Công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta nói chung và tỉnh
Phú Yên nói riêng đã dành được những kết quả nhất định, trong đó có sự đóng góp
tích cực của VKSND và CQCSĐT thông qua việc thực hiện đúng đắn mối quan hệ
giữa hai cơ quan trong quá trình ĐTVAHS. Điều này xuất phát từ mục đích chung
của hoạt động TTHS là phát hiện, xử lý, nghiêm minh, kịp thời các hành vi phạm
tội, do đó dù các cơ quan tiến hành tố tụng tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau
nhưng xuất phát từ mục đích chung này mà có mối quan hệ với nhau. Từ đó, giữa
VKSND và CQCSĐT có mối quan hệ phối hợp, chế ước và ràng buộc lẫn nhau,
nhằm một mục đích chung là bảo đảm chất lượng và hiệu quả của quá trình điều tra,
xử lý VAHS. Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT tỉnh Phú Yên không chỉ góp phần nâng cao chất lượng giải quyết án mà
còn phát huy được tinh thần, trách nhiệm của mỗi cơ quan trong công cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương.
Luận văn đã nghiên cứu, làm rõ nhận thức chung về ĐTVAHS, trong đó đã
làm rõ được khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của VKSND và CQCSĐT cấp tỉnh.
Đồng thời, đã phân tích, làm rõ bản chất, nội dung, hình thức mối quan hệ giữa
VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Đó là mối quan hệ phối hợp và chế ước
trong ĐTVAHS nhưng cùng chung mục đích là giải quyết đúng đắn vụ án, bảo vệ
pháp luật, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội mang lại cuộc sống bình yên cho
mọi người.
Qua đó, luận văn đã phân tích, làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa VKSND
và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong từng nội dung như trách nhiệm của VKSND và
CQCSĐT trong tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi
tố; khởi tố VAHS, khởi tố bị can; trong áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp
ngăn chặn; trong các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh
Phú Yên, luận văn đã đưa ra một số nhận xét về kết quả đạt được, tìm ra những tồn
tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Kết quả nghiên cứu cho101
thấy, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS ngày
càng có hiệu quả, chất lượng điều tra, xử lý tội phạm và chất lượng thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra ngày càng được nâng cao, tạo chuyển biến tốt trong hoạt
động điều tra, truy tố, bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong quan
hệ vẫn còn bộc lộ một số khuyết điểm, tồn tại, hạn chế do những nguyên nhân chủ
quan và khách quan. Đây là những kết luận mới, rất quan trọng, là cơ sở lý luận cho
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong
ĐTVAHS.
115 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 624 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa viện kiểm sát nhân dân tỉnh và cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
; VKS có quyền trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong giai
đoạn điều tra khi thấy cần thiết mà không nên hạn chế như quy định hiện hành chỉ
khởi tố trong trường hợp: huỷ bỏ quyết định không khởi tố VAHS của CQĐT và
khi có yêu cầu của Hội đồng xét xử; chỉ được khởi tố bị can trong trường hợp sau
khi nhận hồ sơ và bản kết luận điều tra mà phát hiện còn có người khác thực hiện
hành vi phạm tội trong vụ án chưa được khởi tố (Điều 104 và Điều 126).
Bảy là, nhằm đảm bảo nhận thức thống nhất về thẩm quyền hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn, cần thực hiện đúng quy định tại khoản 2 điều 94 BLTTS năm 2003 và
khoản 1 điều 125 BLTTHS năm 2015: “Đối với những biện pháp ngăn chặn do
VKSND phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay thế do VKSND quyết định” và bỏ quy
định tại khoản 6 điều 120 BLTTHS “Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh
tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác”. Bởi lẽ, khi đã hết thời hạn tạm giam thì hiệu lực của lệnh tạm
giam không còn nữa, phải trả tự do cho người bị giam giữ.
Tại khoản 4 Điều 81 BLTTHS năm 2003 và quy định tại khoản 6 điều 110
BLTTHS năm 2015 quy định: “VKSND phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người.
Trường hợp cần thiết, KSV phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”. Cùng đó, Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về mối quan hệ phối hợp
giữa CQĐT và VKSND trong thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003
83
cũng quy định rất cụ thể tại Mục 3 về căn cứ và hồ sơ bắt người trong trường hợp
khẩn cấp. Quy định trên là cần thiết nhằm đảm bảo tính khách quan, thận trọng
trước khi quyết định. Tuy nhiên hai ngành cần có quy định hướng dẫn thế nào là
“cần thiết” để tránh việc điều tra trùng lặp giữa ĐTV và KSV, gây lãng phí thời
gian và công sức. Theo tác giả cho rằng, trường hợp cần thiết là qua nghiên cứu hồ
sơ hoặc kiểm sát trực tiếp thấy người bị bắt kêu oan hoặc có khiếu nại về việc bắt
khẩn cấp; chứng cứ có mâu thuẫn; vụ việc phức tạp khó đánh giá thống nhất về tính
chất hoặc liên quan tới nhiều cấp, nhiều ngành; vụ việc liên quan loại tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng Trong trường hợp này KSV phải thông báo trước về thời gian
tiến hành, để CQCSĐT chủ động trong công tác điều tra, tạo điều kiện cho KSV
thực hiện nhiệm vụ hoặc phối hợp trong quá trình lấy lời khai của người bị bắt. Biên
bản ghi lời khai của người bị bắt do KSV lập phải chuyển cho CQCSĐT và đưa vào
hồ sơ vụ án.
Tám là, Điều 31 BLTTHS năm 2003, điều 32 BLTTHS năm 2015 quy định
về bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS. Công dân, cơ quan, tổ chức có
quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt
động TTHS của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành TTHS hoặc của bất
cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem
xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn
bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Trình tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do BLTTHS quy định.
Tuy nhiên trên thực tế, khi khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng ở giai đoạn điều tra sẽ liên quan đến không chỉ CQCSĐT mà cả VKSND, bởi
vì các quyết định của CQCSĐT thường được VKSND phê chuẩn. Từ đây phát sinh
mối quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND.
