Luận văn Mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê

Pháp luật và luật tục ÊĐê là những công cụ quản lý xã hội quan trọng không thể thiếu được trong xã hội ngày nay. Để sử dụng pháp luật cũng như luật tục ÊĐê một cách có hiệu quả nhất trong quản lý xã hội, trước hết đòi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò cũng như ưu điểm của mỗi loại công cụ; chỉ rõ những yếu tố tương đồng, những điểm khác biệt giữa chúng, đồng thời phải nhận thức được một cách sâu sắc sự tác động qua lại, bổ trợ cho nhau giữa hai loại công cụ này. Sự tác động giữa pháp luật và luật tục ÊĐê thể hiện ở chỗ: trong một số trường hợp luật tục ÊĐê là cơ sở cho việc xây dựng pháp luật (ít nhất là xây dựng các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng người ÊĐê). Đồng thời, luật tục ÊĐê là nhân tố quan trọng bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế trong phạm vi buôn làng ÊĐê. Ngược lại, pháp luật cũng có sự tác động mạnh mẽ đến luật tục ÊĐê. Nó ghi nhận, củng cố và phát huy những quy định tiến bộ, loại trừ những quy định phản tiến bộ không phù hợp với lợi ích cá nhân và cộng đồng người ÊĐê. Đồng thời, pháp luật ngăn chặn sự hình thành những quy định phản tiến bộ và góp phấn làm hình thành những quy định tiến bộ trong luật tục Ê Đê.

pdf106 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3072 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đời sống của người ÊĐê, dự liệu được luồng tư tưởng nào có ảnh hưởng lớn đến đời sống của họ, có thể phát sinh những phong tục tập quán xấu, và luồng tư tưởng nào có ảnh hưởng tích cực đối với người ÊĐê có khả năng phát sinh các quy định luật tục tiến bộ để có biện pháp ngăn chặn hoặc khuyến khích kịp thời. Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê. Đây là vấn đề đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong thời gian qua và cũng đã đạt được một số kết quả tương đối khả quan đối với các buôn làng người dân tộc ÊĐê xung quanh các thành phố lớn như: Buôn Ma Thuột - ĐăkLăk; Đà Lạt - Lâm Đồng; Plei Ku - Gia Lai. Đây là cố gắng đáng kể của Nhà nước ta trong việc đưa pháp luật vào đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê và là ưu điểm đáng khích lệ và phát huy trong giai đoạn mới. Tuy nhiên việc đưa pháp luật vào đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê trong giai đoạn mới là vấn đề không đơn giản bởi lẽ dân tộc ÊĐê sống rải rác ở các buôn làng vùng sâu, vùng xa, các buôn làng tách biệt nhau, giao thông không thuận tiện, đời sống kinh tế khó khăn, nhiều người trong buôn làng không biết tiếng kinh, không quan tâm đến pháp luật của nhà nước, tư tưởng lạc hậu, mê tín dị đoan còn phổ biến. Để làm tốt công tác tuyên truyền pháp luật cho người ÊĐê, Nhà nước ta cần phải sử dụng nhiều hình thức, nhiều phương pháp và nhiều lượng tuyên truyền. Trước hết phải khai thác triệt để thế mạnh của lực lượng cán bộ công chức người dân tộc thiểu số ÊĐê. Biến họ trở thành hạt nhân tuyên truyền pháp luật, thành ngọn đuốc thắp sáng xua tan màn đêm của lực lượng siêu nhiên, bí hiểm trong tư tưởng của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê. Đối với các già làng, trưởng buôn - những người tiên phong trong việc thi hành luật tục ÊĐê, Nhà nước ta cần có cơ chế trả lương cho hoạt động hợp pháp của ho. Cho họ tham gia các lớp học tuyên truyền phổ biến pháp luật, tăng cường giao lưu giữa các trưởng buôn với người kinh, với đại diện chính quyền địa phương và giao lưu giữa các trưởng buôn với nhau. Tạo cơ hội cho họ thâm nhập cuộc sống mới và tiếp cận với các văn bản pháp luật, khai thác triệt để ảnh hưởng tích cực của họ đối với các thành viên trong cộng đồng người dân tộc thiểu số ÊĐê. Thay đổi tư duy luật tục của họ sang tư duy pháp luật. Biến họ trở thành cầu nối giữa pháp luật và luật tục ÊĐê. Mặt khác, phát huy vai trò tích cực của các trưởng buôn trong việc tổ chức thực hiện pháp luật và tổ chức thực hiện luật tục ÊĐê trong thời gian qua; có cơ chế khen thưởng, khuyến khích kịp thời đối với các trưởng buôn có nhiều thành tích trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật. Một đối tượng tuyên truyền pháp luật mang tính chất truyền thống của Nhà nước ta đó là các cán bộ công chức, các cơ quan, đoàn thể nhà nước. Đối với lực lượng này yêu cầu tối thiểu là phải biết tiếng ÊĐê, phải cùng ăn, cùng ở, cùng lao động với người ÊĐê trong một thời gian nhất định, vừa tuyên truyền pháp luật, vừa kết hợp tạo ra các mô hình kinh tế mẫu cho đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê như: mô hình kinh tế trang trại, kinh tế tập thể, kinh tế hộ gia đình… Đặc biệt lực lượng tuyên truyền này phải thể hiện được tính tiên phong của công chức nhà nước, phải tạo được niềm tin cho người ÊĐê vào cuộc sống mới và phải thực sự là chỗ dựa tinh thần cho họ. Muốn thực hiện được điều này, các cơ quan nhà nước khi cử cán bộ xuống nằm vùng tại buôn làng người dân tộc thiểu số ÊĐê phải lựa chọn các cán bộ có tư cách đạo đức tốt, có ý tưởng sáng tạo trong công tác tuyên truyền. Mặt khác, khi chọn cán bộ tuyên tuyền phải chọn lọc những hạt nhân có tư duy năng động với nền kinh tế thị trường để khi những người này vào làm công tác tuyên truyền tại các buôn làng dân tộc thiểu số ÊĐê, họ phải trở thành những điểm sáng trong xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người ÊĐê. Đồng thời, họ phải là lực lượng bảo vệ các quy định tiến bộ, bài trừ các quy định phản tiến bộ trong luật tục ÊĐê. Để có được kết quả này, Nhà nước ta phải có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho lực lượng tuyên truyền và phổ biến pháp luật này. Có chế độ khen thưởng kịp thời cho những người có nhiều sáng kiến trong công tác tuyên truyền. Xử lý nghiêm minh đối với những cá nhân lợi dụng công tác tuyên truyền để bài trừ các quy định tiến bộ trong luật tục ÊĐê, gây ra sự kỳ thị dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết của Nhà nước ta. Ba là, tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật, kết hợp thực hiện tốt các quy định tiến bộ của luật tục ÊĐê. Pháp luật sau khi ban hành và có hiệu lực phải được thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, pháp luật không thể tự đi vào cuộc sống. Mặt khác, có những quy định của pháp luật người dân không thể tự thực hiện được, hoặc không tự giác thực hiện. Chính