Luận văn Một số biện pháp xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản

Để đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung, sang thị trường Nhật Bản nói riêng của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam, ngoài việc phải có một nguồn hàng xuất khẩu đáp ứng được các quy định về chất lượng, an toàn, vệ sinh thực phẩm và thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản, doanh nghiệp phải thực hiện tốt các hoạt động XTXK. Để thực hiện được hoạt động này một cách có hiệu quả, doanh nghiệp phải có một đội ngũ cán bộ giỏi có năng lực đáp ứng được công tác này. Sau đây là các giải pháp cụ thể phát triển đội ngũ cán bộ XTXK của các doanh nghiệp: - Áp dụng các nguyên tắc tiên tiến trong quản lý nguồn nhân lực, xác định vị trí, chức danh, nhiệm vụ của công việc để tuyển chọn người thích hợp,v.v. . - Tạo môi trường làm việc thuận lợi và tiện nghi, có chính sách tiền lương hợp lý và sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích người làm công tác XTXK đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao;

pdf122 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2677 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sách hạn chế nên: - Đầu tư có trọng điểm, tập trung đầu tư vào những công trình cơ sở hạ tầng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao; Ưu tiên đầu tư cho việc phát triển cơ sở hạ tầng cho thương mại điện tử ở Việt Nam gồm cơ sở hạ tầng về mặt pháp lý, dân trí, chính trị, xã hội, trang thiết bị kỹ thuật, phần cứng... ; Trực tiếp đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, trung tâm hội chợ triển lãm, các sở giao dịch hàng hoá ở các vùng trọng điểm trong nước, đầu tư cho việc thuê mặt bằng, trang thiết bị và nhân lực để hình thành các Trung tâm thương mại Việt Nam ở các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Nhật Bản,v.v... . - Đặc biệt chú trọng đến hiệu quả đầu tư, cải tiến quy trình tuyển chọn nhà thầu xây dựng cơ bản, công khai hoá và minh bạch hoá thủ tục đấu thầu, nâng cao năng lực và phẩm chất cán bộ quản lý nhà nước các công trình cơ sở hạ tầng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những tiêu cực và thất thoát có thể xảy ra; - Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các dự án cải thiện và nâng cấp điều kiện cơ sở hạ tầng qua hệ thống thuế ưu đãi, hình thành các khu chế xuất, khu công nghiệp và tích cực cải cách hành chính để tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài; - Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA: Có thể nói, các dự án ODA là nguồn lực bổ sung lớn, hỗ trợ cho việc phát triển và nâng cấp cơ sở hạ tầng của Việt Nam. Song trên thực tế, các dự án ODA vẫn chưa được khai thác và sử dụng hiệu quả. Để khắc phục hiện trạng này, cần phải tăng cường hoạt động của bộ phận quản lý Nhà nước trực tiếp đối với các dự án, kể cả đầu tư nâng cấp các thiết bị - 88 - kỹ thuật phục vụ hoạt động thường xuyên của bộ máy này; Tích cực đào tạo, nhanh chóng nâng cao năng lực cho lực lượng lao động dự án; Có chế độ kiểm tra định kỳ việc thực hiện quy chế hoạt động và kết quả triển khai các dự án để có xử lý kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả các dự án; Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan đến hoạt động của dự án và sự phối hợp giữa các dự án với nhau; Nâng cao vai trò lãnh đạo của các nhà quản lý dự án theo hướng chủ động trong công việc, tránh tình trạng lệ thuộc vào các chuyên gia, cố vấn kỹ thuật và tích cực đề xuất các kiến nghị, kịp thời tham mưu cho lãnh đạo các cấp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dự án; Quan hệ chặt chẽ, thường xuyên và phối hợp hoạt động với các nhà tài trợ,v.v... . - Tăng cường hợp tác quốc tế trong các công trình cơ sở hạ tầng để tranh thủ các nguồn ngoại lực như vốn, kỹ thuật, tư vấn và quản lý cho việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ xuất khẩu của đất nước. - Thành lập Showroom hàng Việt Nam tại Tokyo và các thành phố lớn của Nhật Bản để giới thiệu và trưng bày toàn bộ hàng hoá có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam cũng như các mặt hàng tiềm năng có khả năng xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. Việc thành lập Showroom là rất cần thiết vì nó sẽ làm tăng cường XTTM Việt Nam tại thị trường Nhật Bản, góp phần gia tăng số lượng giới thiệu đối tác doanh nghiệp Nhật Bản với doanh nghiệp Việt Nam và ngược lại; thu hút ngày càng nhiều các doanh nghiệp Nhật Bản đến xem hàng hoá, làm việc và ký kết hợp đồng với doanh nghiệp Việt Nam; đáp ứng nhu cầu gửi hàng mẫu ngày càng nhiều của các doanh nghiệp Việt Nam sang giới thiệu tại Đại sứ quán Việt Nam ở Nhật Bản hiện nay; giới thiệu một cách đa dạng thế mạnh của ta với các doanh nghiệp Nhật Bản. Để phát triển một mạng lưới thông tin thương mại quốc gia đáp ứng được yêu cầu của hoạt động XTXK thời gian tới, cần có một số giải pháp sau đây: - Cần phải chia sẻ trách nhiệm về công tác thông tin giữa Chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức XTXK theo hướng các doanh nghiệp phải khắc phục tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự cung cấp thông tin miễn phí từ phía các tổ chức TPOs của chính phủ mà phải có những nỗ lực của bản thân doanh nghiệp để tổ - 89 - chức tốt công tác thông tin của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải đổi mới công tác thông tin và xây dựng bộ phận thông tin do giám đốc doanh nghiệp trực tiếp chỉ đạo, cử các cán bộ đi học, đào tạo về công tác thông tin để có kiến thức và kỹ năng tổ chức thu thập và xử lý thông tin cho tốt, tiến hành phân loại thông tin và triển khai việc hợp tác, chia sẻ và trao đổi thông tin trong và ngoài doanh nghiệp,v.v... . - Các hiệp hội ngành hàng và các hiệp hội doanh nghiệp phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin chuyên ngành cho các hội viên của mình. Vai trò của hiệp hội là phải nghiên cứu, tổng hợp các yêu cầu về thông tin của các doanh nghiệp hội viên và tổ chức thực hiện việc cung cấp thông tin chuyên ngành cho các doanh nghiệp hội viên theo yêu cầu, đồng thời có phương án hợp tác, chia sẻ và trao đổi thông tin với các tổ chức XTXK khác,v.v... . - Hệ thống thông tin của Chính phủ là không thể thiếu (ngay cả đối với các nước công nghiệp phát triển vẫn có các tổ chức thông tin quốc gia để đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ quản lý nhà nước cũng như yêu cầu nguồn tin cơ bản của giới kinh doanh). Vai trò hỗ trợ về thông tin của Chính phủ cho doanh nghiệp thể hiện ở việc cơ quan Chính phủ trực tiếp cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp hay hỗ trợ gián tiếp thông qua việc tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận được các thông tin cần thiết với giá cả cạnh tranh, cải tiến và nâng cấp điều kiện cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực làm công tác thông tin hay hỗ trợ về tài chính cho công tác phát triển thông tin,v.v... . - Thiết lập mạng lưới thông tin thương mại quốc gia hiện đại và lưu thông thông suốt, phủ sóng rộng khắp cả trong nước và quốc tế, đảm bảo cho các doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tiếp cận được một cách dễ dàng và miễn phí các thông tin thương mại cơ bản như thông tin về chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, các thông tin về môi trường kinh doanh tổng thể của Việt Nam, các thông tin tổng hợp và có tính dự báo trung và dài hạn,v.v... . - Xây dựng các cơ chế, chính sách thích hợp để khuyến khích nâng cao chất lượng thông tin (cấp kinh phí cho việc đào tạo cán bộ thông tin, cải thiện - 90 - điều kiện trang thiết bị thu thập và xử lý thông tin, mua các thông tin, sách báo và ấn phẩm của các tổ chức thông tin nước ngoài có uy tín, khuyến khích các tham tán, đại diện thương mại ở nước ngoài cung cấp thông tin có phí cho các doanh nghiệp và cá nhân có yêu cầu về các thông tin chuyên biệt, cụ thể,v.v...). - Xây dựng và nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng thư viện chuyên ngành thương mại thuộc mạng lưới thông tin thương mại quốc gia. Nhà nước và các thể chế hỗ trợ khác cần có các biện pháp sau đây để giúp các DNVVN tiếp cận được các thông tin hữu dụng: Thành lập các ngân hàng dữ liệu về DNVVN, về thị trường, sản phẩm, công nghệ, đối tác ở các cơ quan chuyên môn hỗ trợ DNVVN của cả khu vực nhà nước và tư nhân để phân phát hoặc bán với giá ưu đãi cho các DNVVN có nhu cầu; Phổ biến kinh nghiệm sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu bằng nhiều hình thức như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài phát thành, truyền hình, tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ, tổ chức hội thảo, hội nghị,v.v…; Tạo điều kiện thuận lợi để các DNVVN có thể tham gia hội chợ, triển lãm ở trong và ngoài nước, ký kết các hợp đồng kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước,v.v... . Đối với việc tổ chức kênh thông tin về thị trường Nhật Bản phục vụ cho các doanh nghiệp, các cơ quan của Chính phủ Việt Nam có thể hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp như sau: - Thông qua trang Web của Bộ Thương mại mà giới thiệu về thị trường và các nhà nhập khẩu Nhật Bản đối với các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. - Cục XTTM (VIETRADE) cần phối hợp chặt chẽ với JETRO của Nhật Bản hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam thu thập và tìm kiếm các thông tin cần thiết về thị trường Nhật Bản, các nhà nhập khẩu Nhật Bản, các sản phẩm tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. - Cần tăng cường vai trò hỗ trợ và giúp đỡ của Tham tán thương mại Việt Nam tại Nhật Bản đối với việc cung cấp thông tin có phí cho các doanh nghiệp theo yêu cầu của doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này. - 91 - - Cần tranh thủ khai thác tối đa sự hỗ trợ và giúp đỡ của Sứ quán Nhật Bản, JETRO, Trung tâm phát triển nguồn nhân lực và đại diện của các doanh nghiệp Nhật tại Việt Nam cho sự phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Đối với việc tham gia hội chợ, triển lãm tại Nhật Bản: Cục XTTM cần công bố danh mục các hội chợ thương mại hàng năm tổ chức tại Nhật Bản cho các doanh nghiệp, đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp đăng ký tham gia và đề xuất mức hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ tại Nhật Bản. Phối hợp với các tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp tổ chức và tham gia các hội chợ quốc tế chuyên ngành thực phẩm như FOODEX (Nhật Bản),v.v... để tạo điều kiện XTTM, mở rộng thị trường. Đối với việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát thị trường Nhật Bản và đón tiếp các doanh nhân Nhật Bản tới Việt Nam: Cục XTTM là đơn vị đầu mối, phối hợp với các tổ chức hỗ trợ thương mại khác và các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch và dự trù mức hỗ trợ kinh phí đoàn sang thị trường Nhật Bản và đón tiếp đoàn Nhật Bản tại Việt Nam trong khuôn khổ kinh phí của chương trình XTTM trọng điểm quốc gia phát triển xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản,v.v… Nhà nước hỗ trợ thực hiện các chương trình xúc tiến thiết kế mẫu mã sản phẩm cho hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, đặc biệt là đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Ví dụ như Chương trình kiểm tra thiết kế nhằm hạn chế nạn ăn cắp thiết kế, vi phạm bản quyền; Chương trình triển lãm thiết kế hàng xuất khẩu Việt Nam sang Nhật Bản; Các chương trình XTXK hàng hoá kiểu dáng đẹp của Việt Nam... Những hỗ trợ của Nhà nước bao gồm cả việc hỗ trợ đào tạo nghệ nhân, các nhà tạo mẫu sản phẩm, tổ chức các cuộc thi chọn sản phẩm độc đáo cho xuất khẩu,v.v… . Phối hợp với các tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp nghiên cứu xây dựng và đưa vào hoạt động thí điểm các mô hình sở giao dịch, trung tâm giao dịch nông sản ở vùng nguyên liệu nông sản, vùng rau quả trọng điểm để rút kinh nghiệm, hoàn thiện và nhân rộng ra các vùng sản xuất lớn khác. - 92 - Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng XTXK có tầm quan trọng chiến lược vừa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp giao lưu tiếp xúc với nhau vừa tạo môi trường phát triển thương mại dịch vụ, tạo thêm công ăn việc làm. 3.2.