Để thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TTHS, Thông tư liên tịch
số 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP ngày 10/8/2005 của VKSNDTC,
TAND tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định
của BLTTHS năm 2003 về khiếu nại, tố cáo. Trong thông tư này đã quy định rõ
84
quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong giai đoạn giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên,
khi có đơn khiếu nại quyết định của VKSND hoặc CQCSĐT, hai ngành cũng phải
chủ động bàn bạc, xác định tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định và có
phương hướng giải quyết theo quy định BLTTHS. Những vấn đề liên quan đến thực
hiện Thông tư này trong giải quyết khiếu nại cần thực hiện với thời gian nhất định.
Các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung phải tiến hành sơ kết, tổng kết để có thể đề
xuất chính xác được vấn đề.
- Sửa đổi và hoàn thiện một số quy định của Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về mối quan hệ phối hợp giữa
CQĐT và VKSND trong thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003
Thông tư liên tịch số 05 đã hướng dẫn cụ thể nhiều nội dung trong hoạt động
tố tụng ở giai đoạn điều tra, tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ phối hợp giữa
VKSND và CQCSĐT trong giải quyết vụ án. Tuy nhiên xét về mặt lý luận, tên gọi
của Thông tư này chưa phù hợp với các nội dung trong Thông tư, còn có sự nhầm
lẫn giữa quan hệ chế ước với quan hệ phối hợp như: việc thay đổi hoặc hủy bỏ các
quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Thủ trưởng CQĐT; việc thay
đổi ĐTV; Trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định
của VKSND. Tuy nhiên, có những hoạt động vừa mang tính phối hợp, vừa mang
tính chế ước, nhưng khi trình bày nội dung Thông tư phải đảm bảo tính khoa học,
đưa các hoạt động đặc trưng của quan hệ phối hợp lên trước, các hoạt động đan xen
cả phối hợp và chế ước xuống sau.
Mặt khác, một số quy định của BLTTHS về tạm giữ như Điều 86 không
quy định khi cơ quan có quyết định tạm giữ phải gửi các tài liệu cho VKSND để
kiểm sát việc tạm giữ, trong khi đó Thông tư số 05 chỉ quy định CQCSĐT cung
cấp hồ sơ cho VKSND khi phê chuẩn, không hướng dẫn vấn đề này nên KSV làm
công tác kiểm sát tạm giữ không có đầy đủ tài liệu cần thiết để thực hiện nhiệm
vụ. Do đó, cần nghiên cứu để bổ sung nội dung: khi tạm giữ CQCSĐT phải gửi
các tài liệu liên quan để VKSND kiểm sát việc tạm giữ trong BLTTHS và Thông
tư liên tịch số 05.
85
Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, nhiều trường hợp KSV đề ra yêu
cầu điều tra rất hợp lý nhưng ĐTV không thực hiện hoặc CQCSĐT đề nghị phê
chuẩn trong trường hợp có đủ căn cứ để phê chuẩn nhưng KSV đề xuất không phê
chuẩn dẫn đến việc xử lý vụ án còn chậm và gặp nhiều khó khăn nhưng không có
chế tài để xử lý. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng quy định về chế tài xử lý đối với
các ĐTV, KSV không thực hiện đúng quy định về mối quan hệ được quy định trong
BLTTHS và Thông tư liên tịch số 05.
Ngoài ra cần hoàn thiện các văn bản pháp luật chuyên ngành về đất đai, tài
chính, chứng khoán, các hình thức sở hữu tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế, chức vụ, và các vụ án tham nhũng. Hoàn thiện cơ chế giám định trong các lĩnh
vực, nhất là giám định ma túy, kế toán, tài chính, môi trường, xây dựng cơ bản để
xác định tính chất, mức độ thiệt hại làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm các đối
tượng phạm tội.
3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi mang tính pháp lý về mối quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh trong điều tra vụ án
hình sự
Để quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS
ngày càng được nâng cao và đạt chất lượng tốt nhất thì cần thiết phải có một cơ chế
pháp lý hoàn chỉnh, quy định cụ thể nội dung và hình thức quan hệ giữa hai cơ quan
này nhằm giúp cho VKSND, CQCSĐT thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm
vụ quyền hạn của mình. Trong đó cần chú ý các nội dung sau:
Một là, trước xu thế phát triển của xã hội và yêu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi
các điều luật phải cụ thể, hợp lý, một số loại tội phạm mới xuất hiện trong nền kinh
tế thị trường, công nghệ thông tin đòi hỏi phải được dự báo và cập nhật kịp thời.
Hơn nữa, thực tiễn công tác điều tra, xử lý tội phạm trong thời gian qua cho thấy,
mặc dù BLHS và một số văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định và
hướng dẫn cụ thể về một số loại tội phạm, tuy nhiên hiện nay trong quá trình toàn
cầu hóa đất nước về mọi mặt của đời sống xã hội cũng đã xuất hiện nhiều hành vi
86
mới hoạt động dưới nhiều hình thức tinh vi, xảo quyệt, lợi dụng kẽ hở của pháp luật
để thực hiện hành vi phạm tội như: tội phạm về ma túy, kinh tế, tham nhũng, tội
phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm mua bán người, tội phạm về môi trường, tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia... Trước tình hình đó đòi hỏi cần có những văn bản
hướng dẫn cụ thể nhằm bổ sung và thực hiện thống nhất giữa các cơ quan chức
năng, các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, xử lý vụ án, trong đó có
VKSND và CQCSĐT.
Hai là, cần hoàn thiện văn bản hướng dẫn thực hiện quy định của BLTTHS
về quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS.
Một số quy định trong BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 chỉ đề cập
đến quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS một cách chung chung,
chưa có những quy định cụ thể nào thể hiện rõ vị trí, trách nhiệm của VKSND và
CQCSĐT trong việc phối hợp, chế ước, không quy định rõ chủ thể nào cụ thể trong
các cơ quan này được thực hiện những hành vi tố tụng. Điều này không chỉ ảnh
hưởng đến trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, mà còn ảnh hưởng đến
mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau giữa VKSND và CQCSĐT. Trong khi
đó, việc ĐTVAHS là một giai đoạn phức tạp có khi giữa hai bên cơ quan xảy ra
những quan điểm khác nhau khi giải quyết VAHS. Thế nên, cần ban hành một văn
bản quy phạm pháp luật quy định rõ về cơ chế thực hiện quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT (thậm chí cả TAND). Nội dung văn bản cần thể hiện rõ: nội dung mối
quan hệ, cách thức thực hiện mối quan hệ, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia,
trách nhiệm cá nhân khi có hành vi sai phạm Điều này được đặt ra để đáp ứng
yêu cầu khách quan của xã hội, khi mà sắp tới đây BLHS năm 2015, BLTTHS năm
2015, Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 được sửa đổi và có hiệu lực thi hành
thì việc khẩn trương xây dựng văn bản mang tính thực thi về quan hệ giữa VKSND
và CQCSĐT trong ĐTVAHS là cần thiết, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong tình hình mới.
