sự bình 
yên. Cá voi được xem là một vị thần cứu mạng của cư dân, do vậy có tục thờ 
cáÔng ở vùng ven biển. Hàng năm cư dân đều tổ chức cúng bái, tạơn thánh thần 
và tưởng nhớ những người đã bỏ mình trên biển. 
 Các Các - Nam Hải đại vương được thờở miếu Thành hoàng, trong 
chiến tranh miếu này bị tàn phá, hiện nay chỉ xác định được miếu nằm trong 
khuôn viên trường cấp II Sào Nam. Trước đây tếở miếu vào 10/3 Âm lịch, khi 
miéu mất, việc tế lễ cũng không còn. 
 Nếu như thần Thành Hoàng là vị thần quan trọng nhất ở các làng Bắc 
Bộ thìở Mã Châu và mở rộng ra vùng Duy Xuyên - Quảng Nam nói chung việc 
thờ Tiền Hiền khai canh chiếm vị trí chủđạo, nó chi phối rất mạnh mẽđến đời 
sống tâm lý của cư dân nơi đây. Tín ngưỡng Thành Hoàng ở Mã Châu vẫn được 
lưu giữ nhưng đã lui xuống hàng thứ yếu, đồng thời lại hoà nhập vào với yếu tố 
tín ngưỡng Chăm. Nó thể hiện ở việc thờ Thành hoàng Cao Các ở miếu thờ của 
làng Mã Châu. 
3.1.4. Miếu thờ. 
52 
Miếu thờở Bắc Bộ có chức năng chính là nơi thờ thổđịa, là nơi thờ 
cúng của từng xóm [38.34]. Nhưng ở Mã Châu và vùng Duy Xuyên nói chung, 
miếu thờ Ngũđức hay Ngũ hành tiên nương, một tín ngưỡng phổ biến ở vùng 
này. 
 Ngũ hành tiên nương gồm: 
 - Kim đức thánh phi tôn thần. 
 - Mộc đức thánh phi tôn thần. 
 - Thuỷđức thánh phi tôn thần. 
 - Hoảđức thánh phi tôn thần. 
 - Thổđức thánh phi tôn thần. 
 Tuy nhiên khi giải thích về việc thờở miếu thì người làng Mã Châu nói 
rằng trước kia ở vùng này thiên tai, nạn hoả hoành hành nên người ta phải thờ 
cúng những hiện tượng gây tai hoạ và gọi chung là thờ Nhương bà. 
 Ở Mã Châu có chín miếu của chín xóm là tứ Bình, tứ Phú và Hợp 
Thành. trước kia còn có miếu Nhỏ nhưng nay đã bị phá huỷ và chỉ còn lại nền 
gạch ở phía đầu làng. 
 Miếu ởđây kiến trúc khá giống nhau và rất đơn giản, được xây dựng ở 
khu đất nhỏ hình chữ nhật ởđầu hoặc ở cuối xóm. Trong miếu có một bát hương 
ở chính giữa thờ Nhương bà và hai bát hương ở hai bên, thấp hơn để thờ chư 
thần. Phía ngoài là bức bình phong, bên cạnh là cây hương thờ thổ thần. 
 Lễ thức ở các miếu tương đối giống nhau, thường cúng vào mồng 5 đến 
mồng 7 tháng Giêng âm lịch. Lễ vật do cả thôn cùng đóng góp. Xóm cắt hai nhà 
trong thôn (gọi làông Trùm) có trách nhiệm lo lễ vật, chuẩn bị lễ cúng và ngày 
Rằm, mùng một phải ra miếu thắp hương. Lễ vật gồm năm mâm, một mâm đểở 
giữa miếu cúng Nhương bà, hai mâm ở hai bên tả hữu để cúng chư thần, một 
53 
mâm cúng thổđịa và một mâm đặt trước tấm bình phong mời "bằng hữu" - thần 
ở những vùng xung quanh. 
 Người cúng là người già nhất xóm vàđược mọi người trọng vọng. Khi 
cúng mặc áo the, khăn xếp. Quá trình cúng tế nhìn chung cũng giống như lễ 
tếởđình làng và mức độ to nhỏ tuỳ thuộc vào khả năng kinh tế của từng xóm. 
 Nội dung của văn tế thường như sau: "Kim ngân, hương đăng, thanh 
chước thứ phẩm chi nghi cẩn cáo vu... Thượng giới bạch hổ kim tinh thần nữ tôn 
thần, sắc phong nhân huyền dực bảo trung ngưng tôn thần. Tập bộ hạ thần đẳng 
chủng đồng lai thụ hưởng. Viết cung di tôn thần. Ngũ sắc hề thượng bạch, ngũ 
hành hề thuộc kim... 
 Miếu tiền thiết tế, thượng kỳ lai hưởng như lai hâm. Vô nhứt tiêu phong 
nạn hoả, tai quái chi trưng bất tác hựu nhất ấp dân khương dật phụ" (Văn tếở 
miếu Bình Hoà). 