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp 3.2.2.1 Nâng cao nhận thức và chú trọng vào hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản Nhận thức và hiểu biết của của doanh nghiệp về vai trò của XTXK đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh của mình còn rất hạn chế. Doanh nghiệp chưa thấy hết được vai trò của XTXK đối với việc phát triển hoạt động sản xuất và xuất khẩu, đặc biệt là XTXK sang các thị trường của các nước phát triển như Nhật Bản. Các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu được khá nhiều mặt hàng sang thị trường Nhật Bản, nhưng chủ yếu dưới nhãn mác gia công của nước ngoài, hoặc dưới nhãn mác của nước ngoài. Như vậy, mặc dù người Nhật Bản dùng hàng Việt Nam nhưng không hề biết đó là hàng Việt Nam. Do đó, để người Nhật biết nhiều hơn về hàng Việt Nam, các doanh nghiệp phải nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động XTXK đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Qua phân tích trên có thể thấy, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Nhật Bản ngoài việc có được hàng hóa đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản thì một khâu không thể thiếu được để đưa hàng hóa tới được thị trường và người tiêu dùng Nhật Bản đó là doanh nghiệp phải nhận thức được vai trò của XTXK đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và chú trọng đối với hoạt động này. Để nâng cao nhận thức, các doanh nghiệp cần phải: - Xác định được công tác XTXK là một trong những nhân tố góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh mới hậu WTO. - Xây dựng đội ngũ cán bộ có kỹ năng làm công tác XTXK là yếu tố quan trọng hàng đầu để thực hiện có hiệu quả công tác XTXK của doanh nghiệp. - 93 - - Mục tiêu XTXK của doanh nghiệp không chỉ giới hạn ở việc gia tăng doanh số bán hoặc doanh thu xuất khẩu mà còn phải tạo lập, duy trì và phát huy thương hiệu của hàng hoá, hình ảnh của doanh nghiệp và đất nước. Doanh nghiệp phải tích cực thực hiện các hoạt động XTXK sang thị trường Nhật Bản thông qua việc khảo sát thực tế thị trường, tham gia các hội chợ triển lãm được tổ chức tại thị trường Nhật Bản, tham gia các hội thảo, hội nghị về buôn bán với thị trường Nhật Bản, tìm hiểu thông tin về thị trường và các nhà nhập khẩu Nhật Bản thông qua thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, các tổ chức XTTM, qua Internet,v.v... . 3.2.2.2 Tăng kinh phí cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản Hoạt động XTXK không chỉ dừng lại ở chỗ tìm kiếm, mở rộng thị trường và khách hàng mà phải biết gắn kết với hoạt động cải tiến và phát triển sản phẩm mới để bán cái mà thị trường cần chứ không phải bán cái mà mình có. Phải đặc biệt chú ý tới công tác nghiên cứu thị trường, phát hiện lợi thế cạnh tranh, tạo ra những sản phẩm độc đáo. Kết hợp hoạt động mở rộng thị trường với các biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá, tạo chỗ đứng vững chắc cho hàng Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. Những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng hơn tới hoạt động XTXK, tuy nhiên kinh phí dành cho hoạt động này vẫn còn hạn hẹp, chưa tương xứng với vai trò của nó đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Để hoạt động XTXK mang lại hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc làm tăng lượng hàng xuất khẩu sang Nhật Bản, các doanh nghiệp cần phải dành một khoản kinh phí hợp lý hay nói cách khác tăng kinh phí cho hoạt động XTXK. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù các doanh nghiệp có nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động XTXK (mức độ nhận thức khác nhau), tuy nhiên nhiều doanh nghiệp rất thiếu vốn kinh doanh hàng xuất khẩu, do đó càng khó để có thể dành một khoản để thực hiện hoạt động XTXK. Để - 94 - giải quyết tình trạng này, một mặt, doanh nghiệp cần kiến nghị với Nhà nước sửa đổi, điều chỉnh những chính sách, cơ chế về tài chính tiền tệ đã lỗi thời gây ách tắc cản trở hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp, mặt khác doanh nghiệp cần chủ động tự tìm cách tháo gỡ. Để khắc phục khó khăn về vốn, doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp sau: - Tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp để phát hành rộng rãi cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi để doanh nghiệp tham gia quá trình tích tụ và tập trung vốn có hiệu quả cao, đảm bảo kịp thời nguồn vốn cho nhu cầu mở rộng sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. - Huy động vốn của cán bộ, công nhân viên trong nội bộ doanh nghiệp dưới hình thức vay ngắn hạn hoặc dài hạn với lãi suất khuyến khích. Đồng thời, ấn định một mức đóng góp hợp lý bằng tiền từ lực lượng lao động mới đã đủ tiêu chuẩn được tuyển dụng vào doanh nghiệp như là một khoản thế chấp bảo đảm. - Khuyến khích cá nhân, tổ chức, kể cả ngân hàng trong và ngoài nước, Việt kiều ở nước ngoài bỏ vốn đầu tư dưới hình thức liên doanh liên kết, đóng góp cổ phần hoặc đầu tư trực tiếp thông qua các dự án đầu tư mở rộng xuất khẩu sang Nhật Bản hứa hẹn mang lại hiệu quả cao. Đây là nguồn vốn tiềm ẩn lớn ở ngoài xã hội mà doanh nghiệp cần huy động tối đa cho sự phát triển thời gian trước mắt. - Tích luỹ vốn từ lợi nhuận và khấu hao: Doanh nghiệp tồn tại phát triển được nhờ hoạt động kinh doanh có lợi nhuận. Vì vậy, việc phân bổ lợi nhuận cần phải được doanh nghiệp dành tỷ lệ lớn vào việc tăng vốn lưu động trong thời gian đầu và ở mức nhất định vào những năm sau. Việc chuyển một phần lợi nhuận sang làm vốn đầu tư tái sản xuất mở rộng là con đường tích luỹ vốn, tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sử dụng vốn: Việc huy động vốn phải đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, vì vậy doanh nghiệp xuất khẩu phải tính toán ngoài phần vốn dành cho việc sản xuất, thu gom hàng xuất khẩu, doanh nghiệp phải để dành một khoản hợp lý - 95 - để thực hiện các hoạt động XTXK thì hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường Nhật Bản mới thu được hiệu quả cao. 3.2.2.3 Xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác xúc tiến xuất khẩu Để đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung, sang thị trường Nhật Bản nói riêng của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam, ngoài việc phải có một nguồn hàng xuất khẩu đáp ứng được các quy định về chất lượng, an toàn, vệ sinh thực phẩm và thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản, doanh nghiệp phải thực hiện tốt các hoạt động XTXK. Để thực hiện được hoạt động này một cách có hiệu quả, doanh nghiệp phải có một đội ngũ cán bộ giỏi có năng lực đáp ứng được công tác này. Sau đây là các giải pháp cụ thể phát triển đội ngũ cán bộ XTXK của các doanh nghiệp: - Áp dụng các nguyên tắc tiên tiến trong quản lý nguồn nhân lực, xác định vị trí, chức danh, nhiệm vụ của công việc để tuyển chọn người thích hợp,v.v... . - Tạo môi trường làm việc thuận lợi và tiện nghi, có chính sách tiền lương hợp lý và sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích người làm công tác XTXK đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; - Tuyển dụng thêm cán bộ mới làm công tác XTXK để bổ sung vào đội ngũ cán bộ đang