vì vậy, để phát huy hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đối với khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê, vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật càng có ý nghĩa to lớn hơn. Như ta đã biết, một bộ phận lớn đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê ở vùng sâu, vùng xa, từ trước đến nay ít quan tâm đến pháp luật nhà nước. Vì vậy Nhà nước ta phải chủ động tổ chức thực hiện pháp luật cho đối tượng này. Thông qua các cơ quan có thẩm quyền, Nhà nước ta chủ động tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật bằng cách tuyên truyền vận động người ÊĐê thực hiện pháp luật. Chủ động tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho họ khi thực hiện những quy định mới. Khi cần thiết có thể hỗ trợ giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê về vật chất hoặc nhân lực, bảo đảm cho các văn bản pháp luật của Nhà nước ta đã ban hành được thực thi nghiêm túc. Để pháp luật được thực hiện nghiêm túc trong cộng đồng người dân tộc thiểu số ÊĐê, một trong những biện pháp cơ bản có tầm quan trọng hàng đầu là phải phối hợp với việc thực thi các quy định tiến bộ của luật tục ÊĐê, đó là: thực hiện bằng biện pháp giáo dục, thuyết phục là chính. Nói như vậy có nghĩa là việc tổ chức thực hiện pháp luật trong buôn làng người dân tộc thiểu số ÊĐê cần lưu ý phối hợp biện pháp giáo dục, thuyết phục với các biện pháp cứng rắn của pháp luật. Ngay cả khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thực hiện pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê cũng cần phải lưu ý tính giáo dục cải tạo của biện pháp cần áp dụng. Hạn chế tối đa các biện pháp cưỡng chế tước đoạt mạng sống con người, vì trong luật tục ÊĐê chưa bao giờ áp dụng biện pháp này kể cả với tội ác giết người dã man. Tóm lại việc tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với đồng bào người dân tộc thiểu số ÊĐê, phải thực hiện sao cho người ÊĐê nhận rõ được lỗi lầm sai phạm của mình và có hướng phấn đấu sửa chữa. Người không vi phạm lấy đó làm bài học để phòng tránh bản thân vi phạm pháp luật. 3.1.3. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện đại, nền kinh tế một quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trực tiếp và gián tiếp của các quan hệ kinh tế Quốc tế. Hiện nay, không thể có một nền kinh tế của một quốc gia nào lại có thể tồn tại, phát triển bằng nền sản xuất của riêng mình và chỉ khép kín trong phạm vi một quốc gia. Có thể thấy rằng thế giới ngày nay đang tiến tới một khung pháp lý chung trong lĩnh vực kinh tế - Khung pháp lý của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trong thời đại toàn cầu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia là tất yếu và ngày càng sâu sắc. Hội nghị lần thứ 29 diễn đàn kinh tế thế giới tại DaVos (Thụy Sĩ) từ ngày 28/01 đến ngày 02/02/1999 người ta đã khẳng định: Toàn cầu hóa không còn là xu thế nữa mà đã trở thành một thực tế… Hội nhập là một yếu tố tất yếu của phát triển. Nước nào không hội nhập thì không có cơ hội phát triển. Nắm được yêu cầu này, Đảng ta chủ trương: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực… bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường (Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng IX). Muốn thực hiện tốt chủ trương này, trong nội bộ mỗi quốc gia phải giải quyết tốt các mối quan hệ giữa pháp luật và đời sống xã hội, đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật với các phong tục, tập quán, luật tục của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Tạo ra sự thống nhất chung trong nhận thức pháp luật của các dân tộc. Hướng cho các dân tộc cùng nhau đi vào quỹ đạo chung của pháp luật nhà nước và tiến tới một khung pháp lý chung của toàn cầu. Đối với dân tộc ÊĐê - nơi đang bị ảnh hưởng của các luồng tư tưởng phản động, thù địch, vấn đề giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của dân tộc này lại càng có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Trên thực tế, toàn cầu hóa nền kinh tế là vấn đề hết sức xa lạ đối với người ÊĐê. Cuộc sống của người ÊĐê mang tính cộng đồng, sản xuất nhỏ, mang tính tự cung, tự cấp, phụ thuộc phần nhiều vào thiên nhiên. Tư tưởng của người ÊĐê sản xuất chỉ để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Họ không có thói quen sản xuất hàng hóa và chưa bao giờ tiếp xúc với nền thương mại hiện đại. Luật tục của người ÊĐê phản ánh đúng nền kinh tế tự cung tự cấp của dân tộc này. Như vậy, để người ÊĐê đi đúng quỹ đạo chung của pháp luật và tham gia vào khung pháp lý chung của WTO cần có một số giải pháp cụ thể: Một là, xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật theo định chế của WTO. Lựa chọn những quy định phù hợp với chính sách thương mại khu vực Tây Nguyên, chi tiết hóa những quy định này cho phù hợp trình độ nhận thức của người ÊĐê, dịch thành tiếng ÊĐê, cử các cán bộ biết tiếng ÊĐê vào các buôn làng người ÊĐê, vừa tiến hành lao động vừa tuyên truyền các quy định và chính sách thương mại mới. Hoạt động đưa các quy định thương mại vào đời sống của người ÊĐê cần bắt đầu từ lớp người tiên phong của dân tộc này, đó là những nhà doanh nghiệp có uy tín trên thương trường. Thực tiễn cho thấy các chủ doanh nghiệp là người ÊĐê khi kinh doanh họ thường áp dụng cả pháp luật và luật tục. Nên việc kinh doanh của họ trong vùng đồng bào dân tộc ÊĐê thường hiệu quả hơn so với người kinh. Vì vậy, khi họ hiểu được các quy định của pháp luật về các chính sách thương mại mới của nhà nước thì các quy định này sẽ nhanh chóng được lan truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê và nhanh chóng được áp dụng cho hoạt động thương mại của người ÊĐê. Sớm tạo nên thói quen trong hoạt động kinh doanh, thương mại của người ÊĐê. Điều này đồng nghĩa với việc làm nảy sinh tập quán kinh doanh trong luật tục ÊĐê. Tuy nhiên, lực lượng doanh nghiệp tiên phong của người ÊĐê hiện nay không nhiều và đặc biệt là phân bổ không đều, chủ yếu là ở xung quanh khu vực các thành phố và các trục đường giao thông chính, nên hoạt động tuyên truyền pháp luật kinh doanh, thương mại thông qua hoạt động kinh doanh của họ vào tận các buôn làng vùng sâu, vùng xa là không thực hiện được. Vì vậy hoạt động tuyên truyền pháp luật kinh doanh, thương mại cho người ÊĐê trong vùng sâu, vùng xa