Trong quá trình "Nam tiến" của mình, người Việt khi tới đây dã cùng
chung sống hoà bình với cư dân bản địa, họtiếp nhận nhiều yếu tốvăn hoáđặc
sắc của người Chăm, cùng người chăm xây dựng làng xóm và tạo nên giá trị văn
hoá rất đặc trưng góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hoá của xứ Quảng -
Quảng Nam nói chung.
Làng Mã Châu căn bản là làng Việt được ra đời, phát triển trên cơ tầng
làng mạc Chăm. Yếu tố văn hoá Chăm tiềm ẩn, đan xen trong đời sống vật chất
và sinh hoạt tinh thần của cộng đồng cưdân mới, tập hợp, dung hoà từnhiều
miền quê lại.
69 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2911 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Làng nghề truyền thống của cư dân Mã Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, lăng la, các hàng hoa khác vừa tinh xảo, vừa đẹp mắt,
không thua kém gì các thứ hàng bên tỉnh Quảng Đông"[8]. Nghề dệt chạy dọc
theo hai bên bờ sông Thu Bồn và Bà Rén từđỉnh tam giác đồng bằng Duy Xuyên
là Thi Lai (Tam Thi), Đông Yên - Duy Trinh qua Mã Châu, Trung Lương của
thị trấn Nam Phước đến Long Châu - Duy Vinh, điều này được thể hiện qua các
câu ca làng nghề:
Mã Châu tơ lụa mỹ miều
Ban mai cửi mắc, chiều chiều lụa giăng.
với nhiều biến thể:
Thi Lai tơ lụa mỹ miều...
Đông Yên tơ lụa mỹ miều...
và trở thành câu ca cho toàn vùng:
Duy Xuyên tơ lụa mỹ miều...
Theo sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An thìở phủĐiện Bàn:
"Long Châu sản xuất nhiều lụa trắng"[22.43].
Đại Nam nhất thống chí, mục thổ sản cũng chép: "Lụa - sản ở xã Thăng
Bình huyện Diên Phước thì chất dày, sản ở Mã Châu huyện Duy Xuyên thì chất
mỏng". Vải các huyện đều có. Lời nhận xét dân ởđây "tục ưa xa xỉ, ít kiến thức,
ăn mặc tất lượt là, thêu dệt tinh khoé, sa trừu không kém gì Quảng Đông"
[19.336-339] cũng cho thấy nghề dệt ởđây rất tinh xảo.
2.2.2. Trồng dâu nuôi tằm
Mã Châu nằm trong vùng trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa dọc theo
hai bên bờ sông Bà Rén, hàng năm sông Bà Rén bồi đắp phù sa cho làng sau
38
mùa lũ lụt, đất được bồi tụ thường xuyên, thuận lợi cho việc trồng dâu nuôi tằm
phát triển.
Trước đây diện tích đất bãi được chia đều cho các thành viên trong
làng. đất được dùng để trồng lúa, trồng dâu (chủ yếu là trồng dâu). làng Mã
Châu đã sớm phân chia thành những hộ chuyên làm nghề trồng dâu nuôi tằm và
những hộ chuyên làm nghề dệt. Ít có hộ gia đình đảm nhận từ khâu đầu đến
khâu cuối.
Cây dâu ởđây được trồng vào tháng 10, trên bãi đất bồi bằng những
cành nhỏ (miền Bắc gọi là hom dâu). Cây dâu sau khi trồng thì 10 đến15 năm
sau mới phải trồng lại. Mỗi năm vào tháng 11, người ta chặt hết cành dâu và chờ
nảy ra vụ mới. Đó cũng là mùa nước lũ, nước sông Bà Rén dâng cao đem lại
một nguồn dinh dưỡng lớn để nuôi cây dâu. Cây dâu ởđây có khả năng chịu hạn
cao.
Tháng 3, lá dâu lên tốt cũng là lúc bước vào vụ tằm. Một năm ởđây
nuôi được tám lứa tằm, trong đó có một lứa tằm xuân vào tháng 3. Từ tháng 4,
tháng 5 bắt đầu vào vụ, kết thúc vào tháng 11 và tháng 7, tháng 8 là thời điểm
thích hợp nhất để nuôi tằm.
Tằm ởđây là giống tằm đa hệ, tức là một năm có thểđẻ nhiều lượt trứng
liên tục (Khác với giống tằm đơn hệ - đẻ một lứa trứng một năm và giống tằm
lưỡng hệ - đẻ hai lứa trứng một năm mới được nhập từ nước ngoài vào). Mỗi lứa
tằm từ 20 - 22 ngày. Bệnh tằm trước đây thường gặp là bệnh gai: Con tằm bình
thường toàn thân trơn láng, màu xanh lơ, khi bị bệnh thì nổi gai trên các khoang,
tằm từ màu xanh lơ chuyển sang màu bạc. Bệnh này do vi rút gây bệnh có từ
trong trứng. Vì vậy người nuôi tằm trước kia rất sợ, bởi nếu lứa tằm nào gặp
bệnh này thì coi như bỏđi. Hiện nay công nghệ hiện đại đã sử lýđược trứng tằm
do vậy bệnh này hầu nhưđã bị loại bỏ.
39
Nhìn chung, cứ 20kg lá dâu/1kg kén. Khi tằm làm kén chuyển sang
ngày thứ ba thì phải bán cho người ươm tơ (người nuôi tằm không sản xuất đến
khâu cuối). Tơ tốt hoặc lứa kén tốt phải được "9 kén, 1 tơ" (9kg kén được 1kg
tơ). Người ta đánh giá chất kượng tơ tốt hay không ngay từ khi cầm con kén trên
tay, tức là phải hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm mà họđã tích luỹđược trong quá
trình nuôi tằm.
Do cơ chế thị trường, người dân Mã Châu đi chuyên vào nghề dệt vải,
lụa mà không phát triển nghề nuôi tằm. Nghề trồng dâu nuôi tằm của Mã Châu,
hiện nay đã di chuyển sang làng Trung Lương.
Mã Châu hiện nay có khoảng 3/4 dân số sống bằng nghề dệt và 1/4 dân
số sống bằng nghề nông và các nghề khác.
2.2.3. Ươm tơ dệt lụa
Sau khi kén chín thì bắt đầu công việc kéo tơ. người ta nhúng kén vào
nồi nước sôi, quấy đều sau đó bóc vỏ ngoài của kén và kéo sợi. Theo kinh
nghiệm dân gian, kén chín vừa thì kéo sợi trơn và nhẹ tay, kén sống thì kéo nặng
tay, kén chín quá thì sợi tơ nẫu ra không kéo được.
Kéo sợi xong, trước khi đưa vào dệt người ta tiến hành hồ sợi. Hồđể hồ
sợi phải nấu không đặc và cũng không được loãng quá, hồ nấu đặc thì sẽ bị gai
sợi và hồ nấu không kỹ thì sợi sẽ bị mốc. Nguyên liệu để nấu hồ là gạo tẻ, bột
dong... được xay thành bột, sau đó rây lọc bã và nấu.
Sợi sau khi hồ, được đem phơi và quàng lên xa, cuộn vào các ống gọi
làđánh ống. Tuy nhiên khâu hồ chủ yếu được tiến hành đối với sợi dọc. Sợi
ngang sau khi phân loại, cho vào suốt là tiến hành dệt được.
40
Trước đây người ta dệt bằng khung dệt khổ hẹp độ 0,4m có một lá go,
người thợ dệt cuốn chỉ vào con suốt, bỏ vào thoi làm bằng sừng trâu, ném qua
lại bằng tay. Sau mỗi làn ném thoi thìđập lá go vào, giống nhưđan phên tre lóng
mốt. Cứ vậy đến khoảng quá tầm tay thì dừng lại để cuộn vải vào, người thợ giỏi
nhất cũng chỉ dệt được từ 3,5 -4m vải một ngày [15].
Sản phẩm dệt ra được phân loại theo nguyên liệu tơ. Người làm nghề
dệt ở Mã Châu thường phân chia sản phẩm theo hai loại tơ tốt hay xấu. Nếu
dùng nguyên liệu tơ tốt thì dệt ra vải lanh giá trị cao, phần lớn bán cho các nơi.
Còn dùng tơ thô thì dệt ra loại vải tít xo với giá rẻ hơn. Thực ra hàng tơ lụa ởđây
được phân ra làm nhiều loại sản phẩm tuỳ theo chất lượng tơ và cách dệt như bài
ca công nghệđã mô tả:
Làm ra đủ thứ mặt hàng
Hàng đơn, hàng kép dọc ngang tinh tường
Lượt, là, lĩnh, lụa, xuyến, lương
Ấy là những thứ mặc thường của ta
Thứ trơn rồi lại thứ hoa
Quế, vân, gấm, vóc, băng, sa, kỳ cầu
Lụa hoa mỗi thứ một màu
Đọ vào nào kém hàng Tàu, hàng Tây.
