Luận văn Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May từ nay đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO

Hỗ trợ các doanh nghiệp Dệt May đẩy mạnh xuất khẩu hàng Dệt May vào thị trường Mỹ với mức hỗ trợ là 7% trên kim ngạch xuất khẩu (tính theo giá FOB) vào thị trường Mỹ. Đồng thời khuyến khích việc thành lập các liên doanh với nước sản xuất hàng Dệt May xuất khẩu vào thị trường Mỹ trong thời gian còn được hưởng quy chế phi hạn ngạch vào thị trường Mỹ

pdf94 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2452 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May từ nay đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên nhân cơ bản của những hạn chế. - Năng lực và thiết bị công nghệ của ngành dệt mới huy động được gần 40% công suất thiết bị còn lại hết công nghệ là lạc hậu và thiếu đồng bộ giữa các khâu. Đặc biệt là thiết bị dệt và nhuộm hoàn tất. Ngành may chưa chủ động tiếp cận được trực tiếp với khách hàng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường thế giới (xuất khẩu sản phẩm qua đối tác trung gian công tác đầu tư nghiên cứu tạo mẫu mốt thời trang quần áo chưa được quan tâm đúng mức để 59 phát triển phục vụ cho ngành may chuyển từ xuất khẩu gia công sang xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh. - Hệ thống quản lý chất lượng của ngành Dệt May chưa được quan tâm chú ý đúng mức nhiều doanh nghiệp chưa có giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng sản phẩm. Tính đến cuối năm 2000 mới có 8 doanh nghiệp đăng ký quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 trong đó 4 đơn vị được cấp chứng chỉ. - Hầu hết các nguyên liệu phụ liệu phục vụ cho sản xuất của ngành Dệt May hiện nay đều phải nhập khẩu 70% giá trị sản phẩm dệt nằm ở nguyên liệu bông xơ, hoá chất thuốc nhuộm. Nguồn nguyên liệu bông xơ từ trong nước có chất lượng kém và sản lượng thấp chỉ đáp ứng được gần 10% nhu cầu nguyên liệu cho ngành dệt. Trong 10 năm qua, thị trường thế giới có nhiều biến động giá nguyên liệu cho ngành dệt như việc giảm giá bông xơ năm 1995 đã có tác động xấu gây nhiều bất lợi cho ngành Dệt May của Việt Nam trong những năm từ 1996 cho đến nay. - Chất lượng nguồn nhân lực của ngành Dệt May còn nhiều bất cập. Lực lượng lao động ngành Dệt May khá đông (trên 1 triệu người), nhưng số lượng công nhân kỹ thuật trình độ bậc cao, giỏi còn ít. Đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt trong các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế trong tiếp cận với phong cách quản lý hiện đại, đặc biệt là kinh nghiệm giao dịch xuất nhập khẩu, nghiên cứu tiếp thị với thị trường thế giới. Mức thu nhập bình quân của công nhân ngành Dệt May thấp và không ổn định bệnh nghề nghiệp ở các nhà máy Dệt May tác động xấu đến sức khoẻ và tâm tư của công nhân. - Vốn cho đầu tư phát triển của ngành Dệt May còn thiếu, đặc biệt ở các doanh nghiệp Nhà nước. Hiện tượng đầu tư dàn trải, manh mún theo xu 60 hướng tự cân đối, khép kín ở nhiều doanh nghiệp làm cho ngành Dệt May ở tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các khâu sản xuất. - Chính sách đầu tư phát triển ngành Dệt May trước đây chưa hợp lý như quy định về thời hạn thu hồi vốn vay đầu tư phát triển cho ngành dệt từ 7 - 10 năm, ngành may từ 5 - 7 năm. Trong khi thực tế ở Việt Nam, đầu tư vào ngành dệt phải từ 12 - 15 năm, ngành may từ 10 - 12 năm mới có thể thu hối được hết vốn. Các thủ tục triển khai đầu tư xây dựng thường kéo dài nhiều năm. Các chính sách cơ chế chưa thực sự hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài và trong nước bỏ vốn đầu tư nhiều hơn vào ngành Dệt May. 61 PHẦN III MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 ĐỂ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP WTO A/ QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU TỔNG QUÁT PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 Ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp trọng tâm của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Quyết Định số 55/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ việc thực hiện chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May đến năm 2010, với những quan điểm và mục tiêu như sau: 1) Quan điểm phát triển: _ Đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong quá trình đẩy nhanh phát triên công nghiệp Dệt May. Có như vậy mới huy động được mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài, kể cả nguồn lực quốc tế cho bước phát triển đột biến trong thời gian ngắn đối với ngành công nghiệp Dệt May. Coi trọng các nguồn lực từ nhân dân lao động. Đồng thời đẩy mạnh kêu gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực Dệt May, kể cả đầu tư nước ngoài cho phát triển cây bông và trồng dâu nuôi tằm. 62 _ Coi trọng phát triển chiều rộng đi đôi với củng cố chiều sâu. Đây là bước đi quan trọng trong giai đoạn đến năm 2010. Công nghiệp Dệt cần phát triển thành từng cụm, nằm trong các khu công nghiệp nhằm tiết kiệm vốn đầu tư cho hạ tầng cơ sở, giải quyết vấn đề xử lý nước thải tập trung, lành mạnh trong môi trường sinh thái. Có như vậy mới có thể hình thành các doanh nghiệp mới vừa và nhỏ. Trên cơ sở đó tạo ra các cơ hội để đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất và áp dụng các mô hình quản lý, điều hành tiên tiến của thế giới vào công nghiệp Dệt May Việt Nam. Công nghiệp May cần phát triển rộng khắp. đến tận các vùng nông thôn, miền núi nhằm huy động mọi nguồn vốn có trong nhân dân và trong mọi