còn rất thiếu cho hoạt động này. Tuyển những người có trình độ chuyên môn. Việc tuyển dụng mới cán bộ hoạt động XTXK phải chú trọng các tiêu chí về kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, về quan hệ kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế; kỹ năng nghiên cứu thị trường và marketing xuất khẩu, tổ chức thu thập và xử lý thông tin, sử dụng máy vi tính, kinh tế mạng; về trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp và đàm phán tốt,v.v... . - Đào tạo lại những cán bộ cũ để nâng cao cả trình độ chuyên môn lẫn ngoại ngữ: Nhìn chung, ở các doanh nghiệp đội ngũ cán bộ làm công tác XTXK còn mỏng và nhiều khi không được đào tạo cơ bản, nên hiệu quả của công tác XTXK của doanh nghiệp không cao. - 96 - - Tạo cơ hội cho họ được tiếp cận nhiều hơn với thị trường Nhật Bản để hiểu được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, nắm được các kênh phân phối hàng hàng hoá trên thị trường Nhật Bản, đặc điểm kinh doanh hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp Nhật Bản, tiếp cận được các đối tác nhập khẩu có uy tín và có khả năng làm ăn lâu dài với thị trường Việt Nam,v.v… để họ thực hiệu tốt công việc của mình và mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. - Nghiên cứu, ứng dụng cơ chế chuyển đổi lao động trong những trường hợp cần thiết để khuyến khích sự năng động, nhiệt tình và tính cạnh tranh lành mạnh giữa các cá nhân trong tập thể người lao động,v.v... . - Công tác quy hoạch đề bạt cán bộ và đánh giá phân loại cán bộ phải được làm công khai, dân chủ, thường xuyên trên cơ sở xây dựng các tiêu chuẩn cán bộ. 3.2.2.4 Chủ động tiếp cận thị trường và tăng cường hợp tác với các tổ chức xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam và Nhật Bản Cần tập trung nghiên cứu các quy định, rào cản của Nhật Bản đối với hàng nhập khẩu (qui định về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm,v.v…) và phải cập nhật thường xuyên để có những ứng phó kịp thời đối với những thay đổi trong các quy định này tránh tình trạng như hiện nay, hàng thuỷ sản của Việt Nam đã cập cảng của Nhật Bản nhưng không được nhập vào là do dư lượng kháng sinh quá tiêu chuẩn cho phép (tình trạng này xảy ra không chỉ đối với một chủ hàng hay một container mà tương đối phổ biến đã ở mức báo động). Cần nghiên cứu kỹ nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản và các đặc điểm tiêu dùng của họ để thực hiện công tác XTXK có hiệu quả: “Nhập gia tuỳ tục” là một nguyên tắc không thể thiếu khi tiếp cận bất cứ một thị trường nào. Thị trường Nhật Bản rất đa dạng và năng động, vì vậy các doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường Nhật nên có sự nghiên cứu, xem xét phong tục, tập quán, văn hoá tiêu dùng, sở thích, niềm tin và mức độ chi trả, ..v..v… để đưa ra những quyết định XTXK phù hợp. Ví dụ như hiện nay, tại Tokyo và các thành phố lớn của Nhật Bản như Osaka, Nagoya, Yokohama,v.v... do vấn đề thời gian nên đang có hai xu hướng - 97 - mua sắm mới mà các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần lưu ý. Thứ nhất là bán hàng qua bưu điện, bằng card, khách hàng sẽ dựa trên catalogue hàng mẫu để lựa chọn. Thứ hai, hình thức bán hàng trên Internet cũng đang rất phổ biến tại Nhật. Tuy nhiên hàng hóa phải thay đổi mẫu mã liên tục, luôn mang kiểu dáng mới bởi đối tượng khách hàng phần lớn là nữ. 1 Các doanh nghiệp cần lựa chọn các công cụ XTXK cho thích hợp. Nắm chắc thông tin thị trường một cách thường xuyên, tranh thủ nguồn thông tin từ các tổ chức XTTM, đặc biệt là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tổ chức XTTM Nhật Bản JETRO. Hiện nay JETRO có mẫu (form) hướng dẫn tìm bạn hàng bên Nhật, các doanh nghiệp có thể liên hệ nhờ giúp đỡ. Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế giới thiệu hàng hoá sản phẩm của mình với các khách hàng Nhật: Để có thể thiết lập mối quan hệ kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế tại Nhật Bản hoặc mở văn phòng đại diện tại Nhật để giới thiệu sản phẩm. Trong bối cảnh cạnh tranh cao, việc chủ động tìm đến với thị trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội kinh doanh và thành công cho doanh nghiệp. Hiện nay lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng tăng, hơn nữa lại có nhiều người Nhật đang sống và làm việc tại Việt Nam nên việc tăng cường tiếp thị tại chỗ qua các cửa hàng bán đồ lưu niệm tại những điểm du lịch và các cửa khẩu cũng là một biện pháp tốt tạo tiếng vang cho sản phẩm. Các hội trợ triển lãm, các hội thảo về thương mại cũng thường xuyên diễn ra tại Nhật Bản, không chỉ riêng ở Tokyo mà còn ở hầu hết các trung tâm thương mại, công nghiệp và các thành phố lớn của Nhật. Các công ty Việt Nam nên tìm kiếm sự tài trợ của các trung tâm xúc tiến và hợp tác thương mại của hai nước Doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu rõ hơn tính chất, đặc điểm hội chợ chuyên ngành để việc tham gia hội chợ, triển lãm, lễ hội tại Nhật Bản có hiệu quả 1 - 98 - thực sự, tránh lãng phí. Ví dụ: hội chợ bán buôn lại mang hàng mục đích bán lẻ hoặc ngược lại, hội chợ hoa tươi lại mang hàng thủ công mỹ nghệ để trưng bày... Ngoài ra, tại Nhật Bản, việc tham gia hội chợ, triển lãm có ý nghĩa và mục đích khác so với việc tham gia hội chợ, triển lãm tại các nước như: Mỹ và EU. Tại Nhật Bản, tham gia hội chợ, triển lãm với mục đích là giới thiệu sản phẩm mới, duy trì quan hệ với các khách hàng đang kinh doanh và mở rộng quan hệ các khách hàng mới chứ không phải cứ đi hội chợ đòi hỏi phải ký ngay được hợp đồng như các nước EU... nhưng việc doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn hội chợ phù hợp với ngành hàng và cố gắng tham gia các hội chợ tại Nhật là việc quan trọng. Tăng cường giới thiệu, quảng bá sản phẩm tại các hội chợ triển lãm, qua mạng Internet và các phương tiện thông tin khác: Từ sự khác biệt về môi trường văn hoá và công nghiệp nên có một số mặt hàng có thể chưa xuất hiện tại thị trường Nhật Bản. Vì thế, việc cung cấp thông tin về công dụng của sản phẩm, cách sử dụng, đặc trưng, chất lượng của sản phẩm trở nên rất quan trọng. Tại Nhật, nhìn chung thông điệp bằng ngôn ngữ hay quảng cáo bằng hình ảnh trên các hệ thống phương tiện thông tin đại chúng như: báo ảnh, tuần báo, đặc san, hệ thống các kênh truyền hình cable v.v được đánh giá là có hiệu quả quảng cáo vì có thể nhằm vào đúng đối tượng khách hàng. Các website nên xây dựng cả phần giao diện tiếng Nhật. Để tiếp tục tạo dựng tốt hình ảnh