Hiện nay loại khung cửi trên không còn ở Mã Châu và những làng dệt
xung quanh nhưng dựa vào bức tranh vẽ về nghề dệt ở trước cửa Đình Tiền hiền
Mã Châu hiện nay (Bản ảnh 6) thì khung dệt cổ truyền ở Mã Châu khá giống
loại khung dệt cổ truyền của các làng dệt ở châu thổ Bắc Bộ.
Làng Mã Châu trước còn có nghề nhuộm. Hiện nay người ta dùng
thuốc nhuộm hoá học. Nhưng trước kia, khi chưa có thuốc nhuộm hoá học thì có
thể họ sử dụng cách nhuộm như người Cơ Tu ở miền núi Quảng Nam hiện nay
41
vẫn còn bảo lưu. Người Cơ Tu dùng những bộ phận của cây rừng làm thuốc
nhuộm. Muốn có màu đỏ họ dùng củ cây ahứ giã nát, nấu lấy nước làm thuốc;
màu vàng thì lấy rễ cây vàng đắng, một loại cây dây leo (angoăn mrớt); màu đen
thì dùng lá cây tarâm giã nát, ngâm lâu ngày. Riêng màu trắng thì có khi để
nguyên màu trắng của bông nhưng tông màu này bị chói, nên họ lấy vỏốc dưới
suối nướng chín giã thành bột và nhuộm để chúng không còn màu trắng loá nưã
[28.20].
Đầu thế kỷ XX, ông Cửu Diễn (tên thật là Võ Diễn - ở thôn Thi Lai
Tây - làng Thi Lai - Duy Trinh hiện nay) đã phát minh ra phương pháp cải tiến
khung cửi do học được công nghệ từ những xưởng máy dệt của Pháp đầu tư.
Máy dệt được cải tiến tương đối giống máy dệt hiện nay ở Mã Châu và
khung dệt khổ vải được mở rộng từ 0,8 - 1m. Với loại máy này người dệt vải
không phải đưa con suốt qua lại và mỗi lần đưa qua phải đập lá go xuống mà chỉ
phải đạp chân để chạy các bánh nhông chuyền làm cho các con suốt và lá go tự
chạy qua lại.
Lúc bấy giờđiều kiện vật tư thiếu thốn, nhất là các bánh nhông chuyền
bằng gang như hiện nay không có. Ông Cửu Diễn đã chế ra các bánh nhông răng
cưa bằng những lát gỗ mít cưa tròn. Con thoi thì dùng hai đầu nhọn của sừng
trâu hoặc sừng bò ghép lại, mài nhẵn để khỏi cưa đứt canh dọc [15].
Máy dệt lúc đầu dệt với một lá go sau cải tiến thành hai rồi bốn lá go
nhằm tạo dáng mặt hàng đẹp hơn. Loại khung dệt này có năng xuất gấp ba, bốn
lần so với khung dệt ném tay vàđã nhanh chóng phát triển ra toàn vùng Duy
Xuyên. Khi vùng này cóđiện thì người ta chuyển sang dùng khung dệt chạy
bằng mô tơ. Khung dệt được cải tiến, mở rộng đến 1,2 - 1,5m. Từđây mở ra cho
ngành dệt Quảng Nam nói chung, Thi Lai, Mã Châu nói riêng một bước phát
triển mới về mẫu mã, chất lượng sản phẩm như: tuyết, satin, nhung, crêpe... nhất
42
là kaki, cita, vải tám thời kỳ kháng chiến và phục vụ tiêu dùng. Thịnh hành nhất
là thời kỳ 1956 - 1960 sợi tơ bóng của Nhật, sợi bông của Ấn Độ, thuốc nhuộm
hoá chất được nhập vào cảng Sài Gòn, tràn về Duy Xuyên.
Trong chiến tranh vùng này bị tàn phá, dân cư ly tán (chủ yếu làđi Sài
Gòn vàđem theo nghề dệt vào đây). Sau khi chiến tranh kết thúc, nhà nước với
cơ chế kinh tế bao cấp đã lập ra ởđây 4 hợp tác xã (HTX), trong đó có 3 HTX
dệt và 1 HTX ươm dệt để sản xuất đồ Katê (đồ vải bông sợi nhập từ nước ngoài)
và vải lụa do nhà nước bao thầu thu mua. Sau 1986, khi chuyển sang cơ chế thị
trường thì 3 HTX dệt bị giải thể, những người dân làm nghề dệt ởđây cũng
chuyển sang sinh sống bằng nghề khác.
Từ năm 1995 người dân Mã Châu quay lại với nghề dệt. Khung dệt gỗ
thì mua lại những khung dệt cũ từ Sài Gòn, mang vềđóng lại rồi đưa vào sản
xuất. Máy dệt khung sắt ởđây cũng mới xuất hiện năm từ 2000 do người dân
mua từ các nhà máy dệt Hà Nội, Sài Gòn, Nam Định do họ chuyển giao công
nghệ.
Trồng dâu nuôi tằm hiện nay người dân Mã Châu không làm, chỉ còn
một vài hộươm tơ dệt lụa, còn lại đa số người dân dệt hàng Katê (sợi bông vải
và sợi tổng hợp); Nguyên liệu mua từ HTX ươm dệt thị trấn Nam Phước hoặc từ
các đại lý trong làng. Ở Mã Châu có 24 đại lý cung cấp nguyên liệu và bao mua
sản phẩm dệt của người dân làm ra. Từ các đại lý này hàng dệt được đưa đi các
thị trường ở trong và ngoài nước.
Nghề dệt ở Mã Châu hiện nay đang bắt đầu khởi sắc do sự quan tâm
bảo tồn và phát triển làng nghề của các cấp chính quyền, đặc biệt là chính quyền
địa phương tỉnh, huyện, thị trấn. Ngày ra mắt làng nghề truyền thống 30.3.2003
vừa qua, đã mở ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của nghề dệt
ởđây.
43
2.3. Nghề dệt với đời sống văn hoá của cư dân Mã Châu.
Khác với những làng nghề miền Bắc coi nghề thủ công là nghề phụ, ở
Mã Châu, người dân coi nghề dệt là nghề chính. Làm ruộng ba năm (không
bằng) nuôi tằm một lứa. Nhiều hộ gia đình vàđặc biệt là một số dòng họở Mã
Châu chỉ chuyên làm nghề dệt. Hiện nay có 3/4 lao động của làng tham gia vào
nghề dệt, còn lại 1/4 là sản xuất nông nghiệp và làm các nghề khác.
Nghề dệt đãăn sâu vào đời sống và chi phối mọi hoạt động của những
người dân nơi đây. Họđã tự hào:
Làng nghề truyền thống Mã Châu
Ươm tơ dệt lụa, trồng dâu nuôi tằm.
Nghề dệt là một nghề vất vả, họ phải gắn mình bên khung cửi hàng
ngày và gắn bóđời mình với nó, họ phải thức khuya dậy sớm để làm nghề chỉ
với mong ước có một cuộc sống ổn định. Sự cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu
khó của họđã khiến một thi sĩ phải thốt lên:
“Ơi cô thợ dệt nhà bên
Thức chi sớm vậy bầu trời sáng sao
Tôi còn nhớ giấc chiêm bao
Sáng mai cô dậy gọi tôi với nào”.
(Thơông Hiền Tâm).
Nghề dệt ởđây không chỉ là nghề riêng của người phụ nữ, đàn ông cũng
tham gia vào nghề dệt và cả việc buôn bán sản phẩm đi các vùng khác. Nhờ
nghề dệt mà Mã Châu có một diện mạo khá trù phú.
Nghè dệt đã thúc đẩy sự giao thương buôn bán giữa Mã Châu với các
vùng xung quanh. Nơi đây từ rất sớm đã trở thành một điểm giao thương sầm
uất, hàng hoáđi về tấp nập. Hàng đi là những cây vải, tơ lụa được sản xuất từ Mã
44
Châu, được các thương nhân từ nơi khác tới mua hoặc người dân ởđây đem đi
bán:
Tơ, cau thuốc trởđầy ghe
Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần.
Hàng đến là các loại sản vật ở các vùng, các làng khác đem đến để
cung cấp cho nhu cầu của cư dân Mã Châu. Với 3/4 dân số làm nghề dệt dẫn đến
việc sản xuất nông nghiệp ở Mã Châu không đủđểđáp ứng cho nhu cầu của
người dân nơi đây. Vì vậy người dân ởđây cũng có nhu cầu mở rộng giao lưu
buôn bán với các vùng khác. Mặt khác, nghề dệt cùng sự giao thương tấp nập đã
làm cho đời sống kinh tế của cư dân Mã Châu tương đối ổn định và người dân
có mức sống khá cao. Trong thời kỳ phát triển nhất của làng thì Mã Châu là nơi
tập hợp những của ngon vật lạ, những đặc sản của các vùng xung quanh.