thành phần kinh tế. Có như vậy mới thu hút được mọi nguồn lực lao động khắp trên mọi miền đất nước, đồng thời thực hiện thành công chủ trương công nghiệp hoá-hiện đại hoá vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, lấy May xuất khẩu để kích thích phát triển vải và các loại nguyên phụ liệu chất lượng cao, nghĩa là thúc đẩy phát triển ngành Dệt. _ Tập trung phát triển các vùng nguyên liệu như bông, tơ tằm và xơ sợi tổng hợp cùng với việc phát triển công nghiệp hoá dầu. Cho đến nay, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng 90% nhu cầu nguyên liệu ban đầu cho ngành Dệt May. Việc nâng cao tỷ lệ giá trị xuất xứ nội địa trên sản phẩm Dệt May vừa là yêu cầu bắt buộc của thị trường nhập khẩu, vừa là môi trường của chiến lược phát triển ngành Dệt May nhằm nâng cao phần lợi nhuận cho ngành và cho đất nước. _ Phát triển nhanh bằng việc đầu tư các công nghệ mới nhất, với thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về sản lượng và chất lượng. Mặt khác, cần coi trọng và tận dụng các loại thiết bị đã qua sử dụng với công nghệ tiên tiến từ các nước công nghiệp hoá, thế hệ từ những năm 90 trở lại đây. 63 _ Đầu tư phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá cao theo loại công nghệ. Có như vậy mới tạo được bước nhảy vọt về chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải chuyên sâu và làm chủ được một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng mới chất lượng cao. Xây dựng mối quan hệ cung - cầu giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác thương mại. 2) Mục tiêu phát triển: a) Mục tiêu tổng quát: Phát triển ngành công nghiệp Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc khu vực và thế giới. b) Các chỉ tiêu cụ thể: Bảng 15 : Các chỉ tiêu của ngành Dệt May năm 2005 và 2010 Các chỉ tiêu Đơn vị 2005 2010 1. KNXK Triệu USD 4000 - 5000 8000 – 9000 2. Sử dụng LĐ Nghìn LĐ 2500 - 3000 4000 – 4500 5. Các sản phẩm chủ yếu: _ Bông xơ _ Xơ sợi tổng hợp _ Sợi các loại _ Vải lụa _ Sản phẩm dệt kim _Sản phẩm may Nghìn tấn Nghìn tấn Nghìn tấn Triệu mét Triệu sản phẩm Triệu sản phẩm 30 60 150 1000 300 7800 80 120 300 1750 500 1500 4. Tỷ lệ sử dụng NPL nội địa trên SP Dệt May XK % >50 >75 64 5. Nhu cầu vốn đầu tư toàn Ngành _ Tổng vốn đầu tư: +) Vốn cho đầu tư mới +) Vốn cho đầu tư chiều sâu Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng 35000 23200 11800 30000 20000 10000 Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư B/ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀO WTO. 1) Sự ra đời và mục tiêu của WTO Trước nhu cầu đẩy mạnh tự do hoá thương mại sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, 50 quốc gia đã trao đổi và xây dựng một kế hoạch thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO). Mục đích thành lập ITO là để giải quyết vấn đề hợp tác kinh tế quốc tế trong hệ thống Breeton Woods bên cạnh Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF). ITO cuối cùng không ra đời do điều lệ của nó không được một số quốc gia phê chuẩn. Tuy vậy, 23 trong 50 nước tham gia đàm phán đã ký kết Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1 năm 1948. GATT chủ yếu điều chỉnh các lĩnh vực thương mại hàng hoá, và đã tạo ra một hệ thống thương mại đa phương vững mạnh, thịnh vượng, ngày càng tự do hoá thông qua tám vòng đàm phán. Vòng đàm phán thứ tám của GATT, vòng Uruguay kéo dài từ 1986 đến 1994, diễn ra trong tình hình thương mại thế giới đã trở nên phức tạp. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra; thương mại dịch vụ - lúc đó không có trong phạm vi điều chỉnh của GATT - trở thành vấn đề ngày càng được quan tâm; đầu tư quốc tế đã phát triển. Với sự tham gia của 123 nước, vòng đàm phán này đã thảo luận tất cả các lĩnh vực thương mại và dẫn đến sự ra đời của WTO với một hệ thống hiệp 65 định mới và mang lại sự đổi mới lớn nhất trong hệ thống thương mại thế giới. Từ năm 1995, WTO không chỉ điều chỉnh thương mại hàng hoá mà cả thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Như vậy, WTO là tổ chức kế thừa của GATT với các mục tiêu cơ bản sau:  Tự do hoá thương mại bằng cách xoá bỏ các loại rào cản và đảm bảo tính minh bạch, dự đoán được trong chính sách thương mại của các nước thành viên.  Làm diễn đàn để các thành viên đàm phán và ký kết các Hiệp định Thương mại.  Giải quyết tranh chấp thương mại. 2) Lộ trình cắt giảm thuế quan đối với một số mặt hàng Dệt May của Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO 2.1) Hiệp định ưu đãi thuế quan phổ cập CEFT trong hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) CEFT là một thoả thuận giữa các nước thành viên ASEAN trong việc giảm thuế quan thương mại giữa các nước thành viên ASEAN xuống còn từ 0 - 5 (%), đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các rào cản phi thuế quan khác trong vòng 10 năm, bắt đầu từ ngày 01/01/1993 và hoàn thành vào ngày 01/01/2003. - Mặt hàng Dệt May bắt đầu thực hiện CEFT từ năm 1998. Cụ thể như sau: +) Đối với vải sợi: 66  Các loại tơ, sợi , vải dệt có lớp phủ tráng được đưa vào thực hiện CEFT năm 1997 và bắt đầu thực hiện từ năm 1998. Trong số các mặt hàng này chỉ có khoảng 1/3 số mặt hàng là những mặt hàng có thuế suất 0 - 5% Năm đưa vào thực hiện CEFT 1997, những mặt hàng có thuế suất t = 20% Bước giảm dự kiến: Bảng 16 : Biểu thuế đối với những mặt hàng có thuế suất t = 20% Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 t (%) 20 15 15 15 10 10 5 Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư  Các loại tơ sợi tổng hợp hoặc sợi pha, lưới, vải các loại, lịch trình cắt giảm được chia thành 3 bước: - Bước 1: Đưa vào thực hiện CEFT từ năm 1999, chủ yếu là các mặt hàng sợi đơn đã có thuế suất 5% nên thực tế ta không phải giảm thuế. - Bước 2: Thực hiện CEFT từ năm 2000, chủ yếu là các mặt hàng sợi xoắn có thuế suất 10%, một số mặt hàng sản xuất trong nước có khả năng phát triển nên tuy thuế suất là 5% nhưng cũng lùi lại bước này để tránh khả năng tăng thuế lên trên 5 % trước khi giảm. Năm đưa vào thực hiện CEFT 2000 những mặt hàng có thuế là 10% Bước giảm dự kiến: Bảng 17 : Biểu thuế đối với những mặt hàng có thuế suất t = 10% Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 t (%) 10 10 10 10 5 5 5 67 Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bước 3: Đưa vào thực hiện CEFT từ năm 2002 (trừ một số vải dệt, bông thì lùi tới năm cuối cùng để bảo hộ tối đa) gồm những mặt hàng có thuế từ 30% trở lên. Năm đưa vào thực hiện CEFT: 2002, những mặt hàng có thuế từ 30 - 40% Bước giảm dự kiến: Bảng 18 : Biểu thuế đối với những mặt hàng Dệt May có thuế suất t = 30 - 40% Năm 2002 2003 2004 2005 2006 t(%) 40 30 20 10 5 30 20 20 10 5 Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư +) Đối với mặt hàng may: Được đưa vào thực hiện CEFT từ năm 1998 những mặt hàng có thuế từ 50%. Bước giảm dự kiến: Bảng 19 : Biểu thuế đối với những mặt hàng Dệt May có thuế suất là t = 50% Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 t(%) 40 30 20 20 20 15 15 10 5 Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư b) Hiệp định hàng Dệt May ký kết giữa Việt Nam với EU giai đoạn 2000 - 2005: 68 Đối với thị trường EU thì hiện Việt nam đang được hướng thuế MFN nhưng phải chịu hạn ngạch. Từ nay đến năm 2004, EU vẫn duy trì hạn ngạch hàng Dệt May đối với các nước là thành viên của WTO, nên việc Việt Nam chưa ra nhập WTO không ảnh hưởng gì đến xuất khẩu hàng Dệt May sang thị trương EU. Tuy nhiên từ năm 2005 trở đi, khi EU bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng Dệt May cho các nước là thành viên của WTO mà vẫn giữ hạn ngạch nhập khẩu hàng Dệt May Việt Nam thì sẽ rất bất lợi cho Việt Nam. Do vậy hiệp định hàng Dệt May ký kết giữa Việt Nam và EU giai đoạn 2000 - 2005 về lịch trình giảm thuế EU là rất quan trọng. Cụ thể như sau: Bảng 20 : Biểu thuế EU dành cho ngành Dệt May giai đoạn 2000 - 2005 Mặt hàng Thuế (%) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 1. Sợi bông 20 18 - 10 17 - 10 16 - 5 15 - 5 12 - 5 5 2. Vải 40 38 34 30 24 20 5 3. May mặc 50 46 - 20 42 - 20 38 - 20 34 - 15 30 - 10 5 Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư c) Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ: Hàng may mặc của Việt Nam hiện chưa bị Mỹ áp dụng hạn ngạch, hơn nữa lại hưởng thuế suất MFN. Trong thời gian này, Mỹ đang yêu cầu ký hiệp định song phương về hàng Dệt May với Việt Nam để áp dụng hạn ngạch đối vơí hàng Dệt May Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Do đó, Việt Nam 69 cần tập trung xuất khẩu đến mức tối đa hàng Dệt May Việt Nam sang Mỹ để tạo cơ sở ấn định hạn ngạch thuận lợi. Bảng 21 : Biểu thuế Mỹ dành ngành Dệt May khi có MFN và khi không có MFN Tên hàng Thuế tối huệ quốc (MFN) Thuế không MFN Vải dệt 7 – 20% 45 – 113,5% Hàng may mặc, dệt kim 3,6 – 20% 45 – 90% Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư 3. Cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá qua hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập vào kinh tế thế giới, ngoài việc duy trì và bình thường hoá quan hệ với các định chế tài chính, ngân hàng quốc tế, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các tổ chức đa biên khác. Với việc tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam cam kết từng bước giảm thuế quan, xoá bỏ dần hàng rào phi quan thuế, mở rộng quyền kinh doanh của các công ty nước ngoài trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, đồng thời thiết lập một khung pháp lý hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam. a) Những cơ hội của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO _ Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để Việt Nam khắc phục tình trạng bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế. 70 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm qua cho thấy, việc tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và trên thế giới đã tạo cho Việt Nam một vị thế mới trong quan hệ thương mại quốc tế, khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử ở một số thị trường chủ yếu. Đây chính là một trong những điều kiện quan trọng góp phần mở đường cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường toàn cầu với một vị thế bình đẳng và thuận lợi hơn trong quan hệ kinh doanh với tất cả đối tác thương mại của các nước. _ Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam và tạo điều kiện khai thác tốt hơn các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương. Với việc được hưởng những ưu đãi thuế quan, phi quan thuế cũng như các ưu đãi khác được áp dụng trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thông quan hệ thương mại với các thị trường lớn. Hiện nay, các tổ chức kinh tế quốc tế có quy định dành những ưu đãi đặc biệt đối với các thành viên mới, đặc biệt là các nước đang phát triển hoặc đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Khi tham gia hội nhập, Việt Nam được hưởng các miễn trừ, ân hạn trong việc thực hiện nghĩa vụ mà các quốc gia phát