Như vậy, chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự can thiệp một cách tích cực của nhà nước xã
hội chủ nghĩa vào quá trình kinh tế của các nhà tư bản. Nó khác hẳn chủ nghĩa tư bản nhà
nước trong thời kỳ còn tồn tại nhà nước tư sản. Tính chất hoạt động của nó đã thay đổi: nó
không chỉ chịu sự kiểm soát và chi phối của nhà nước xã hội chủ nghĩa mà còn hợp tác với
nhà nước xã hội chủ nghĩa để cùng sản xuất kinh doanh.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2400 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giao kèo, một sự liên kết liên minh giữa chính quyền
nhà nước Xô Viết với chủ nghĩa tư bản nhà nước, chống lại chế độ tự phát triển tư hữu.
Tô nhượng dựa trên cơ sở đại công nghiệp cơ khí hoá, trong mỗi hợp đồng chỉ quan hệ
với duy nhất một nhà tư bản, một tổ chức độc quyền. Nó được cho phép và bắt buộc phải có
một hợp đồng và có một thời hạn chính xác.
Người nhận tô nhượng là nhà tư bản, họ nhận tô nhượng để kinh doanh theo phương
thức tư bản để lấy lợi nhuận và lợi nhuận siêu ngạch hoặc để có được loại nguyên liệu mà họ
không thể có hoặc khó có thể có được bằng cách khác (tức là không ký hợp đồng với chính
quyền Xô Viết) .
Chính quyền Xô Viết cũng có lợi: lực lượng sản xuất phát triển, số lượng sản phẩm tăng
lên nhanh chóng. Mặt khác, khi sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô
nhượng, chính quyền Xô Viết sẽ tăng cường được nền đại sản xuất đối lập với nền tiểu sản
xuất; nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công; nó củng cố được những quan
hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh đối lập với những quan hệ kinh tế tiểu tư sản, vô chính
phủ.
Đồng thời tô nhượng cũng là sự tiếp tục của đấu tranh giai cấp dưới một hình thức khác,
chứ không phải là sự thay thế đấu tranh giai cấp bằng hoà bình giai cấp.
Tuy nhiên, tô nhượng là sự “ du nhập ” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào, vì vậy khi sử
dụng hình thức này cần suy nghĩ, cân nhắc hết mọi điều khi ký hợp đồng tô nhượng và sau đó
phải biết theo dõi việc chấp hành nó. Lê nin đã nêu ra những điểm cần lưu ý khi sử dụng hình
thức tô nhượng như sau:
Thứ nhất, để thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô nhượng, cần phải
từ bỏ chủ nghĩa ái quốc địa phương của một số người cho rằng, tự mình có thể làm lấy, không
chấp nhận trở lại ách nô dịch của tư bản.
Thứ hai, người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí
nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của người nước ngoài. Cải thiện đời
sống của công nhân trong các xí nghiệp tô nhượng và ngoài tô nhượng được xem là “ cơ sở
của chính sách tô nhượng ”.
Thứ ba, điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho các công nhân
lành nghề và nhân viên người nước ngoài được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người
nhận tô nhượng với những loại công nhân nói trên. Công đoàn không có quyền đòi áp dụng
các mức lương của Nga, cũng như các luật lệ của Nga về thuê mướn nhân công đối với những
công nhân đó.
Thứ tư, phải tôn trọng luật pháp và nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học và
kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước Nga và của nước ngoài.
Chuyển từ chế độ tô nhượng lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một hình thức đại sản
xuất này sang một hình thức đại sản xuất khác. Một khi thắng lợi với hình thức tô nhượng
nước Nga sẽ có ngay một số “ xí nghiệp lớn kiểu mẫu ” ngang hàng với các công ty lớn ở
những nước tư bản chủ nghĩa hiện đại. Do vậy, ở Nga giai đoạn này tô nhượng chiếm ưu thế
hơn so với các hình thức kinh tế tư bản nhà nước khác.
3.2. Hợp tác xã.
Từ thực tiễn của nước Nga, Lê nin phân biệt hợp tác xã trong những chế độ khác nhau.
Theo Lê nin trong thực tế tồn tại hai chế độ hợp tác xã: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô Viết được coi là một hình thức của
chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Trong một nước tư bản chủ nghĩa, hợp tác xã là những tổ chức tư bản tập thể. Còn trong
điều kiện kinh tế mới - tức chính quyền Xô Viết, đã hình thành một loại xí nghiệp thứ ba, tức
là xí nghiệp hợp tác xã. Những xí nghiệp hợp tác xã này được coi là một hình thức của chủ
nghĩa tư bản nhà nước. Đặc trưng của xí nghiệp này là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư
nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống.
Lê nin chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư bản hợp tác xã khác với chủ nghĩa tư bản tư nhân ở chỗ
nó là một hình thái của chủ nghĩa tư bản nhà nước, vì vậy sẽ có lợi và có ích cho nước Nga ở
một mức độ nào đó, khi sử dụng nó. Đồng thời, cũng giống như chủ nghĩa tư bản nhà nước,
chủ nghĩa tư bản hợp tác xã cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên hiệp và tổ chức hàng
triệu người, sau đó là toàn thể dân chúng - đây là một điều rất có lợi cho việc quá độ từ chủ
nghĩa tư bản nhà nước lên chủ nghĩa xã hội.
Nhưng mặt khác, chế độ hợp tác xã dựa trên cơ sở tiểu công nghiệp, trên nền sản xuất
thủ công mà một bộ phận thậm chí còn có tính gia trưởng. Chính quyền có thể quan hệ với
hàng ngàn, thậm chí hàng triệu tiểu chủ song lại không yêu cầu hợp đồng với thời hạn thật là
chính xác. Chính vì vậy thủ tiêu một đạo luật về hơp tác xã dễ hơn nhiều so với việc bãi bỏ
một hợp đồng tô nhượng, nhưng nó lại không thể thủ tiêu được các mối quan hệ kinh tế đang
có giữa chính quyền Xô Viết vơí hàng triệu các nhà tư bản nhỏ. Ngoài ra, việc chuyển từ chế
độ hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội là việc chuyển từ tiểu sản
xuất lên đại sản xuất. Vì vậy, đây là một bước quá độ phức tạp hơn, nhưng thành công của nó
lại có thể bao gồm được những khối quần chúng nhân dân lao động đông đảo hơn, do vậy, nó
nhổ được những gốc rễ sâu xa hơn và dai dẳng hơn của những quan hệ cũ tiền xã hội cbủ
nghĩa thậm chí tiền tư bản chủ nghĩa. Sự thành công của chính sách hợp tác xã sẽ giúp nền
kinh tế nhỏ phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế từ sản xuất nhỏ quá độ trong
một thời gian không nhất định lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp.