cần phải sử dụng lực lượng tuyên truyền pháp luật phổ thông của nhà nước. Hai là, tạo môi trường kinh doanh cho người ÊĐê bằng cách mở rộng các hoạt động dịch vụ, thương mại trong khu vực người ÊĐê sinh sống, nhằm mục đích cho người ÊĐê làm quen với các hoạt động này. Có chế độ định canh, định cư thích hợp để tạo ra vùng dân cư người kinh đan xen với người dân tộc ÊĐê. Tạo nên những ảnh hưởng của nền sản xuất hàng hóa mới. Thực tiễn cho thấy, một số buôn làng người ÊĐê nằm dọc quốc lộ 14 thuộc địa phận huyện KrôngBuk và nằm trong khu vực thành phố Buôn Ma Thuột tỉnh DakLak có nhiều điều kiện tiếp xúc với người kinh và tiếp xúc với nền thương mại hiện đại, nên từ khi có luật doanh nghiệp 1999 đến nay đã có bảy doanh nghiệp tư nhân và ba công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập, có chủ doanh nghiệp là người ÊĐê. Điển hình là doanh nghiệp thương mại Nhân Văn, ở khối 7 thị trấn Buôn Hồ huyện KrôngBuk, tỉnh DakLak, do anh YNhân M’Lô làm chủ doanh nghiệp, chuyên kinh doanh các ngành nghề mua bán xăng dầu, mua bán, sơ chế cà phê, nông sản, phân bón, thành lập năm 2003; Vốn ban đầu 200 triệu đồng. Khoản tiền này anh Y Nhân M’Lô thế chấp vườn cà phê và căn nhà của gia đình để vay của ngân hàng nông nghiệp tỉnh DakLak. Từ khi thành lập đến nay anh Y Nhân M’Lô kinh doanh và đóng thuế cho nhà nước đúng quy định của pháp luật. Mỗi năm lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh xăng dầu,phân bón và nông sản đạt trên 100 triệu đồng. Đến nay anh Y Nhân M’Lô đã trả đủ nợ cho ngân hàng và có một số vốn lưu động để kinh doanh. Việc kinh doanh của anh Y Nhân M’Lô vừa kết hợp pháp luật về kinh doanh, thương mại vừa kết hợp luật tục ÊĐê. Chẳng hạn anh đầu tư phân cho người ÊĐê bón cà phê và thu nợ cà phê không cần thế chấp tài sản mà theo quy định về trao đổi hàng hóa của luật tụcÊĐê. Còn đối với người kinh, anh Y Nhân M’Lô quan hệ mua bán theo quy luật chung của thương trường. Ba là, vấn đề an ninh trong hội nhập WTO là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu. Đây cũng là yêu cầu cấp bách trong hội nhập. Thời gian qua một số cá nhân trong cộng đồng người ÊĐê nhận thức pháp luật chưa thấu đáo, nhẹ dạ, cả tin,bị bọn phản động PulRo lưu vong kích động phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, lôi kéo dân buôn làng vượt biên trái phép, làm mất trật tự an ninh khu vực Tây Nguyên. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần mạnh dạn áp dụng các quy định bảo vệ an ninh buôn làng trong luật tục ÊĐê song song với các quy định của pháp luật về bảo vệ an ninh Tổ quốc của Nhà nước ta để củng cố an ninh trong khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê sinh sống. Nhằm ngăn chặn mặt trái của xu thế hội nhập, đó là lợi dụng sự giao lưu giữa các doanh nghiệp, cá nhân và giữa các nước với nhau để truyền bá tư tưởng phản tiến bộ vào các buôn làng người ÊĐê, hoặc lợi dụng chế độ mở cửa xuất nhập cảnh người, hàng hóa, dịch vụ của Nhà nước ta trong giai đoạn hội nhập để lôi kéo đồng bào dân tộc ÊĐê bỏ làng vượt biên trái phép. Thực tiễn cho thấy, các quy định bảo vệ an ninh, buôn làng và quy định cấm bỏ làng đi lang thang trong luật tục ÊĐê khá cụ thể và chi tiết. Hình phạt của các tội này cũng khá nghiêm khắc và đặc biệt là dược người ÊĐê tôn trọng. Nếu Nhà nước ta ghi nhận, cho phép phối hợp áp dụng các quy định này với các quy định của pháp luật để điều chỉnh hành vi của người ÊĐê trong lĩnh vực an ninh thì hiệu quả bổ trợ pháp luật của luật tục ÊĐê sẽ đạt được như mong muốn. Tuy nhiên đây là vấn đề hết sức nhạy cảm đòi hỏi người áp dụng luật tục ÊĐê, người tổ chức thực hiện pháp luật phải hết sức thận trọng. Tránh làm phát sinh trong tư tưởng người ÊĐê quan niệm chỉ coi trọng luật tục ÊĐê mà không coi trọng pháp luật của nhà nước. 3.2. Quan điểm tiếp tục phát huy ưu điểm và giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê 3.2.1. Quan điểm luật tục hóa Tây Nguyên Quan điểm này hình thành từ thời kỳ SaBatier - viên công sứ người Pháp được cử làm đại diện toàn quyền DakLak năm 1913. Ông ta say mê truyền thống thi ca truyền khẩu của người ÊĐê trong đó miêu tả những nghi lễ và những quan hệ được điều phối giữa các cá nhân, các nhóm xã hội và các thần linh. Ngay trong năm 1913 ông cho phép thành lập một tòa án luật bản địa ở Kon Tum và thừa nhận sự tồn tại của truyền thống luật bất thành văn. Tòa án luật tục này do một vị quan tòa làm chủ tọa thường là một người đàn ông ÊĐê có thế lực và nắm vững phong tục truyền thống của người ÊĐê. Năm 1923 khi DakLak được nâng lên thành một tỉnh riêng biệt. SaBatier được cử làm tỉnh trưởng thì một tòa án luật bản địa chính thức được thành lập. Luật bản địa cũng được thu thập và dịch xong vào năm 1919. Trong quá trình điển chế hóa luật tục ÊĐê, SaBatier đã thay đổi một số nội dung truyền thống của luật tục ÊĐê nhằm mục đích có lợi cho luật pháp của chế độ thực dân pháp. Tuy nhiên về ngôn ngữ vẫn mang tính thi ca của văn truyền khẩu. Luật bản địa này được đưa ra áp dụng chủ yếu trong tòa án bản địa của người ÊĐê. Theo quan điểm của SaBatier: Hãy để mọi việc cho trưởng buôn của họ - cho quan tòa của họ, cho luật tục của họ giải quyết [20, tr. 834]. Theo quan điểm này, luật tục ÊĐê là công cụ chính điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cộng đồng người ÊĐê, là nguồn chính của tòa án bản địa. 3.2.2. Quan điểm pháp luật hóa Tây Nguyên Sau năm 1975, khi Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật. Có nhiều quan điểm cho rằng, luật tục ÊĐê chỉ còn là một giá trị văn hóa dân gian của thời quá khứ, không còn giá trị ứng dụng trong đời sống, trong quản lý xã hội của cộng đồng người ÊĐê. Trong xã hội mới, luật tục ÊĐê phải lùi về quá khứ nhường chỗ cho pháp luật nhà nước trong việc điều chỉnh mọi hành vi của cộng đồng người ÊĐê. Quan điểm này được coi là quan điểm pháp luật hóa Tây Nguyên. Quan điểm này đồng thời cũng là tham vọng của nhiều nhà chính trị trong giai đoạn đầu mới giải phóng Tây Nguyên. Sau hơn ba mươi năm kiểm nghiệm các quan điểm này trên thực tế. Luật tục ÊĐê vẫn tồn tại với tính hợp lý riêng của nó trong quản lý điều hành xã hội ÊĐê; vẫn có chỗ đứng bên cạnh pháp luật, cùng với pháp luật và các quy phạm xã hội khác, duy trì sự ổn định trong đời sống của người ÊĐê. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy luật tục ÊĐê chỉ đứng ở vị trí bổ trợ cho pháp luật mà không đảm nhận được vai trò chính trong việc tạo nên các quy tắc ứng xử trong điều khiển hành vi của người ÊĐê. Cuộc sống mới làm phát sinh nhiều quan hệ xã hội mới trong cộng đồng người ÊĐê mà các quy định truyền thống của luật tục ÊĐê không thể điều chỉnh được. Các quy định mới của luật tục ÊĐê không phát triển kịp để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội mới. Thực tiễn cho thấy, cuộc sống của người ÊĐê ngoài nhu cầu luật tục đã phát sinh nhu cầu pháp luật. Như vậy trường phái ủng hộ luật tục hóa Tây Nguyên của SaBatier dù không muốn cũng phải thừa nhận là pháp luật hiện nay đang giữ vai trò chính trong điều hành xã hội nói chung và cộng đồng người ÊĐê nói riêng. Tuy nhiên, với tính khái quát cao pháp luật cũng chỉ đáp ứng điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính chất phổ biến trong cộng đồng người ÊĐê. Trên thực tế, pháp luật không thay thế được hoàn toàn cho luật tục ÊĐê bởi những quan hệ xã hội mang tính đặc trưng của cộng đồng người này. Vì vậy quan điểm pháp luật hóa Tây Nguyên, coi luật tục ÊĐê chỉ là giá trị văn hóa dân gian của thời quá khứ cũng bị thực tiễn loại trừ. 3.2.3. Quan điểm tiếp tục phát huy ưu điểm và giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê Từ thực tiễn trên, Đảng và Nhà nước ta nhất quán quan điểm: pháp luật giữ vai trò chủ đạo trong quản lý, điều hành xã hội. Điều 12 hiến pháp 1992 quy định: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Nhà nước tôn trọng các phong tục tập quán tiến bộ của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam: Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định: …các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình. Điều 8 Bộ luật dân sự 2005 quy định: việc xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp… của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Như vậy,việc tiếp tục phát huy ưu điểm và giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê không những chỉ là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta mà nó còn được cụ thể hóa bằng các quy định của pháp luật và trở thành tiêu chí thực hiện trong công tác quản lý cộng đồng người ÊĐê hiện nay. Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê trong thời gian qua của Nhà nước ta vẫn còn nhiều bất cập như đã phân tích ở phần trên. Vì vậy, Nhà nước ta cần phải có những giải pháp để phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế của mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê trong thời gian tới. 3.3. Giải pháp nhằm tăng cường và giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê ở Tỉnh DakLak hiện nay 3.3.1. Những giải pháp chung Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và những quy định tiến bộ của luật tục ÊĐê. Pháp luật và luật tục ÊĐê thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, sinh ra từ tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Bởi vậy, để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải tạo và xây dựng những phong tục tập quán, phát triển những quy định tiến bộ của luật tục ÊĐê, vấn đề cơ bản và cốt lõi là phát triển kinh tế. Về nguyên tắc một quan điểm, tư tưởng chính trị pháp lý hay một phong tục, tập quán lạc hậu phản tiến bộ, tiêu cực chưa thể bị thủ tiêu nếu cơ sở kinh tế sản sinh ra nó, điều kiện cho sự tồn tại của nó vẫn còn hiện diện trên thực tế. Vì vậy muốn xóa bỏ một quy định lạc hậu trong luật tục ÊĐê, muốn xây dựng các quy định luật tục ÊĐê có tính tiến bộ, hay muốn xây dựng những quy định pháp luật mới, trước hết phải xóa bỏ triệt để cơ sở kinh tế mà trên đó tư tưởng cũ tồn tại, đồng thời phải xây dựng một nền tảng kinh tế mới làm môi trường cho các tư tưởng tiến bộ nảy sinh. Thực tiễn cho thấy, dân tộc ÊĐê từ trước tời nay sống trong các buôn làng xa xôi hẻo lánh, thiếu kiến thức khoa học đời sống, nền kinh tế chủ yếu là tự cung, tự cấp, phụ thuộc vào thiên nhiên. Đây là môi trường tốt cho các quy định lạc hậu trong luật tục ÊĐê tồn tại và phát triển. Trong buôn làng người ÊĐê hiện nay vẫn còn những điều kiện nhất định làm cơ sở cho hôn nhân nối nòi, cho chế độ mẫu hệ tồn tại. Vì người ÊĐê cho rằng vi phạm quy định này là làm cho trời đất nổi giận, gây mưa gió không thuận hòa, dịch bệnh phát triển. Như vậy, cải tạo cơ sở kinh tế, xã hội cũ, xây dựng nền kinh tế mới cho người ÊĐê thực chất là xóa bỏ cơ sở kinh tế cho sự tồn tại của các quy định lạc hậu trong luật tục ÊĐê, nhằm tạo môi trường và cơ sở cho sự tồn tại của các quan điểm phong tục tập quán mới tiến bộ. Vấn đề cải tạo cơ sở kinh tế cho đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê không phải là vấn đề mới và cũng không phải là vấn đề giải quyết ngay được trong một sớm một chiều. Đặc biệt vấn đề này cũng không phải không được Nhà nước ta quan tâm, nhưng cải tạo cơ sở kinh tế cho người ÊĐê bắt đầu từ đâu đó là vấn đề cần bàn. Trong những năm gần đây Nhà nước ta đã có những giải pháp cấp vốn, cho người ÊĐê vay tiền không thế chấp tài sản để phát triển sản xuất, nhưng hiệu quả mang lại chưa đạt được như mong muốn. Vì người ÊĐê chưa có thói quen sản xuất hàng hóa, chưa có tư duy sản xuất nông nghiệp theo phương pháp công nghiệp, chẳng hạn: người ÊĐê chỉ biết chăn nuôi bò theo phương pháp chăn thả. Khi đồng cỏ bị thu hẹp lại do nhu cầu đất sản xuất, họ không biết dùng diện tích đất còn lại trồng cỏ nuôi bò như người kinh nên hiệu quả sản xuất thấp.Theo quan điểm cá nhân của tác giả, cải tạo cơ sở kinh tế cho người ÊĐê cần bắt đầu từ cải tạo con người, cải tạo tư tưởng sản xuất tự cung tự cấp, phụ thuộc vào thiên nhiên của người ÊĐê. Muốn làm được việc này cần nâng cao trình độ dân trí cho người ÊĐê, quan tâm đến đời sống chính trị văn hóa, tôn giáo của họ. Khi người ÊĐê nhận thức được một cách thấu đáo quy luật cung cầu của nền sản xuất hàng hóa họ sẽ tự vươn lên và tự phá bỏ tư duy sản xuất cũ, tạo nên tư tưởng chinh phục thiên nhiên. Các quy định tiến bộ của luật tục ÊĐê từ đó có môi trường phát triển, tồn tại song song với pháp luật, phối hợp đắc lực với pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong buôn làng người dân tộc thiểu số ÊĐê. Hai là, nhận thức đúng vị trí, vai trò của pháp luật, luật tục ÊĐê và mối quan hệ của nó. Để quản lý tốt xã hội, có nhiều công cụ, phương tiện khác nhau. Mỗi công cụ, phương tiện có những ưu thế riêng và những hạn chế nhất định. Thực tiễn chứng minh không có một loại phương tiện nào có tính đa năng để có thể điều chỉnh một cách có hiệu quả tất cả các quan hệ xã hội. Vì vậy, trong quản lý, điều hành xã hội, đặc biệt là quản lý điều hành khu vực đồng bào dân tộc có tính đặc trưng như đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê. Ngoài việc sử dụng công cụ pháp luật cần phải khai thác và sử dụng thế mạnh vốn có của luật tục ÊĐê. Có thể nói, trong giai đoạn Nhà nước ta thực hiện cơ chế kinh tế bao cấp, luật tục ÊĐê là công cụ hữu hiệu nhất trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh tai buôn làng người dân tộc ÊĐê. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là luật tục ÊĐê thay thế đươc hoàn toàn cho pháp luật trong việc quản lý, điều hành các hoạt động tại buôn làng người ÊĐê. Về thực chất, pháp luật vẫn phải là công cụ chính điều chỉnh các quan hệ mang tính chất phổ biến phát sinh trong tộc người này. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi luật tuc ÊĐê chưa có các quy định về sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, chưa có các quy định về xử phạt những cá nhân tham gia tổ chức phản động phá rối an ninh, chống chính sách đoàn kết của Nhà nước ta - pháp luật lại càng có vị trí quan trọng trong đời sống của người ÊĐê. Tuy nhiên, sự điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng người ÊĐê không phải bao giờ cũng đem lại kết quả như mong muốn. Bởi lẽ vấn đề này còn phụ thuộc vào một số yếu tố nhất định đó là sự phù hợp giữa qui phạm pháp luật và quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật và đặc biệt là ý thức pháp luật, trình độ dân trí của người ÊĐê. Trong trường hợp này có thể sử dụng luật tục ÊĐê để bổ trợ cho pháp luật. Như vậy trong quản lý, điều hành các hoạt động tai buôn làng người ÊĐê cần nhận thức đúng vị trí vai trò, ưu thế của pháp luật và luật tục ÊĐê để sử dụng chúng một cách có hiệu quả nhất. Giữa pháp luật và luật tục ÊĐê có mối quan hệ tác động qua lại hỗ trợ bổ sung cho nhau. Do vậy, quản lý xã hội nói chung và quản lý đồng bào dân tộc ÊĐê nó riêng bằng pháp luật nhưng phải coi trọng luật tục của dân tộc họ. Đối với các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật liên quan đế đời sống của đồng bào dân tộc ÊĐê phải được xây dựng phù hợp với các phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc này; phải đặc biệt coi trọng giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp đồng thời bài trừ ngăn chăn các quy định phản tiến bộ đang manh nha hình thành trong luật tục ÊĐê. Ba là, thực tiễn cho thấy trong thời gian qua Nhà nước ta chưa quan tâm đến hoạt động xây dựng và đổi mới luật tục ÊĐê theo định hướng của pháp luật. Vì vậy, luật tục ÊĐê phát triển một cách tự phát với nhiều quy định lạc hậu kìm hãm sự phát triển lành mạnh của người ÊĐê. Trong thời gian tới Nhà nước ta cần thành lập ban nghiên cứu luật tục ÊĐê gồm những người kinh có kỹ năng xây dựng văn bản và người ÊĐê có nhiều hiểu biết về luật tục ÊĐê. Tổ chức sưu tầm, thống kê, xây dựng thành bộ luật tục ÊĐê nhằm mục đích vận dụng trong đời sống, phối hợp với pháp luật, tham gia vào việc quản lý cộng đồng người ÊĐê. Từ trước tới nay hoạt động sưu tầm, ghi thành văn bản luật tục ÊĐê chủ yếu nhằm vào mục đích giữ gìn nét văn hóa dân gian của người ÊĐê. Vì vậy, việc sưu tầm luật tục ÊĐê chỉ đơn thuần là hoạt động ghi chép lại các quy định của luật tục, không phân biệt các quy định lạc hậu hay tiến bộ. Trong điều kiện hiện nay, để giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê, đáp ứng yêu cầu sử dụng luật tục ÊĐê trong điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh tại buôn làng người ÊĐê. Việc sưu tầm và ghi chép luật tục ÊĐê phải được Nhà nước ta đổi mới về cách thức. Trước hết hoạt động sưu tầm luật tục ÊĐê phải được tiến hành trên diện rộng. Trên thực tế luật tục ÊĐê có thể hình thành tại các buôn làng người ÊĐê hay hình thành từ một nhóm người có cùng huyết tộc, giữa buôn này và buôn khác không có sự thống nhất chung về sáng tạo luật tục. Một quy định luật tục ÊĐê hình thành ở buôn này có thể được áp dụng ở buôn khác nhưng mức độ lan truyền của nó trong thực tế thường chậm. Như vậy, việc sưu tầm luật tục ÊĐê cần phải được tiến hành thực hiện một cách đầy đủ và thấu đáo. Hoạt động sưu tầm luật tục ÊĐê có thể được tiến hành bằng cách: Thống kê toàn bộ những quy định hiện có của luật tục ÊĐê, phân loại quy định tiến bộ, quy định lạc hậu, trái pháp luật theo hình thức so sánh trong cùng một trang văn bản để người ÊĐê dễ phân biệt trong quá trình áp dụng, xây dựng thành bộ luật tục ÊĐê, dịch thành hai thứ tiếng Việt- ÊĐê. Đồng thời với việc ghi thành văn bản các quy định của luật tục ÊĐê cần lồng tinh thần pháp luật vào các quy định của luật tục ÊĐê nhằm đáp ứng tâm lý tôn trọng luật tục của người ÊĐê và đạt được mục đích quản lý xã hội cộng đồng người ÊĐê của Nhà nước ta, tránh cho người ÊĐê tình huống chấp hành pháp luật thì vi phạm luật tục và ngược lại. Sau khi xây dựng bộ luật tục ÊĐê Nhà nước ta cần phát hành rộng rãi trong khu vực người ÊĐê, cử các cán bộ biết thành thạo tiếng ÊĐê vào các buôn làng, vừa lao động sản xuất cùng với người ÊĐê, vừa phối hợp tổ chức áp dụng luật tục ÊĐê trong việc xử lý người ÊĐê vi phạm luật tục. Đây là hoạt động hết sức nhạy cảm, vì vậy Nhà nước ta nên giao trọng trách này cho đội ngũ công chức là người ÊĐê, các già làng, trưởng buôn đảm nhiệm vai trò chính, còn lực lượng của người kinh chỉ hỗ trợ khi cần thiết. 