Là làng chuyên nghề dệt nên đời sống của cư dân ởđây cũng phụ thuộc
rất nhiều vào việc buôn bán sản phẩm. Khi sản phẩm làm ra bán được thì cuộc
sống của họ tương đối ổn định nhưng khi sản phẩm làm ra không bán được hoặc
buôn bán thua lỗ thìđời sống của họ cũng rất vất vả, cơ cực. Nóđược thể hiện
qua câu ca dao hóm hỉnh:
Con gái có chồng vềđất Mã Châu
Cái bụng xẹp lép, áo quần láng o.
Truyền thuyết dân gian ở Mã Châu cho biết nghề dệt là do những bậc
Tiền hiền khai canh mang từ miền Bắc tới; nhưng cũng có truyền thuyết rằng
nghề dệt là do bà Mã Chấu - một người Chăm, dạy cho cư dân ởđây (và tên làng
Mã Châu cũng là tên Mã Chấu nhưng do lâu ngày đọc chệch nên thành Mã
Châu)11.
11VÒ sù h×nh thµnh lµng M· Ch©u theo truyÒn thuyÕt nµy, do t×nh tr¹ng thiÕu t− liÖu th− tÞch vµ
nh÷ng t− liÖu tr−íc n¨m 1945 vÒ lµng nªn t«i ch−a kiÓm chøng ®−îc.
45
Với truyền thống "uống nước nhớ nguồn", người dân Mã Châu tuy
không nhớ nguồn gốc xuất xứ của vị tổ nghề dệt nhưng họ vẫn thờ phụng tổ
nghề dệt tại Đình, chung với các vị Tiền hiền khai canh. Mỗi năm một lần họ tổ
chức tế lễ (lễ này làm chung với lễởđình thờ Tiền hiền khai canh vào mungf
mười tháng 3 Âm lịch) vàở mỗi nhà, mỗi khi đưa một khung cửi mới vào hoạt
động hoặc khi hết một trục sợi, họ thường có một đĩa bánh trái, hoa quả và vài
nén hương được đặt ngay trên khung cửi để báo với tổ nghề phù hộ cho công
việc của họ.
Đối với những người có công với sự phát triển của nghề dệt, tuy không
có thờ cúng nhưng người dân ởđây vẫn truyền miệng cho nhau nghe về sựđóng
góp của họ cho nghề dệt như bàĐoàn Quý Phi, người đã có công mở rộng nghề
dệt ra khắp vùng đồng bằng Quảng Nam; Ông Trần Văn An, người làng Mã
Châu đã cùng ông Cửu Diễn người làng Thi Lai đưa loại khung dệt mới có năng
suất cao hơn về vùng Duy Xuyên.
Hiện nay với công cuộc CNH - HĐH đất nước, nghề dệt ở Mã Châu đã
vàđang phát triển mạnh, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp cho những người
dân làng Mã Châu và tạo công ăn việc làm cho hơn 300 lao động từ những làng
xung quanh đến đây. Đó là chưa kể những lao động ở các làng khác đến học
vàđem nghề dệt phát tán đi những vùng xung quanh.
Việc phát triển làng nghề truyền thống đã góp phần nâng cao đời sống
vật chất cho người dân ởđây. Đa số các hộ gia đình ở làng đã có nhà cửa khang
trang với đầy đủ tiện nghi sinh hoạt như: ti vi, tủ lạnh, quạt điện, xe máy... Cả
làng hiện chỉ có 14% hộ nghèo, chủ yếu là những hộ mất sức lao động, leo đơn
già cả, đông con và những hộ làm nông nghiệp.
Nghề dệt cũng góp phần ngăn chặn những tệ nạn xã hội đang theo "cơ
chế thị trường" len lỏi vào khắp nơi như: cờ bạc, nghiện hút, mại dâm... Do đặc
46
điểm của nghề dệt có thể tận dụng nguồn lao động trẻ, nhàn rỗi (ở làng người ta
học nghề và biết dệt từ khi 13 -14 tuổi ). Nên giới thanh niên ởđây có công ăn
việc làm từ rất sớm dẫn đến hạn chếđược những tiêu cực xã hội (tuy nhiên cũng
phải kểđến những ảnh hưởng của sự giáo dục trong gia đình, họ hàng và cộng
đồng làng xóm thể hiện qua những Quy ước văn hoá, Tộc ước văn hoá... của
làng).
Chính vì nghề dệt đãăn sâu vào đời sống của người dân nơi đây. "Đã
mang lấy cái thân tằm. Không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ" nên qua bao
thăng trầm lịch sử, làng nghề Mã Châu nói riêng và nghề dệt trên toàn vùng Duy
Xuyên- Quảng Nam nói chung vẫn tồn tại và phát triển. GS Trần Quốc Vượng
đã tiên đoán: Trong tương lai Nam Trung Bộ là vùng bông đặc sản của cả nước,
cũng như vùng dâu tằm ven sông Thu Bồn cũ sẽ thịnh vượng như xưa và hơn
xưa [37.429].
Chương 3:ĐÔINÉTVỀTÍNNGƯỠNG,
TÔNGIÁOVÀPHONGTỤCTẬPQUÁNCỦACƯDÂN MÃ CHÂU
Người Việt đến vùng đất mới đã giao lưu và tiếp thu những yếu tố văn
hoá của người Chăm. Đồng thời trong quá trình giao lưu buôn bán, người Việt
47
cũng đã tiếp thu một số yếu tố văn hoá của người Hoa để từđó tạo nên một bản
sắc văn hoá riêng, đặc sắc, góp phần hình thành nên diện mạo của xứ Quảng -
Quảng Nam.
3.1. Sự thờ cúng.
3.1.1. Thờ Tiền Hiền khai canh.
Hơi khác với những làng Việt ở miền Bắc, đình làng ở Mã Châu (và
miền Trung nói chung) dùng để thờ Tiền hiền, Hậu hiền - những người có công
đến khai canh, khai cư thành lập làng.
Theo hồi cố của các cụ già trong làng thì trước đây ở bốn thôn (Đông -
Thành - Tây - Thượng) mỗi nơi có một ngôi đình thờ Tiền hiền riêng và ngôi
đình (Tiền hiền Tứ Mã) thìở trong khuôn viên của HTX ươm dệt Nam Phước
hiện nay. Trong chiến tranh tất cả các ngôi đình đã bị tàn phá và các đồ vật
trong đình cũng đã bị thất lạc hết.
Ngôi đình Tiền hiền Tứ Mã hiện nay được làm mới vào năm 2001.
Đình được xây theo kiểu nhà ngang, các cột và trên nóc đình có trang trí rồng,
phượng. Phía ngoài, trước cửa đình qua một khoản sân có một bức bình phong,
một góp sân có bàn thờ thổđịa và phía ngoài cùng là cổng tam quan.
Cách bài tríở trong đình: có năm bàn thờ, ở giữa thờ Tiền hiền Mã
Châu; bàn thờ hai bên tả hữu thờ Hậu hiền và tổ nghề dệt; hai bàn thờở ngoài
cùng, một bên thờ những người đỗđạt thời phong kiến và một bên thờ những
anh hùng, liệt sỹ - con em của làng Mã Châu có công với nước; Phía trên bàn
thờ, ở gian giữa treo bức hoành phi đề bốn chữ "Tuấn mã hoa lưu" (Hoa Lưu
: là tên một con ngựa trong số tám con ngựa tốt của Chu Mục vương).
Hàng năm đến ngày mùng 10/3 Âm lịch dân làng tổ chức cúng tế.
Trước ngày đó dân làng họp lại và bầu ra ban trị sự lo việc chung (đó là những
48
cụ già cao tuổi, giàu kinh nghiệm) và một ban tế (một số cụ già cao tuổi nhất
hoặc có kinh nghiệm nhất và thầy cúng).
Sáng ngày 10/3 lễ tếđược tiến hành, người ta bầy biện toàn bộ các lễ
vật lên bàn gồm: Hương đăng, hoa quả, giấy tiền, vàng mã, heo gà...
Ban tế mặc khăn đóng áo dài, chủ tế mặc áo đỏ, hai người bồi tế mặc
áo xanh. Trước khi tế người ta kiểm tra lại lễ vật lần cuối, sau đó các thành viên
trong ban tếđứng vào vị tríđể làm lễ. Quá trình hành lễ tiến hành theo mệnh lệnh
của người nội xướng (người đọc các quá trình làm lễ). Lễ tếđược tiến hành theo
trình tự:
- Đánh ba hồi trống, ba hồi chiêng và cử nhạc lễ.
- Chủ tế tiến lên dâng hương.
- Chủ tế và bồi bái lạy bốn lạy.
- Chủ tế dâng rượu.
- Đọc văn tế.
- Chủ tế dâng rượu lần hai, sau đó lui ra để dân làng vào lễ.
- Tại lễ, ban lễ lạy bốn lạy và nổi chiêng trống kết thúc quá trình tế lễ.