Ba là, cần hoàn thiện cơ chế pháp lý về công tác phối hợp giữa VKSND và
CQCSĐT trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
87
khởi tố. BLTTHS năm 2015 đã luật hóa định hướng tăng cường trách nhiệm công tố
và gắn công tố với điều tra. Do đó, quy trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm có rất nhiều quy định về phối hợp, gửi hồ sơ, văn bản, thông báo giữa
VKSND và CQCSĐT nhưng muốn thực hiện được phải có văn bản pháp lý xác
định quy trình, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan.
Thực tiễn áp dụng Thông tư liên tịch số 06 về phối hợp giữa CQCSĐT và
VKSND trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
trong thời gian qua cũng cho thấy việc phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT trong
cập nhật tin báo, tố giác, phân loạicần thiết phải được quy định bằng văn bản
pháp lý mới đảm bảo hiệu quả và đạt được yêu cầu đề ra. Đồng thời, cùng với
những nội dung mới của BLTTHS năm 2015, những nội dung của Thông tư liên
tịch số 06 đã không còn phù hợp. Do đó, cần thiết phải xây dựng Thông tư liên
ngành để hướng dẫn pháp luật, xác định cơ chế phối hợp, trách nhiệm thực hiện và
các chế tài để việc phối hợp thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đạt hiệu quả.
Trong đó cần chú ý quy định các vấn đề sau: cách thức phối hợp để cập nhật sổ
quản lý tố giác, tin báo tội phạm; trách nhiệm phối hợp rà soát, phân loại tố giác, tin
báo về tội phạm; trách nhiệm giải quyết tranh chấp trong việc xác định thông tin có
phải là tin báo, tố giác hay không; các chế tài áp dụng xử lý vi phạm về thời hạn
chuyển hồ sơ, thông báo, ra quyết định tạm đình chỉ, phục hồi giải quyết tố giác, tin
báo tội phạm.
Bốn là, cần xây dựng và ban hành Quy chế về quan hệ TTHS giữa VKSND
và CQCSĐT trong ĐTVAHS.
Phối hợp và chế ước giữa VKSND và CQCSĐT là một hệ thống yếu tố liên
kết phức tạp giữa VKSND và CQCSĐT trong TTHS, trong đó BLTTHS, Luật tổ
chức VKSND, Pháp lệnh tổ chức CQĐT hình sự chỉ quy định những vấn đề mang
tính nguyên tắc, do vậy các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản
hướng dẫn và thể chế hóa những quy định của luật để chi tiết, cụ thể hóa mối quan
hệ này nhằm đảm bảo nhận thức thống nhất và hoạt động có hiệu quả. Mặt khác,
88
các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên đã có
nhiều quy chế, quy định phối hợp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
phối hợp và chế ước giữa hai ngành nhưng nội dung quy chế quy định rất nhiều giai
đoạn từ điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nên chưa có quy chế đặc thù giữa
VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong giai đoạn ĐTVAHS. Do vậy, việc các cơ
quan có thẩm quyền như BCA, VKSNDTC cần ban hành quy chế phối hợp giữa
VKSND và CQCSĐT trong hoạt động TTHS có ý nghĩa quan trọng và cần thiết để
các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp vận dụng, áp dụng thống nhất từ Trung ương
đến địa phương, tạo cơ chế gắn mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra.
Theo tác giả việc nghiên cứu xây dựng quy chế này nên theo từng nội dung tương
ứng với các công việc cụ thể mà VKSND và CQCSĐT cần tiến hành, như:
- Quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc phát hiện, xử lý tin báo, tố
giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
- Quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
- Quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
các biện pháp ngăn chặn.
- Quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc áp dụng các biện pháp thu
thập chứng cứ.
- Quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong hoạt động kết thúc điều tra.
Trong mỗi phần của quy chế nêu trên cần quy định cụ thể về quyền và trách
nhiệm của mỗi cơ quan, của những chủ thể tiến hành tố tụng; trong từng nội dung
cần quy định rõ mối quan hệ phối hợp trong từng chế định nào; mối quan hệ chế
ước trong chế định nào cũng như mối quan hệ đan xen giữa phối hợp và chế ước để
việc thực hiện đạt kết quả cao nhất.
Ngoài ra, trong mối quan hệ tại địa phương giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh
Phú Yên cần xây dựng một văn bản cụ thể quy định mối quan hệ trực tiếp giữa
VKSND và CQCSĐT trong công tác điều tra, truy tố các VAHS trọng điểm và định
ra những nguyên tắc cơ bản trong họp liên ngành, nội dung, hình thức họp liên
ngành nhất là những vấn đề có liên quan đến việc xác định phương hướng điều tra
89
và xử lý các VAHS cụ thể trên cơ sở vừa đảm bảo các nguyên tắc của TTHS vừa
phát huy vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan trong công tác điều tra, khám phá tội
phạm, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
3.2.4. Tăng cư ng ngu n nhân lực của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan
cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự
3.2.4.1. Nâng cao chất lượng Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú
Yên
Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng là thực hiện chiến lược cải cách tư pháp
nhằm đáp ứng các yêu cầu của công tác phòng, chống tội phạm ở nước ta trong tình
hình hiện nay. Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đánh giá: Chất lượng công tác tư
pháp nói chung trong đó có hoạt động của VKSND chưa ngang tầm với yêu cầu và
đòi hỏi của Nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, vi phạm quyền tự do
dân chủ, làm giảm lòng tin đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Đồng
thời Bộ Chính trị khẳng định: “Những tồn tại khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan, nhưng trước hết là do một số nguyên nhân chủ quan
cơ bản sau đây: công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu
cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về
trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản
lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức” [2, tr.12]. Tiếp đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Công
tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu, trình độ
nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số
cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng
sai sót trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử” [3, tr.7].