triển đã là thành viên phải thực hiện. _Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần nâng cao sức hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Các hiệp định, chương trình hợp tác được thoả thuận trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM (như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, Chương trình hành động xúc tiến đầu tư Á - Âu, Kế hoạch hành động về tự do hoá đầu tư của APEC…) đều đặt ra mục tiêu quan trọng là từng bước xoá bỏ 71 rào cản đối với đầu tư nước ngoài nhằm tiến tới tự do hoá đầu tư theo lộ trình nhất định. Các thoả thuận về tự do hoá thương mại trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn nói trên cũng là nhân tố tích cực góp phần mở rộng thị trường thu hút đầu tư cho từng nước và toàn khu vực. Trên thực tế, mục tiêu quan trọng nhất của AFTA chính là nhằm thu hút đầu tư trực tiếp trong nội bộ khối và ngoài khu vực. Việc thực hiện AFTA cùng với Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) sẽ tạo ra một thị trường thống nhất, cho phép khai thác lợi thế kinh tế về quy mô, thị trường và nhều điều kiện thuận lợi khác cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thêm nữa, việc cam kết giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước, trong đó có cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm. Với những yếu tố thuận lợi nói trên, tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam có điều kiện nâng cao sức cạnh tranh của môi trương đầu tư, nhất là trong bối cảnh cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên găy gắt. Bên cạnh đó, việc tham gia vào các chương trình hành động về xúc tiến đầu tư được thoả thuận trong hầu hết các tổ chức và diễn đàn nói trên cũng tạo điều kiện để Việt Nam nâng cao hiệu quả công tác vận động đầu tư nước ngoài. _ Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ tại Việt Nam. Việc tăng năng lực xuất khẩu, mở rộng thị trường do được hưởng những ưu đãi và lợi thế trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới tạo điều kiện để Việt Nam phát triển một số ngành công nghiệp, dịch vụ và đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo thêm việc làm cho người lao động, thu hút và đổi mới 72 công nghệ trong nhiều ngành kinh tế. Thực tiễn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua cho thấy, quan hệ thương mại đầu tư giữa Việt Nam với các nước ngày càng được mở rộng đã tạo thêm nhu cầu và khả năng phát triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ hỗ trợ cho kinh doanh như: thông tin liên lạc, giao thông vận tải, bảo hiểm, ngân hàng, kế toán, kiểm toán, tư vấn, quảng cáo… Các dịch vụ như: du lịch, giáo dục, y tế, nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật, văn hoá, giải trí… cũng phát triển cùng với việc mở rộng quan hệ nói trên. Ngược lại, sự phát triển của các ngành dịch vụ cũng góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. b) Những thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập _Thứ nhất, sức cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều mặt hạn chế. Cho đến nay, Việt Nam vẫn là nước được đánh giá là có khả năng canh tranh thấp. Sức mua và năng lực tích luỹ tái đầu tư, mở rộng sản xuất còn hạn chế. Trình độ kỹ thuật và công nghệ còn thấp so với thế giới trong khi nguồn vốn đầu tư phát triển không đủ đáp ứng nhu cầu… Điều này đã làm suy giảm đáng kể sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế ngay cả trong điều kiện Việt Nam đạt được cam kết mở cửa thị trường với các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, cam kết giảm thuế, xoá bỏ hàng rào phi thuế, cho phép doanh nghiệp nước ngoài được tiếp cận rộng rãi hơn ở thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư tại Việt Nam cũng đã đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước sức ép canh tranh rất lớn ngay tại thị trường trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng không có lợi thế so sánh và các mặt hàng từ trước đến nay vẫn được bảo hộ ở mức cao. 73 _ Thứ hai, hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô và pháp luật còn nhiều bất cập. Để tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải xây dựng hệ thống chính sách kinh tế, thương mại đồng bộ, phù hợp với những nguyên tắc của các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới. Yêu cầu này rất bức xúc trong bối cảnh hệ thống chính sách kinh tế, thương mại và đầu tư của Việt Nam còn nhiều bất cập, nhiều quy định không rõ ràng, thiếu nhất quán, nhất là hệ thống chính sách thuế quan và phi thuế quan. Nhiều biện pháp, chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương mại mà các tổ chức quốc tế thừa nhận nhưng lại chưa đưọc áp dụng ở Việt Nam (như chế độ hạn ngạch thuế quan, biện pháp cân bằng cán cân thanh toán, quyền tự vệ, chống phá giá…). Với tính chất là một hệ thống riêng, tương đối độc lập so với luật đầu tư trong nước, hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa tạo ta một "sân chơi bình đẳng" giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài không chỉ đối với nhứng vấn đề có liên quan đến việc thành lập, tổ chức và hoạt động của dự án đầu tư mà còn cả những vấn đề liên quan đến điều kiện đầu tư và chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư. Điều này chưa đáp ứng một số yêu cầu của các tổ chức, diến đàn kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là yêu cầu dành đối xử quốc gia cho nhà đầu tư nước ngoài. _ Thứ ba, nhận thức chung về tiến trình hội nhập