- Đốt vàng mã.
Trong văn tế Tiền hiền Mã Châu cóđoạn: "Nhân tùng bắc địa, trạch thử
nam thiên, quy dân lập xã, thất thổ khai điền, dũ nhân dân chi lạc lợi, thuỳđức
hạnh di diên niên: Tư nhân kỵ nhật, kính dõng (dũng) hương yên, thượng kỳ
gián giám..." .
(Tạm dịch: Người từđất Bắc, đến ở phía Nam, quy dân lập xã, vỡđất
làm rộng, làm lợi cho nhân dân, đểđức hạnh muôn đời: Ngày kỵ hôm nay, kính
dâng nén hương, mong ở trên chứng giám...).
Sau khi tế mọi người cùng ra Đình ngồi ăn uống. Thứ tựởđình, gian
giữa dành cho ban tế và các cụ già, còn hai bên là dân đinh trong làng. Vì là lễ
49
lớn cho cả làng nên phụ nữ cũng phải ra đình làm cỗ, nhưng họ chỉđược ở nhà
sau để chuẩn bị cỗ bàn.
Lễ tế Tiền hiền Mã Châu là một dịp để tưởng nhớ công ơn của những
người đi trước, thể hiện đạo nghĩa "uống nước nhớ nguồn" của những người dân
ởđây và cũng là dịp để mọi người trong làng gặp gỡ, thăm hỏi nhau và củng cố
thêm sự cố kết trong cộng đồng.
3.1.2. Thờ tổ tiên trong các dòng họ.
Làng Mã Châu có hơn 20 dòng họ với 16 nhà thờ họ. Tuy nhiên trong
chiến tranh những nhà thờ họ cũđã bị phá huỷ, những nhà thờ họ hiện nay mới
được xây dựng lại từ năm 1992.
Các nhà thờ họ hiện nay có kiến trúc giống nhau, nhà xây theo kiểu ba
gian hai mái, lợp ngói, có trang trí rồng phượng, lân... ở các cột nhà và trên mái
nhà. Phía ngoài sân là bức bình phong là một cây hương ở góc sân để thờ thổđịa.
Bên trong nhà thờ họ thường có ba gian thờ: gian giữa thờông tổ dòng họ; hai
gian bên thờ cúng các chi tộc và những người đỗđạt hoặc anh hùng liệt sĩ -
người của dòng họ. Phía trên, gian giữa thường treo một bức hoành phi và hai
bên bàn thờ treo (nay là viết) các câu đối. Trên bàn thờ chính giữa cóđặt phúý
(gia phả) của dòng họ. Tuy nhiên ở Mã Châu chỉ còn dòng họ Trịnh và họ Phạm
còn giữđược bản gia phả từ trước năm 1945. Trong đó chỉ có gia phả của họ
Trịnh còn ghi chép đầy đủ và có ghi năm lập gia phả là vào niên hiệu Bảo Đại
thứ 6.
Ởđây việc xây dựng nhà thờ họ không câu nệ, không nhất thiết người
đứng ra xây dựng nhà thờ họ phải là người con trưởng mà người ở trong họ nếu
ai cóđiều kiện thìđứng ra xây dựng (tất nhiên phải thông qua việc họp họ vàđược
50
cả họ nhất trí) và nhà thờ họ phải được xây dựng ở chỗ thuận lợi cho việc họp
họ.
Nhà thờ họ nhìn chung được xây dựng đểđáp ứng yếu tố tâm linh. Là
nơi để con cháu tụ họp và tưởng nhớ tổ tiên thông qua công việc giỗ chạp, tế lễ
trong họ, từđây tinh thần cố kết của dòng họđược củng cố và nâng cao. Đồng
thời cư dân ởđây vốn mang trong mình tâm lý hoài cổ của những người dân đi
"khai hoang lập nghiệp" trước kia và nhà thờ họ là một trong những minh chứng
rõ nét nhất cho điều đó. Hiện nay việc xây dựng nhà thờ của họ còn đáp ứng một
nhu cầu khác - hơi tiêu cực - đó là "thi đua" với các dòng họ khác trong làng.
Việc thờ cúng ở nhà thờ của các họ trong làng tương đối giống với việc
thờ cúng ởĐình Tiền hiền Mã Châu. Có lẽ lúc đầu, đình Tiền hiền mang ý nghĩa
là nhà thờ họ chung của cả làng, là nơi thờ những tổ họ, những người đầu tiên có
công khai cư lập làng Mã Châu. Bởi khi mới vào đây, do nhiều lý do nên những
người đầu tiên đến khai canh, khai cư không cóđiều kiện ghi chép lại tên họ nên
những thế hệ sau không nhớ rõ họ tên của những người tổ họ12. Vì vậy những
người dân làng lập nên nhà thờ họ chung này và nó cũng đáp ứng nguyện vọng,
tâm lýuống nước nhớ nguồn của những người dân ởđây. Nhưng qua thời gian,
cùng sự phát triển của làng, đình Tiền hiền trở lại với đúng nghĩa của nó là trung
tâm của làng, là nơi hội họp, sinh hoạt và thể hiện mối cộng cảm chung của cư
dân làng Mã Châu.
3.1.3. Thờ Thành Hoàng.
Tục thờ thần Thành Hoàng ở Bắc Bộ, khi vào đây được tích hợp với
những yếu tố Chăm và thờ Thành Hoàng là Cao Các - Nam Hải đại vương (thờ
12Khi t«i ®i t×m hiÓu vÒ c¸c dßng hä ë lµng M· Ch©u th× thÊy r»ng nh÷ng dßng hä l©u ®êi nhÊt
ë lµng hiÖn nay ë ®©y ®−îc 17 ®êi, nh−ng lu«n lu«n kh«ng râ hä tªn cña kho¶ng bèn ®Õn n¨m
thÕ hÖ ®Çu tiªn cña c¸c dßng hä.
51
cáông, cá voi). Đây là một tín ngưỡng phổ biến của cư dân đi biển ở vùng ven
biển miền Trung.
Người Việt khi tới "vùng đất mới" đã tiếp thu nghềđi biển của người
Chăm. Khi đi biển, họ thường xuyên phải đối mặt với sóng gió mà không có
cách gìđể chống chọi lại với hiểm nguy vì vậy lòng tin vào các thế lực siêu
nhiên càng mạnh, nhiều lăng Ông, lăng Bàđược dựng lên để cầu mong sự bình
yên. Cá voi được xem là một vị thần cứu mạng của cư dân, do vậy có tục thờ
cáÔng ở vùng ven biển. Hàng năm cư dân đều tổ chức cúng bái, tạơn thánh thần
và tưởng nhớ những người đã bỏ mình trên biển.
Các Các - Nam Hải đại vương được thờở miếu Thành hoàng, trong
chiến tranh miếu này bị tàn phá, hiện nay chỉ xác định được miếu nằm trong
khuôn viên trường cấp II Sào Nam. Trước đây tếở miếu vào 10/3 Âm lịch, khi
miéu mất, việc tế lễ cũng không còn.
Nếu như thần Thành Hoàng là vị thần quan trọng nhất ở các làng Bắc
Bộ thìở Mã Châu và mở rộng ra vùng Duy Xuyên - Quảng Nam nói chung việc
thờ Tiền Hiền khai canh chiếm vị trí chủđạo, nó chi phối rất mạnh mẽđến đời
sống tâm lý của cư dân nơi đây. Tín ngưỡng Thành Hoàng ở Mã Châu vẫn được
lưu giữ nhưng đã lui xuống hàng thứ yếu, đồng thời lại hoà nhập vào với yếu tố
tín ngưỡng Chăm. Nó thể hiện ở việc thờ Thành hoàng Cao Các ở miếu thờ của
làng Mã Châu.
3.1.4. Miếu thờ.
52
Miếu thờở Bắc Bộ có chức năng chính là nơi thờ thổđịa, là nơi thờ
cúng của từng xóm [38.34]. Nhưng ở Mã Châu và vùng Duy Xuyên nói chung,
miếu thờ Ngũđức hay Ngũ hành tiên nương, một tín ngưỡng phổ biến ở vùng
này.
Ngũ hành tiên nương gồm:
- Kim đức thánh phi tôn thần.
- Mộc đức thánh phi tôn thần.
- Thuỷđức thánh phi tôn thần.
- Hoảđức thánh phi tôn thần.
- Thổđức thánh phi tôn thần.
Tuy nhiên khi giải thích về việc thờở miếu thì người làng Mã Châu nói
rằng trước kia ở vùng này thiên tai, nạn hoả hoành hành nên người ta phải thờ
cúng những hiện tượng gây tai hoạ và gọi chung là thờ Nhương bà.
Ở Mã Châu có chín miếu của chín xóm là tứ Bình, tứ Phú và Hợp
Thành. trước kia còn có miếu Nhỏ nhưng nay đã bị phá huỷ và chỉ còn lại nền
gạch ở phía đầu làng.