90
Chính vì lẽ đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ được xác định là một nội dung
quan trọng tất yếu và quyết định đến chất lượng công tác tư pháp nói chung và công
tác của ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng. Có thể thấy rằng, trong nhiều năm qua,
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát ĐTVAHS của KSV các cấp đã có
nhiều tiến bộ và thu được nhiều kết quả quan trọng; KSV các cấp đã thực hành
quyền công tố và kiểm sát được khối lượng lớn các VAHS, tỉ lệ oan sai trong quá
trình giải quyết các VAHS giảm. Để có được thành công đó phải nói đến cuộc vận
động do VKSNDTC phát động từ năm 2012 nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, KSV
“vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh,
kỷ cương và trách nhiệm”, đã làm cho đội ngũ KSV toàn ngành nói chung và KSV
tỉnh Phú Yên nói riêng, nhận thức sâu sắc về chức năng nhiệm vụ, khắc phục những
hạn chế, yếu kém trong việc tu dưỡng, r n luyện, nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm trách nhiệm nghề nghiệp, chuyên môn
nghiệp vụ và đề cao kỷ cương, kỷ luật trong công tác đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế.
Về đội ngũ KSV hiện nay, đa số có lập trường chính trị vững vàng, tin tường
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; trình độ, năng lực của KSV ngày càng được
nâng cao, để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đã chủ động phối hợp với ĐTV
khám phá nhiều vụ án, góp phần nâng cao chất lượng điều tra, truy tố và xét xử.
Tuy nhiên, đội ngũ KSV vẫn còn một số mặt hạn chế như: không ít KSV chưa nhận
thức được đúng đắn, đầy đủ vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong hoạt động
TTHS nói chung cũng như trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nói
riêng. Trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình còn có KSV chưa thực hiện nhiệm vụ
với tinh thần trách nhiệm cao, không thực hiện đầy đủ các quy định tại quy chế thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. KSV không bám sát quá trình điều tra vụ
án, nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không sâu, không khách quan do đó không nắm
được đầy đủ các chứng cứ, tài liệu buộc tội và gỡ tội nên không kịp thời đề ra yêu
cầu điều tra bổ sung chứng cứ. Trình độ năng lực của KSV còn có những hạn chế
nhất định, không ít KSV chưa nắm vững các quy định của pháp luật hình sự và
91
TTHS, còn lúng túng trong việc áp dụng pháp luật, vì vậy, nhiều trường hợp không
xác định đúng đặc trưng của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm để đánh giá
hành vi vi phạm pháp luật của bị can đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay chưa đủ.
Một số KSV thiếu bản lĩnh, bị kẻ xấu lợi dụng, mua chuộc làm tha hóa, biến chất,
tiếp tay cho tội phạm. Điều đó dẫn đến tình trạng hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra thiếu khách quan, chính xác và không đúng pháp luật. Những
tồn tại, hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ công
tác cán bộ nói chung, công tác cán bộ của ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập.
Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong điều tra các VAHS qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT, đòi hỏi khách quan và cần thiết đó
là phải nâng cao chất lượng KSV về mọi mặt, trong đó cần tập trung vào một số
vấn đề sau:
Một là, về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp: Mỗi KSV phải thường
xuyên r n luyện phẩm chất, đạo đức nghề Kiểm sát, là yếu tố quan trọng nhất đối
với đội ngũ KSV - bởi lẽ họ là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra. Phẩm chất chính trị được thể hiện là người có
bản lĩnh chính trị vững vàng, dám nghĩ, dám làm, đấu tranh xử lý nghiêm minh,
không bị mua chuộc; Trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, hết lòng hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ Nhân dân, có bản
lĩnh, ý chí và tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế. Do đặc thù
công việc của đội ngũ KSV là thường xuyên phải tiếp xúc và giải quyết những vụ
việc xâm hại đến tính mạng, sở hữu, quyền con người, quyền công dânvới những
mặt trái của xã hội, những tác động của cuộc sống có thể tác động đến ý chí, tư
tưởng của họ bởi lợi ích kinh tế hay vật chất khácVì vậy, phải nâng cao bản lĩnh
chính trị của KSV để làm nền tảng vững chắc giúp họ tận tâm với công việc, kiên
quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng lệch lạc, giữ vững đạo đức sáng ngời
92
của người cán bộ Kiểm sát mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn “Công minh,
chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.
Hai là, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ trong giai đoạn điều tra đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới
Đội ngũ KSV là lực lượng cán bộ chủ chốt trong đội ngũ công chức của
ngành Kiểm sát nhân dân. Theo quy định của Luật tổ chức VKSND quy định KSV
phải có bằng cử nhân Luật trở lên, vì vậy phải đẩy nhanh việc nâng cao trình độ
chuyên môn từ cao đẳng kiểm sát lên đại học luật (trong đó chú trọng bồi dưỡng
kiến thức về nghiệpvụ điều tra) cho KSV ở VKSND các cấp; nâng cao trình độ lý
luận chính trị và kiến thức quản lý nhà nước (nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, tài
chính). Bên cạnh đó, KSV phải có tư duy lý luận, năng lực hoạt động thực tiễn, sự
nhạy cảm về đánh giá tình hình tội phạm, phương thức, thủ đoạn của tội phạm, nhất
là những tội phạm mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường, công nghệ thông tin
và hội nhập quốc tế; phải thường xuyên cập nhật kiến thức và hiểu biết về quan
điểm đấu tranh chống tội phạm của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì điều kiện về thời gian
bổ nhiệm đối với KSV sơ cấp phải có ít nhất 4 năm làm công tác pháp luật. Quy
định như vậy mục đích để cho KSV có thời gian vận dụng kiến thức lý luận vào
thực tiễn công tác. Vì vậy việc nâng cao trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn là một giải pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng của KSV; Phát
huy được năng lực, kỹ năng của KSV để vận dụng giải quyết trong từng vụ việc cụ
thể. Để thực hiện điều này, đòi hỏi KSV phải có khả năng tư duy logic, thu thập,
phân tích, đánh giá và xử lý các thông tin, các tài liệu có giá trị chứng minh cho vụ
việc đang giải quyết để đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng và chất lượng. Hơn
nữa KSV phải thể hiện kỹ năng của mình thông qua việc tổng hợp, tham mưu, đề
xuất những vấn đề trong vụ án được phân công thực hiện, trình bày quan điểm giải
quyết một cách thuyết phục, có căn cứ và khoa học. Điều quan trọng nhất của mỗi
KSV khi tiến hành kiểm sát là phải phát hiện được các vi phạm của người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trong suốt quá trình điều tra vụ án để thực hiện việc yêu
93
cầu, kiến nghị kịp thời, đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh trong quá
trình điều tra.