chưa đầy đủ. Hiện nay, một số doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, còn tư tưởng dựa vào hỗ trợ của Nhà nước. Thực tiễn mấy năm qua cho thấy, khó khăn lớn nhất của Việt Nam trong việc xây dựng các cam kết về giảm thuế quan và xoá bỏ các biện pháp phi thuế đối với thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư là do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, luôn có yêu cầu 74 bảo hộ ở mức độ cao. Bên cạnh đó, công tác phổ biến về hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua mặc dù đã có những nỗ lực song vẫn chỉ là bước đầu và chưa rộng khắp, chưa kịp thời. 4. Yêu cầu đặt ra đối với ngành công nghiệp Dệt May để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO. a) Ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam hội nhập vào WTO với những cơ hội và thách thức  Những cơ hội của ngành Dệt May khi Việt Nam gia nhập WTO: Một là, xuất phát từ những lợi thế so sánh về lao động và thị trường thì ngành Dệt May Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nhanh và đóng góp nhiều hơn cho đất nước, do đó được Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển. Hai là, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được thực hiện từ cuối năm 2001, trong đó hàng Dệt May chưa bị khống chế hạn ngạch sẽ có điều kiện phát triển mạnh vào thị trường Mỹ. Ba là, xu thế chuyển dịch các đơn hàng Dệt May từ những nước kém an toàn (Pakistan, Inđônêxia…) sang Việt Nam ngày càng rõ nét.  Những thách thức của ngành công nghiệp Dệt May trong tiến trình hội nhập WTO: Thứ nhất, sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp, kể cả chất lượng, hiệu quả và giá cả. Thứ hai, việc bãi bỏ hạn ngạch cho các nước WTO và việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ làm Việt Nam (hiện chưa phải là thành viên của WTO) mất lợi thế cạnh tranh về xuất khẩu. 75 Thứ ba, việc thực hiện lộ trình giảm thuế AFTA/CEFT sẽ làm hàng Dệt May Việt Nam mất lợi thế bảo hộ tại thị trường nội địa. b) Những yêu cầu đặt ra đối với ngành công nghiệp Dệt May Từ những thuận lợi và khó khăn của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành công nghiệp Dệt May nói riêng, trong tiến trình hội nhập vào WTO, để đảm bảo cho ngành Dệt May Việt Nam đứng vững và phát triển, toàn ngành Dệt May nói chung và bản thân mỗi doanh nghiệp nói riêng cần phải thực hiện các yêu cầu chủ yếu sau:  Xác định chiến lược thị trường với sản phẩm mũi nhọn và thị phần cụ thể để từ đó tập trung mọi nguồn lực hướng vào thị phần tiêu thụ.  Tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm từ 20 - 30% so với hiện nay.  Đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm tăng chất lượng sản phẩm, tăng tỷ lệ sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, đồng thời đầu tư cho công tác quản lý phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 14000, SA 8000.  Đầu tư mạnh vào công tác sáng tác mẫu mốt, thiết kế sản phẩm, từng bước xây dựng uy tín nhãn mác và thương hiệu cho doanh nghiệp.  Tổ chức tiếp thị một cách mạnh mẽ, sử dụng tối đa các hình thức tiếp thị và công cụ điện tử trong kinh doanh.  Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài và Việt kiều có tiềm lực, có kinh nghiệm trong việc sử dụng công nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới, liên kết sử dụng nhãn mác đã có uy tín trên thị trường và hợp tác đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ. 76  Hợp tác và phân công hợp lý trong đầu tư và sản xuất, hạn chế tình trạng trùng lắp, dư thừa và cạnh tranh trong nội bộ; đồng thời hợp tác chặt chẽ trong các hoạt động quảng bá chung để xây dựng hình ảnh một "Ngành Dệt May Việt Nam có đẳng cấp chất lượng, uy tín và cạnh tranh".  Tổ chức tốt việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực chuyên ngành Dệt May. C/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 I. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 Để đáp ứng được yêu cầu đặt ra với ngành công nghiệp Dệt May trong tiến trình hội nhập WTO nhằm phát huy những lợi thế và khắc phục những khó khăn của Ngành, ngành công nghiệp Dệt May cần triển khai một số các giải pháp chủ yếu sau: 1. Giải pháp về tài chính và vốn Để triển khai kế hoạch theo mục tiêu đã nêu ở trên, ngành công nghiệp Dệt May cần thiết phải huy động một lượng vốn khoảng 35.000 tỷ đồng từ năm 2000 cho đến năm 2005 và 30.000 tỷ đồng cho giai đoạn 2006 - 2010. Đây là số vốn lớn, các doanh nghiệp Dệt May cần phải nghiên cứu và áp dụng các giải pháp huy động vốn sau đây:  Cần huy động mọi nguồn lực tự có trong công ty như khấu hao tài sản cơ bản, vốn có được bằng cách bán, khoán, cho thuê các tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho, huy động từ cán bộ công nhân viên,… 77  Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, cần nghiên cứu khả năng phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển.  Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích và kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn vốn từ bên ngoài và của mọi thành phần kinh tế.  Xin phép được sử dụng vốn ngân sách cho các chương trình quy hoạch như quy hoạch vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm hoặc quy hoạch các cụm công nghiệp Dệt.  Xin phép sử dụng vốn ngân sách cho các trường đào tạo, Viện nghiên cứu chuyên ngành được bình đẳng như đối với các loại hình trường, Viện do Chính phủ hoặc các Bộ quản lý.  