 (Tạm dịch: Kim ngân, hương đăng, thanh trước vật phẩm đã bầy. Kính 
báo... Thượng giới bạch hổ kim tinh thần nữ tôn thần. Sắc phong nhân huyền 
dực bảo trung ngưng tôn thần. Cùng chư thần bộ hạ cùng đến thụ hưởng. Kính 
viết: Tôn thần. Trong ngũ sắc là màu trắng, trong ngũ hành thuộc kim... 
 Trước miếu tế lễ, ở trên tới hưởng, không gây tiêu phong nạn hoả, 
không tác oai tác quái để dân trong ấp được bình yên.) 
 Sau khi lễ tạ, mọi người kéo đến nhàông Trùm ăn uống, tổng kết công 
việc trong năm và cắt cử công việc cho năm tới. Trong việc tếở miếu này, người 
phụ nữ chỉ chuẩn bịđồ tế lễở nhà còn ra miếu làđàn ông ở xóm. 
 Việc tế lễở miếu của mỗi xóm có vai trò rất quan trọng trong đời sống 
của cư dân ởđây. Nó tạo nên một sự “cộng cảm”, “cộng mệnh”, củng cố tinh 
thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau của mọi người trong thôn xóm, tạo điều kiện 
cho mọi người gặp gỡ và vui chơi để từđó họ có thể hiểu nhau hơn. 
54 
3.1.5. Thờ Phật. 
 Chùa Ba Phong (Hoa Phong tự - tiếng miền Trung đọc Hoa thành Ba) 
nằm ở phía Tây Nam của làng, phía gần bờ sông. Chùa do nhân dân Mã Châu 
xây dựng đã nhiều lần bị hư hỏng phải tu sửa, thậm chí phải làm lại hoàn toàn. 
Chùa cũ không rõđược dựng từ bao giờ, năm 1930 bịđổ vàđược nhân dân xây 
dựng lại bằng nhà tranh tre. Năm 1945 bịđổ, đến năm 1960 chùa được khởi công 
xây dựng bằng gạch, lợp ngói. Trong kháng chiến chống Mỹ lại bị sập. Năm 
1989 chùa được làm lại như hiện nay, do người dân làm nghề dệt ở Mã Châu 
quyên góp mà xây dựng lên. 
 Trong chùa, gian ngoài chính giữa thờ tượng Phật Thích Ca, phía hữu 
(từ ngoài vào) thờ Bồ Tát Địa Tạng, phía tả thờ Quan Âm Nam Hải. Gian trong 
thờ Tiền Hiền Mã Châu (do trước đây khi đình cũ sập, người ta đưa bài vị Tiền 
Hiền vào chùa thờ, đến khi dựng đình mới, người ta vẫn để chân nhang ở chùa), 
BồĐềĐạt Ma và là nơi để hậu của các phật tử. 
 Mỗi tháng vào ngày rằm, mùng một nhà chùa làm lễ, các Phật tử, đạo 
hữu đến lễ chùa. Bình thường vào buổi tối, phật tử và các cụ già thường đi tụng 
kinh niệm phật. Người dân ởđây đi chùa vì nhiều lý do nhưng chủ yếu làđi chùa 
để cầu an, cầu phúc... 
 Ngày Phật Đản (lễ Vu Lan Bồn ngày 15/7 Âm lịch) là ngày lễ lớn nhất 
của chùa. Chùa làm lễ rất lớn để cúng các vong hồn không siêu thoát được. 
Ngày này Phật tử các nơi về làm lễ rất đông. 
 Khác với chùa chiền ở miền Bắc được bố chí theo kiểu thờ cúng "tiền 
Phật, hậu Thánh" với một hệ thống các ban thờ khá "phức tạp" như Ban thờ 
Mẫu, Ban thờĐức Ông ở trong chùa. Chùa Ba Phong và chùa ở vùng Duy 
Xuyên - Quảng Nam, nhìn chung là chỉ thờ Phật (các chân nhang của Tiền Hiền 
Tứ Mã cũng mới được đưa vào chùa thờ), không có Ban thờ Mẫu và ban thờĐức 
55 
Ông. Chùa chiền ởđây khá "thuần nhất" chứ không có sự thờ cúng "phức tạp" 
nhưở miền Bắc. 
3.1.6. Thờ Thổđịa. 
 Thần Thổđịa là một vị thần quan trọng trong đời sống tâm linh của cư 
dân làng Mã Châu. Việc thờ thần cóở khắp mọi nơi tuy rằng về mặt kiến trúc thì 
nơi thờ thần rất đơn giản, chỉ là một cây hương đặt ở góc sân đình, chùa, nhà thờ 
họ, góc vườn của gia đình, cũng có khi là bát hương ở cổng ngõ mỗi nhà, thậm 
trí người ta còn cắm hương vào gốc cây hay/và cắm thẳng hương xuống đất... 