Ba là, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra trên cơ sở nắm vững và vận dụng pháp luật hình sự, pháp luật TTHS; có kiến
thức chuyên sâu về nghiệp vụ điều tra nhất là phương pháp tiến hành kiểm sát điều
tra. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị,
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ KSV trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc giải quyết VAHS. Trên cơ sở chú trọng hoạt động tự đào tạo tại chỗ; bằng
nhiều hình thức như tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm, các Hội nghị chuyên đề
nghiệp vụ. Tạo điều kiện để cán bộ, KSV có điều kiện gặp gỡ, giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm thực tế nâng cao trình độ chuyên môn, r n luyện kỹ năng nghiệp vụ.
Tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, KSV học tập nâng cao trình độ, r n luyện kỹ
năng, thao tác nghiệp vụ; phát huy tính chủ động sáng tạo, nêu cao tinh thần trách
nhiệm, mạnh dạn áp dụng sáng kiến trong công việc nhằm nâng cao chất lượng giải
quyết án. VKSNDTC phải thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về
nghiệp vụ kiểm sát điều tra, thông tin trực tuyến về những vấn đề kiểm sát điều tra
trong tình hình mới. Về bản thân KSV phải có sự chủ động phối hợp với ĐTV trong
các hoạt động khởi tố, điều tra nhằm nâng cao chất lượng điều tra, truy tố tội phạm
hiện nay.
Bốn là, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra.
Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06-
12-2013 của Viện trưởng VKSNDTC về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm”. Phối hợp chặt chẽ, kịp thời với các cơ quan có thẩm quyền
điều tra trong phát hiện và xử lý tội phạm; bảo đảm việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm
giam, truy tố có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để xảy ra oan,
sai, bỏ lọt tội phạm; khắc phục tình trạng buông lỏng trách nhiệm, thống nhất một
chiều với CQCSĐT trong phân loại, xử lý án; chấn chỉnh việc ra quyết định không
94
khởi tố VAHS, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án không đúng pháp luật. Kịp thời giải
quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là đơn kêu oan, đơn tố cáo bức cung, dùng nhục hình.
KSV được phân công phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, tài liệu, kiểm sát chặt chẽ từ
khi kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, xem xét việc
phê chuẩn và chủ động đề ra yêu cầu xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ. Kiểm sát
chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án, đảm bảo thu thập, đánh giá đầy đủ, khách quan các
chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội để xác định đúng sự thật vụ án; khắc phục việc
làm oan người vô tội do hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế; chấn chỉnh việc
đình chỉ điều tra không đúng pháp luật để tránh oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm; tạo
điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia các vụ án theo quy định của pháp luật. Bám
sát tiến độ điều tra, đề ra yêu cầu điều tra nhằm khắc phục kịp thời những thiếu sót
về chứng cứ hoặc vi phạm tố tụng. Phối hợp chặt chẽ với CQCSĐT, đánh giá chứng
cứ buộc tội, gỡ tội và thủ tục tố tụng của vụ án. Khi cần thiết tự mình hoặc phối hợp
với CQCSĐT hỏi cung để đánh giá đầy đủ tính chất mức độ phạm tội của từng bị
can trong vụ án. Kịp thời lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, người có
quyền lợi liên quan, xem xét dấu vết hiện trường vụ án, vật chứng có phù hợp với
thực tế khách quan.
Trước khi kết thúc điều tra, KSV chủ động phối hợp với ĐTV nghiên cứu toàn
bộ hồ sơ vụ án, rà soát đánh giá lại toàn bộ chứng cứ và thủ tục tố tụng, phát hiện
những sai sót để bổ sung, hoàn chỉnh. Sau khi kết thúc điều tra KSV tiếp tục nghiên
cứu hồ sơ phát hiện kịp thời những mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án, thực hiện việc phúc
cung tổng hợp đối với từng bị can, nhất là các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, bị
can kêu oan, không nhận tội, phản cung hoặc có mâu thuẫn giữa chứng cứ, tài liệu có
trong hồ sơ vụ án từ đó đề xuất hướng xử lý vụ án, bị can có căn cứ thận trọng.
Năm là, thực hiện nghiêm túc các quy định của BLTTHS; Thông tư liên tịch
số 05/2005/TTLT VKSTC-BCA-BQP ngày 07-9-2005 về mối quan hệ phối hợp
giữa CQĐT và VKSND trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm
2003; Quy chế phối hợp đã ký kết giữa CQĐT - VKSND - TAND như Quy chế
646/QC-LN ngày 25-6-2013 về mối quan hệ phối hợp trong đấu tranh phòng chống
95
tội phạm và giải quyết án hình sự, dân sự, thi hành án của các cơ quan tư pháp tỉnh
Phú Yên. Phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai thực hiện BLHS năm 2015,
BLTTHS năm 2015, Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2005 kịp thời tháo gỡ những
khó khăn vướng mắc đối với các quy định mới.
Tăng cường mối quan hệ giữa KSV và ĐTV trong quá trình giải quyết án,
thống nhất về mặt nhận thức, áp dụng pháp luật cũng như trong việc đánh giá chứng
cứ, xác định tội danh, đường lối xử lý; nếu có khó khăn vướng mắc, kịp thời báo
cáo xin ý kiến của Lãnh đạo liên ngành để thống nhất giải quyết. Trường hợp không
thống nhất được thì xin ý kiến chỉ đạo liên ngành tố tụng cấp trên.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.