Miếu ởđây kiến trúc khá giống nhau và rất đơn giản, được xây dựng ở
khu đất nhỏ hình chữ nhật ởđầu hoặc ở cuối xóm. Trong miếu có một bát hương
ở chính giữa thờ Nhương bà và hai bát hương ở hai bên, thấp hơn để thờ chư
thần. Phía ngoài là bức bình phong, bên cạnh là cây hương thờ thổ thần.
Lễ thức ở các miếu tương đối giống nhau, thường cúng vào mồng 5 đến
mồng 7 tháng Giêng âm lịch. Lễ vật do cả thôn cùng đóng góp. Xóm cắt hai nhà
trong thôn (gọi làông Trùm) có trách nhiệm lo lễ vật, chuẩn bị lễ cúng và ngày
Rằm, mùng một phải ra miếu thắp hương. Lễ vật gồm năm mâm, một mâm đểở
giữa miếu cúng Nhương bà, hai mâm ở hai bên tả hữu để cúng chư thần, một
53
mâm cúng thổđịa và một mâm đặt trước tấm bình phong mời "bằng hữu" - thần
ở những vùng xung quanh.
Người cúng là người già nhất xóm vàđược mọi người trọng vọng. Khi
cúng mặc áo the, khăn xếp. Quá trình cúng tế nhìn chung cũng giống như lễ
tếởđình làng và mức độ to nhỏ tuỳ thuộc vào khả năng kinh tế của từng xóm.
Nội dung của văn tế thường như sau: "Kim ngân, hương đăng, thanh
chước thứ phẩm chi nghi cẩn cáo vu... Thượng giới bạch hổ kim tinh thần nữ tôn
thần, sắc phong nhân huyền dực bảo trung ngưng tôn thần. Tập bộ hạ thần đẳng
chủng đồng lai thụ hưởng. Viết cung di tôn thần. Ngũ sắc hề thượng bạch, ngũ
hành hề thuộc kim...
Miếu tiền thiết tế, thượng kỳ lai hưởng như lai hâm. Vô nhứt tiêu phong
nạn hoả, tai quái chi trưng bất tác hựu nhất ấp dân khương dật phụ" (Văn tếở
miếu Bình Hoà).
(Tạm dịch: Kim ngân, hương đăng, thanh trước vật phẩm đã bầy. Kính
báo... Thượng giới bạch hổ kim tinh thần nữ tôn thần. Sắc phong nhân huyền
dực bảo trung ngưng tôn thần. Cùng chư thần bộ hạ cùng đến thụ hưởng. Kính
viết: Tôn thần. Trong ngũ sắc là màu trắng, trong ngũ hành thuộc kim...
Trước miếu tế lễ, ở trên tới hưởng, không gây tiêu phong nạn hoả,
không tác oai tác quái để dân trong ấp được bình yên.)
Sau khi lễ tạ, mọi người kéo đến nhàông Trùm ăn uống, tổng kết công
việc trong năm và cắt cử công việc cho năm tới. Trong việc tếở miếu này, người
phụ nữ chỉ chuẩn bịđồ tế lễở nhà còn ra miếu làđàn ông ở xóm.
Việc tế lễở miếu của mỗi xóm có vai trò rất quan trọng trong đời sống
của cư dân ởđây. Nó tạo nên một sự “cộng cảm”, “cộng mệnh”, củng cố tinh
thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau của mọi người trong thôn xóm, tạo điều kiện
cho mọi người gặp gỡ và vui chơi để từđó họ có thể hiểu nhau hơn.
54
3.1.5. Thờ Phật.
Chùa Ba Phong (Hoa Phong tự - tiếng miền Trung đọc Hoa thành Ba)
nằm ở phía Tây Nam của làng, phía gần bờ sông. Chùa do nhân dân Mã Châu
xây dựng đã nhiều lần bị hư hỏng phải tu sửa, thậm chí phải làm lại hoàn toàn.
Chùa cũ không rõđược dựng từ bao giờ, năm 1930 bịđổ vàđược nhân dân xây
dựng lại bằng nhà tranh tre. Năm 1945 bịđổ, đến năm 1960 chùa được khởi công
xây dựng bằng gạch, lợp ngói. Trong kháng chiến chống Mỹ lại bị sập. Năm
1989 chùa được làm lại như hiện nay, do người dân làm nghề dệt ở Mã Châu
quyên góp mà xây dựng lên.
Trong chùa, gian ngoài chính giữa thờ tượng Phật Thích Ca, phía hữu
(từ ngoài vào) thờ Bồ Tát Địa Tạng, phía tả thờ Quan Âm Nam Hải. Gian trong
thờ Tiền Hiền Mã Châu (do trước đây khi đình cũ sập, người ta đưa bài vị Tiền
Hiền vào chùa thờ, đến khi dựng đình mới, người ta vẫn để chân nhang ở chùa),
BồĐềĐạt Ma và là nơi để hậu của các phật tử.
Mỗi tháng vào ngày rằm, mùng một nhà chùa làm lễ, các Phật tử, đạo
hữu đến lễ chùa. Bình thường vào buổi tối, phật tử và các cụ già thường đi tụng
kinh niệm phật. Người dân ởđây đi chùa vì nhiều lý do nhưng chủ yếu làđi chùa
để cầu an, cầu phúc...
Ngày Phật Đản (lễ Vu Lan Bồn ngày 15/7 Âm lịch) là ngày lễ lớn nhất
của chùa. Chùa làm lễ rất lớn để cúng các vong hồn không siêu thoát được.
Ngày này Phật tử các nơi về làm lễ rất đông.
Khác với chùa chiền ở miền Bắc được bố chí theo kiểu thờ cúng "tiền
Phật, hậu Thánh" với một hệ thống các ban thờ khá "phức tạp" như Ban thờ
Mẫu, Ban thờĐức Ông ở trong chùa. Chùa Ba Phong và chùa ở vùng Duy
Xuyên - Quảng Nam, nhìn chung là chỉ thờ Phật (các chân nhang của Tiền Hiền
Tứ Mã cũng mới được đưa vào chùa thờ), không có Ban thờ Mẫu và ban thờĐức
55
Ông. Chùa chiền ởđây khá "thuần nhất" chứ không có sự thờ cúng "phức tạp"
nhưở miền Bắc.
3.1.6. Thờ Thổđịa.
Thần Thổđịa là một vị thần quan trọng trong đời sống tâm linh của cư
dân làng Mã Châu. Việc thờ thần cóở khắp mọi nơi tuy rằng về mặt kiến trúc thì
nơi thờ thần rất đơn giản, chỉ là một cây hương đặt ở góc sân đình, chùa, nhà thờ
họ, góc vườn của gia đình, cũng có khi là bát hương ở cổng ngõ mỗi nhà, thậm
trí người ta còn cắm hương vào gốc cây hay/và cắm thẳng hương xuống đất...
Việc thắp hương cho thần ngõ (thần Thổđịa) vào ngày Rằm, mùng một
vào lúc đầu tối, sau khi thắp hương cho tổ tiên ở bàn thờ trong nhà.
Thờ Thổ công là một tín ngưỡng chung, phổ biến của người Việt với
quan niệm "đất có Thổ công, sông có Hà Bá". Thổ công là vị thần trông coi nhà,
định phúc hoạ và coi giữ không cho ma quỷđến quấy nhiễu gia đình tín chủ
[30.78]. Ở vùng này tín ngưỡng thờ Thổ công, thổđịa phát triển mạnh hơn. Nó
liên quan đến việc trước đây người Việt coi vùng này là vùng "ma thiêng nước
độc".
3.1.7. Thờ Thần Nông.
Liên quan đến tục thờ Thần Nông có hai Lễ chính là lễ Cơm mới và lễ
Hạđồng.
- Lễ Cơm mới: hàng năm vào tháng 10, sau khi thu hoạch mùa vụ,
những người làm nông nghiệp trong làng cùng đóng góp để làm lễ cúng Thần
Nông ở bàn Mục Đồng. Trên mâm lễ, người ta lấy những hạt lúa đầu mùa làm
cơm cúng thần cùng với gà hoặc thủ lợn, hương đèn, trầu rượu, hoa quả... mục
56
đích để cảm tạ Thần Nông đã phù hộ cho mùa màng tươi tốt và cầu mong vụ sau
được "mưa thuận gió hoà" để mùa màng được "phong đăng hoà cốc".
Bàn Mục Đồng nằm ở phía ngoài đồng, gần chùa Ba Phong, được xây
dựng đơn giản trên một môđất cao hơn mặt ruộng khoảng 2m. Trong chiến
tranh, bàn Mục Đồng đã bị tàn phá nhưng đãđược xây dựng lại ngay sau đó.