Việc thắp hương cho thần ngõ (thần Thổđịa) vào ngày Rằm, mùng một 
vào lúc đầu tối, sau khi thắp hương cho tổ tiên ở bàn thờ trong nhà. 
Thờ Thổ công là một tín ngưỡng chung, phổ biến của người Việt với 
quan niệm "đất có Thổ công, sông có Hà Bá". Thổ công là vị thần trông coi nhà, 
định phúc hoạ và coi giữ không cho ma quỷđến quấy nhiễu gia đình tín chủ 
[30.78]. Ở vùng này tín ngưỡng thờ Thổ công, thổđịa phát triển mạnh hơn. Nó 
liên quan đến việc trước đây người Việt coi vùng này là vùng "ma thiêng nước 
độc". 
3.1.7. Thờ Thần Nông. 
 Liên quan đến tục thờ Thần Nông có hai Lễ chính là lễ Cơm mới và lễ 
Hạđồng. 
 - Lễ Cơm mới: hàng năm vào tháng 10, sau khi thu hoạch mùa vụ, 
những người làm nông nghiệp trong làng cùng đóng góp để làm lễ cúng Thần 
Nông ở bàn Mục Đồng. Trên mâm lễ, người ta lấy những hạt lúa đầu mùa làm 
cơm cúng thần cùng với gà hoặc thủ lợn, hương đèn, trầu rượu, hoa quả... mục 
56 
đích để cảm tạ Thần Nông đã phù hộ cho mùa màng tươi tốt và cầu mong vụ sau 
được "mưa thuận gió hoà" để mùa màng được "phong đăng hoà cốc". 
 Bàn Mục Đồng nằm ở phía ngoài đồng, gần chùa Ba Phong, được xây 
dựng đơn giản trên một môđất cao hơn mặt ruộng khoảng 2m. Trong chiến 
tranh, bàn Mục Đồng đã bị tàn phá nhưng đãđược xây dựng lại ngay sau đó. 
57 
- Lễ Hạđồng: cúng vào tháng riêng theo từng cánh đồng. Lễ vật gồm 
hương đăng, hoa quả, xôi gà... xếp thành ba mâm phân chia theo thứ tự trên 
dưới, được đặt ở ven cánh đồng. Lễ chung cho cả cánh đồng thì do một người 
đứng ra làm chủ lễ, sau đó các gia đình đi làm lễở ruộng của mình, mục đích 
cũng là cầu cho mùa màng tươi tốt. 
3.2. Phong tục tập quán. 
3.2.1. Hội làng. 
Hội làng diễn ra vào ngày 10/3 Âm lịch. Trước đây, khi chưa bị chiến 
tranh tàn phá thìđình Tiền hiền Mã Châu và miếu Thành Hoàng nằm ở trên một 
khu đất (mà nay là khuôn viên trường cấp II Sào Nam và HTX ươm dệt thị trấn 
Nam Phước). Sau khi tế lễởđình, miếu người dân Mã Châu tổ chức những 
tròchơi như: hát bội, hát bài chòi, hò khoan đối đáp, thi bơi thuyền trên sông Bà 
Rén... 
Sau khi đình Tiền và miếu Thành Hoàng bị phá thì hội làng cũng mất 
đi. Hiện nay đình Tiền Hiền Tứ Mãđãđược xây dựng lại, nhưng mới khôi phục 
lại được phần tế lễ còn phần hội thì do nhiều nguyên nhân (mà nguyên nhân chủ 
yếu là người dân làng Mã Châu hiện nay quá bận bịu với nghề dệt) nên chưa 
khôi phục lại được. 
Thiết nghĩ hội làng là một hình thức sinh hoạt văn hoá rất bổích, mong 
rằng chính quyền các cấp cùng bà con thôn Châu Hiệp - làng Mã Châu (càng 
sớm càng tốt) có kế hoạch khôi phục lại nét đẹp văn hoá này, nhất là hiện nay, 
khi Mã Châu vừa làm lễ ra mắt làng nghề truyền thống và trở thành một điểm 
trong "Tua" du lịch của huyện Duy Xuyên và mở rộng ra là Quảng Nam. 
58 
3.2.2. Tết Nguyên Đán. 
Tết Nguyên Đán là tiết lễđầu tiên của năm, bắt đầu từ lúc giao thừa, tức 
là lúc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Nhưng thực ra lễ tết đã bắt đầu từ 
trước đó nhiều ngày với những lễ: 
- Lễ cúng ông Công, ông Táo ngày 23 tháng Chạp. 
- Lễ dựng nêu: Người ta quan niệm những ngày cuối năm, ông Công, 
ông Táo đi vắng ma quỷ thường đến quấy nhiễu và vì nơi đây xưa kia là vùng 
đất của ma lai, ma hời, là nơi "rừng thiêng, nước độc". Vì vậy phải dựng nêu để 
chống quỷ dữ. 
Cây nêu là một cây tre, còn để phần lá trên ngọn, được trồng ở trước 
nhà, trên ngọn tre có tấm phên đan bốn thanh dọc, năm thanh ngang biểu thị cho 
lá bùa để xua đuổi quỷ dữ. 