3.3. Hình thức đại lý uỷ thác.
Nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách là một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa
hồng để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ, trên cơ sở
đó theo dõi tình hình sản xuất và phân phối sản phẩm. Cuối cùng với chính sách cho phép mở
rộng trao đổi hàng hoá giữa thành thị với nông thôn, giữa công nghiệp với nông nghiệp, củng
cố lại lưu thông tiền tệ, hình thức kinh tế này cũng đã có những bước phát triển mới trong giai
đoạn này.
3.4. Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất.
Hình thức này giống hình thức tô nhượng, nhưng đối tượng tô nhượng không phải là tư
bản nước ngoài mà là tư bản trong nước. Hình thức này được coi là hình thức riêng biệt để
phân biệt nó với hình thức tương tự nhưng đối tượng thuê là tư bản trong nước.
3.5. Cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ.
Qua thực tiễn vùng mỏ Đôn bat, Lê nin rút ra một hình thức nữa của chủ nghĩa tư bản
nhà nước: cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ. Đây cũng là kiểu cho thuê nhưng đối tượng
thuê - theo cách nói của Lê nin - là những tiểu tư bản. Qua việc làm này, Lê nin rút ra hai kết
luận - một hiện tượng ngược đời: chính ở những hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê, sản xuất lại
đặc biệt phát triển hơn là những xí nghiệp lớn nhất trước kia là của tư bản, ngang hàng với
những xí nghiệp tư bản ở Tây Âu. Những quan hệ của chủ nghĩa tư bản nhà nước được phát
triển. Những nông dân này hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nước (gần 30% số than khai
thác được) . Có thể nói hình thức này của chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng có những vai trò
nhất định, đóng góp đáng kể cho công cuộc khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga thời bấy giờ.
3.6. Công ty hợp doanh.
Hình thức này được đề cập trong báo cáo tại Đại hội IV Quốc tế vô sản, Lê nin đã nói
về những thành tựu đạt được do sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Khi nói về lĩnh vực
thương nghiệp, chính quyền Xô Viết đang cố gắng lập ra những công ty hợp doanh và đã
thành lập được theo thể thức tiền vốn một phần là của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư bản
nước ngoài và một phần là của chính quyền Xô Viết.
4. Những điều kiện để sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Qua các phần nghiên cứu trên, chúng ta đã thấy được tính tất yếu phải sử dụng chủ
nghĩa tư bản nhà nước, vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng như những hình thức cụ
thể để áp dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nhưng, để sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản
nhà nước, cần phải làm như thế nào, cần có những điều kiện gì ?. Trong hệ thống chính sách
“ Kinh tế mới ” Lê nin đã nêu rõ những điều kiện cần thiết để sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa
tư bản nhà nước.
Trước hết, việc áp dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước đòi hỏi phải có sự kiểm kê, kiểm
soát của nhà nước đối với các hoạt động của các doanh nghiệp. Điều này được thực hiện với
điều kiện là chính quyền nhà nước nằm trong tay giai cấp công nhân. Và nhà nước cần phải
quy định khuôn khổ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Như Lê nin nói: “ Nếu
nhà nước công nhân nắm lấy công xưởng, nhà máy và đường sắt thì chúng ta không sợ gì chủ
nghĩa tư bản ấy”. Như vậy, vấn đề là ở chỗ Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải kiểm soát ngăn
chặn bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản nhà nước và
phải làm cho nó phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Mặt khác, chủ nghĩa tư bản nhà
nước do không đồng nghĩa với hoà bình giai cấp nên tất yếu nhà nước phải đứng ra để bảo vệ
lợi ích của nhân dân lao động thông qua việc kiểm kê, kiểm soát nhằm giảm sự đối lập về lợi
ích giai cấp - một điều mang tính chất tất yếu tồn tại trong hình thức này.
Đồng thời để chủ nghĩa tư bản nhà nước có thể tồn tại và phát triển được thì ở nước Nga
lúc này phải thành lập được những hình thức sở hữu hỗn hợp và sở hữu trong các doanh
nghiệp. Lý luận về chủ nghĩa tư bản của Lê nin cũng đã cùng lúc đặt ra yêu cầu mới trong
nhận thức về chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ. Theo Lê nin thì chế độ sở hữu mang tính
chất phổ biến trong thời kỳ quá độ là chế độ sở hữu hỗn hợp với rất nhiều hình thức, trong đó
nhà nước trực tiếp khống chế những cơ sở kinh tế nào đó của mọi loại hình sở hữu. Vì vậy,
ngay cả một cơ sở kinh tế thuộc sở hữu toàn dân cũng có thể tồn tại và hoạt động được dưới
hình thức sở hữu hỗn hợp, kể cả với tư bản nước ngoài trong đó nhà nước nắm địa vị khống
chế. Thực hiện chế độ sở hữu hỗn hợp đa dạng chính là thực hiện dân chủ về mặt kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là cơ sỏ cho việc thành lập những
hình thức sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước với tư bản trong và ngoài nước, và cũng là điều kiện
để cho chủ nghĩa tư bản nhà nước được áp dụng thành công.
5. Kết quả thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước thời Lê nin.
Qua các tài liệu thì chính sách “ Kinh tế mới ” nói chung, chủ nghĩa tư bản nhà nước nói
riêng đã đem lại cho nước Nga Xô Viết những kết quả nhất định, góp phần làm sống động
nền kinh tế nước Nga - nền kinh tế đã bị suy sụp rất nhiều sau chiến tranh.
Kết quả chủ yếu và quan trọng nhất là tình hình giai cấp nông dân đã được cải thiện một
cách đáng kể. Từ chỗ đói kém, nông dân bất bình, dẫn đến bạo loạn vậy mà chỉ sau một năm
nông dân chẳng những đã có đủ lương thực mà còn nộp thuế cho nhà nước hàng trăm triệu
put. Nông dân đã hài lòng với tình hình của họ. Công nghiệp cũng đang trên đà phát triển, đời
sống của công nhân đã được cải thiện, tình trạng bất mãn của công nhân không còn.
Công nghiệp nặng tuy vẫn còn nhiều khó khăn song cũng đã có những bước phát triển
nhất định. Tuy nhiên chính sách tô nhượng cho đến lúc ấy (1922) vẫn chưa có một tô nhượng
sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Nhưng thông qua chính sách “ Kinh tế mới “ mà đã thu
hút được một số vốn lớn hơn 20 triệu rúp vàng.
Riêng về chủ nghĩa tư bản nhà nước, nhìn chung đã mang lại cho nước Nga những tác
dụng tích cực. Nhờ tô nhượng với nước ngoài, nhiều ngành công nghiệp quan trọng (đặc biệt
khai thác dầu) đã phát triển, nhiều kinh nghiệm tiên tiến, với kỹ thuật, thiết bị hiện đại của
nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa đã được đưa vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả cao.