Lãnh đạo VKSND tỉnh Phú Yên cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý,
chỉ đạo điều hành công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành trong tiến trình
cải cách tư pháp. Luôn sâu sát, kịp thời, tùy theo tính chất của từng vụ án để phân
công KSV cho phù hợp. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát phát hiện sai sót để
chấn chỉnh, rút kinh nghiệm. Đề cao trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể đối
với các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Xử lý nghiêm đối với người mắc sai
phạm để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng; nghiêm túc kiểm điểm tìm ra
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm để thông báo rút kinh nghiệm chung; kiên quyết
không xét công nhận các danh hiệu thi đua đối với KSV, đơn vị để xảy ra oan, sai,
bỏ lọt tội phạm.
Khuyến khích tạo điều kiện để phát huy sáng kiến, các biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng kiểm sát điều tra và việc xây dựng mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT đạt chất lượng cao.
Rà soát, kiện toàn đội ngũ VKSND cấp tỉnh, bổ sung cán bộ có chức danh tư
pháp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án hình sự.
Điều động, bố trí, sắp xếp biên chế phù hợp cho các đơn vị xảy ra nhiều án; giảm
bớt các công việc kiêm nhiệm đối với KSV trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra.
96
Đề xuất với VKSNDTC tiếp tục nghiên cứu đề xuất Đảng, Nhà Nước, Quốc
Hội, Chính Phủ về các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tư pháp, nhất là
đội ngũ KSV, để đảm bảo việc an tâm hoàn thành nhiệm vụ trước trách nhiệm pháp
lý to lớn mà mỗi KSV phải đảm nhận khi giải quyết án.
Tăng cường kinh phí hoạt động, đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết
bị, phương tiện làm việc cho các VKSND. Nhất là đảm bảo cho hoạt động ghi âm,
ghi hình trong hỏi cung, thực hiện các biện pháp tố tụng đặc biệt theo quy định của
BLTTHS năm 2015.
3.2.4.2. Nâng cao chất lượng Điều tra viên của Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên
Trước những đòi hỏi ngày càng cao của công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong giai đoạn mới, với phương châm vừa phát hiện, xử lý kịp thời đối với
tội phạm nhưng cũng bảo đảm tính chính xác, khách quan, không làm oan người vô
tội hoặc để xảy ra những hạn chế, thiếu sót khác trong giai đoạn điều tra, vấn đề đặt
ra bức thiết là phải nâng cao chất lượng của ĐTV.
ĐTV là những người có chức danh tư pháp, là chủ thể chủ yếu, trực tiếp
trong việc phát hiện, điều tra khám phá tội phạm; hay nói cách khác ĐTV là người
đóng vai trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả ĐTVAHS. Vì vậy, BLTTHS bên
cạnh quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT đã
quy định rõ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của ĐTV; Pháp lệnh tổ chức điều tra hình
sự, Luật tổ chức CQĐT hình sự đã quy định tiêu chuẩn ĐTV, việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm ĐTV. Những quy định này là sự thể hiện tinh thần đổi mới được nêu trong
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị.
Những quy định của pháp luật TTHS về nhiệm vụ, quyền hạn và tiêu chuẩn
của ĐTV là cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ ĐTV theo yêu cầu của cải cách tư
pháp. Tuy nhiên, yêu cầu xây dựng đội ngũ ĐTV có chất lượng đáp ứng được tình
hình mới còn phải căn cứ vào thực trạng của đội ngũ ĐTV hiện nay. Với lực lượng
ĐTV như đã nêu trên, CQCSĐT đã điều tra khám phá nhiều vụ án, góp phần tích
cực vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và
97
trật tự, an toàn xã hội. Qua thực tiễn công tác có thể khẳng định: đa số ĐTV của
CQCSĐT có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, với chế độ xã hội
chủ nghĩa; có phẩm chất đạo đức và ý thức kỷ luật, ý thức phục vụ nhân dân, sẵn
sàng chấp nhận gian khổ, kiên quyết tấn công tội phạm. Chất lượng ĐTV đã được
nâng lên cả về trình độ nghiệp vụ, năng lực làm việc từng bước đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm và yêu cầu về trình độ ĐTV còn nhiều bất cập, thể hiện trên các phương
diện sau:
Về năng lực nghiệp vụ, do trình độ của một số ĐTV còn có mặt hạn chế nên
đã ảnh hưởng đến năng lực điều tra, khám phá tội phạm. Trong thực tiễn hoạt động
điều tra, bên cạnh những mặt tích cực, một số ĐTV chưa nắm vững những quy định
của pháp luật hình sự, pháp luật TTHS và các kiến thức có liên quan; phương pháp
điều tra còn hạn chế... Những khuyết điểm nêu trên là một trong những nguyên
nhân dẫn đến việc điều tra vụ án để kéo dài, vi phạm các nguyên tắc của TTHS,
thậm chí dẫn đến oan, sai trong công tác bắt, giam giữ, điều tra, xử lý tội phạm.
Về phẩm chất đạo đức, bên cạnh đa số ĐTV có phẩm chất, tư cách tốt, vẫn
còn một bộ phận ĐTV chưa đề cao tinh thần trách nhiệm, chấp hành kỷ luật không
nghiêm, vi phạm chế độ công tác, làm sai lệch hồ sơ vụ án...
Vì vậy, cần thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ ĐTV nhằm quán triệt
quan điểm “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh” được nêu
trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp sắp tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, để ĐTV
có thể thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình được quy định trong
BLTTHS, đáp ứng tiêu chuẩn ĐTV trong Pháp lệnh, Luật tổ chức CQĐT hình sự,
cần thực hiện một số vấn đề sau:
Một là, trên cơ sở những quy định chung về tiêu chuẩn ĐTV trong Pháp lệnh
tổ chức điều tra hình sự, phải xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ cho từng chức danh
ĐTV cao cấp, ĐTV trung cấp, ĐTV sơ cấp phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ điều tra
98
của CQCSĐT. Đây là cơ sở để xây dựng nội dung đào tạo, bồi dưỡng ĐTV theo
tiêu chuẩn chức danh trong các học viện, các trường đại học Công an.