thương mại của Việt Nam tại các nước, mỗi chương trình XTXK dưới hình thức tham gia hội chợ, các doanh nghiệp nên có sự liên kết với nhau để tạo ra và làm nổi bật khu vực hàng Việt Nam tại hội chợ, tránh tình trạng một số doanh nghiệp tự phát thụ động tham gia triển lãm với các gian hàng rải rác, nhìn vào không tạo ra được sự thống nhất, tổng thể thế mạnh của hàng Việt Nam, làm giảm hiệu quả quảng bá của Việt Nam. Quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng: Hệ thống các báo Trung ương và địa phương rất đa dạng và phong phú, cùng với hệ thống các kênh truyền hình và cả các kênh truyền hình cable… là những phương tiện quảng cáo phổ - 99 - biến tại Nhật. Tuy nhiên, không phải tất cả các công ty đều có thể thực hiện việc quảng cáo trên các báo chính hoặc các phim quảng cáo trên truyền hình. Đối với các công ty vừa và nhỏ, nên lựa chọn việc đăng các quảng cáo trên nhiều một số mặt tuần báo, nguyệt san, đặc san (khoảng 2250 báo), được đánh giá là có hiệu quả vì nó có thể nhắm vào đúng đối tượng khách hàng. Nhưng hầu hết các cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình không liên hệ trực tiếp với khách hàng mà thông qua 5 công hãng quảng cáo hàng đầu của Nhật: Dentsu Inc., Hakuhodo Inc., Tokyu Agency International Inc., Daiko Advertising Inc. and Asatsu Inc. Tại Nhật, nhìn chung, thông điệp bằng ngôn ngữ hoặc hình được đánh giá là có hiệu quả trong quảng cáo. Các kiểu quảng cáo giật gân, dài dòng, so sánh hoặc nói xấu đối thủ cạnh tranh thường không được chấp nhận và sẽ trở thành vô hiệu mặc dù bán hàng cạnh tranh đang là xu thế chung trong toàn bộ nền kinh tế. Quảng cáo trên các phương tiện giao thông công cộng đã từng bị lãng quên tại Nhật Bản, nơi mà các phương tiện này là chủ yếu trong vận chuyển hành khách ước tính khoảng 21 tỷ lượt người/năm, tại các thành phố chính của Nhật Bản. Tuy nhiên gần đây, trên các tuyến xe buýt và tàu điện ngầm rất hay có gắn tờ quảng cáo bên trong phương tiện. Các doanh nghiệp Việt nam nên nghiên cứu và sự dụng phương tiện quảng cáo này để quảng bá sản phẩm của mình. Quảng cáo và khuyến mại phải là một phần trong chiến lược tổng thể, nhà xuất khẩu nên hợp tác cùng với các hãng quảng cáo hoặc/và các hãng chuyên về quan hệ công chúng. Một chiến dịch quảng cáo trên các mặt báo có thể sẽ trở nên lãng phí nếu như không có sự phối kết hợp với các chuyên gia trong lĩnh vực và nếu không chuẩn bị một kế hoạch bán hàng hoàn hảo. Doanh nghiệp xuất khẩu sang Nhật cần quảng cáo để có sự định vị tốt nhất về sản phẩm: Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần thiết phải nắm bắt được sản phẩm của mình thuộc nhóm hàng gì? đối tượng mua hàng là phân đoạn thị trường nào để xác định rõ vị trí của sản phẩm ở trên thị trường và đối với khách hàng, có như vậy mới có thể bán hàng thành công sang Nhật. - 100 - Sử dụng chuyên gia tư vấn Nhật Bản trong việc cải tiến mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Nhật, quản lý chất lượng, giảm giá thành: Hiện nay Nhật Bản đang có chương trình cử chuyên gia của tổ chức Hợp tác phát triển nước ngoài của Nhật - JODC sang giúp các nước đang phát triển trong việc giảm giá thành sản xuất, tăng cường chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ và thiết bị, kinh nghiệm quản lý, nghiên cứu phát triển sản phẩm và thị trường, phát triển nguồn nhân lực (chương trình JESA-I) hoặc trong các lĩnh vực cải tiến kỹ thuật công nghệ, quản lý chất lượng, hiện đại hoá hệ thống kế toán, tư vấn phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp bảo vệ môi trường... (JESA-II). Chương trình JESA-II dành cho các hiệp hội, tổ chức nhà nước và tư nhân với toàn bộ chi phí do phía Nhật chịu. JESA-I dành cho các doanh nghiệp với 75% chi phí do phía Nhật chịu. Thông tin về chương trình này có thể tìm hiểu qua Văn phòng đại diện JETRO hoặc qua Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (Bộ phận thị trường Nhật). Tiến hành hoạt động xúc tiến tổng hợp: Các lực lượng liên quan phối kết hợp để tiến hành các hoạt động xúc tiến mạnh mẽ trên thị trường Nhật Bản, tới khách hàng tiêu thụ. Quá trình xúc tiến có thể được tiến hành với sự tham gia đầy đủ và tích cực của các hiệp hội thương mại, các nhà bán buôn lớn ở các thị trường Nhật và các nhà sản xuất, xuất khẩu ở Việt Nam trong việc tạo ra những tờ rơi, những trang chủ, những cuộc triển lãm giới thiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam,v.v... tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các hoạt động hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài. Khuyến khích thành lập các tổ chức tư vấn pháp lý, XTTM và đầu tư, tìm kiếm thị trường mới, nghiên cứu sản phẩm mới. 3.2.2.5 Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu và văn hoá trong kinh doanh xuất khẩu sang Nhật Bản Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, các thương hiệu Việt Nam đã, đang và sẽ phải đương đầu với các thương hiệu nước ngoài trên mọi lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải có một cái nhìn chiến lược - 101 - về xây dựng, phát triển, quảng bá và bảo vệ thương hiệu ngay từ thị trường trong nước. Để vươn ra thị trường thế giới, các thương hiệu Việt Nam lại càng gần có một chiến lược tiếp cận bài bản hơn. Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu: Mỗi doanh nghiệp phải xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình. Xây dựng được thương hiệu nổi tiếng góp phần tạo dựng uy tín doanh nghiệp, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam. Đối với việc xây dựng và quảng bá thương hiệu cho sản phẩm và doanh nghiệp trên thị trường Nhật Bản, doanh nghiệp Việt Nam cần: - Đăng ký hoàn tất thủ tục về sở hữu trí tuệ và bản quyền nhãn mác hàng hoá tại cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam (Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam); - Yêu cầu Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam hướng dẫn, giúp đỡ và hỗ trợ để đăng ký bảo hộ thương hiệu doanh nghiệp tại thị trường Nhật Bản; - Nghiên cứu luật về quảng bá sản phẩm của Nhật Bản và áp dụng các hình thức quảng bá, xúc tiến thương hiệu theo đúng quy định của luật pháp nước này. Nghiên cứu kỹ nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản để đưa ra và quảng bá các thương hiệu phù hợp nhằm tạo ấn tượng mạnh mẽ cho người Nhật về những nét độc đáo của sản phẩm và thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam; - Tìm kiếm sự hỗ trợ và giúp đỡ của Đại