Tô nhượng cùng các công ty hợp doanh đã góp phần phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thêm
dự trữ ngoại tệ cho đất nước, mở rộng các quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế trong các lĩnh
vực đầu tư sản xuất, chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các nước
tư bản phương Tây. Thông qua các hoạt động của các công ty hợp doanh, những người cộng
sản Nga còn có thể thực sự học cách buôn bán, điều mà bấy giờ Lê nin thường nói là rất quan
trọng. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp đã góp phần giúp nhà
nước Xô Viết duy trì sự hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản
phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý thương nghiệp và các hợp tác
xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần quan trọng
trong việc hỗ trợ thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông
hàng hoá tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu
nông, nối liền quan hệ trao đổi công - nông nghiệp, thành thị - nông thôn. Chính bởi vậy, có
thể nói chủ nghĩa tư bản nhà nước đã góp phần không nhỏ vào việc khôi phục và phát triển
kinh tế nước Nga sau chiến tranh.
Tuy nhiên, so với những mong muốn và mục tiêu mà Lê nin đặt ra thì những thành tựu
của chủ nghĩa tư bản nhà nước đã đạt được ở Nga vẫn còn rất thấp. Điều đó do nhiều nguyên
nhân gây nên trong đó có phần bởi chủ nghĩa tư bản đế quốc vẫn tìm mọi cách bóp chết chính
quyền Xô Viết về mặt kinh tế nên sự hợp tác đầu tư không được như mong muốn. Với tư
cách là một thành phần kinh tế song tỷ trọng của kinh tế tư bản nhà nước trong tổng sản phẩm
của cả nước mới chỉ đạt khoảng 1% trong suốt giai đoạn 1923 - 1924. Năm 1923, các xí
nghiệp tô nhượng mới sản xuất được khối lượng sản phẩm là 35,1 triệu rúp.
Nhưng hiện thực đó cũng không thể phủ nhận tính đúng đắn của lý luận của Lê nin về
chủ nghĩa tư bản nhà nước. Có thể nói lý luận đó trong hệ thống chính sách “ Kinh tế mới “ là
một trong những di sản quý giá nhất mà Người để lại cho chúng ta. Và, nhờ chính sách “
Kinh tế mới ” mà chính quyền Xô Viết đã có những bước tiến vững chắc trong nông nghiệp
và công nghiệp. Nông dân vừa lòng, công nghiệp cũng như thương nghiệp đang hồi sinh và
phát triển. Vì vậy,việc nghiên cứu sâu sắc tư tưởng đó của Lê nin có ý nghĩa thiết thực đối với
chúng ta, giúp chúng ta xác định rõ phương tiện cũng như con đường thực hiện định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
II. Sự vận dụng lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nước ta hiện nay.
1. Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay.
1.1. Tính tất yếu khách quan của việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở
nước ta hiện nay.
Để thấy rõ tính khách quan của việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước
ta hiện nay chúng ta cần phải nắm được đặc điểm cũng như trình độ của nền kinh tế nước ta.
Có thể nói nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với gần 80% dân số
tham gia hoạt động nông nghiêp với kỹ thuật thô sơ là phổ biến. Công nghiệp nhỏ bé, thương
nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ chưa phát triển. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang
lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
với mục đích đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp
tiên tiến, hiện đại, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới ấy, nền kinh
tê nước ta cũng được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của
nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ấy, Đảng ta
đã xác định kinh tế tư bản nhà nước là một trong năm thành phần kinh tế cơ bản. Đó là một
chủ trương đúng đắn, tất yếu của Đảng và nhà nước ta vì những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, như trên đã nói, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền
kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó tất yếu tồn tại thành phần kinh tế tư
bản tư nhân. Mặt khác, với chính sách khuyến khích tự do trao đổi hàng hoá, khuyến khích
làm giàu chính đáng, tất yếu sẽ nảy sinh một tầng lớp tư sản mới. Không thể dùng sắc lệnh để
loại bỏ được thành phần kinh tế này, cách tốt nhất là hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư
bản nhà nước. Như vậy, sự tồn tại của kinh tế tư bản nhà nước vừa mang tính tất yếu khách
quan vừa như là một sách lược kinh tế của nhà nước ta để định hướng cho các thành phần
kinh tế khác (tiêu biểu là thành phần kinh tế tư bản tư nhân) đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai,ở một nước mà nền tiểu sản xuất chiếm ưu thế như nước ta thì không thể trực
tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Do đó chúng ta phải sử dụng kinh tế tư bản nhà nước
như một sách lược kinh tế. Hay nói cách khác chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là mắt xích trung
gian giữa nền tiểu sản xuất va chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp
phương thức để tăng lực lượng sản xuất. Lê nin đã từng nói: “ trong một nước tiểu nông trước
hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội ”. Sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước sẽ giúp chúng ta
phát triển lực lượng sản xuất vì kinh tế tư bản nhà nước có ưu thế về vốn, kỹ thuật và công
nghệ cũng như những kinh nghiệm và biện pháp quản lý kinh tế tiên tiến. Thông qua hình
thức hơp tác, đầu tư với tư bản trong và ngoài nước, chúng ta sẽ thu hút được vốn, kỹ thuật
công nghệ hiện đại.... Đặc biệt trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn
ra như vũ bão thì hình thức kinh tế tư bản nhà nước sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nguy cơ bị tụt
hậu. Bên cạnh đó, chúng ta còn học tập thêm được những phương pháp cũng như những kinh
nghiệm quý báu của các nhà tư bản nước ngoài trong quản lý kinh tế. Đó là những tiền đề hết
sức cần thiết để nước ta tiến hành thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Như vậy, sử dụng kinh tế tư bản nhà nước không những là một tất yếu khách quan
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà còn là một biện pháp để chúng ta tăng cường
phát triền lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó phát triển nhanh nền kinh tế để đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Thứ ba, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn phù hợp với xu thế quốc tế
hoá đang diễn ra trên toàn bộ thế giới và đặc biệt là khu vực Đông Nam á. Chúng ta sẽ không
thể phát triển được nếu không mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực và trên
thế giới kể cả các nước chủ nghĩa xã hội cũng như các nước tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, sự hợp
tác về kinh tế với các nước tư bản thông qua hình thữc kinh tế tư bản nhà nước là một tất yếu
trong quá trình mở rộng sự hợp tác phát triển trên mọi lĩnh vực.