Tín ngưỡng về "ma lai, ma hời" ở Mã Châu được thể hiện rất rõ qua 
cách "đi đồng" của cư dân nơi đây. Trước đây (chưa lâu lắm), khi muốn "giải 
quyết" người ta thường đi ra đồng. Xong việc, người ta cắm một cái que lên trên 
đống “sản phẩm” của mình. Người ta giải thích là làm như vậy để cho ma lai, 
ma hời thấy mình "đánh dấu" rồi thì nó không dám ăn và như vậy, nó không gây 
được tai hoạ, bệnh tật cho con người. 
Sau này, trước khi có hố xí tự hoại, người dân ởđây làm nhà xí rất đơn 
giản. Họđào một cái hốở góc vườn, trên hốđan một cái phên tre đậy lên và bốn 
xung quanh được che tạm bằng phên, lá hoặc nilông... Khi thải đầy hố, người ta 
lại đào một cái hố mới và lấp cái hố cũđi chứ không dùng loại phân đó cho sản 
xuất. Họ lý giải nếu đem bón phân cho cây thì khi con người ăn phải sẽ bị bệnh 
tật. Điều này liên quan tới tín ngưỡng, của những người Việt trước đây khi mới 
vào vùng đất này khai hoang lập làng. 
59 
- Bữa cơm tất niên: ngày 30 tết người ta thường đi thăm mộ tổ tiên và 
mời tổ tiên vềăn tết với gia đình. Sau đó họ về dọn dẹp nhà cửa và làm cơm tất 
niên. 
Người ta làm hai mâm cơm cúng: một mâm đặt ở trên bàn thờ tổ tiên; 
một mâm đặt ở ngoài sân để cùng những âm hồn không nơi nương tựa. Mâm ở 
ngoài sân phải có muối, gạo khi cúng xong thì vãi ra đất gọi là "phát chẩn". 
Mâm cơm cúng ông bà tổ tiên nhất thiết phải có bánh tráng (bánh đa) phủ lên 
trên mâm cơm. Truyền miệng nói rằng trước đây vùng đất này làđất của ma lai, 
ma hời sinh sống, người Việt vào khai hoang, đánh đuổi nóđi, làm chúng không 
có chỗ nương thân, chết đói, chết khát, khi thấy mâm cơm cúng tổ tiên, nóđịnh 
đến cướp nhưng nhìn thấy bánh tráng thì nó sợ mà bỏ chạy. 
- Cúng giao thừa: Sau bữa cơm tất niên, người ta chuẩn bị cho việc 
cúng giao thừa (tiễn năm cũ, đón năm mới). Bàn thờđược đăt ở giữa sân, có một 
đỉnh trầm hoặc một bát hương, hai bên là hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. 
Lễ vật gồm: một con gà trống giò, bánh tổ (bánh trưng), bánh kẹo, hoa quả, trầu 
cau, rượu, nước, vàng mã... 
Sau khi cúng giao thừa, người ta kéo nhau đi lễở các đình, chùa, miếu 
để cầu mong thần phật phù hộ cho bản thân và gia đình. Nhân dịp này người ta 
xin quẻđầu năm, xin lộc ở các đền, chùa, miếu... với hy vọng gặp may mắn và 
làm ăn phát đạt quanh năm. 
Trong ngày tết có rất nhiều tục lệ: 
- Chọn người xông nhà. 
- Đi chúc tết ông bà, cha mẹ và hàng xóm láng giềng. 
- Chọn hướng xuất hành. 
- Mừng tuổi (thường là lì xì cho trẻ em)... 
60 
- Lễ Hạ nêu: từ mùng 5 đến mùng 7 tháng Giêng người ta làm lễ hạ 
nên. Mọi công việc hàng ngày, người ta chỉ bắt đầu sau lễ này. 
Trong ngày tết ởđây nhất định phải có bánh tổ (bánh trưng), bánh tét 
(Bánh làm bằng gạo nếp, được gói bằng lá chuối hay lá dong, hình tròn vàở giữa 
có nhân đậu xanh), bánh in (làm từ gạo nếp được xay thành bột và nhào với 
đường cám, đem in vào khuôn sau đó cho vào lò hay cho lên bếp sấy khô). 
3.2.2. Hôn lễ. 
Hôn nhân là một trong những việc quan trọng nhất của đời người (Tậu 
trâu, lấy vợ, làm nhà). Đó không phải chỉ là chuyện riêng tư của đôi lứa, mà còn 
là chuyện của hai bên cha mẹ, họ hàng nữa. Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem 
giống là nguyên tắc không thể thiếu. Người ta rất coi trọng việc dựng vợ, 
gảchồng cho con cái. 
Ở Mã Châu, trong việc cưới xin thì có tục cha mẹđặt đâu, con ngồi đấy. 
Nhưng trước khi “đặt”, cha mẹ có tham khảo ý kiến của con cái chứ không áp 
đặt, bắt con cái phải tuân theo. 