sứ, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, các tổ chức quốc tế để thu xếp ổn thoả các tranh chấp về thương hiệu trên thị trường Nhật,v.v... . - Mua lại thương hiệu của các nhà chế biến, phân phối nông sản, thực phẩm có uy tín của Nhật Bản: Ví dụ đối với các sản phẩm chè, cà phê, các sản phẩm thuỷ sản như Shasimi, surimi,v.v… . Hàng hóa xuất khẩu cần phải gắn nhãn mác và tên nhà sản xuất cụ thể: Trừ một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như gạo, cà phê… đang đứng những vị trí xuất khẩu hàng đầu thế giới và chiếm thị phần lớn, thì rất nhiều - 102 - các loại hàng hoá khác còn chưa có thương hiệu đặc trưng của sản phẩm Việt Nam để quảng bá ra thị trường thế giới. Xây dựng văn hoá trong kinh doanh xuất khẩu sang Nhật: Thực hiện được nền nếp văn hoá kinh doanh chính là góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu thành công sang Nhật Bản cần đặc biệt chú trọng xây dựng văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần giáo dục, rèn luyện về hành vi ứng xử, phong cách, lễ nghi cho cán bộ trong giao tiếp, đàm phán với phương châm lấy chữ tín làm đầu và là nguyên tắc kinh doanh, xây dựng tác phong và thói quen kinh doanh mang tính chuyên nghiệp để gây dựng và duy trì lòng tin của khách hàng Nhật đối với doanh nghiệp,v. .. . Ngoài ra, để có thể đứng vững trên thị trường Nhật Bản, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải tạo được một hình ảnh đáng tin cậy cho các sản phẩm xuất khẩu, thiện chí muốn thiết lập quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài và nên chứng tỏ cho đối tác Nhật Bản thấy rằng những mặt hàng xuất khẩu của họ sang Nhật rất có tiềm năng vì đã có sự nghiên cứu kỹ về thị trường, thị hiếu tiêu dùng, có khả năng đáp ứng các đơn hàng lớn một cách hoàn hảo và nhanh chóng cũng như thoả mãn được các đòi hỏi khác về sản phẩm và nhu cầu thực tế của thị trường Nhật Bản,v.v… . Để XTXK sang thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường giáo dục và phổ biến những nguyên tắc, kỹ năng giao tiếp liên quan tới văn hoá đặc trưng của Nhật Bản: Chữ tín: Đặc điểm nổi bật của các doanh nhân Nhật Bản là giữ chữ tín, đã hứa là thực hiện dù đó là những việc nhỏ nhất. Người Nhật rất coi trọng ấn tượng đầu tiên nên các doanh nghiệp cần chuẩn bị thật tốt cho các buổi họp mặt hay giao dịch đầu tiên. Nguyên tắc: Trao đổi thông tin, đàm phán rất lâu và kỹ, làm việc rất nguyên tắc. Cho dù chỉ là các dịch vụ thương mại đơn thuần. Hầu hết, khách hàng Nhật Bản luôn muốn được tham quan công ty, nơi sản xuất để tận mắt chứng kiến tổ chức, năng lực sản xuất của đối tác sản xuất hàng sẽ bán cho họ. Khi đã tin - 103 - tưởng thì các công ty Nhật Bản lại nổi tiếng là ổn định và trung thành với bạn hàng. Kiên trì: Nên kiên trì trong các mối quan hệ kinh doanh với người Nhật. Thời gian đặt hàng thử, số lượng nhỏ kéo dài rất lâu, nếu cảm thất đạt tiêu chuẩn họ mới đặt hàng số lượng lớn. Nhiều khi, sau vài đơn hàng đầu tiên với số lượng ít, doanh nghiệp phía Việt Nam không đủ kiên trì để tiếp tục nên đã không nhiệt tình trong giao tiếp kinh doanh, dẫn đến mất khách hàng tốt trong tương lai. Giao lưu: Tham gia hội chợ thương mại, hoặc các hoạt động giao lưu tại Nhật Bản sẽ khẳng định tính thường xuyên, ổn định trong kinh doanh với khách hàng cũ, đồng thời cũng tạo cơ hội mới trong việc tìm kiếm khách hàng mới.Tuy nhiên, nên có sự trao đổi và thống nhất trước với những khách hàng truyền thống của mình về những sản phẩm mẫu mã trưng bầy, tránh tình trạng vi phạm cam kết về mẫu mã trước đó bởi vì tham gia hội chợ tại Nhật Bản thường rất tốn kém. Đặc biệt khi giới thiệu hay bán hàng tại hội chợ nhân viên phụ trách không được ăn, uống trước mặt khách hàng. Phải luôn đứng, tươi cười mời chào khách với thái độ thật niềm nở và nói lời cám ơn. Trân trọng - Chu đáo: Người Nhật rất coi trọng chuyện gặp mặt trước khi bàn bạc hợp tác và rất chu đáo trong việc chăm sóc khách hàng. Việc mời ăn uống, đón, tiễn ở sân bay (đặc biệt là nếu vào được tận trong máy bay để đón thì sẽ gây được ấn tượng đặc biệt với bạn). Trong giao dịch thương mại, vấn đề quan hệ cá nhân là vô cùng quan trọng vì người Nhật cũng giống người Việt Nam, nên chủ động tiếp đồ uống cho khách, không để khách tự rót rượu cho họ trong suốt bữa ăn. Ngoài ra người Nhật Bản rất coi trọng giờ hẹn. Vì vậy, khi đi làm việc với khách Nhật, phải luôn luôn đúng giờ. Văn hóa trao danh thiếp: Nhật Bản là một trong những nước hay sử dụng danh thiếp nhất thế giới. Việc không có hay hết danh thiếp khi giao dịch không bao giờ để lại ấn tượng tốt với khách hàng. - 104 - Tiếng Nhật: Người Nhật rất thích khi đối tác sử dụng được tiếng Nhật vì họ cảm thấy gần gũi hơn. Do đó, các cán bộ của doanh nghiệp nên trang bị tiếng Nhật hoặc ít ra cũng chuẩn bị cho mình một số câu đơn giản. Bản ghi nhớ (MOU): Sau khi đàm phán hay thống nhất xong vấn đề gì đó dù là không quan trọng lắm thì cũng nên làm bản tóm tắt nội dung đã thống nhất gửi lại cho đối tác. Điều này luôn được đánh giá cao. Bên cạnh đó một số chi tiết nhỏ như trực tổng đài công ty. Họ sẽ cảm thấy rất bất ổn về đối tác khi gọi điện thoại đến công ty mà không thấy có người trả lời hoặc trả lời không đúng mực. Tặng quà - Chúc mừng: Cũng giống như ở Việt Nam, người Nhật thích tặng quà cho nhau vào những dịp lễ tết như dịp Ô Bôn (tháng 7), dịp này nên gửi đồ ăn; dịp cuối năm dương lịch nên tặng đồ uống. Gửi thiếp chúc mừng nhân dịp đặc biệt như ngày thành lập công ty, Giáng sinh và năm mới (lưu ý thiếp chúc mừng phải được gửi tới tay đối tác trước ngày lễ diễn ra). - 105 - KẾT LUẬN Nhật Bản là một đối tác “chiến lược”, là một thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong nhiều năm qua. Trong 10 - 20 năm tới, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế hai nước, Nhật Bản vẫn sẽ là thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam ở Châu Á. Cùng với Mỹ và EU, Nhật Bản vẫn sẽ là một trong 3 thị trường lớn nhất của Việt Nam. Triển vọng thị trường tiêu thụ rất nhiều loại hàng hoá của Việt Nam, ngoài những mặt hàng truyền thống như dầu thô, hải sản (tôm, mực đông lạnh), than đá, dệt may, gỗ và sản phẩm gỗ, dây cáp điện, Nhật Bản đang có nhu cầu nhập khẩu rất lớn hàng rau và hoa quả từ Việt Nam. Do vậy cần phải làm tốt công tác XTXK nhằm đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Luận văn đã tập trung phân tích về XTXK hàng hoá, vai trò của hoạt động XTXK hàng hoá đối với hoạt động xuất khẩu của một quốc gia; Kinh