Từ tất cả các điều trên có thể kết luận rằng ở nước ta hiện nay, việc sử dụng hình thức
kinh tế tư bản nhà nước là một tất yếu khách quan. Sử dụng kinh tế tư bản nhà nước sẽ là điều
kiện cần thiết để khắc chế tính tự phát trong sản xuất và chế độ sản xuất phân tán kém hiệu
quả của kinh tế sản xuất nhỏ, nhằm khai thác tối đa tiềm năng để tập trung cho các nguồn lực
hướng về mục tiêu kinh tế - xã hội cao nhất như công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
các chương trình kinh tế lớn khác. Hơn nữa, tố chất cạnh tranh vốn có của hình thái kinh tế tư
bản chủ nghĩa sẽ như chất xúc tác cho một môi trường kinh tế cạnh tranh sôi động, giúp cho
tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội có một sự nhận thức về bản thân mình đúng hơn, ý
thức hơn về nhu cầu tồn tại trong phát triển xã hội, và do đó sẽ đáp ứng sản phẩm tốt hơn cho
người tiêu dùng. Một hệ quả hết sức quan trọng của sự phối hợp kinh tế trong nước với nhau
và trong nước với nước ngoài là sự giao lưu và tăng trưởng trí tuệ, kiến thức xã hội và do đó
thúc đẩy mặt bằng học vấn kinh tế xã hội được nâng cao. Chính vì tất cả những lý do trên mà
Đảng và Nhà nước ta đã áp dụng một cách rộng rãi, phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà
nước để phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ VIII viết: “ Kinh tế tư bản nhà nước bao gổm các hình thức hợp tác liên doanh
giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà
nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động
viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghê, khả năng tổ chữc quản lý.... của các nhà tư bản vì
lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước... ”.
2.1. Những khả năng sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta.
Như vậy, qua phần phân tích trên ta thấy rõ tính tất yếu của việc sử dụng hình thức kinh
tế tư bản nhà nước ở nước ta. Nhưng chúng ta sẽ vận dụng như thế nào? Liệu nước ta có đủ
điều kiện và khả năng để sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước hay không?
Lý luận của Lê nin đã chỉ rõ, để sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước thì
trước hết, chính quyền nhà nước phải nằm trong tay giai cấp công nhân. ở nước ta hiện nay,
Đảng Cộng sản - Đảng tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang giữ vai
trò lãnh đạo. Toàn thể nhân dân ta đều tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và đang nỗ lực
phấn đấu để đưa đất nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, đây là điều kiện đầu tiên
quan trọng nhất để sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước. Đây là một điều kiện rất quan trọng để phát triển kinh tế tư nhân trong
nước cũng như nước ngoài trên cơ sở đó vận dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước như:
liên doanh, liên kết giữa nhà nước và tư bản tư nhân trong nước và liên doanh, liên kết giứa
nhà nước và tư bản tư nhân nước ngoài....
Thứ ba, về mặt luật pháp, chúng ta đã ban hành và đang tiếp tục hoàn thiện hành lang
pháp lý về thành phần kinh tế tư nhân trong nước, liên doanh giữa nhà nước và kinh tế tư bản
tư nhân trong nước, về đầu tư nước ngoài cũng như liên doanh giữa nhà nước và nước
ngoài....
Không những thế, những xu thế quốc tế hiện nay cũng tạo cho nước ta những thuận lợi
nhất định. Trước hết, đó là xu thế hoà bình, hợp tác quốc tế trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Khác với thời kỳ chiến tranh lạnh trước kia, ngày nay, Việt Nam mong muốn làm bạn với tất
cả các nước, cùng hợp tác trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Đây không chỉ là mong
muốn của nước ta mà đã là sách lược của tất cả các nước trong khu vực và hầu hết các nước
trên thế giới. Xu thế này tạo điều kiện rất thuận lợi để chúng ta kêu gọi, thu hút các nguồn
vốn đầu tư nước ngoài.
Cùng với xu thế hợp tác là xu thế quốc tế hoá. Quá trình quốc tế hoá đang diễn ra hết
sức mạnh mẽ trong khu vực cũng như toàn thế giới tác động rất mạnh mẽ đến nền kinh tế
nước ta. Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào có thể tồn tại độc lập, riêng rẽ mà
phải nằm trong mối quan hệ với các quốc gia khác, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Có thể
nói nền kinh tế của một quốc gia ngày nay nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế
thế giới, nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, kinh tế tư bản nhà nước đặc biệt là liên kết giữa
nhà nước và tư bản nước ngoài sẽ tạo điều kiện để nước ta gia nhập và là một bộ phận trong
nền kinh tế đó để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu.
Như vậy, nước ta có đầy đủ khả năng và điều kiện để vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước kể cả về mặt kinh tế cũng như chính trị, xã hội, luật pháp và xu hướng quốc tế. Điều
quan trọng nhất hiện nay là chúng ta phải vận dụng tốt lý luận của Lê- nin vào tình hình cụ
thể của nước ta để thu được hiệu quả cao.
2. Những hình thức cụ thể của kinh tế tư bản nhà nước đang được vận dụng ở nước
ta.
Để có thể vận dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta một mặt chúng ta
không thể xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mac - Lê-nin, mặt khác, chúng ta cũng
không thể rập khuôn máy móc hay mô phỏng một cách giáo điều mô hình kinh tế của nước
Nga những năm 20. Vì vậy, chúng ta cần phải nẵm vững những tư tưởng mà Lê nin đã nêu ra
đồng thời dựa trên tình hình thực tế của nước ta để vận dụng lý luận đó sao cho có hiệu quả
nhất. áp dụng máy móc hoặc xa rời chủ nghĩa Mac- Lê- nin trong tổ chức và thực hiện đều là
sai lầm không thể chấp nhận được.
Từ quan điểm của Lê nin và căn cứ vào thực tiễn nước ta trong bối cảnh hiện nay có thể
xác định các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước cần vận dụng ở nước ta như sau:
2.1. Hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân trong nước.
Thông qua sự liên doanh, liên kết giữa nhà nước và các chủ thể sở hữu ngoài quốc
doanh ỏ trong nước, nhà nước có thể huy động vốn được nhiều, đổi mới kỹ thuật và quy trình
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường.... Đồng thời, phía nhà nước
cũng dễ dàng thực hiện được sự kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết sự phát triển để thúc
đẩy cải cách cơ cấu kinh tế và cơ cấu sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị trường trong
nước và quốc tế, cấu trúc lại nền kinh tế.
Trước đây, hình thức này gọi là “ công tư hợp doanh ” nhưng chúng ta mới chỉ áp dụng
một cách hạn chế với chủ trương cốt để cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm sớm đi đến xoá bỏ
kinh tế tư bản tư nhân. Nay, trên cơ sở quan điểm thừa nhận các thành phần kinh tế còn tồn
tại và phát triển lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hình thức này cần được sử
dụng và phát triển phong phú và đa dạng hơn.