Hai là, thực hiện nghiêm túc quy định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức,
kiểm tra, sát hạch trước khi bổ nhiệm các chức danh ĐTV. Đảm bảo trong nhu cầu
công tác đáp ứng đủ ĐTV; thực hiện ngay việc tuyển dụng cán bộ có trình độ
chuyên môn về khoa học, công nghệ, kinh tế, ngoại ngữ, tin học có khả năng làm
công tác điều tra đưa đi đào tạo, bồi dưỡng để bố trí vào những đơn vị thích hợp.
Trong việc bố trí, sắp xếp và phân công ĐTV thực hiện nhiệm vụ điều tra phải chú
ý đến phẩm chất và năng lực, sở trường của từng ĐTV để phát huy được thế mạnh
của từng ĐTV.
Ba là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động điều
tra của ĐTV; gắn công tác này với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao
bản lĩnh chính trị, tinh thần tấn công tội phạm, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; có đạo đức trong sạch, tăng cường r n luyện phẩm
chất và đạo đức nghề nghiệp cho ĐTV. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQCSĐT cấp
tỉnh cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ của CQCSĐT cấp trên
với CQCSĐT cấp dưới để phát hiện kịp thời những sơ hở, thiếu sót trong công tác
và phòng ngừa những sai phạm của ĐTV.
Để tạo điều kiện cho ĐTV có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ, BCA cần có kế
hoạch đầu tư các trang thiết bị và phương tiện làm việc cần thiết phục vụ công tác
điều tra, đồng thời có chính sách phù hợp khuyến khích, khen thưởng xứng đáng
những cán bộ có thành tích trong công tác điều tra, khám phá tội phạm.
Bốn là, để tăng cường quan hệ TTHS giữa VKSND và CQCSĐT, CQCSĐT
cấp trên một mặt thường xuyên kiểm tra công việc của CQCSĐT cấp dưới, mặt
khác phải định kỳ hoặc đột xuất tổ chức các cuộc họp với VKSND, rút kinh nghiệm
về công tác điều tra, kiểm sát và xây dựng mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa hai
ngành, nhất là khi xảy ra những xung đột liên quan đến định tội danh, áp dụng các
biện pháp ngăn chặn, thực hiện yêu cầu điều tra, phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
các quyết định tố tụng của CQCSĐT, xử lý tội phạm...
99
Kết luận chương 3
Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả mối quan hệ giữa VKSND tỉnh và
CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS, luận văn đã phân tích làm rõ yêu cầu
khách quan và sự cần thiết để tăng cường mối quan hệ giữa hai cơ quan cũng như
đề xuất các giải pháp về: nâng cao nhận thức của KSV và ĐTV về vai trò và mối
quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS; tiếp tục
hoàn thiện và thể chế hóa bằng văn bản pháp luật về mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT cũng như xây dựng cơ chế thực thi mang tính pháp lý về mối quan hệ
giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS; Qua đó đề xuất giải pháp tăng cường
nguồn nhân lực của KSV và ĐTV – lực lượng chính yếu đảm bảo điều tra đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
100
KẾT LUẬN
Công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta nói chung và tỉnh
Phú Yên nói riêng đã dành được những kết quả nhất định, trong đó có sự đóng góp
tích cực của VKSND và CQCSĐT thông qua việc thực hiện đúng đắn mối quan hệ
giữa hai cơ quan trong quá trình ĐTVAHS. Điều này xuất phát từ mục đích chung
của hoạt động TTHS là phát hiện, xử lý, nghiêm minh, kịp thời các hành vi phạm
tội, do đó dù các cơ quan tiến hành tố tụng tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau
nhưng xuất phát từ mục đích chung này mà có mối quan hệ với nhau. Từ đó, giữa
VKSND và CQCSĐT có mối quan hệ phối hợp, chế ước và ràng buộc lẫn nhau,
nhằm một mục đích chung là bảo đảm chất lượng và hiệu quả của quá trình điều tra,
xử lý VAHS. Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT tỉnh Phú Yên không chỉ góp phần nâng cao chất lượng giải quyết án mà
còn phát huy được tinh thần, trách nhiệm của mỗi cơ quan trong công cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương.
Luận văn đã nghiên cứu, làm rõ nhận thức chung về ĐTVAHS, trong đó đã
làm rõ được khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của VKSND và CQCSĐT cấp tỉnh.
Đồng thời, đã phân tích, làm rõ bản chất, nội dung, hình thức mối quan hệ giữa
VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Đó là mối quan hệ phối hợp và chế ước
trong ĐTVAHS nhưng cùng chung mục đích là giải quyết đúng đắn vụ án, bảo vệ
pháp luật, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội mang lại cuộc sống bình yên cho
mọi người.
Qua đó, luận văn đã phân tích, làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa VKSND
và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong từng nội dung như trách nhiệm của VKSND và
CQCSĐT trong tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi
tố; khởi tố VAHS, khởi tố bị can; trong áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp
ngăn chặn; trong các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh
Phú Yên, luận văn đã đưa ra một số nhận xét về kết quả đạt được, tìm ra những tồn
tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Kết quả nghiên cứu cho
101
thấy, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS ngày
càng có hiệu quả, chất lượng điều tra, xử lý tội phạm và chất lượng thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra ngày càng được nâng cao, tạo chuyển biến tốt trong hoạt
động điều tra, truy tố, bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong quan
hệ vẫn còn bộc lộ một số khuyết điểm, tồn tại, hạn chế do những nguyên nhân chủ
quan và khách quan. Đây là những kết luận mới, rất quan trọng, là cơ sở lý luận cho
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong
ĐTVAHS.
Trên cơ sở xác định yêu cầu khách quan và cần thiết của việc nâng cao hiệu
quả quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong DTVAHS, luận văn đã đề xuất 04
giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS
trong thời gian tới, gồm: Nâng cao nhận thức của KSV và ĐTV về vai trò và mối
quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS;
Tiếp tục hoàn thiện và thể chế hóa bằng văn bản pháp luật về mối quan hệ giữa
VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS; Xây dựng cơ chế thực thi mang tính pháp lý
về mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong
ĐTVAHS; Tăng cường nguồn nhân lực của VKSND và CQCSĐT góp phần nâng
cao hiệu quả mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên
trong ĐTVAHS.