Xin phép sử dụng vốn ODA hoặc đặc biệt ưu đãi cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc đầu tư xử lý nước thải, hoặc hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp khó khăn về tài chính.  Vay tín dụng trả chậm từ các nhà cung cấp, từ các tổ chức tài chính, ngân hàng, thuê tài chính, vay thương mại,.. Đối với các hình thức này, doanh nghiệp Dệt May rất cần được bảo lãnh của Chính phủ. 2. Giải pháp về đầu tư Đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng nhất. Có đầu tư thì có đổi mới. Không đầu tư thì không bao giờ có đổi mới. Do vậy, chủ các doanh nghiệp Dệt May cần sớm xây dựng các dự án đầu tư, trình các cấp có thầm quyền phê duyệt. Các dự án đã được phê cần được triển khai thực hiện bởi nhiều đối tác khác nhau, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ngay cả việc kêu 78 gọi đầu tư nước ngoài cũng cần các dự án đã được phê duyệt. Do đó, ngành Dệt May cần đầu tư vào các lĩnh vực sau:  Đầu tư phát triển nguyên phụ liệu cho Ngành, đặc biệt là cây bông vải, các hoá chất, thuốc nhuộm, chất trợ cho ngành Dệt, phụ liệu cho ngành May, các sản phẩm Dệt sử dụng cho các ngành công nghiệp, các sản phẩm Dệt hiện chưa sản xuất được như xơ sợi tổng hợp, vải không dệt, vải địa kỹ thuật… Hiện nay, phần lớn nguyên phụ liệu của ngành Dệt May như bông, xơ sợi tổng hợp, hoá chất thuốc nhuộm, vải chất lượng cao may hàng xuất khẩu, phụ liệu cho ngành May vẫn phải nhập khẩu. Nếu các nguyên phụ liệu này được trong nước cung cấp thì ngành Dệt May có thể chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh, giá hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao hơn, thời gian giao hàng sớm hơn và nhờ vậy ngành Dệt May sẽ thu được lợi nhuận cao hơn, tăng trưởng nhanh hơn. Mặt khác, Việt Nam hoàn toàn có điều kiện để xây dựng và phát triển vùng trồng bông vì hiện hầu hết các vùng có khả năng trồng bông lại đang trồng trọt các loại cây khác, do đó lượng bông cung cấp quá ít ỏi (khoảng 10% nhu cầu nhập khẩu) không đủ để hỗ trợ cho ngành Dệt, khiến ngành Dệt Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu. Để giải quyết được khó khăn này, cần mở rộng diện tích trồng bông và tăng năng suất cây bông hạt. Mở rộng diện tích trồng bông bằng cách: trồng xen canh với các loại cây khác; khuyến khích nông dân chuyển sang trồng bông vì đầu tư vào việc này thấp, nhanh được thu hoạch, được ngành Dệt May lo đầu ra, hơn nữa lại có sự trợ giúp của Chính phủ để ổn định sản xuất, ổn định lợi nhuận cho nông dân; hình thành các khu trồng bông lớn, năng suất cao, chất lượng tốt, áp dụng mô hình trang trại trồng bông; quy hoạch một số vùng trồng bông mới như Sơn La - Thanh Hoá, Đồng bằng sông Cửu Long, 79 Duyên hải miền Trung. Tăng năng suất cây bông hạt bằng cách: lai tạo các giống bông cho năng suất cao; áp dụng các phương pháp phòng trừ sâu bệnh mới, hiệu quả cao hơn; đầu tư vào hệ thống bảo quản để tránh bông bị hư hỏng do thời tiết.  Đầu tư phát triển ngành Dệt tập trung theo cụm, nằm trong khu công nghiệp nhằm giảm chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết xử lý môi trường tập trung. Ngành Dệt là ngành cần có vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp; yêu cầu lao động có trình độ cao; nhu cầu đầu vào và hạ tầng cơ sở lớn; quản lý lại khó khăn; giải quyết xử lý môi trường tập trung. Hiện nay, ngành Dệt đang có chủ trương đầu tư tập trung vào 10 cụm công nghiệp Dệt (phía Bắc 5 cụm, miền Trung 1 cụm và phía Nam 4 cụm) với nhu cầu vốn đầu tư cho mỗi cụm là 2.018 tỷ đồng và đầu tư toàn cụm ước tính: 1.684 tỷ đồng, thời gian thu hồi vốn là 10 năm. Bao gồm : - Cụm công nghiệp Dệt May Phố Nối B, tỉnh Hưng Yên. - Cụm công nghiệp Dệt May Thái Bình. - Cụm công nghiệp Dệt May Hải Phòng. - Cụm công nghiệp Dệt May tại KCN Lễ Môn, Thanh Hoá. - Cụm công nghiệp Dệt May Đà Nẵng. - Cụm công nghiệp Dệt May Nhơn Trạch, Đồng Nai. - Cụm công nghiệp Dệt May Bình An, Bình Dương. - Cụm công nghiệp Dệt May Bến Lức, Long An. - Cụm công nghiệp Dệt May Cần Thơ. 80 - Cụm công nghiệp Dệt May Tiên Sơn, Bắc Ninh.  Đầu tư phát triển ngành May rộng khắp đến tận các vùng thị trấn, những khu dân cư nhằm kết hợp phát triển ngành với công nghiệp hoá ở nông thôn. Khác với ngành Dệt, ngành May chỉ cần vốn đầu tư ít với công nghệ đơn giản; lao động giản đơn; sử dụng lao động nhiều (có thể từ nông thôn và miền núi). Hiện các sản phẩm May có chất lượng cao, xuất khẩu FOB được tập trung may tại các thành phố lớn (Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng). Các sản phẩm may trung bình và cấp thấp , là các đơn vị vệ tinh, may da công tập trung may chủ yếu ở các tỉnh, huyện và xã. Để có thể xây dựng và triển khai nhanh các dự án đầu tư, cần khuyến khích và mở rộng việc sử dụng các công ty tư vấn chuyên ngành hoặc thành lập các trung tâm tư vấn Dệt May có đủ chuyên gia Dệt May, chuyên gia thiết bị động lực, chuyên gia xây dựng và chuyên gia tài chính nhằm giúp các doanh nghiệp xây dựng nhanh các dự án đầu tư. 3. Giải pháp về thị trường. a) Đối với thị trường xuất khẩu Thị trường xuất khẩu là thị trường chủ yếu thu hút sự phát triển của ngành Dệt May Việt Nam vì nhu cầu về hàng Dệt May trên thế giới là rất lớn. Thông qua thị trường xuất khẩu, ngành công nghiệp Dệt May mới phát huy được hết lợi thế so sánh của mình so với các nước trên thế giới và các nước trong khu vực. Hơn nữa, xu thế hội nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã thúc đẩy ngành Dệt May nâng cao khả năng xuất khẩu vào thị trường các nước trên thế giới. 81  Thiết bị hệ thống mạng xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Hoa kỳ…vì đây là thị trường xuất khẩu hàng Dệt May chủ yếu của Việt Nam. Để làm được việc này, Hiệp hội Dệt May, Tổng công ty Dệt May Việt Nam và các doanh nghiệp Dệt May cần tự mình đưa ra các cơ chế nhằm khai thác các nguồn lực thương mại khác nhau hiện đã có mặt tại các thị trường trọng yếu đó.  