Việc hôn nhân được tiến hành theo trình tự, đầu tiên khi nhà trai chọn 
được một cô gái nào đó, họ nhờông mai đến dò hỏi ý kiến của nhà gái, tức là nhà 
trai nhờ người (thông thường là người hàng xóm, có quen thân với cả hai gia 
đình) đến nhà gái đặt vấn đề cho đôi trẻ tự do đi lại tìm hiểu nhau. 
- Lễđính hôn (Ăn hỏi): nhà trai và nhà gái chọn ngày lành tháng tốt để 
nhà trai đến nhà gái ăn hỏi. Lễ vật phải có sáu quả, bên trong đựng hoa quả, 
bánh trái, trầu cau, thuốc... 
- Lễ thỉnh kỳ: hai nhà bàn bạc chi tiết về ngày cưới đãđược thoả thuận 
từ trước và tiến hành chuẩn bị lễ cưới. 
61 
- Lễ cưới (lễ Thành hôn): thường được tổ chức ở nhà gái trước, sau 
đóđưa dâu về nhà trai vàđến lượt nhà trai tổ chức. Họ nhà trai đi đón dâu, trước 
khi đến có cử một người đại diện bưng khay trầu rượu đi trước để báo tin. Đoàn 
đón dâu của nhà trai vừa tới thì nhà gái nổ pháo nghênh tiếp. Lễ vật của nhà trai 
được đặt lên trên bàn thờ nhà gái. Sau đó cô dâu chú rể, dưới sự hướng dẫn của 
người chủ hôn, tới lễ gia tiên và cha mẹđôi bên. Lễ xong, đôi bên cha mẹ, họ 
hàng lần lượt tới tặng quà cưới và chúc đôi trẻ hạnh phúc. 
Sau khi xong tiệc ở nhà gái, nhà trai xin đón dâu về. Tại nhà trai, cô 
dâu chú rể cũng phải làm những lễ thức nhưđã tiến hành ở bên nhà gái. 
Trường hợp lấy vợ, lấy chồng ở ngoài làng thì nhà trai, nhà gái phải 
nộp cho làng một khoản lễ nhỏđể làm lễ báo. Trước đây gọi là nộp cheo. 
Đám cưới tổ chức to, nhỏ tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh của từng gia 
đình nhưng trước đây nhìn chung thường tổ chức linh đình, tốn kém. Hiện nay 
thực hiện theo nếp sống văn hoá mới, nhiều lễ nghi rườm ràđược xoá bỏ và thay 
vào đó là những tục lệđơn giản, ít tốn kém hơn nhưng vẫn giữđược những tập 
tục vốn có của nó. 
3.2.4. Tang lễ. 
Người Việt Nam nói chung, cho rằng người chết đi chỉ là phần thể xác 
còn phần linh hồn vẫn sống mãi. Nên khi gia đình có người qua đời, công việc 
chuẩn bị cho người chết hết sức chu đáo. Đây cũng thể hiện lòng kính trọng của 
gia đình đối với người đã khuất. 
Khi trong nhà có người qua đời thì gia chủ phải đi thông báo cho họ 
hàng, làng xóm biết để mọi người tới giúp đỡ. Gia đình tang chủ phải phó thác 
hết công việc tang ma cho bà con hàng xóm và không ai trong gia đình được 
động vào người chết. Thông thường khi gia đình có người chết, người ta không 
62 
tự lo liệu được công việc tang ma do đau buồn, thương xót, sợ không đủ sáng 
suốt để lo liệu nhiều công việc trong cùng một lúc nên phải nhờ cậy hàng xóm 
láng giềng. 
Trước giờ khâm niệm, người ta tắm rửa, thay quần áo vàđặt vào miệng 
người chết 3 hạt gạo, 3 đồng tiền kẽm. Sau đó người ta buộc hai ngón chân cái 
của người chết lại với nhau vàđặt thi hài vào trong quan tài. 
Linh cữu người chết được đặt ở giữa nhà, đầu quay vào trong, chân 
hướng ra cửa. Phía trước linh cữu người ta lập một hương án làm chỗđể thờ 
vàđể mọi người đến viếng dâng hương. Bên cạnh bàn thờ cheo một khổ giấy 
màu đỏ ghi tên, tuổi, quê quán của người chết, gọi là Triệu. 
Thông thường người ta để quan tài trong nhà 2 đến 3 ngày, sau đóđem 
chôn. Tuy nhiên có trường hợp gặp ngày hung thì người ta để quan tài trong nhà 
có khi đến 5 - 6 ngày, cũng có khi người ta đào hai huyệt khi chôn người chết, 
người ta đặt linh cữu vào một huyệt rồi chuyển sang huyệt thứ hai rồi chôn chứ 
không để lâu ngày trong nhà. 
- Lễ thành phục (bịt khăn): Sau khi khâm liệm người chết, gia đình tang 
chủ bắt đầu làm lễđeo khăn tang. 