57
- Lễ Hạđồng: cúng vào tháng riêng theo từng cánh đồng. Lễ vật gồm
hương đăng, hoa quả, xôi gà... xếp thành ba mâm phân chia theo thứ tự trên
dưới, được đặt ở ven cánh đồng. Lễ chung cho cả cánh đồng thì do một người
đứng ra làm chủ lễ, sau đó các gia đình đi làm lễở ruộng của mình, mục đích
cũng là cầu cho mùa màng tươi tốt.
3.2. Phong tục tập quán.
3.2.1. Hội làng.
Hội làng diễn ra vào ngày 10/3 Âm lịch. Trước đây, khi chưa bị chiến
tranh tàn phá thìđình Tiền hiền Mã Châu và miếu Thành Hoàng nằm ở trên một
khu đất (mà nay là khuôn viên trường cấp II Sào Nam và HTX ươm dệt thị trấn
Nam Phước). Sau khi tế lễởđình, miếu người dân Mã Châu tổ chức những
tròchơi như: hát bội, hát bài chòi, hò khoan đối đáp, thi bơi thuyền trên sông Bà
Rén...
Sau khi đình Tiền và miếu Thành Hoàng bị phá thì hội làng cũng mất
đi. Hiện nay đình Tiền Hiền Tứ Mãđãđược xây dựng lại, nhưng mới khôi phục
lại được phần tế lễ còn phần hội thì do nhiều nguyên nhân (mà nguyên nhân chủ
yếu là người dân làng Mã Châu hiện nay quá bận bịu với nghề dệt) nên chưa
khôi phục lại được.
Thiết nghĩ hội làng là một hình thức sinh hoạt văn hoá rất bổích, mong
rằng chính quyền các cấp cùng bà con thôn Châu Hiệp - làng Mã Châu (càng
sớm càng tốt) có kế hoạch khôi phục lại nét đẹp văn hoá này, nhất là hiện nay,
khi Mã Châu vừa làm lễ ra mắt làng nghề truyền thống và trở thành một điểm
trong "Tua" du lịch của huyện Duy Xuyên và mở rộng ra là Quảng Nam.
58
3.2.2. Tết Nguyên Đán.
Tết Nguyên Đán là tiết lễđầu tiên của năm, bắt đầu từ lúc giao thừa, tức
là lúc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Nhưng thực ra lễ tết đã bắt đầu từ
trước đó nhiều ngày với những lễ:
- Lễ cúng ông Công, ông Táo ngày 23 tháng Chạp.
- Lễ dựng nêu: Người ta quan niệm những ngày cuối năm, ông Công,
ông Táo đi vắng ma quỷ thường đến quấy nhiễu và vì nơi đây xưa kia là vùng
đất của ma lai, ma hời, là nơi "rừng thiêng, nước độc". Vì vậy phải dựng nêu để
chống quỷ dữ.
Cây nêu là một cây tre, còn để phần lá trên ngọn, được trồng ở trước
nhà, trên ngọn tre có tấm phên đan bốn thanh dọc, năm thanh ngang biểu thị cho
lá bùa để xua đuổi quỷ dữ.
Tín ngưỡng về "ma lai, ma hời" ở Mã Châu được thể hiện rất rõ qua
cách "đi đồng" của cư dân nơi đây. Trước đây (chưa lâu lắm), khi muốn "giải
quyết" người ta thường đi ra đồng. Xong việc, người ta cắm một cái que lên trên
đống “sản phẩm” của mình. Người ta giải thích là làm như vậy để cho ma lai,
ma hời thấy mình "đánh dấu" rồi thì nó không dám ăn và như vậy, nó không gây
được tai hoạ, bệnh tật cho con người.
Sau này, trước khi có hố xí tự hoại, người dân ởđây làm nhà xí rất đơn
giản. Họđào một cái hốở góc vườn, trên hốđan một cái phên tre đậy lên và bốn
xung quanh được che tạm bằng phên, lá hoặc nilông... Khi thải đầy hố, người ta
lại đào một cái hố mới và lấp cái hố cũđi chứ không dùng loại phân đó cho sản
xuất. Họ lý giải nếu đem bón phân cho cây thì khi con người ăn phải sẽ bị bệnh
tật. Điều này liên quan tới tín ngưỡng, của những người Việt trước đây khi mới
vào vùng đất này khai hoang lập làng.
59
- Bữa cơm tất niên: ngày 30 tết người ta thường đi thăm mộ tổ tiên và
mời tổ tiên vềăn tết với gia đình. Sau đó họ về dọn dẹp nhà cửa và làm cơm tất
niên.
Người ta làm hai mâm cơm cúng: một mâm đặt ở trên bàn thờ tổ tiên;
một mâm đặt ở ngoài sân để cùng những âm hồn không nơi nương tựa. Mâm ở
ngoài sân phải có muối, gạo khi cúng xong thì vãi ra đất gọi là "phát chẩn".
Mâm cơm cúng ông bà tổ tiên nhất thiết phải có bánh tráng (bánh đa) phủ lên
trên mâm cơm. Truyền miệng nói rằng trước đây vùng đất này làđất của ma lai,
ma hời sinh sống, người Việt vào khai hoang, đánh đuổi nóđi, làm chúng không
có chỗ nương thân, chết đói, chết khát, khi thấy mâm cơm cúng tổ tiên, nóđịnh
đến cướp nhưng nhìn thấy bánh tráng thì nó sợ mà bỏ chạy.
- Cúng giao thừa: Sau bữa cơm tất niên, người ta chuẩn bị cho việc
cúng giao thừa (tiễn năm cũ, đón năm mới). Bàn thờđược đăt ở giữa sân, có một
đỉnh trầm hoặc một bát hương, hai bên là hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến.
Lễ vật gồm: một con gà trống giò, bánh tổ (bánh trưng), bánh kẹo, hoa quả, trầu
cau, rượu, nước, vàng mã...
Sau khi cúng giao thừa, người ta kéo nhau đi lễở các đình, chùa, miếu
để cầu mong thần phật phù hộ cho bản thân và gia đình. Nhân dịp này người ta
xin quẻđầu năm, xin lộc ở các đền, chùa, miếu... với hy vọng gặp may mắn và
làm ăn phát đạt quanh năm.
Trong ngày tết có rất nhiều tục lệ:
- Chọn người xông nhà.
- Đi chúc tết ông bà, cha mẹ và hàng xóm láng giềng.
- Chọn hướng xuất hành.
- Mừng tuổi (thường là lì xì cho trẻ em)...
60
- Lễ Hạ nêu: từ mùng 5 đến mùng 7 tháng Giêng người ta làm lễ hạ
nên. Mọi công việc hàng ngày, người ta chỉ bắt đầu sau lễ này.
Trong ngày tết ởđây nhất định phải có bánh tổ (bánh trưng), bánh tét
(Bánh làm bằng gạo nếp, được gói bằng lá chuối hay lá dong, hình tròn vàở giữa
có nhân đậu xanh), bánh in (làm từ gạo nếp được xay thành bột và nhào với
đường cám, đem in vào khuôn sau đó cho vào lò hay cho lên bếp sấy khô).
3.2.2. Hôn lễ.
Hôn nhân là một trong những việc quan trọng nhất của đời người (Tậu
trâu, lấy vợ, làm nhà). Đó không phải chỉ là chuyện riêng tư của đôi lứa, mà còn
là chuyện của hai bên cha mẹ, họ hàng nữa. Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem
giống là nguyên tắc không thể thiếu. Người ta rất coi trọng việc dựng vợ,
gảchồng cho con cái.
Ở Mã Châu, trong việc cưới xin thì có tục cha mẹđặt đâu, con ngồi đấy.
Nhưng trước khi “đặt”, cha mẹ có tham khảo ý kiến của con cái chứ không áp
đặt, bắt con cái phải tuân theo.
Việc hôn nhân được tiến hành theo trình tự, đầu tiên khi nhà trai chọn
được một cô gái nào đó, họ nhờông mai đến dò hỏi ý kiến của nhà gái, tức là nhà
trai nhờ người (thông thường là người hàng xóm, có quen thân với cả hai gia
đình) đến nhà gái đặt vấn đề cho đôi trẻ tự do đi lại tìm hiểu nhau.
- Lễđính hôn (Ăn hỏi): nhà trai và nhà gái chọn ngày lành tháng tốt để
nhà trai đến nhà gái ăn hỏi. Lễ vật phải có sáu quả, bên trong đựng hoa quả,
bánh trái, trầu cau, thuốc...
- Lễ thỉnh kỳ: hai nhà bàn bạc chi tiết về ngày cưới đãđược thoả thuận
từ trước và tiến hành chuẩn bị lễ cưới.