Tính đến nay, nước ta đã có khá nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân.
Quy mô của đa số những doanh nghiệp này còn rất nhỏ bé, lại dàn trải ở các ngành kinh tế
dịch vụ, nông lâm -ngư- nghiệp xây dựng và chỉ chiếm trên 9% GDP của cả nước. Để phát
huy thế mạnh của thành phần kinh tế này, bên cạnh việc tạo điều kiện cho thành phần kinh tế
tư bản tư nhân phát triển, cần khuyến khích nó liên doanh, liên kết với kinh tế nhà nước, qua
đó mà tăng vốn, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, tăng sức cạnh tranh và tăng
khả năng hợp tác với nước ngoài. Đây là một đòi hỏi bức xúc của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Trong thời gian qua, nước ta đã áp dụng các phương thức góp vốn liên doanh giữa nhà
nước với các nhà tư bản để hình thành các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
nhưng trong tổ chức vẫn còn những trở ngại. Để mở rộng hình thức này, một mặt cần tiếp tục
hoàn thiện cơ sở pháp lý, mặt khác, đẩy mạnh hơn nữa cổ phần hoá một bộ phận các doanh
nghiệp nhà nước, phát triển các loại hình các công ty cổ phần, có quy chế tạo khả năng lưu
hành rộng rãi cổ phiếu, phát triển thị trường chứng khoán, hoàn thiện các yếu tố của nền kinh
tế thị trường.
2.2. Hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân nước ngoài.
Trong lý luận của mình về chủ nghĩa tư bản nhà nước, Lê nin đã chỉ rõ việc sử dụng
vốn, các chuyên gia tư sản nước ngoài vào phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là hết sức quan trọng. Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế mới, các nước đang và
mới phát triển có cơ hội sớm đi tới một nền kinh tế hiện đại thông qua nhiều con đường như
học hỏi, tiếp nhận chuyển giao công nghệ... của các nước phát triển. Chính vì vậy, đối với
nước ta hình thức liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân nước ngoài sẽ giúp
chúng ta phát triển sản xuất trong nước, rút ngắn khoảng cách lạc hậu giữa nước ta với các
nước trong khu vực.
Hiện nay, liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài có hai hình thức. Đó là
các công ty liên doanh giữa nhà nước và tư bản nước ngoài và các công ty 100% vốn nước
ngoài. Thông qua các hình thức này, Nhà nước thu hút và cho phép các nhà tư bản và công ty
nước ngoài đầu tư vào trong nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, ta có thể
tiếp thu những công nghệ sản xuất tiên tiến của nước ngoài, học tập được các phương thức và
kinh nghiệm quản lý hiện đại - những kiến thức mà hiện nay chúng ta rất yếu và rất thiếu.
Hơn nữa, thông qua hình thức này, chúng ta có thể sản xuất được nhiều mặt hàng cao cấp mà
trong nước chưa sản xuất được, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá
trong nước.
Hiện nay, ở nước ta, các hình thức này đang được triển khai tích cực. Tính đến tháng 7
năm 1997, trong cả nước đã có 2067 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép hoạt động
với số vốn đăng ký 31,3 tỷ USD. Ngoài ra những năm gần đây các nhà tài trợ nước ngoài đã
dành cho Việt Nam một khoản tài trợ đáng kể, mỗi năm trên dưới 2 tỷ USD. Đây là một bộ
phận rất quan trọng của kinh tế tư bản nhà nước được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và
có nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện cho nó phát triển. Các xí nghiệp liên doanh này cần
đầu tư khá đa dạng vào các lĩnh vực khác nhau từ công nghiệp cho tới dịch vụ. Khu vực này
đã góp phần rất đáng kể vào định hướng xây dựng cơ cấu kinh tế thiên về xuất khẩu thu ngoại
tệ ở Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước. Không những thế
khu vực này đã tạo ra nhiều ngành nghề và sản phẩm mới cho xã hội, tăng năng lực sản xuất
xã hội và công nghệ mới, hiện đại cho nhiều ngành then chốt như: khai thác dầu khí, khí đốt,
sản xuất sắt thép, sản xuất xi măng,.... Trên cơ sở đó đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu
hút nhiều lao động xã hội có mức thu nhập bình quân cao đồng thời góp phần đào tạo nhiều
cán bộ có năng lực làm việc tốt. Cuối cùng, cũng như các loại hình kinh tế tư bản nhà nước
khác, khu vực kinh tế này tạo môi trường thuận lợi cho chúng ta tiếp thu tốt công nghệ, kỹ
thuật tiên tiến nhất, kinh nghiệm tổ chức tiến bộ nhất. Do đó kinh tế tư bản nhà nước trong
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển đất
nước. Tuy nhiên, để hình thức này đạt hiệu quả cao, chúng ta cần chú ý tập trung vào những
ngành đòi hỏi có kỹ thuật cao, những ngành mũi nhọn mà khả năng trong nước chưa thể sản
xuất được, đồng thời nhà nước phải nắm cổ phần lớn để có thể kiểm soát hoạt động của các
doanh nghiệp này theo đúng đường lối của Nhà nước.
2.3. Hình thức gia công đặt hàng.
Hình thức này áp dụng trong các ngành sản xuất vật chất. Thông qua hình thức này, Nhà
nước đặt hàng với các nhà tư bản trong và ngoài nước hoặc các doanh nghiệp nhà nước nhận
gia công cho các công ty nước ngoài. Hình thức này với những chính sách phù hợp cũng đang
mang lại những kết quả khả quan ở Việt Nam trong những năm gần đây. Do đặc điểm của lực
lượng lao động ở Việt Nam là dổi dào với giá nhân công rẻ, lao động khéo léo, chăm chỉ nên
nhiều đơn vị nước ngoài đã quan tâm và thực hiện liên doanh, liên kết với các đơn vị kinh tế
thuộc sở hữu nhà nước dưới hình thức gia công, đặt hàng tham gia sản xuất một số công đoạn
trong dây chuyền chế tạo. Điều này cũng phù hợp với xu thế quốc tế hoá và chính sách mở
cửa ở Việt Nam hiện nay, tạo điều kiện giải quyết việc làm, đúc rút kinh nghiệm về quản lý
và cạnh tranh cho các đơn vị trong nước. Ngoài ra, trong hình thức gia công đặt hàng này còn
có hình thức các đơn vị tham gia sản xuất kinh doanh theo đơn đặt hàng của nhà nước, cũng
có những vai trò nhất định đối với sự nghiệp phát triển kinh tế.