nghiệm XTXK của một số nước trên thế giới; Đánh giá thực trạng hoạt động XTXK hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản, nêu ra các ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân dẫn tới các tồn tại; trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất một số các giải pháp XTXK cả về phía Nhà nước và cả phía doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Luận văn có những đóng góp nhất định trong công tác nghiên cứu XTXK, vai trò của XTXK đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung, sang thị trường Nhật Bản nói riêng; thực trạng của hoạt động XTXK hàng hoá của Việt Nam sang Nhật Bản và các giải pháp XTXK nhằm đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường này. Tác giả hy vọng rằng, các kết quả nghiên cứu của Luận văn phần nào giúp cho công tác hoạch định chính sách phát triển thương mại của Việt Nam với thị trường Nhật Bản, công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và kinh doanh xuất khẩu sang Nhật Bản của các doanh nghiệp Việt Nam. Do thời gian nghiên cứu hạn hẹp, nên Luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định, tác giả rất mong nhận - 106 - được những ý kiến đóng góp quý báu của các Quý Thầy Cô, các nhà khoa học, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và các Quý độc giả để tiếp tục hoàn thiện Luận văn. PHỤ LỤC 1: DANH MỤC CHƢƠNG TRÌNH XÚC TIẾN THƢƠNG MẠI QUỐC GIA NĂM 2007 SANG THỊ TRƢỜNG NHẬT BẢN Đơn vị chủ trì Chƣơng trình Thời gian triển khai Địa điểm triển khai Phẫn hỗ trợ của nhà nƣớc (triệu đồng) Hiệp hội chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam Hội chợ công nghệ thủy sản Nhật Bản 16- 24/7/2007 Nhật Bản 1.226 Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam Hội chợ triển lãm - Hội thảo tại Tokyo - Nhật Bản 19- 30/11/2007 Tokyo - Nhật Bản 902 Trung tâm tiếp thị triển lãm NN & PTNT Tổ chức đoàn doanh nghiệp nông nghiệp khảo sát nghiên cứu thị trường Nhật Bản 11- 18/3/2007 Tokyo, Osaka - Nhật Bản 371,01 Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí Việt Nam Khảo sát thị trường, kết hợp tham dự hội chợ về ngành công nghiệp chế tạo máy nặng, thiết bị năng lượng tại Nhật Bản 15- 21/1/2007 Nhật Bản 680,92 Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam Tham gia hội chợ kết hợp khảo sát thị trường, làm việc với đối tác tại Nhật Bản 13- 19/11/2007 Yokohama Fukuoka- Nhật Bản 675,12 Cục Xúc Tiến thương mại Tổ chức đoàn khảo sát thị trường và giao thương tại Nhật Bản tháng 5 hoặc tháng 6/2007 Tokyo, Fukuoka - Nhật Bản 926,61 Nguồn: tác giả tổng hợp từ “Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia năm 2007” của Bộ Thương mại (Quyết định số 30/2006/QĐ/BTM, ngày 28/9/2006) PHỤ LỤC 2: KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM - NHẬT BẢN 1986 - 2006 Đơn vị: Triệu USD Năm Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu Xuất siêu 1996 2806,7 1546,4 1260,3 286,1 1997 3184,7 1675,4 1509,3 166,1 1998 2996,2 1514,5 1481,7 32,8 1999 3404,5 1786,2 1618,3 167,9 2000 4876,1 2575,2 2300,9 274,3 2001 4692,9 2509,8 2183,1 326,7 2002 4941,7 2437,0 2504,7 -67,7 2003 5890,7 2908,6 2982,1 -73,5 2004 7094,7 3542,1 3552,6 -10,5 2005 8504,2 4411,2 4093,0 318,2 2006* 9933,1 5232,1 4701,0 531,1 Nguồn: Niên giám thống kê năm 1997, 1999, 2002, 2005, NXB Thống kê * Báo cáo thống kê hàng hoá xuất nhập khẩu năm 2006, Cục công nghệ thông tin và thống kê hải quan. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN NĂM 2006 Đứng đầu trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn sang thị trường Nhật Bản phải kể tới hàng thuỷ sản. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản năm 2006 đạt khoảng 1 tỷ USD, trong khi đó nhu cầu nhập khẩu tôm của Nhật rất lớn, 1,9 tỷ USD/năm. Tuy nhiên vừa qua, Nhật Bản kiểm tra chặt chẽ các lô tôm, mực đông lạnh xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này và cảnh báo sẽ ngừng việc nhập khẩu tôm mực đông lạnh từ Việt Nam nếu dư lượng kháng sinh Chloramfenicol vượt quá quy định cho phép. Trong số các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu sang Nhật Bản, tôm và mực là hai mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tôm và mực đạt trung bình 450 triệu USD/năm và 92 triệu USD/năm. Hai mặt hàng này có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao và được người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng. Bên cạnh mặt hàng hải sản, đồ gỗ xuất khẩu của ta vào thị trường này tăng trưởng với tốc độ nhanh, chiếm 8,3% thị phần nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản và đang có xu hướng tăng hơn nữa. Đồ gỗ xuất khẩu của ta sang Nhật Bản từ năm 2004 đến nay tăng trung bình 13%/năm. Năm 2004, xuất khẩu đồ gỗ của ta sang Nhật Bản mới đạt 152 triệu USD, đứng thứ tư sau Trung Quốc, Đài Loan và Thái Lan. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ sang thị trường này đã đạt 210 triệu USD, chỉ đứng sau Trung Quốc. Nhu cầu nhập khẩu đồ gỗ hàng năm của Nhật Bản khá lớn, 2,2 tỷ USD, nên các doanh nghiệp cần tranh thủ đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản trong những năm tới. Nhu cầu tiêu thụ rau quả của Nhật Bản rất lớn, hàng năm tiêu thụ lên tới 859 triệu USD. Tuy nhiên, rau quả vào Nhật Bản phải đảm bảo chất lượng cao và chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm, Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu rau cấp đông, khoảng 10,6 triệu USD, chiếm 1,2% thị phần và đứng thứ 7 trong số các nước cung cấp rau cấp đông cho Nhật. Đối với nhóm hàng hoa quả, hàng năm Việt Nam xuất khẩu một khối lượng hàng trị giá 4 triệu USD vào thị trường Nhật Bản, chiếm 0,19% kim ngạch nhập khẩu hoa quả của Nhật Bản. Đối với các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là mây tre, tơ tằm, gỗ khảm dát,v.v… . Kim ngạch xuất khẩu của ta sang Nhật Bản có xu hướng chững lại do hàng nghèo nàn về mẫu mã và giá kém cạnh tranh so với Indonesia, Thái Lan, Philippine và Trung Quốc. Trong năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản bắt đầu khởi sắc do các doanh nghiệp Việt Nam đã cải thiện khâu thiết kế mẫu, đổi mới kết phối nhiều nguyên liệu trên một sản phẩm làm gia tăng giá trị, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng và nhu cầu tiêu dùng hàng thủ công mỹ nghệ của người Nhật tăng. PHỤ LỤC 3: SƠ ĐỒ HỆ THỐNG CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA JETRO Nguồn: www.jetro.go.jp Kiểm toán Chủ tịch Tổng giám đốc Các Phó Tổng giám đốc điều hành Kiểm