Hy vọng với kết quả nghiên cứu của tác giả sẽ có những đóng góp tích cực
vào nhận thức và hoạt động của VKSND và CQCSĐT trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình. Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả quan hệ giữa
VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong thời gian tới./.
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh (2012), “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các CQĐT theo định hướng cải cách tư pháp”, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp sắp tới.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
4. Bộ Công an (2014), Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày 7/7/2014 quy định
về công tác điều tra hình sự trong CAND.
5. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Thông tư liên
tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày
02/8/2013 của Liên ngành Trung ương hướng dẫn thi hành quy định
BLTTHS về tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố.
6. Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1963), Thông tư liên bộ số
427/TTLT ngày 28/6/1963 quy định tạm th i một số nguyên tắc về quan
hệ công tác giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an.
7. Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1984), Thông tư liên bộ số
01/TTLB ngày 23/01/1984 hướng dẫn về công tác điều tra và kiểm sát
điều tra.
8. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Công an - Viện kiểm sát - Tòa án tỉnh Phú Yên (2013), Quy chế số
646/QC-LN ngày 25/6/2013 về việc phối hợp trong đấu tranh phòng,
103
chống tội phạm và giải quyết án hình sự, dân sự, hành chính, thi hành án
hình sự của các Cơ quan tư pháp tỉnh Phú Yên.
10. Chính phủ (1959), Nghị định số 256/TTg ngày 01/7/1959 quy định về
nhiệm vụ và tổ chức của Viện Công tố.
11. Chính phủ (1998), Nghị quyết 09/CP ngày 31/8/1998 của Chính phủ về
tăng cư ng công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
12. Đào Hữu Dân (2006), “Mối quan hệ giữa Cơ quan CSĐT với VKSND trong
điều tra vụ án hình sự”, Luận án tiến sỹ, Học viện Cảnh sát nhân dân.
13. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Trần Minh Đạo (2012), “Kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng quan
trọng của Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Kiểm sát, số 10 (52), tr 17 - 20.
15. Nguyễn Ngọc Điệp (2001), Những điều cần biết về thủ tục khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, Nxb. Công an nhân dân, Thành phố Hồ
Chí Minh.
16. Lê Thị Tuyết Hoa (2002), “Quyền công tố ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ,
Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp Luật.
17. TS. Trần Đình Nhã (2001), "Chức năng công tố của VKS, mối quan hệ
giữa việc thực hiện quyền công tố với các hoạt động kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử", Tham luận tại Hội nghị khoa học "Tổ chức và hoạt động
của VKS nhân dân trong tình hình mới" do Ủy ban pháp luật của Quốc
hội tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 4/10/2001.
18. TS. Nguyễn Hải Phong (2014), “Tăng cư ng trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải
cách tư pháp”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. PGS. TS. Đỗ Ngọc Quang (2004), “Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với
cơ quan tố tụng hình sự”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
104
20. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Quốc hội (1959), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1959, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Quốc hội (1980), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1980, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Quốc hội (1992), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Quốc hội (2001), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội (2013), Hiến pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội (1960), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
30. Quốc hội (1981), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội (1992), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
32. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
33. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
34. Quốc hội (2015), Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
105
35. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc
lùi hiệu lực thi hành BLHS, BLTTHS năm 2015.
36. Nguyễn Tiến Sơn (2012), “Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT trong tố tụng
hình sự Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, số 18 (23), tr. 29-34.
37. Nguyễn Khắc Thành (2012), “Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan ANĐT
và VKSND trong điều tra vụ án do Cơ quan an ninh điều tra thụ lý từ
năm 2004 đến nay - Thực trạng và giải pháp”, Luận án Tiến sỹ, Học viện
An ninh nhân dân.
38. TS. Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
39. TS. Lê Hữu Thể (2012), “Vai trò của VKS trong việc thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”, Đề tài
khoa học cấp Bộ.
40. TS. Lê Hữu Thể (2011), “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam
theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 05 (102), tr. 13-16.
41. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Công văn số 234/TANDTC-HS ngày 17
tháng 09 năm 2014, về giám định hàm lượng ma túy.
42. Từ điển Bách khoa Công an nhân dân (2005), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Từ điển Luật học (1999), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam (2000), Từ điển Tiếng Việt
(2000), Nxb. Đà Nẵng
45. Võ Huy Triết (2012), “Kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát
nhân dân là yêu cầu tất yếu của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Kiểm sát, số 10 (52), tr. 21-23.
46. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106
47. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày
6/12/2013, về tăng cư ng trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra.
48. Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ Công an – Bộ quốc phòng (2005),
Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT/VKSTC-BCA-BQP ngày 7/9/2005 về
quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực
hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003.
49. Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Tòa án nhân dân tối cao
(2010), Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC
ngày 27/8/2010 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, TAND
tối cao hướng dẫn về trả h sơ điều tra bổ sung.
50. Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Tòa án nhân dân tối cao-
Bộ quốc phòng (2005), Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC-
TATC-BCA-BQP-BTP ngày 10/8/2005 của VKS tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, hướng dẫn thi hành một số quy định
của BLTTHS năm 2003 về khiếu nại, tố cáo..
51. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Quyết định số 07/2008/QĐ-
VKSTC ngày 2/1/2008 ban hành kèm theo quy chế thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự.
52. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2013), Báo cáo tổng kết công tác
kiểm sát.
53. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2014), Báo cáo tổng kết công tác
kiểm sát.
54. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2015), Báo cáo tổng kết công tác
kiểm sát.
55. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2016), Báo cáo tổng kết công tác
kiểm sát.
107
56. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2013), Kiến nghị vi phạm trong
hoạt động điều tra vụ án hình sự.
57. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2014), Kiến nghị vi phạm trong
hoạt động điều tra vụ án hình sự.
58. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2015), Kiến nghị vi phạm trong
hoạt động điều tra vụ án hình sự.
59. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2016), Kiến nghị vi phạm trong
hoạt động điều tra vụ án hình sự.
60. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2015), Thực trạng và giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả mối quan hệ phối hợp liên ngành tư pháp
trong giải quyết vụ án hình sự.
108
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_moi_quan_he_giua_vien_kiem_sat_nhan_dan_tinh_va_co.pdf