2.4. Khu chế xuất.
Khu chế xuất về thực chất được coi là các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Tại
đây không phải chỉ có một loại hình kinh tế tư bản nhà nước đơn độc, thuần tuý mà có nhiều
hình thức cụ thể, bao gồm cả hình thức tô nhượng, liên doanh, cho tư bản nước ngoài thuê. ở
Việt Nam hiện nay, kể từ ngày thành lập khu chế xuất đầu tiên 25/12/1981, bên cạnh 45 khu
công nghiệp còn có 3 khu chế xuất. Với việc phát triển nhanh về quy mô và số lượng các khu
công nghiệp, khu chế xuất, Việt Nam không chỉ giải quyết được một số lượng lớn lao động có
việc làm mà các khu công nghiệp, khu chế xuất này còn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tham gia vào quá trình hợp lý hoá, quy hoạch hoá đô
thị và bảo vệ môi trường. Do đó, các khu công nghiệp, khu chế xuất này đã góp phần biến
những vùng chậm phát triển có mức sống thấp thành những khu đô thị có cơ sở hạ tầng tốt, số
người dân có công ăn việc làm và thu nhập ổn định tăng lên.
Tuy nhiên, để góp phần phát triển có hiệu quả các loại hình khu công nghiệp, khu chế
xuất chũng ta cần tạo điều kiện như quy hoạch, phát triển theo từng địa phương hay theo từng
ngành nghề, trao thêm quyền tự chủ cho các ban quản lý khu chế xuất, thành lập các trung
tâm đào tạo nghề có hiệu quả phục vụ cho các khu chế xuất, có những ưu đãi về thuế.... để nó
có thể thể hiện đầy đủ những ưu điểm của kinh tế tư bản nhà nước.
2.5. Nhà nước cho tư bản trong và ngoài nước thuê các cơ sở sản xuất kinh doanh và
các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân.
Hiện nay ỏ nước ta do ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân cho nên các căn hộ -
với tính cách là đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp hiện nay - chỉ có quyền sử dụng mà
không có quyền sở hữu. Do vậy, đây cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Chỉ riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, trên cơ sở tư liệu sản xuất cơ bản thuộc sở hữu toàn
dân, chúng ta có chế độ kinh doanh hỗn hợp giữa nhà nước với hộ cá thể. Đây là một hình
thức kinh tế được nhà nước ta quan tâm và tạo điều kiện để phát triển nhằm cải thiện đời sống
của nhân dân phát huy được nội lực để phát triển kinh tế.
Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, mà trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, ta cũng
có thể triển khai hình thức này thông qua đấu thầu một số cơ sở vật chất của các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, thực hiện các hợp đồng ký kết giữa nhà nước ta với
các nhà tư bản trong và ngoài nước. So với tô nhượng, hình thức cho thuê kinh doanh khác ở
hai điểm: thứ nhất, thời gian hợp đồng thường ngắn hơn; thứ hai, đối tượng chủ yếu cho thuê
kinh doanh không phải chủ yếu là quyền sử dụng đất mà chủ yếu là các hầm mỏ, khu rừng, xí
nghiệp, cửa hàng... Thông qua phát triển hình thức này mà mở rộng một số ngành và lĩnh vực
kinh tế, đồng thời Nhà nước có điều kiện để tập trung vốn đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực
trọng yếu, then chốt nhằm tăng cường vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.
2.6.Các tổ chức hợp tác với tính cách là các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
Các cá thể tập hợp nhau lại và cùng tham gia vào sản xuất kinh doanh - đó là loại hình
kinh tế hợp tác. Nhưng trên thực tế còn xuất hiện những tổ chức hợp tác khác nữa mà ta có
thể coi đó là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Đó là các tổ chức hợp tác như kinh doanh liên hộ, tổ hợp dịch vụ, tổ hợp chế biến, cung
ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... Những tổ chức hợp tác này có sử dụng đất đai của sở hữu
toàn dân, có vay vốn của Nhà nước, và nhất là có sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước, thì với
quan niệm rộng theo tư tưởng của Lê-nin đó cũng là hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà
nước. Hình thức này thể hiện rõ nét nhất trong chế độ kinh doanh hỗn hợp giữa nhà nước với
tập thể trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, chúng ta cần nắm lấy hình thức này
để phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung và xã hội hoá sản xuất nông nghiệp nói riêng.
2.7. Một số hình thức khác mới bắt đầu áp dụng ở Việt Nam.
Hiện một số lượng không nhỏ những công ty cổ phần. Việc cổ phần hoá các xí nghiệp
quốc doanh hiện nay là chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu hỗn hợp là làm gọn nhẹ, tối
ưu các thành phần kinh tế quốc doanh, tăng thành phần kinh tế cá thể, tập thể, tư nhân. Đây là
giải pháp nhằm thoát khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ của các xí nghiệp quốc doanh, tránh được
tình trạng thất thoát tài sản, lãng phí dưới nhiều hình thức, nâng cao trách nhiệm của người
lao động cũng như nâng cao được trình độ quản lý... Tất nhiên, chúng ta vẫn phải củng cố các
xí nghiệp quốc doanh, nhất là những đơn vị có vị trí quan trọng trong nền kinh tế cũng như
xác định mức cổ phần thích hợp trong từng loại đơn vị cổ phần. Cổ phần hoá các xí nghiệp
nhà nước đang trở nên phổ biến và đem lại kết quả rõ rệt ở hầu hết các nước trên thế giới.
Đây cũng là xu thế tất yếu của nước ta. Tuy nhiên, ở nước ta, cái khó hiện nay là sản xuất
chưa ổn định, lạm phát vẫn còn cao, số đông người lao động không có vốn để góp cổ phần.
Những người có khả năng về vốn trong lúc này chưa dám mạo hiểm bỏ tiền ra mua cổ phần
mà gửi tiết kiệm lấy lãi hoặc kinh doanh thương nghiệp còn chắc chắn hơn. Để khắc phục trở
ngại này, việc cổ phần hoá xí nghiệp quốc doanh cầc có chủ trương, bước đi phù hợp với thực
trạng kinh tế - xã hội của đất nước.
Cho đến thời điểm này, ở nước ta đã xuất hiện hình thức đại lý bao gồm nhiều hình thức
khác nhau, nhưng một bộ phận quan trọng đó là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước
do dựa trên việc nhận làm đại lí cho một đơn vị kinh tế nước ngoài hoặc của một đơn vị kinh
tế nhà nước. Hình thức này phổ biến trong các mặt hàng mà nói chung chúng ta chưa có khả
năng sản xuất nhưng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Trong quá trình mở cửa và hội
nhập với thế giới, hình thức đại lý cũng là một hình thức được tạo điều kiện để phát triển bởi
nó có tác dụng thúc đẩy việc tìm tòi trong sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của các đơn vị
kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
Đặc khu kinh tế là một vùng lãnh thổ quốc gia mà trên đó người ta áp dụng các chế độ
đặc biệt đối với các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thức này tuy khá quen thuộc với một số
nước xã hội chủ nghĩa trước đây và hiện nay song ở Việt Nam vẫn còn khá mới mẻ và chưa
được xây dựng. Đó cũng là một hướng đi cần chúng ta tiếp tục nghiên cứu.