Để có một nơi yên nghỉ tốt đẹp cho người đã khuất, gia chủ mời một vị 
thầy địa lýđến chọn đất. Khi chọn được đất, gia chủ phải làm mâm cơm yết cáo 
với thổ thần nơi đóđể xin phép đào huyệt. Người chết được chôn ở bãi tha ma 
của làng, trên những gò cát, đầu hướng lên đỉnh gò, chân phía dưới ruộng và bia 
mộ thường được đặt ở dưới chân mộ. 
Những gia đình khá giả thường thuêông Tổng. Ông Tổng là người chỉ 
huy, điều khiển và sắp xếp mọi việc trong gia đình người chết, từ việc khâm 
liệm đến việc điều khiển, chỉ huy đám tang đưa người chết về nời an nghỉ cuối 
cùng. Ông Tổng thay mặt gia đình tiếp đón những người đến viếng, giúp gia 
63 
đình kể lể sự xót thương của thân quyến trong gia đình đó với người đã khuất 
mà tự họ không thể bày tỏđược. Nếu ông Tổng là người giỏi thì có thể làm giảm 
nhẹ nỗi đau của gia đình có người đã khuất. 
Lúc hạ huyệt, mọi người tiến đưa người quá cố bằng một nắm đất vứt 
nhẹ xuống quan tài. Ởđây mộ táng một lần, không cải táng. 
- Lễ mở cửa mả: Sau ba ngày, người ta làm lễ mở cửa mả. Lễ gồm hai 
phần: Cúng tạ thổ thần nơi mộđược chôn cất và sửa sang lại ngôi mộ. Sau đó 
người ta cúng cơm tại gia đình và mời bà con hàng xóm - những người đã tận 
tình giúp đỡ gia đình trong lúc tang lễđến để cảm ơn. Người ta cúng vì quan 
niệm linh hồn người chết, đến trước lễ mở cửa mả vẫn chưa sang được thế giới 
bên kia, vì vậy cứđến bữa phải cúng cơm trên bàn thờ người chết. 
Liên quan đến người chết còn có một số tục lệ như tục: Cầu hồn, son 
môi... 
- Tục cầu hồn: Gia đình người chết sau một thời gian họ mời một thầy 
cúng đến gọi hồn người chết vềđể hỏi xem ở thế giới bên kia người chết cóđược 
yên ổn không và có cần gì không để gia đình gửi cho. Có tục lệ này là vì người 
ta vẫn quan niệm có thế giới bên kia và thầy cúng là người có thể giao tiếp được 
với những người đã khuất. 
- Tục son môi: Người ta quan niệm người chết " ngã nước" (chết đuối 
trên sông, trên biển) thì linh hồn không được siêu thoát và không đến được thế 
giới bên kia. Vì vậy người ta làm lễđể cầu cho linh hồn người đóđược siêu thoát. 
Hiện nay, việc tang ma có nhiều thay đổi. Tang lễ làm gọn nhẹ, đơn 
giản hơn nhưng vẫn giữđược sự trang nghiêm. Những hủ tục như cầu hồn, son 
môi, để người chết trong nhà nhiều ngày... đã bị bãi bỏ. Việc cám ơn hàng xóm 
láng giềng được làm nhỏ chứ không kèm theo ăn uống ồn ào như trước. 
64 
KẾTLUẬN 
Mã châu là vùng đất có một quá trình lịch sử lâu đời. Nơi đây đã in 
đậm dấu ấn của cư dân văn hoá Sa Huỳnh, rồi văn hoá Chămpa dù rằng tên làng 
Mã Châu như hiện nay mới chỉ xuất hiện sớm nhất, vào giữa thế kỷ XVI khi 
đoàn người Việt "Bắc địa tùng vương" theo chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào đây 
khai cơ lập nghiệp. 
Làng Mã Châu được thành lập trên vị tríđịa lý tự nhiên thuận lợi, nằm ở 
phía đỉnh tam giác châu của đồng bằng Duy Xuyên mà sông Thu Bồn và sông 
Bà Rén là hai cạnh của tam giác đó. Mã Châu lại được bao bọc bởi sông Bà Rén, 
nhờ vậy Mã Châu luôn được phù sa bồi đắp, đồng ruộng chủđộng được nước 
tưới, các bãi bồi thuận lợi cho việc phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, đường 
sông thuận lợi cho việc giao thương buôn bán... 
Làng Mã Châu được thành lập do những cư dân người Việt từ nhiều 
vùng quê khác nhau ở Bắc và Bắc Trung Bộ, màđông đảo nhất là cư dân người 
vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh vào đây khai hoang lập nghiệp. Cư dân Mã Châu đã 
mang trong mình những giá trị văn hoáđặc sắc của mỗi làng quê và cùng nhau 
bắt tay để xây dựng vùng quê mới. Đồng thời, tới vùng đất mới cư dân Mã Châu 
ít bị ràng buộc bởi "lệ làng, phép nước", cái đã giữ trặt lấy những người nông 
dân ởđồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Họ sống cởi mở hơn, phóng khoáng hơn. 