3.3.2. Những giải pháp cụ thể cho địa phương DakLak DakLak là một tỉnh có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng ở Tây Nguyên. Có đường biên giới chung Việt Nam - Campuchia dài hơn 73 Km. Diện tích tự nhiên: 13.125 km2. Dân số 1.720187 người gồm 43 dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó có hơn một vạn người dân tộc ÊĐê, chiếm tỷ lệ người ÊĐê đông nhất trong cả nước. Về tiềm năng kinh tế, DakLak có diện tích đất ba gian rộng và màu mỡ, có lực lượng lao động trẻ, dồi dào, có ưu đãi đầu tư của nhà nước. Tuy nhiên ở địa bàn DakLak hiện nay còn ba vấn đề chưa có giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ: Một là, vấn đề dân trí. Giải pháp nâng cao dân trí ở DakLak được coi là giải pháp muôn thuở, một loại giải pháp được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm. Nhưng trên thực tế hiện nay trình độ dân trí của DakLak nói chung chưa cao. Đặc biệt, trình độ dân trí của người ÊĐê ở DakLak còn quá thấp. Từ nguyên nhân dân trí thấp người ÊĐê không đủ trình độ để tiếp cận, nắm bắt những tinh hoa trong khoa học kỹ thuật, công nghệ mới để vận dụng vào đời sống, không phát huy được tiềm lực đất đai rộng lớn, màu mỡ và nguồn lao động dồi dào của cộng đồng người này. Trình độ dân trí thấp kìm hãm tư duy độc lập, sáng tạo trong lao động, kìm hãm tư duy sản xuất lớn, hay nói cách khác là tư duy làm giàu của người ÊĐê. Khi người đàn ông chấp hành luật tục ÊĐê, mọi tài sản của họ đều phải giao hết cho người phụ nữ trong gia đình quản lý, họ không có quyền độc lập về tài sản và đương nhiên là không có khả năng độc lập để quyết định kế hoạch sản xuất, thực hiện ý tưởng làm giàu. Thực trạng chung hiện nay số đông người ÊĐê ở DakLak còn rất nghèo. Mặt khác, do trình độ dân trí thấp người ÊĐê không nhận thức được hết những điều cấm của pháp luật, nhẹ dạ cả tin nên đã bị bọn phản động lưu vong tuyên truyền lôi kéo tham gia các tổ chức bạo loạn, phá rối an ninh, phá hoại chính sách đoàn kết của Nhà nước ta, dẫn đến vi phạm pháp luật. Những năm gần đây, Nhà nước ta đã có một số chính sách ưu tiên cho người ÊĐê thể hiện qua việc ưu tiên đào tạo trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và dạy nghề. Đồng thời thực hiện Chương trình 132, 134 của Chính phủ người ÊĐê được giao đất, giao nhà ở, được cung cấp nguồn nước sạch, theo quy hoạch phân vùng của nhà nước. Giải pháp này góp phần làm cho người ÊĐê giảm nghèo nhưng chưa làm cho người ÊĐê có tư duy làm giàu trên chính mảnh đất màu mỡ mà họ đang sống. Và đặc biệt chưa làm cho người ÊĐê thoát ra khỏi sự bó buộc của chế độ mẫu hệ. Thực tế những nhóm dân cư được phân đất, phân nhà theo các chương trình 132 và 134 của Chính phủ, họ chưa quen sống theo thiết chế Làng người Vệt, nên cuộc sống của họ thiếu tính tự tin. Khi bàn về vấn đề này, tác giả không có ý phê phán các chính sách này của Nhà nước ta mà chỉ nêu một vài nét thực trạng để minh chứng cho việc phân vùng, quy hoạch dân cư người ÊĐê theo mô hình Làng của người Việt, là chưa đáp ứng được mục đích nâng cao dân trí cho người ÊĐê. Đặc biệt thiết chế làng người Việt không đáp ứng được yêu cầu về an ninh như thiết chế buôn truyền thống của người ÊĐê từ trước đến nay. Như vậy, giải pháp đưa người ÊĐê ra sống cùng người Việt, chưa đem lại hiệu quả cao trên thực tế. Theo tác giả, cần phải đưa người Việt vào sống cùng với người ÊĐê, hay nói cách khác cần lập các làng người Việt quanh khu vực buôn của người ÊĐê. Tạo ảnh hưởng lẫn nhau giữa người Việt và người ÊĐê. Thực hiện giải pháp này, làng người Việt phải tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc không phá vỡ mô hình Buôn của người ÊĐê, nghĩa là làng người Việt được lập ở một khoảng cách nhất định không được quá gần Buôn của người ÊĐê, không sinh hoạt chung bến nước với người ÊĐê, không xâm nhập nương rẫy của người ÊĐê… Giải pháp này tác giả rút ra được từ việc khảo sát thực tế ở buôn Tuor xã Hòa Phú, thành phố Buôn Ma Thuột. Buôn Tuor là một buôn dân cư nguyên thủy của người ÊĐê ở khu vực Buôn Ma Thuột, cách trung tâm Thành phố Buôn Ma Thuột 10 km về phía nam. Hiện nay trong buôn vẫn còn nguyên dạng cây đa, bến nước của người ÊĐê và vẫn còn những Sadrông (căn nhà dài) có nhiều thế hệ cùng sinh sống. Giữa các căn nhà dài trong buôn không có ranh giới cụ thể để phân chia lãnh thổ giữa nhà này và nhà khác. Điều hành trực tiếp trong buôn là ông Y Thút Byă, có sự phối hợp thường xuyên của ủy ban nhân dân xã Hòa Phú, Thành phố Buôn Ma Thuột. Buôn Tuor có 85 hộ gia đình và 450 nhân khẩu. Trong các năm gần đây các tranh chấp dân sự xảy ra trong buôn đều do trưởng buôn xử lý theo luật tục ÊĐê, tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên. Hình thức phạt đền trong xử lý người vi phạm luật tục ÊĐê cũng được sửa đổi theo hướng của pháp luật, thấp hơn mức phạt của luật tục ÊĐê nguyên thủy. Ông Y Thút Byă cho biết: Trong Buôn không có người tham gia tổ chức Pul Rô, không tham gia biểu tình bạo loạn, không vượt biên trái phép và không có án giết người, cướp tài sản trong nhiều năm. 100% trẻ em trong buôn đều đến trường. Buôn có trường học cấp tiểu học, có giáo viên người kinh và có cả giáo viên người ÊĐê và đặc biệt là khoảng 95% dân trong buôn biết tiếng kinh, 69% dân trong buôn biết chữ. Dân buôn Tuor có ảnh hưởng của người kinh nên biết trồng lúa nước, biết lập trang trại chăn nuôi bò, heo (mặc dù chưa có trang trại lớn). Có thể đánh giá trình độ dân trí của buôn Tuor là khá cao so với các buôn khác của người ÊĐê. Như vậy, giải pháp đưa người Việt vào lập làng quanh khu vực buôn của người ÊĐê là giải pháp khả thi để từng bước gây ảnh hưởng, nâng cao dân trí cho người ÊĐê. Thứ hai, giải quyết tốt vấn đề đất đai cho người ÊĐê. Đây là vấn đề mang tính thời sự cấp bách hiện nay. Theo luật tục ÊĐê đất đai Tây Nguyên là của người ÊĐê do PôLan (tức người phụ nữ) quản lý. Quan niệm này xuất phát từ thời kỳ SaBatier được thực dân Pháp cử làm đại diện của DakLak 1925, để thực hiện mục đích chống chính sách thuộc địa hóa và giữ DakLak thành một khu bảo tồn để gìn giữ các bộ lạc nguyên thủy. Ông ta nêu ra quan điểm: ở Tây Nguyên đất đai thuộc về người Tây Nguyên [20, tr. 835-837]. Quan niệm này theo suốt cộng đồng người ÊĐê từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cho đến nay, khi nhà nước Việt Nam đã là một quốc gia thống nhất, tự chủ, đang tiến tới một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Việt Nam tuyên bố đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện quản lý. Một số người ÊĐê trên Tây Nguyên vẫn chưa nhận thức được một cách thấu đáo vấn đề sở hữu đất đai theo quy định của luật đất đai hiện hành. Người ÊĐê quan niệm đất đai thuộc sở hữu chung của cộng đồng người ÊĐê nên trong buôn làng của họ không tìm thấy ranh giới lãnh thổ giữa từng gia đình như người kinh. Khi Chính phủ Việt Nam có quy định cấp quyền sử dụng đất cho nhân dân trong cả nước, thì một số người ÊĐê không ủng hộ chính sách này. Họ đòi quyền sở hữu đất đai theo luật tục ÊĐê dẫn đến tình trạng biểu tình đòi quyền sử dụng