3. Phương hướng và những điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản nhà
nước vào nước ta.
3.1. Phương hướng vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nước ta.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước không chỉ là một thành phần cơ bản trong các thành
phần kinh tế hiện nay ở nước ta mà còn có vai trò rất quan trọng, đóng góp rất lớn vào sự
nghiệp xây dựng đất nước. Lực lượng kinh tế tư bản nhà nước đã đầu tư thăm dò và khai thác
dầu khí, khai khoáng, giao thông vận tải và bưu điện viễn thông, điện tử, hoá chất, nông- lâm-
ngư nghiệp, may mặc xuất khẩu, công nghiệp nặng, hàng tiêu dùng, dịch vụ, khách sạn, du
lịch, xây dựng nhà ở, tài chính, tín dụng và một số ngành khác. Các xí nghiệp liên doanh và
hợp doanh với nước ngoài đã thu hút khoản gần 14,2 nghìn lao động trực tiếp sản xuất và
hàng vạn lao động vệ tinh khác. Chúng đã có những đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng
của nền kinh tế, đặc biệt là góp phần từng bước cân bằng cán cân ngoại thương, tạo điều kiện
cho chúng ta học tập kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp của các nước.
Nhưng trong quá trình phát ttiển, lực lượng kinh tế này cũng đã bộc lộ một số hạn chế,
khiếm khuyết như: các dự án đầu tư có quy mô nhỏ lại chủ yếu đầu tư vào những ngành có
thể đêm lại lợi nhuận ngay và thu hồi vốn nhanh, ít đầu tư vào những ngành có công nghệ cao
- ngành mà chúng ta đang thiếu; vốn đầu tư chủ yếu tập trung ở phía nam đặc biệt là thành
phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu; thủ tục đầu tư còn nhiều vướng mắc, trình
độ của lao động kỹ thuật còn hạn chế...... Chính vì vậy chúng ta phải có những phương hướng
để nâng cao hiệu quả của thành phần kinh tế này.
Muốn tạo điều kiện để cho kinh tế tư bản nhà nước ở Việt Nam phát triển theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta đã đề ra phương hướng trong văn kiện đại
hội Đảng VIII như sau: “ Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút
có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động trong các xí nghiệp hợp tác, liên doanh. “ Đối với các nhà đầu tư trong nước: “ áp
dụng nhiều phương thức góp vốn liên doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân
trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác
và cạnh tranh với bên ngoài. “ Chỉ có vậy tư bản nước ngoài mới yên tâm đầu tư vào nước ta
cũng như các nhà đầu tư trong nước có thể yên tâm đầu tư, thay thế, sử dụng những trang
thiết bị hiện đại. Đó chính là phương hướng để phát huy được những ưu việt của thành phần
kinh tế này. Cụ thể phương hướng phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước như sau:
Thứ nhất, đối với đầu tư nước ngoài: Chúng ta cần chủ động tạo điều kiện như cải thiện
môi trường đầu tư, giảm bớt các thủ tục hành chính, tạo nhiều ưu đãi... và bằng nhiều hình
thức khác nữa để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư của các nhà tư bản nước ngoài. Bên
cạnh đó, nhà nước ta phải dùng các biện pháp, chính sách hợp lý để thu hút vốn đầu tư đó vào
những ngành mũi nhọn, công nghệ cao có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và khu vực
mà nước ta chưa thể tự sản xuất được như: điện tử - tin học.... Đối với các liên doanh, cần
tăng cường sức mạnh về vốn của đối tác phía Việt Nam (để thông qua đó có thể thực hiện
được sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước) . Muốn làm được như vậy, ta có thể thông qua sự
hợp vốn giữa Nhà nước với các nhà tư sản dân tộc để trở thành một đối tác cần thiết với các
nhà tư sản nước ngoài.
Thứ hai, sự hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân trong nước được tập trung phát triển vào
một số hướng ưu tiên như sau:
Phát triển các doanh nghiệp chế biến từ nguyên liệu nông, lâm, hải sản và doanh nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng với công nghệ thích hợp, thu hút nhiều lao động, thu hồi vốn nhanh,
có mức doanh lợi hấp dẫn phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Mở rộng sản xuất, hiện đại hoá công nghệ ở những doanh nghiệp Nhà nước hiện có
dưới hình thức góp vốn cổ phần của tư nhân trong nước.
Tuy nhiên, trong sự hợp tác ấy nhà nước luôn phải giữ một tỷ lệ vốn nhất định để có thể
hướng sự phát triển của doanh nghiệp theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cuối cùng,đất nước chúng ta vẫn đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho
nên mặc dù hình thức kinh tế tư bản nhà nước là một hình thức kinh tế mang tính chất tất yếu
song chúng ta cũng phải nhận thức được rằng đây không phải là thành phần kinh tế chủ đạo.
Vì vậy, một mặt chúng ta cần có những chính sách để khuyến khích thành phần kinh tế này
phát triển, nhưng mặt khác chúng ta cũng phải có những biện pháp cụ thể và có hiệu quả
nhằm làm cho thành phần kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo: “ làm đòn bẩy đẩy nhanh
tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành
phần khác cùng phát triển, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới “. Trong quá trình đa dạng hoá
các hình thức liên doanh, liên kết với các tổ chức và công ty tư bản nước ngoài, chúng ta cần
nâng cao tỷ lệ đầu tư của phía Việt Nam để phát huy khả năng kiểm kê, kiểm soát, cũng như
để đưa những đơn vị này phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, chúng
ta cũng cần áp dụng những phương thức thích hợp nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh
nghiệp trong nước phát triển, tăng sức cạnh tranh và có đủ điều kiện khả năng để hợp tác với
bên ngoài.