Những lễ giáo phong kiến cũ vẫn được họ giữ gìn nhưng họ lại không bị bó 
buộc vàít bị lệ thuộc vào nó. Vì vậy đã tạo ra những nét văn hoá riêng, đặc sắc 
của những cư dân nơi đây. 
65 
Trong quá trình "Nam tiến" của mình, người Việt khi tới đây dã cùng 
chung sống hoà bình với cư dân bản địa, họ tiếp nhận nhiều yếu tố văn hoáđặc 
sắc của người Chăm, cùng người chăm xây dựng làng xóm và tạo nên giá trị văn 
hoá rất đặc trưng góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hoá của xứ Quảng - 
Quảng Nam nói chung. 
Làng Mã Châu căn bản là làng Việt được ra đời, phát triển trên cơ tầng 
làng mạc Chăm. Yếu tố văn hoá Chăm tiềm ẩn, đan xen trong đời sống vật chất 
và sinh hoạt tinh thần của cộng đồng cư dân mới, tập hợp, dung hoà từ nhiều 
miền quê lại. 
Nghề dệt ở Mã Châu là một nghề thủ công có bề dày lịch sử từ lâu đời. 
Những chứng tích của nghề dệt đãđược tìm thấy từ nền văn hoá Sa Huỳnh thời 
đại kim khí với những dọi xe chỉ. Những ghi chép trong thư tịch cổ về Chămpa. 
Nghề dệt càng phát triển rực rỡ hơn vàđược "dân biết mặt, nước biết tên" từ khi 
người Việt vào tiếp thu nghề dệt từ người Chăm cùng với những kỹ thuật trong 
nghề dệt của người Việt, đã đưa Mã Châu trở thành vùng "thêu dệt tinh khoé, sa 
trừu không kém gì Quảng Đông ". 
Hiện nay dưới tác động của nền kinh tế thị trường và sự nghiệp CNH-
HĐH đất nước đã vàđang làm thay đổi diện mạo làng nghề Mã Châu một cách 
nhanh chóng. Cơ hội được mở ra cho sự phát triển của nghề dệt ởđây: sự giao 
thương, buôn bán với các vùng khác trong cả nước tạo cho mặt hàng tơ lụa của 
Mã Châu có một thị trường rộng lớn, ở trong nước là Hà Nội, Sài Gòn... ở ngoài 
nước là Lào, Campuchia, Thái Lan... Những chính sách bảo tồn và phát triển 
làng nghề truyền thống của nhà nước; sựđổi mới công nghệ dẫn tới sự nâng cao 
chất lượng sản phẩm... 
Mã Châu lại nằm trên tuyến đường sông với "tua" du lịch Hội An - Trà 
Kiệu - Mỹ Sơn, trong đó Mã Châu được xây dựng thành làng nghề truyền thống, 
66 
một nơi dừng chân cho khách du lịch tham quan (và việc ra mắt làng nghề ngày 
30.3.2003 vừa qua là bước khởi đầu). Trong tương lai ngành du lịch, dịch vụ 
phát triển ởđây sẽ tạo ra ởđây một nguồn lợi không nhỏ. 
Thuận lợi nhiều nhưng khó khăn, thậm chí là thách thức cũng không ít. 
Khó khăn của nghề dệt là sản phẩm làm ra phải cóđược sức cạch tranh trên thị 
trường; sự tiếp nhận, sự thay đổi công nghệ; đổi ngũ quản lý sản xuất trong môi 
trường mới; năng lực quản lý doanh nghiệp; nguồn vốn... Đồng thời việc kết hợp 
sao cho có hiệu quả giữa hai xu hướng phát triển của làng nghề của Mã Châu; 
làng nghề Mã Châu truyền thống nằm trong "tua" du lịch Mỹ Sơn - Trà Kiệu - 
Hội An, với những sản phẩm được làm theo phương pháp thủ công và những 
người khách đến đây với mục đích nghỉ ngơi, giải trí vàđược tận mắt ngắm nhìn 
một làng dệt truyền thống; với một làng nghề Mã Châu đang trên bước đường 
CNH - HĐH phải luôn luôn tiếp nhận những công nghệ mới, kỹ thuật mới, tiên 
tiến, không ngừng nâng cao chất lượng, sản lượng sản phẩm để phục vụ các thị 
trường trong nước và quốc tế... 
67 
TÀILIỆUTHAMKHẢO 
1. Dự thảo tộc ước làng Mã Châu. 8-2000 
2. Dương Bá Phượng: Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình 
công nghiệp hoá. Nxb KHXH, H.2001 
3. Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2). Nxb KHXH, H.1995 
4. Đậu Thị Hoa: Một số lễ hội của người Việt ở Duy Xuyên - Quảng Nam. 