Hệ thống thương mại cần thiết phải đan xen lẫn nhau, nghĩa là cần coi trọng thiết lập nhiều đầu mối tại một thị trường, đồng thời chú trọng thiết lập nhiều đầu mối trên sân nhà của mình, đặc biệt là sử dụng các công ty luật của nước ngoài có mặt tại Việt Nam để làm tư vấn cho hoạt động xuất khẩu.  Mỗi doanh nghiệp sản xuất Dệt May hoặc thương mại dịch vụ Dệt May cần coi trọng việc thiết kế mặt hàng với mẫu mốt phù hợp, đặc biệt là xây dựng cho bản thân mỗi đơn vị có phong cách và nhãn hiệu lâu dài và các bộ sưu tập theo từng mùa như phương pháp kinh doanh của các tập đoàn phân phối hàng Dệt May lớn trên thế giới.  Cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu truyền thông của công ty không những ở thị trường nội địa mà ngay tại các thị trường xuất khẩu. Để làm đựợc điều này, các đơn vị Dệt May cần có biện pháp sử dụng và khai thác tốt các phương tiện thông tin hiện đại hiện nay, đặc biệt là phương pháp kinh doanh trên mạng. b)Đối với thị trường trong nước Hiện nay, các sản phẩm May ở trong nước tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả so với vải nhập ngoại, nhất là 82 vải nhập từ Trung Quốc. Hàng Dệt của ta sản xuất ra không chỉ không tiêu thụ được ở các thành phố lớn mà ngay cả tại vùng nông thôn cũng tiêu thụ chậm vì chất lượng thua kém và giá bán cao hơn so với Trung Quốc. Với nhu cầu sử dụng thu nhập vào việc may mặc trong nước ngày càng phát triển và đa dạng. Trong khi đó lại bị cạnh tranh khốc liệt với thị trường Trung Quốc nên để giữ vững thị trường trong nước, ngành Dệt May Việt Nam cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu, truyền thống của các công ty Dệt May nhằm nâng cao uy tín của công ty. Tìm các biện pháp để tiết kiệm các chi phí sản xuất, từ đó giảm giá sản phẩm. 4. Giải pháp về điều hành và quản lý nguồn nhân lực  Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp Dệt May. Đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, cần có biện pháp để phát huy hiệu quả của chế độ " một thủ trưởng" theo tiêu chuẩn quản lý ISO 9000. Về việc này, cần có sự thống nhất thực hiện về phía các cấp, các ngành, từ trong Đảng đến cơ quan và các tổ chức quần chúng khác. Giám đốc phải là người chịu trách nhiệm mọi mặt trong công ty, do vậy giám đốc cần được trao các quyền cần thiết để thực thi nhiệm vụ của mình theo đúng luật định.  Các doanh nghiệp Dệt May cần có kế hoạch xây dựng hệ thống mang thông tin điều hành nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hành và quản lý xí nghiệp.  Để có thể tiếp nhận các công nghệ phù hợp, nhập các loại thiết bị tương thích thì việc củng cố các viện nghiên cứu và sử dụng các chuyên gia kỹ 83 thuật chuyên ngành là rất cần thiết, kể cả việc thuê các chuyên gia nước ngoài nhằm đảm bảo cho các dự án đầu tư được triển khai thực hiện có hiệu quả.  Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt để bổ sung cho các doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thực hiện các dự án đầu tư mới sau khi đã qua khoá đầu tư ngắn hạn về quản lý và kỹ thuật.  Thuê các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài nhằm giải quyết khó khăn cho một số công ty hoặc điều hành các dự án mới.  Xây dựng cơ chế ứng xử mới cả về tinh thần và vật chất nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho phát triển ngành Dệt May.  Củng cố Viện nghiên cứu chuyên ngành nhằm mục đích thay mặt cho ngành Dệt May phối hợp với các cơ quan hải quan, cơ quan thuế thực hiện các thủ tục hải quan và thuế sao cho có lợi đối với các sản phẩm Dệt May Việt Nam.  Củng cố các trường đào tạo, trung tâm đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng vọt về cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong thời gian tới. 4. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Việc thực hiện CEFT/AFTA đang là vấn đề thách thức đối với ngành Dệt May Việt Nam. Hơn nữa, nguy cơ hàng Dệt May của các nước ASEAN xâm nhập vào thị trường nội địa sẽ xảy ra khi Việt Nam hội nhập khu vực (AFTA) và thế giới (WTO). Theo lộ trình CEFT/AFTA, hàng Dệt May đang được bảo hộ ở mức cao (thuế suất nhập khẩu sợi 20%, vải 40%, hàng may mặc 50%) sẽ giảm dần tới mức 5% từ năm 2006. Còn theo Hiệp định ATC/WTO, đến cuối năm 2001 các nước phát triển sẽ bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng Dệt May từ các nước thành viên. Như vậy hầu hết đối thủ cạnh 84 tranh xuất khẩu Dệt May lớn sẽ có lợi thế hơn. Trong khi đó ngành Dệt May Việt Nam lại có trình độ công nghệ thấp, năng lực sản xuất, chủng loại, mẫu mã hàng hoá nghèo nàn dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Sản phẩm May chủ yếu ở dạng gia công, giá trị gia tăng chỉ khoảng 15-20%. Khả năng thương mại và thương hiệu còn nhiều hạn chế, do vậy tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế vẫn thấp. Để nâng cao sức cạnh tranh cho ngành Dệt May Việt Nam trong thời kỳ hội nhập cần tăng cường khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của toàn Ngành.  