3.2. Điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nước ta
Điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất để có thể vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản
nhà nước vào nước ta là nâng cao vai trò lãnh đạo của nhà nước, mà vấn đề trọng tâm là củng
cố và tăng cường sức mạnh điều tiết kinh tế của nhà nước.Trước hết, cần tăng cường tiềm lực
kinh tế của nhà nước bằng nhiều biện pháp. Cần phát triển hơn nứa thành phần kinh tế nhà
nước, làm cho kinh tế nhà nước thực sự hoạt động có hiệu quả, phát huy tốt vai trò chủ đạo,
dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thứ hai, chúng ta cần phải nâng cao
năng lực điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Những công cụ quan trọng nhất cần được sử
dụng có hiệu quả là các chính sách tài chính, tiền tệ. Với công cụ này, Nhà nước có thể điều
tiết (khuyến khích hay hạn chế) sự phát triển của bất cứ doanh nghiệp nào. Hệ công cụ điều
tiết cụ thể ở đây là chính sách thuế, lãi suất, tỉ giá hối đoái. Không những thế, bộ máy nhà
nước cần được củng cố và đổi mới theo hướng đoạn tuyệt triệt để với các di sản của cơ chế
bao cấp, thay bộ máy quan liêu bằng bộ máy quản lý hoạt động theo nguyên tắc công nghiệp
và thị trường.
Như vậy, có thể nói, để sự phát triển “ đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước ” không
làm thay đổi gì bản chất chế độ xã hội ở nước ta, không đi ra ngoài quỹ đạo của định hướng
xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta cần được củng cố vững chắc, thật sự là của dân, do dân và vì
dân. Nhà nước cần nắm vững các đỉnh cao của nền kinh tế, nắm chắc các công cụ kinh tế vĩ
mô (đặc biệt là chính sách tài chính và tiền tệ) để điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Mặt khác, vai trò lãnh đạo của Đảng phải không ngừng được nâng cao. Đảng Cộng sản
Việt Nam là đảng cầm quyền, đại diện và lãnh đạo mọi tầng lớp nhân dân đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới đất nước
trong thời kỳ quá độ là vô cùng quan trọng, đặc biệt là đối với thành phần kinh tế tư bản nhà
nước nhằm giúp cho thành phần kinh tế này có đủ điều kiện để phát triển, song không đi
chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có vậy, chúng ta mới có thể vừa phát triển kinh tế vừa cải
thiện đời sống của nhân dân vừa kiên định đi theo chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, Đại hội Đảng
lần thứ VIII đã khẳng định: “ Đảng phải nghiêm túc xem xét những sai lầm, khuyết điểm và
yếu kém của mình, đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh
đạo... xác định trong giai đoạn hiện nay lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt ”.
Bên cạnh đó cần đẩy mạnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp, cũng như cải cách nền
hành chính quốc gia. Vấn đề này hiện nay đang là vấn đề cấp bách, quyết định đến việc ổn
định môi trường đầu tư, tạo nên sức thu hút vốn đầu tư. Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn
hiện nay đã rất quan tâm và đang từng bước tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật
pháp mặc dù cho đến thời điểm này vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, gây ảnh hưởng không
nhỏ đến việc phát triển thành phần kinh tế này. Việc cải cách nền hành chính quốc gia cũng
góp phần rất to lớn vào việc nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước pháp quyền nên cũng
cần được quan tâm để việc cải cách thực sự đạt kết quả như mong muốn.
Cuối cùng là việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
với nước ngoài là một tất yếu khách quan, vừa phù hợp với xu thế của thời đại vừa phù hợp
với nhu cầu rút ngắn quá trình phát triển của Việt Nam chúng ta. Thông qua việc gia nhập các
tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như WTO, AFTA, ASEAN... cũng như việc mở rộng quan
hệ với nước ngoài nhằm tranh thủ nắm bắt những ngành, những mũi nhọn gắn với công nghệ
mới, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới, giúp chúng ta nhanh chóng rút
ngắn khoảng cách về trình độ kinh tế so với thế giới, tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho
thành phần kinh tế tư bản nhà nước có điều kiện phát triển, đặc biệt là hình thức có thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và sản xuất hàng xuất khẩu.
Kết luận
Qua tất cả các phần đã nghiên cứu ở trên, chúng ta đã phần nào nắm được tư tưởng của
Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong hệ thống chính sách “ Kinh tế mới ” cũng như vai
trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước đối với thực tiễn hiện nay của nước ta.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự can thiệp một cách tích cực của nhà nước xã
hội chủ nghĩa vào quá trình kinh tế của các nhà tư bản. Nó khác hẳn chủ nghĩa tư bản nhà
nước trong thời kỳ còn tồn tại nhà nước tư sản. Tính chất hoạt động của nó đã thay đổi: nó
không chỉ chịu sự kiểm soát và chi phối của nhà nước xã hội chủ nghĩa mà còn hợp tác với
nhà nước xã hội chủ nghĩa để cùng sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, Lê nin đã cho rằng
việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước là “ bước đệm quan trọng để tiến tới chủ nghĩa xã hội
”. Và việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước “ sẽ đưa chúng ta tới chủ nghĩa xã hội bằng con
đường chắc chắn nhất ”.
Hiện nay, nước ta đang từng bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh mới.
Trong đường lối đổi mới của mình, chúng ta đã đặt kinh tế tư bản nhà nước đứng ở vị trí thứ
ba trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Như vậy, kinh tế tư bản nhà nước không chỉ được
coi như một thành phần kinh tế cùng tồn tại bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, mà nó
còn mang ý nghĩa như những “ nấc thang trung gian cần thiết ” để liên kết các thành phần
kinh tế tư bản tư nhân trong nước, kể cả tầng lớp tiểu tư sản hướng sự phát triển đó theo tay
lái Nhà nước XHCN. Với ý nghĩa như vậy, kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta không thể chỉ
coi như là một giải pháp mang tính chất tình thế mà là một nội dung tổng quát có ý nghĩa
chiến lược xuyên suốt thời kỳ quá độ cũng như quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Như vậy, có thể nói vận dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước chính là phương
thức để chúng ta huy động sức mạnh dân tộc, của các thành phần kinh tế nhằm giải phóng sức
sản xuất, kết hợp nội lực bên trong với các yếu tố bên ngoài để đưa nước ta thoát khỏi đói
nghèo, hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh như đại hội VIII
của Đảng đã khẳng định.
Tài liệu tham khảo
1. V.I. Lê nin: “ Bàn về thuế lương thực ”, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1984, tập 43.
2. V.I. Lê nin: “ Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các ban giáo dục chính trị ”.
Toàn tập - NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1984, tập 44.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia. 1996.
4. Vũ Hữu Ngoạn: “ Mấy vấn đề về chủ nghĩa tư bản nhà nước ” - NXB Chính trị quốc gia,
1996.
5. Tạp chí Cộng sản, số 8 tháng 7 năm 1995.
6. Vũ Ngọc Long: “ Về cuộc cải cách kinh tế của Lê nin ”, NXB Thanh niên, 1996.
7. Tạp chí “ Những vấn đề kinh tế thế giới ” số 2 năm 2000.
8. Tạp chí “ Thương mại ” số 16 năm 1997.
9. Tạp chí “ Nghiên cứu lý luận ” số 9 năm 1997.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.pdf