Khoá luận năm thứ 3, Khoa Lịch sử - Đại học Huế, Huế 7-2001 
5. Đồng Khánh địa dư chí (Tỉnh Quảng Nam). Bản dịch của Trần Lê Hữu, 
lưu tại Khoa Lịch sử - ĐH KHXH&NV Hà Nội. (Ký hiệu VT.522) 
6. Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức: Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam. Nxb 
VH-TT, H.1999 
7. Lâm Bá Nam: Nghề dệt cổ truyền ởđồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Luận án 
Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, ĐH TH Hà Nội.1995 
8. Lê QuýĐôn: Phủ Biên tạp lục. Bản dịch của Ngô Lập Chi. Thư viện Khoa 
Sử - ĐH KHXH&NV HN (Bản đánh máy năm 1959) 
9. Lịch Đạo Nguyên: Thuỷ kinh chú (Bản dịch của Trần Huy Tiệp). ĐH TH 
HN 1961 
10. Nhiều tác giả: Bà chúa Tàm tang xứ Quảng. Nxb Đà Nẵng 2002 
11. Lịch sử và di tích tiền nhân Ngũ xã Trà Kiệu. Chư tộc Ngũ xã soạn năm 
1982 
12. Ngô Văn Doanh: Văn hoá Chămpa. Nxb VH-TT, H.1994 
68 
13. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử. Viện sử học, H.1978 
14. Nguyễn Thị Tuyết: Bước đầu nghiên cứu văn hoá Sa Huỳnh ở huyện Duy 
Xuyên. Khoa luận Đại học Văn hoá Hà Nội, Duy Xuyên 5-2001 
15. Nguyễn Thị Tuyết: Ông Cửu Diễn người đầu tiên du nhập kỹ thuật dệt 
mới vào đất Duy Xuyên. Tư liệu phòng Văn hoá huyện Duy Xuyên. 
16. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1).Nxb Sử học 
H.1960 
17. Phan Ngọc: Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới. Nxb VH-TT, H.1994 
18. Phan Đại Doãn: Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế văn hoá xã hội. 
Nxb VH-XH, H.2001 
19. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí. Nxb Thuận Hoá, 
Huế.1992 
20. Quy ước văn hoá thôn Châu Hiệp - thị trấn nam Phước. 8-2002 
21. Sở VH-TT Quảng Nam: Danh xưng Quảng Nam. Kỷ yếu hội thảo, Tam 
Kỳ 9-2001 
22. Sở VH-TT Quảng nam: Văn hoá Quảng Nam những đặc trưng giá trị. Kỷ 
yếu hội thảo.2001 
23. Sở VH-TT Quảng Nam: Vai trò lịch sử dinh trấn Quảng Nam. Kỷ yếu hội 
thảo, 8-2002 
24. Tạp chíVăn hoá nghệ thuật, số tháng 8-1998 
25. T/c Văn hoá Quảng Nam, số 18 tháng 12-1999 
26. T/c Văn hoá Quảng Nam, số 20 năm 2000 
27. T/c Văn hoá Quảng Nam, số 29 tháng 9,10-2001 
28. T/c Văn hoá Quảng Nam, số 36 tháng 11,12-2002 
29. Toan Ánh: Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam. Nxb Tp HCM.1997 
69 
30. Toan Ánh: Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam. Nxb VHDT, 
H.1996 
31. Toan Ánh: Trong họ ngoài làng. Nxb Mũi Cà Mau.1993 
32. Tóm tắt lược sử các chư phái tộc làng Mã Châu. 8-2002 
33. Trần Hà Hải: Lễ Hội lệ bà Thu Bồn - Bô Bô phu nhân ở Quảng Nam. khoa 
luận tốt nghiệp Khoa Sử -ĐH KHXH&NV HN,2000 
34. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược. Nxb Tân Việt, H.1951 
35. Trần Quốc Vượng (chủ biên): Cơ sở văn hoá Việt Nam. Nxb GD.1998 
36. Trần Quốc Vượng: Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm. Nxb VHDT, 
H.2000 
37. Trần Quốc Vượng: Việt Nam cái nhìn địa văn hoá. Nxb VHDT, H.1998 
38. Trần Từ: Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Nxb KHXH, 
H.1984 
39. Trương Hữu Quýnh (chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1). Nxb 
GD.1999 
40. UBND huyện Duy Xuyên: Duy Xuyên tiềm năng văn hoá và du lịch. Duy 
Xuyên. 8-2002 
41. Viện nghiên cứu kiến trúc: Kiến trúc nhà dân dụng cổ truyền ở Duy 
Xuyên - Quảng Nam (Bản vẽ). Lưu ở phòng văn hoá huyện Duy Xuyên 
42. Võ Thị Lý: Tìm hiểu phong tục tập quán của người Việt ở huyện Duy 
Xuyên - Quảng Nam. Khoá luận năm thứ 3 Khoa Sử - ĐH Huế 7-2001 
43. Vũ Ngọc Phan: Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Nxb KHXH. 1998 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 lang_det_ma_chau_xua_va_nay_6924.pdf lang_det_ma_chau_xua_va_nay_6924.pdf