61
- Lễ cưới (lễ Thành hôn): thường được tổ chức ở nhà gái trước, sau
đóđưa dâu về nhà trai vàđến lượt nhà trai tổ chức. Họ nhà trai đi đón dâu, trước
khi đến có cử một người đại diện bưng khay trầu rượu đi trước để báo tin. Đoàn
đón dâu của nhà trai vừa tới thì nhà gái nổ pháo nghênh tiếp. Lễ vật của nhà trai
được đặt lên trên bàn thờ nhà gái. Sau đó cô dâu chú rể, dưới sự hướng dẫn của
người chủ hôn, tới lễ gia tiên và cha mẹđôi bên. Lễ xong, đôi bên cha mẹ, họ
hàng lần lượt tới tặng quà cưới và chúc đôi trẻ hạnh phúc.
Sau khi xong tiệc ở nhà gái, nhà trai xin đón dâu về. Tại nhà trai, cô
dâu chú rể cũng phải làm những lễ thức nhưđã tiến hành ở bên nhà gái.
Trường hợp lấy vợ, lấy chồng ở ngoài làng thì nhà trai, nhà gái phải
nộp cho làng một khoản lễ nhỏđể làm lễ báo. Trước đây gọi là nộp cheo.
Đám cưới tổ chức to, nhỏ tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh của từng gia
đình nhưng trước đây nhìn chung thường tổ chức linh đình, tốn kém. Hiện nay
thực hiện theo nếp sống văn hoá mới, nhiều lễ nghi rườm ràđược xoá bỏ và thay
vào đó là những tục lệđơn giản, ít tốn kém hơn nhưng vẫn giữđược những tập
tục vốn có của nó.
3.2.4. Tang lễ.
Người Việt Nam nói chung, cho rằng người chết đi chỉ là phần thể xác
còn phần linh hồn vẫn sống mãi. Nên khi gia đình có người qua đời, công việc
chuẩn bị cho người chết hết sức chu đáo. Đây cũng thể hiện lòng kính trọng của
gia đình đối với người đã khuất.
Khi trong nhà có người qua đời thì gia chủ phải đi thông báo cho họ
hàng, làng xóm biết để mọi người tới giúp đỡ. Gia đình tang chủ phải phó thác
hết công việc tang ma cho bà con hàng xóm và không ai trong gia đình được
động vào người chết. Thông thường khi gia đình có người chết, người ta không
62
tự lo liệu được công việc tang ma do đau buồn, thương xót, sợ không đủ sáng
suốt để lo liệu nhiều công việc trong cùng một lúc nên phải nhờ cậy hàng xóm
láng giềng.
Trước giờ khâm niệm, người ta tắm rửa, thay quần áo vàđặt vào miệng
người chết 3 hạt gạo, 3 đồng tiền kẽm. Sau đó người ta buộc hai ngón chân cái
của người chết lại với nhau vàđặt thi hài vào trong quan tài.
Linh cữu người chết được đặt ở giữa nhà, đầu quay vào trong, chân
hướng ra cửa. Phía trước linh cữu người ta lập một hương án làm chỗđể thờ
vàđể mọi người đến viếng dâng hương. Bên cạnh bàn thờ cheo một khổ giấy
màu đỏ ghi tên, tuổi, quê quán của người chết, gọi là Triệu.
Thông thường người ta để quan tài trong nhà 2 đến 3 ngày, sau đóđem
chôn. Tuy nhiên có trường hợp gặp ngày hung thì người ta để quan tài trong nhà
có khi đến 5 - 6 ngày, cũng có khi người ta đào hai huyệt khi chôn người chết,
người ta đặt linh cữu vào một huyệt rồi chuyển sang huyệt thứ hai rồi chôn chứ
không để lâu ngày trong nhà.
- Lễ thành phục (bịt khăn): Sau khi khâm liệm người chết, gia đình tang
chủ bắt đầu làm lễđeo khăn tang.
Để có một nơi yên nghỉ tốt đẹp cho người đã khuất, gia chủ mời một vị
thầy địa lýđến chọn đất. Khi chọn được đất, gia chủ phải làm mâm cơm yết cáo
với thổ thần nơi đóđể xin phép đào huyệt. Người chết được chôn ở bãi tha ma
của làng, trên những gò cát, đầu hướng lên đỉnh gò, chân phía dưới ruộng và bia
mộ thường được đặt ở dưới chân mộ.
Những gia đình khá giả thường thuêông Tổng. Ông Tổng là người chỉ
huy, điều khiển và sắp xếp mọi việc trong gia đình người chết, từ việc khâm
liệm đến việc điều khiển, chỉ huy đám tang đưa người chết về nời an nghỉ cuối
cùng. Ông Tổng thay mặt gia đình tiếp đón những người đến viếng, giúp gia
63
đình kể lể sự xót thương của thân quyến trong gia đình đó với người đã khuất
mà tự họ không thể bày tỏđược. Nếu ông Tổng là người giỏi thì có thể làm giảm
nhẹ nỗi đau của gia đình có người đã khuất.
Lúc hạ huyệt, mọi người tiến đưa người quá cố bằng một nắm đất vứt
nhẹ xuống quan tài. Ởđây mộ táng một lần, không cải táng.
- Lễ mở cửa mả: Sau ba ngày, người ta làm lễ mở cửa mả. Lễ gồm hai
phần: Cúng tạ thổ thần nơi mộđược chôn cất và sửa sang lại ngôi mộ. Sau đó
người ta cúng cơm tại gia đình và mời bà con hàng xóm - những người đã tận
tình giúp đỡ gia đình trong lúc tang lễđến để cảm ơn. Người ta cúng vì quan
niệm linh hồn người chết, đến trước lễ mở cửa mả vẫn chưa sang được thế giới
bên kia, vì vậy cứđến bữa phải cúng cơm trên bàn thờ người chết.
Liên quan đến người chết còn có một số tục lệ như tục: Cầu hồn, son
môi...
- Tục cầu hồn: Gia đình người chết sau một thời gian họ mời một thầy
cúng đến gọi hồn người chết vềđể hỏi xem ở thế giới bên kia người chết cóđược
yên ổn không và có cần gì không để gia đình gửi cho. Có tục lệ này là vì người
ta vẫn quan niệm có thế giới bên kia và thầy cúng là người có thể giao tiếp được
với những người đã khuất.
- Tục son môi: Người ta quan niệm người chết " ngã nước" (chết đuối
trên sông, trên biển) thì linh hồn không được siêu thoát và không đến được thế
giới bên kia. Vì vậy người ta làm lễđể cầu cho linh hồn người đóđược siêu thoát.
Hiện nay, việc tang ma có nhiều thay đổi. Tang lễ làm gọn nhẹ, đơn
giản hơn nhưng vẫn giữđược sự trang nghiêm. Những hủ tục như cầu hồn, son
môi, để người chết trong nhà nhiều ngày... đã bị bãi bỏ. Việc cám ơn hàng xóm
láng giềng được làm nhỏ chứ không kèm theo ăn uống ồn ào như trước.
64
KẾTLUẬN
Mã châu là vùng đất có một quá trình lịch sử lâu đời. Nơi đây đã in
đậm dấu ấn của cư dân văn hoá Sa Huỳnh, rồi văn hoá Chămpa dù rằng tên làng
Mã Châu như hiện nay mới chỉ xuất hiện sớm nhất, vào giữa thế kỷ XVI khi
đoàn người Việt "Bắc địa tùng vương" theo chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào đây
khai cơ lập nghiệp.
Làng Mã Châu được thành lập trên vị tríđịa lý tự nhiên thuận lợi, nằm ở
phía đỉnh tam giác châu của đồng bằng Duy Xuyên mà sông Thu Bồn và sông
Bà Rén là hai cạnh của tam giác đó. Mã Châu lại được bao bọc bởi sông Bà Rén,
nhờ vậy Mã Châu luôn được phù sa bồi đắp, đồng ruộng chủđộng được nước
tưới, các bãi bồi thuận lợi cho việc phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, đường
sông thuận lợi cho việc giao thương buôn bán...
Làng Mã Châu được thành lập do những cư dân người Việt từ nhiều
vùng quê khác nhau ở Bắc và Bắc Trung Bộ, màđông đảo nhất là cư dân người
vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh vào đây khai hoang lập nghiệp. Cư dân Mã Châu đã
mang trong mình những giá trị văn hoáđặc sắc của mỗi làng quê và cùng nhau
bắt tay để xây dựng vùng quê mới. Đồng thời, tới vùng đất mới cư dân Mã Châu
ít bị ràng buộc bởi "lệ làng, phép nước", cái đã giữ trặt lấy những người nông
dân ởđồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Họ sống cởi mở hơn, phóng khoáng hơn.
Những lễ giáo phong kiến cũ vẫn được họ giữ gìn nhưng họ lại không bị bó
buộc vàít bị lệ thuộc vào nó. Vì vậy đã tạo ra những nét văn hoá riêng, đặc sắc
của những cư dân nơi đây.
65
Trong quá trình "Nam tiến" của mình, người Việt khi tới đây dã cùng
chung sống hoà bình với cư dân bản địa, họ tiếp nhận nhiều yếu tố văn hoáđặc
sắc của người Chăm, cùng người chăm xây dựng làng xóm và tạo nên giá trị văn
hoá rất đặc trưng góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hoá của xứ Quảng -
Quảng Nam nói chung.