đất làm ảnh hưởng an ninh chung trên khu vực Tây Nguyên. Đây là sự xung đột thực tế xảy ra giữa luật tục ÊĐê và pháp luật nhà nước trong lĩnh vực sở hữu đất đai. Để giải quyết tốt vấn đề này Nhà nước ta cần có chính sách quản lý đất đai hợp lý, với quan điểm nhất quán: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện quản lý. Tuy nhiên việc thực hiện chính sách quản lý này phải tế nhị và mềm dẻo. Đối với người ÊĐê việc cấp quyền sử dụng đất cần phối hợp với việc thừa nhận và tôn trọng sự dàn xếp thời hạn sử dụng đất theo luật tục ÊĐe. Nghĩa là có thể kéo dài thời hạn sử dụng đất theo quy định luật tục ÊĐê và áp dụng luật tục ÊĐê trong bảo vệ, cải tiến và phát triển nguồn tài nguyên trong khuôn khổ pháp luật đất đai hiện nay. Mặt khác, Nhà nước có thể cho người ÊĐê sử dụng đất theo chế độ cộng đồng trong quy định của luật tục ÊĐê, nếu họ lựa chọn hình thức sử dụng này. Song phải thống nhất thỏa thuận về bảo tồn phát triển nguồn tài nguyên đất giữa những người sử dụng chung đất trong cộng đồng người ÊĐê. Như vậy, muốn xúc tiến việc cấp quyền sử dụng đất cho người ÊĐê được nhanh chóng, pháp luật về quản lý đất đai trong khu vực đồng bào dân tộc ÊĐê phải tương ứng với những hiểu biết hiện có của người ÊĐê và tương ứng với các thiết chế điều hành truyền thống của người ÊĐê đó là luật tục. Việc triển khai thực hiện luật đất đai cần phải được thực hiện trong mối quan hệ với luật tục ÊĐê và các mâu thuẫn nảy sinh cũng cần được giải quyết trên cơ sở đó. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện luật đất đai trong khu vực người ÊĐê phải hết sức linh hoạt, thận trọng và phải bảo đảm tính minh bạch. Những người ÊĐê tham gia quản lý đất đai phải chịu trách nhiệm trước cộng đồng người ÊĐê và phải chịu trách nhiệm trước nhà nước. Một điểm đáng lưu ý là cần có cơ chế cho người phụ nữ ÊĐê tham gia quản lý đất đai, đáp ứng tâm lý tôn trọng luật tục của người ÊĐê. Để tránh sự tranh chấp đất đai giữa các thành viên trong cộng đồng người ÊĐê với nhau khi quyền sử dụng đất trở nên có giá trị lớn bởi chính sách định cư làng người Việt vào khu vực buôn của người ÊĐê. Nhà nước ta cần phải sử dụng linh hoạt một số quy định của luật tục ÊĐê trong quá trình tổ chức cấp quyền sử dụng đất cho cá nhân và tổ chức người ÊĐê. Ba là, tăng cường quan hệ giao lưu giữa người kinh với người ÊĐê đặc biệt là giao lưu giữa cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang với các buôn làng vùng sâu, vùng xa của người ÊĐê. Có những hoạt động tình nghĩa, giao lưu mang tính quan hệ gắn kết giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang với từng buôn làng người ÊĐê. Trên cơ sở hoạt đồng này, người ÊĐê có điều kiện tiếp xúc với người kinh, với các công chức nhà nước. Họ có điều kiện giải tỏa được những khó khăn, vướng mắc trong đời sống hàng ngày. Đồng thời, được tiếp xúc với công chức nhà nước, người ÊĐê có điều kiện thể hiện tâm tư nguyện vọng của cá nhân cũng như của cộng đồng. Hình thức giao lưu, kết nghĩa này cần được tiến hành theo nghi thức quy định trong luật tục ÊĐê. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang phải chủ động đặt quan hệ kết nghĩa với buôn của người ÊĐê mà mình lựa chọn. Mọi hoạt động giao lưu với buôn làng cần có sự phối hợp chặt chẽ với trưởng buôn và chính quyền sở tại. Trong hoạt động giao lưu cần có kế hoạch tuyên truyền pháp luật, kế hoạch hướng dẫn người ÊĐê chăn nuôi, sản xuất lương thực theo mô hình kinh tế trang trại, khai thác quỹ đất và nguồn lao động dồi dào của người ÊĐê. Hỗ trợ cơ sở vật chất như xây dựng nhà trẻ, trường học, thiết bị trường học, đồ dùng học sinh và động viên con em người ÊĐê đến trường. Động viên người ÊĐê học tiếng Kinh, học sản xuất kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hóa. Hoạt động giao lưu giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đơn vị lực lượng vũ trang với các buôn làng người ÊĐê cần phải được tiến hành đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh DakLak theo trật tự từ xa đến gần và theo sự chỉ đạo định hướng chung của nhà nước. Có kế hoạch giao lưu chi tiết, cụ thể do các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang lập và trình cấp có thẩm quyền để có căn cứ hỗ trợ kinh phí cho hoạt động này. Có chế độ trách nhiệm rõ ràng đối với các thủ trưởng của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang, về việc để người ÊĐê trong buôn kết nghĩa vi phạm pháp luật, tham gia bạo loạn, phá hoại chính sách đoàn kết của nhà nước. Đồng thời, có chế độ khen thưởng xứng đáng cho những tổ chức, cá nhân có nhiều ý tưởng sáng tạo trong hoạt động phát triển kinh tế cho người ÊĐê và hoạt động giao lưu kết nghĩa với các buôn làng người ÊĐê. Kết Luận Pháp luật và luật tục ÊĐê là những công cụ quản lý xã hội quan trọng không thể thiếu được trong xã hội ngày nay. Để sử dụng pháp luật cũng như luật tục ÊĐê một cách có hiệu quả nhất trong quản lý xã hội, trước hết đòi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò cũng như ưu điểm của mỗi loại công cụ; chỉ rõ những yếu tố tương đồng, những điểm khác biệt giữa chúng, đồng thời phải nhận thức được một cách sâu sắc sự tác động qua lại, bổ trợ cho nhau giữa hai loại công cụ này. Sự tác động giữa pháp luật và luật tục ÊĐê thể hiện ở chỗ: trong một số trường hợp luật tục ÊĐê là cơ sở cho việc xây dựng pháp luật (ít nhất là xây dựng các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng người ÊĐê). Đồng thời, luật tục ÊĐê là nhân tố quan trọng bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế trong phạm vi buôn làng ÊĐê. Ngược lại, pháp luật cũng có sự tác động mạnh mẽ đến luật tục ÊĐê. Nó ghi nhận, củng cố và phát huy những quy định tiến bộ, loại trừ những quy định phản tiến bộ không phù hợp với lợi ích cá nhân và cộng đồng người ÊĐê. Đồng thời, pháp luật ngăn chặn sự hình thành những quy định phản tiến bộ và góp phấn làm hình thành những quy định tiến bộ trong luật tục ÊĐê. Trước yêu cầu xây dựng nhà pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay, việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê là nhu cầu cần thiết và cấp bách. Đảng và Nhà nước ta đã xác định: Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng các phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam trong đó có luật tục ÊĐê. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành được xây dựng trên cơ sở ý chí, nguyện vọng của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam nói chung và dân tộc ÊĐê nói riêng. Pháp luật hóa các quy định tiến bộ của luật tục ÊĐê, làm cho một số quy định trong luật tục ÊĐê được thực hiện rộng rãi ngoài phạm vi buôn làng người ÊĐê. Luật tục ÊĐê cũng góp phần quan trọng trong việc đưa pháp luật đi vào cuộc sống người ÊĐê, khắc phục tính khái quát của pháp luật làm cho pháp luật trở nên phong phú và hoàn thiện hơn. Như vậy, quan điểm về phát huy những ưu điểm, khắc phục những nhược điểm trong mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Quan điểm này đã được cụ thể hóa trong các chính sách kinh tế - xã hội Tây Nguyên của Nhà nước ta xuyên suốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê trên thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, đó là trong một số trường hợp việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong buôn làng người ÊĐê chưa phân định rõ ranh giới điều chỉnh giữa pháp luật và luật tục ÊĐê, nhiều quy định của pháp luật còn quá khái quát, không cụ thể nên khó thực hiện trên thực tế, sự pháp luật hóa các quy định của luật tục ÊĐê chưa cụ thể, nhiều quy định phản tiến bộ của luật tục ÊĐê chưa được bài trừ. Các quy định tiến bộ của luật tục ÊĐê chưa được coi là nguồn của pháp luật nên chưa được điển chế hóa để đưa ra áp dụng trong khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê. Để phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất những yếu điểm trong mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê trong giai đoạn hiện nay cần phải thực hiện tốt một số giải pháp sau: - Các giải pháp chung + Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các quy định tiến bộ của luật tục ÊĐê trên cơ sở xây dựng môi trường, xã hội mới tiến bộ làm nền tảng cho các quy định tiến bộ của pháp luật cũng như luật tục ÊĐê phát triển. + Nhận thức đúng vị trí, vai trò của luật tục ÊĐê trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng người ÊĐê. + Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, hiệu quả đồng thời sưu tầm, thống kê các quy định của luật tục ÊĐê điển chế hóa thành bộ luật tục ÊĐê nhằm vận dụng trong, quản lý đời sống cộng đồng người ÊĐê, bổ trợ đắc lực cho pháp luật. - Các giải pháp cụ thể cho địa phương DakLak. + Nâng cao dân trí cho người ÊĐê trên địa bàn tỉnh DakLak, đây là giải pháp không mới nhưng mang tính thời sự. + Giải quyết tốt vấn đề đất và quyền sử dụng đất cho người ÊĐê trên địa bàn tỉnh DakLak. + Tăng cường quan hệ giữa người kinh và người ÊĐê bằng cách tạo ra các hoạt động giao lưu, kết nghĩa giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang với các buôn làng người ÊĐê, hỗ trợ vật chất tinh thần cho người ÊĐê, gây ảnh hưởng tốt cho người ÊĐê. DANH MụC Tài Liệu THAM Khảo 1. Bộ Tư pháp (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, Hà Nội. 2. Bộ Tư pháp (1999), Bản thuyết minh về dự án Luật hôn nhân và gia đình trình Quốc hội khóa X kì họp thứ 7, Hà Nội. 3. Chính phủ (2002), Đề án giải quyết đất sản xuất, đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây Nguyên theo Quyết định 132/2002/QĐ-TTg ngày 8/10/2002 của thủ tướng chính phủ, Hà Nội. 4. Chính phủ (2004), Đề án giải quyết đất ở, đất sản xuất, hỗ trợ nhà ở, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo ở các tỉnh Tây Nguyên theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội. 5. Chính phủ (2004), Báo cáo sơ kết hai năm thực hiện Quyết định 134/2004/QĐ-TTg, ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội. 6. Chính phủ (2006), Báo cáo giai đoạn sơ kết bốn năm thực hiện Quyết định 132/2002/QĐ-TTg ngày 8/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Tô Tử Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Phạm Minh Hạc - Nguyễn Khoa Điềm (Chủ biên) (2003), Về phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Nguyễn Quốc Hoàn (2002), Cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 14. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng (dùng cho hệ cử nhân chính trị), Hà Nội. 15. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình chủ nghĩa duy vật lịch sử (hệ cử nhân chính trị), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Hội đồng Trung ương biên soạn sách giáo khoa Mác - Lênin (2000), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Hội Luật gia Việt Nam, Nhà nước và pháp luật, tập 3, Nxb lao động, Hà Nội. 18. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Hà Nội. 19. Luật tục ÊĐê (tập quán pháp ca) (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Hoàng Thị Kim Quế, "Đưa cuộc sống vào pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống", Dân chủ và pháp luật. 22. Hoàng Thị Kim Quế (2004), "Nhận diện nhà nước pháp quyền", Nghiên cứu lập pháp, (5). 23. Hoàng Thị Kim Quế (2005), "Luật tục Tây Nguyên - giá trị văn hóa pháp lý, quản lý cộng đồng và mối quan hệ với pháp luật", Khoa học kinh tế - luật, (1). 24. Bùi Ngọc Sơn, Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp quyền. 25. Bùi Ngọc Sơn (2004), "Xã hội pháp quyền", Nghiên cứu lập pháp, (5). 26. Phùng Trung Tập, Những quy định của luật tục ÊĐê về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 27. Vũ Thư (2003), "Vai trò của xã hội công dân đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền", Nghiên cứu lập pháp, (9). 28. Tòa án nhân dân tỉnh DakLak (2005), Báo cáo tổng kết năm 2005, DakLak. 29. Tòa án nhân dân tỉnh DakLak (2005), Báo cáo tổng kết 6 tháng đầu năm 2006, DakLak. 30. "Trách nhiệm để pháp luật đi vào cuộc sống" (Bài phỏng vấn Vũ Đức Khiển - ủy ban pháp luật của Quốc hội) (2005), Nghiên cứu lập pháp, (1). 31. Trường Cán bộ tòa án - Tòa án nhân dân tối cao, Những vấn đề pháp lý cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội. 32. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Hà Nội. 33. Y Nha, Nguyễn Lộc, Y Phi, Vai trò của người điều hành và thực thi luật tục, Tòa án nhân dân tỉnh DakLak. 34. Y Nha, Nguyễn Lộc, Y Phi, Giải quyết tranh chấp về dân sự trong luật tục ÊĐê, Tòa án nhân dân tỉnh DakLak. 35. Y Nha, Nguyễn Lộc, Y Phi, Hiệu lực của luật tục ÊĐê trong đời sống dân sự hiện đại, Tòa án nhân dân tỉnh DakLak.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf136_9022.pdf
Luận văn liên quan