soát nội bộ Trụ sở chính JETRO Tokyo JETRO Osaka Văn phòng hỗ trợ ERIA Viện N/cứu các nước đang phát triển Các văn phòng trong nước Các văn phòng nước ngoài Phòng kế hoạch Phòng tổng hợp Trung tâm các dịch vụ kinh doanh (Thư viện kinh doanh) Phòng nghiên cứu nước ngoài Phòng đầu tư Nhật bản (Trung tâm hỗ trợ kinh doanh đầu tư Nhật bản) Phòng Nông nghiệp và xúc tiến xuất khẩu Phòng Sở hữu trí tuệ và hỗ trợ kinh doanh nước ngoài Phòng Hợp tác thương mại và kinh tế Phòng Công nghiệp và công nghệ Phòng Hội chợ triển lãm Trung tâm N/cứu phát triển Phòng Nghiên cứu xúc tiến Phòng Nghiên cứu khu vực Thư viện Trung tâm N/cứu liên ngành Phòng Đào tạo và trao đổi quốc tế (Trường IDEAS) ERIA: Economic Research Institute of ASEAN and East Asia PHỤ LỤC 4: SƠ ĐỒ HỆ THỐNG CƠ CẤU TỔ CHỨC KOTRA Nguồn: www.kotra.or.kr Ban Giám đốc Ban Thư ký Chủ tịch Kiểm soát viên Văn phòng Kiểm toán Thanh tra đầu tư Học viện Kotra Phó Giám đốc phụ trách quản trị chiến lược - Phòng hợp tác kế hoạch - Ban kế hoạch - Ban cải cách quản trị - Ban ngân sách - Ban Kotra điện tử - Phòng Tổng hợp - Phòng Nhân sự - Phòng Quản trị - Phòng Quan hệ cộng đồng - Phòng Tài chính - Phòng Kế hoạch đột xuất - Phòng chiến lược marketing - Phòng marketing công nghiệp chủ đạo - Phòng marketing ngành điện tử và tin học - Phòng marketing ngành dịch vụ và văn hoá - Phòng marketing công nghiệp mới - Phòng marketing ngành hàng tiêu dùng - Phòng thương mại điện tử - Phòng hội chợ triển lãm - Ban HCTL - Ban đồng tổ chức hội chợ - Trung tâm hỗ trợ khách hàng Phó Giám đốc phụ trách chiến lược marketing Phó Giám đốc phụ trách đầu tư NN và dịch vụ thông tin, thành viên ban lãnh đạo Trụ sở Kotra đầu tư - Phòng chiến lược XTTM - Phòng Mỹ và Châu âu - Phòng Châu á và Châu đại dương - Phòng Trung đông và Châu phi - Phòng Trung quốc - Phòng đầu tư nước ngoài - Phòng hỗ trợ - Ban đầu tư nước ngoài - Ban marketing dự án - Ban tư vấn dự án - Phòng kế hoạch đầu tư - Phòng xúc tiến đầu tư công nghiệp chủ đạo - Phòng xúc tiến đầu tư ngành dịch vụ - Phòng xúc tiến đầu tư ngành công nghệ cao - Phòng quan hệ cộng đồng đầu tư - Phòng điều hành IKP - Văn phòng hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài - Ban hành chính đầu tư - Ban tư vấn đầu tư - Ban hỗ trợ sau đầu tư - Ban dịch vụ đầu tư PHỤ LỤC 5: CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CỤC XÚC TIẾN XUẤT KHẨU THÁI LAN Nguồn: www.thaitrade.com Trung tâm Thông tin thương mại quốc tế Cục xúc tiến xuất khẩu Viện Đào tạo thương mại quốc tế Phòng Dịch vụ xuất khẩu Ban Thư ký Phòng Phát triển thị trường Phòng Kế hoạch xuất khẩu Kiểm toán nội bộ Phòng PR và công cán thương mại Phòng Hội chợ triển lãm nước ngoài Phòng Hội chợ triển lãm quốc tế Trung tâm Thương mại Thái Lan Trung tâm XTXK khu vực Phòng dịch vụ thương mại Trung tâm Phát triển sản phẩm TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt: 1. Cao Ngô Hồng Anh (2005), Luận văn thạc sĩ kinh tế “Xúc tiến xuất khẩu mặt hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản: thực trạng và giải pháp”, Trường đại học Ngoại thương, Hà nội. 2. Bộ Thương mại (2007), Báo cáo phục vụ họp báo “Một số nội dung cơ bản về hoạt động xúc tiến thương mại năm 2006 và phương hướng năm 2007”. 3. Chính phủ (2006), Báo cáo của chính phủ về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm năm 2006- 2010, do phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp khoá 9, Quốc hội khoá XI. 4. Cục Xúc tiến thương mại (2007), Báo cáo hoạt động hội chợ triển lãm năm 2006, Bộ Thương mại, Hà nội. 5. Cục Xúc tiến thương mại (2006), Tài liệu phục vụ Hội nghị thương mại toàn quốc “Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại trong tình hình mới”, Bộ Thương mại. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội. 7. Phạm Thu Hương chủ nhiệm đề tài (2005), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Giáo dục và đào tạo “Các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam khi Việt Nam là thành viên của WTO”, Trường Đại học Ngoại thương, Hà nội. 8. Jetro (2005), Hướng dẫn Marketing một số sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Nhật bản. 9. Jetro (1995-1998), Nhật Bản tăng cường hiểu biết và hợp tác, NXB United Publish Inc., Nhật Bản. 10. Ken Arakawa (2003), Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản – Các vấn đề về nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội. 11. Phùng Thị Vân Kiều (1997), Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản thực trạng và giải pháp, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 4 tháng 8, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (IWEP), Hà nội. 12. Đỗ Thị Loan (2000), Luận án Tiến sĩ “Marketing Xuất khẩu và việc vận dụng trong kinh doanh xuất khẩu ở Việt Nam”, Trường Đại học Ngoại Thương, Hà nội. 13. Đỗ Thị Loan (2003), Xúc tiến thương mại lý thuyết và thực hành, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà nội. 14. Nguyễn Hồng Mai (1999), Luận văn thạc sỹ kinh tế “Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Nhật Bản và triển vọng phát triển”, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 15. Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam (2007), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác 2006 và phương hướng nhiệm vụ công tác 2007. 16. Phòng Thương và công nghiệp Việt nam (2001), Kinh doanh với thị trường Nhật bản, NXB Lao động, Hà nội. 17. Ngô Văn Thoan (2001), chuyên đề “Đổi mới và hoàn thiện quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại ở thị trường nước ta thời kỳ đến 2010”, Bộ Thương mại, Cục Xúc tiến thương mại, Hà nội. 18. Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản (2007), Báo cáo tình hình thương mại và hoạt động năm 2006 của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản. 19. Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư Tp. Hồ Chí Minh - ITPC (2006- 2007), các bản tin tuần “Bản tin hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh”. 20. Viện nghiên cứu thương mại (1999), Hồ sơ các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, Bộ Thương mại, Hà nội. Tiếng Anh 21. Philip Kotler (1991), Marketing essentials, International Edition, Prince Hall, New York. 22. Phillip Kotler (2003), Marketing Insights from A to Z, John Willey and sons, Canada. 23. Phillip Kotler (2001), Marketing Management, Millenium edition, Prentice – Hall, USA.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3114_2998.pdf
Luận văn liên quan