Làng Mã Châu căn bản là làng Việt được ra đời, phát triển trên cơ tầng
làng mạc Chăm. Yếu tố văn hoá Chăm tiềm ẩn, đan xen trong đời sống vật chất
và sinh hoạt tinh thần của cộng đồng cư dân mới, tập hợp, dung hoà từ nhiều
miền quê lại.
Nghề dệt ở Mã Châu là một nghề thủ công có bề dày lịch sử từ lâu đời.
Những chứng tích của nghề dệt đãđược tìm thấy từ nền văn hoá Sa Huỳnh thời
đại kim khí với những dọi xe chỉ. Những ghi chép trong thư tịch cổ về Chămpa.
Nghề dệt càng phát triển rực rỡ hơn vàđược "dân biết mặt, nước biết tên" từ khi
người Việt vào tiếp thu nghề dệt từ người Chăm cùng với những kỹ thuật trong
nghề dệt của người Việt, đã đưa Mã Châu trở thành vùng "thêu dệt tinh khoé, sa
trừu không kém gì Quảng Đông ".
Hiện nay dưới tác động của nền kinh tế thị trường và sự nghiệp CNH-
HĐH đất nước đã vàđang làm thay đổi diện mạo làng nghề Mã Châu một cách
nhanh chóng. Cơ hội được mở ra cho sự phát triển của nghề dệt ởđây: sự giao
thương, buôn bán với các vùng khác trong cả nước tạo cho mặt hàng tơ lụa của
Mã Châu có một thị trường rộng lớn, ở trong nước là Hà Nội, Sài Gòn... ở ngoài
nước là Lào, Campuchia, Thái Lan... Những chính sách bảo tồn và phát triển
làng nghề truyền thống của nhà nước; sựđổi mới công nghệ dẫn tới sự nâng cao
chất lượng sản phẩm...
Mã Châu lại nằm trên tuyến đường sông với "tua" du lịch Hội An - Trà
Kiệu - Mỹ Sơn, trong đó Mã Châu được xây dựng thành làng nghề truyền thống,
66
một nơi dừng chân cho khách du lịch tham quan (và việc ra mắt làng nghề ngày
30.3.2003 vừa qua là bước khởi đầu). Trong tương lai ngành du lịch, dịch vụ
phát triển ởđây sẽ tạo ra ởđây một nguồn lợi không nhỏ.
Thuận lợi nhiều nhưng khó khăn, thậm chí là thách thức cũng không ít.
Khó khăn của nghề dệt là sản phẩm làm ra phải cóđược sức cạch tranh trên thị
trường; sự tiếp nhận, sự thay đổi công nghệ; đổi ngũ quản lý sản xuất trong môi
trường mới; năng lực quản lý doanh nghiệp; nguồn vốn... Đồng thời việc kết hợp
sao cho có hiệu quả giữa hai xu hướng phát triển của làng nghề của Mã Châu;
làng nghề Mã Châu truyền thống nằm trong "tua" du lịch Mỹ Sơn - Trà Kiệu -
Hội An, với những sản phẩm được làm theo phương pháp thủ công và những
người khách đến đây với mục đích nghỉ ngơi, giải trí vàđược tận mắt ngắm nhìn
một làng dệt truyền thống; với một làng nghề Mã Châu đang trên bước đường
CNH - HĐH phải luôn luôn tiếp nhận những công nghệ mới, kỹ thuật mới, tiên
tiến, không ngừng nâng cao chất lượng, sản lượng sản phẩm để phục vụ các thị
trường trong nước và quốc tế...
67
TÀILIỆUTHAMKHẢO
1. Dự thảo tộc ước làng Mã Châu. 8-2000
2. Dương Bá Phượng: Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình
công nghiệp hoá. Nxb KHXH, H.2001
3. Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2). Nxb KHXH, H.1995
4. Đậu Thị Hoa: Một số lễ hội của người Việt ở Duy Xuyên - Quảng Nam.
Khoá luận năm thứ 3, Khoa Lịch sử - Đại học Huế, Huế 7-2001
5. Đồng Khánh địa dư chí (Tỉnh Quảng Nam). Bản dịch của Trần Lê Hữu,
lưu tại Khoa Lịch sử - ĐH KHXH&NV Hà Nội. (Ký hiệu VT.522)
6. Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức: Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam. Nxb
VH-TT, H.1999
7. Lâm Bá Nam: Nghề dệt cổ truyền ởđồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Luận án
Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, ĐH TH Hà Nội.1995
8. Lê QuýĐôn: Phủ Biên tạp lục. Bản dịch của Ngô Lập Chi. Thư viện Khoa
Sử - ĐH KHXH&NV HN (Bản đánh máy năm 1959)
9. Lịch Đạo Nguyên: Thuỷ kinh chú (Bản dịch của Trần Huy Tiệp). ĐH TH
HN 1961
10. Nhiều tác giả: Bà chúa Tàm tang xứ Quảng. Nxb Đà Nẵng 2002
11. Lịch sử và di tích tiền nhân Ngũ xã Trà Kiệu. Chư tộc Ngũ xã soạn năm
1982
12. Ngô Văn Doanh: Văn hoá Chămpa. Nxb VH-TT, H.1994
68
13. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử. Viện sử học, H.1978
14. Nguyễn Thị Tuyết: Bước đầu nghiên cứu văn hoá Sa Huỳnh ở huyện Duy
Xuyên. Khoa luận Đại học Văn hoá Hà Nội, Duy Xuyên 5-2001
15. Nguyễn Thị Tuyết: Ông Cửu Diễn người đầu tiên du nhập kỹ thuật dệt
mới vào đất Duy Xuyên. Tư liệu phòng Văn hoá huyện Duy Xuyên.
16. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1).Nxb Sử học
H.1960
17. Phan Ngọc: Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới. Nxb VH-TT, H.1994
18. Phan Đại Doãn: Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế văn hoá xã hội.
Nxb VH-XH, H.2001
19. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí. Nxb Thuận Hoá,
Huế.1992
20. Quy ước văn hoá thôn Châu Hiệp - thị trấn nam Phước. 8-2002
21. Sở VH-TT Quảng Nam: Danh xưng Quảng Nam. Kỷ yếu hội thảo, Tam
Kỳ 9-2001
22. Sở VH-TT Quảng nam: Văn hoá Quảng Nam những đặc trưng giá trị. Kỷ
yếu hội thảo.2001
23. Sở VH-TT Quảng Nam: Vai trò lịch sử dinh trấn Quảng Nam. Kỷ yếu hội
thảo, 8-2002
24. Tạp chíVăn hoá nghệ thuật, số tháng 8-1998
25. T/c Văn hoá Quảng Nam, số 18 tháng 12-1999
26. T/c Văn hoá Quảng Nam, số 20 năm 2000
27. T/c Văn hoá Quảng Nam, số 29 tháng 9,10-2001
28. T/c Văn hoá Quảng Nam, số 36 tháng 11,12-2002
29. Toan Ánh: Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam. Nxb Tp HCM.1997
69
30. Toan Ánh: Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam. Nxb VHDT,
H.1996
31. Toan Ánh: Trong họ ngoài làng. Nxb Mũi Cà Mau.1993
32. Tóm tắt lược sử các chư phái tộc làng Mã Châu. 8-2002
33. Trần Hà Hải: Lễ Hội lệ bà Thu Bồn - Bô Bô phu nhân ở Quảng Nam. khoa
luận tốt nghiệp Khoa Sử -ĐH KHXH&NV HN,2000
34. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược. Nxb Tân Việt, H.1951
35. Trần Quốc Vượng (chủ biên): Cơ sở văn hoá Việt Nam. Nxb GD.1998
36. Trần Quốc Vượng: Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm. Nxb VHDT,
H.2000
37. Trần Quốc Vượng: Việt Nam cái nhìn địa văn hoá. Nxb VHDT, H.1998
38. Trần Từ: Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Nxb KHXH,
H.1984
39. Trương Hữu Quýnh (chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1). Nxb
GD.1999
40. UBND huyện Duy Xuyên: Duy Xuyên tiềm năng văn hoá và du lịch. Duy
Xuyên. 8-2002
41. Viện nghiên cứu kiến trúc: Kiến trúc nhà dân dụng cổ truyền ở Duy
Xuyên - Quảng Nam (Bản vẽ). Lưu ở phòng văn hoá huyện Duy Xuyên
42. Võ Thị Lý: Tìm hiểu phong tục tập quán của người Việt ở huyện Duy
Xuyên - Quảng Nam. Khoá luận năm thứ 3 Khoa Sử - ĐH Huế 7-2001
43. Vũ Ngọc Phan: Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Nxb KHXH. 1998
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lang_det_ma_chau_xua_va_nay_6924.pdf