Tăng cường và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu thị trường, chú ý cả đến thị trường trong nước và nước ngoài, thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của ngành Dệt May Việt Nam. Đối với thị trường xuất khẩu, cần chú ý tiếp cận nhanh đến thị trường Mỹ vì đây là thị trường xuất khẩu có nhiều tiềm năng của ngành Dệt May Việt Nam trong những năm tới. Chú ý khôi phục sớm thị trường xuất khẩu truyền thống SNG và Đông Âu. Các doanh nghiệp ngành Dệt May Việt Nam cần có những giải pháp thích hợp để lựa chọn và tìm ra những ngách thị trường xuất khẩu mà Việt Nam có những lợi thế nhất định trong cạnh tranh ở các khu vực thị trường xuất khẩu. Đối với thị trường trong nước, cần đặc biệt quan tâm đến các thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các đối tượng có thu nhập và nhu cầu cụ thể khác nhau về hàng Dệt May như học sinh, công nhân. Kết hợp việc nghiên cứu mẫu, mốt, sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng.  Xây dựng hoàn thiện chiến lược sản phẩm đúng đắn cho từng sản phẩm Dệt May, xác định được những sản phẩm mũi nhọn và có thế mạnh trong cạnh tranh ở từng thị trường và của mỗi doanh nghiệp. Đa dạng hoá các 85 mặt hàng sản phẩm Dệt May để đáp ứng tối đa các nhu cầu trong nước về hàng Dệt May.  Khai thác và huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư và nâng cao năng lực hiện đại hoá trình độ công nghệ, thiết bị cho các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam, tạo lập sự cân đối trong toàn ngành, đặc biệt là giữa khâu kéo sợi với Dệt, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Dệt và May, May xuất khẩu. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu mã sản phẩm Dệt, May, nghiên cứu thời trang, quảng bá các sản phẩm mới để hàng Dệt May Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được thị trường người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.  Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư, giảm thuế để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào ngành sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cho ngành Dệt May trong giai đoạn 2001-2010. Đặc biệt là nghiên cứu giống bông, sơ chế bông hạt, các nhà máy ươm tơ, sản xuất các loại xơ sợi tổng hợp, tạo lập cơ sở ổn định bền vững về nguyên liệu cho ngành Dệt May phát triển. Ưu tiên cho ngành Dệt May vay vốn đầu tư ưu đãi của Nhà nước với lãi suất 3%/năm và thời hạn vay từ 10-12 năm để tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị cho ngành Dệt May, đặc biệt là đổi mới thiết bị ở các nhà dệt nhuộm lớn như nhà máy Dệt 8-3, Dệt Nam Định có hệ thống thiết bị dệt, nhuộm đã quá lạc hậu.  Giảm thuế nhập khẩu các loại nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May mà trong nước hiện chưa sản xuất được để giảm chi phí về nguyên phụ liệu. Ngành Dệt May là ngành kinh tế xã hội phát triển để giải quyết việc làm là chủ yếu. Vì vậy, cần giảm hoặc miễn hẳn thuế VAT từ 10% cho ngành sợi dệt xuống mức 4-5% để tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cho các sản phẩm Dệt May. 86  Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cho ngành Dệt May để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, cán bộ kỹ thuật và quản lý. Cần có sự sửa đổi mức lương và hệ số độc hại quy định cho ngành Dệt May để khuyến khích người lao động yên tâm làm việc trong ngành Dệt May.  Củng cố và phát huy vai trò của Tổng công ty Dệt May Việt Nam nhằm tổ chức mối quan hệ liên kết kinh tế và phân công chuyên môn hoá trong sản xuất và tiêu thụ của các doanh nghiệp ngành Dệt May. Nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam trên thị trường quốc tế và trong nước.  Tạo môi trường để thúc đẩy các doanh nghiệp Dệt May cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới công nghệ hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý giảm chi phí sản xuất cá biệt.  Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 nhằm nâng cao chất lượng của hàng Dệt May Việt Nam.  Khuyến khích các doanh nghiệp Dệt May mở văn phòng đại diện, đại lý ở nước ngoài để đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu hang Dệt May. Phát huy vai trò tích cực của các cơ quan thường trực, tham tán thương mại ở các Đại sứ quán Việt Nam tại các nước trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu cho ngành Dệt May của ta trong thời gian tới. II. MỘT SỐ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 Bản thân các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam phải là chủ thể chính trong việc thực hiện một cách chủ động những biện pháp để phát triển ngành 87 Dệt May nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO. Tuy nhiên, trong bối cảnh và thời cơ hiện nay, sự chỉ đạo và hỗ trợ của Nhà nước lại có tính quyết định để có thể đạt được mục tiêu trong thời gian ngắn này. Vì vậy, Nhà nước cần phải có những cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO. 1. Chính sách tạo nguồn vốn đầu tư cho ngành Dệt Yếu kém nhất của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam hiện nay là ngành Dệt phát triển chậm, không cung ứng được vải cho ngành May xuất khẩu đã và đang phát triển khá nhanh. Ngành May vì vậy phải làm gia công là chủ yếu. Hiệu quả xuất khẩu của ngành Dệt May còn hạn chế do hầu hết vải còn phải nhập từ nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là đa số các doanh nghiệp Dệt không tập trung đủ vốn để đáp ứng cho nhu cầu vốn đầu tư khá lớn với thời gian thu hồi vốn lâu. Do đó, Nhà nước đã đưa ra chính sách tạo nguồn vốn đầu tư cho ngành Dệt, cụ thể như sau:  Được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó 50% là vay với lãi suất 50% mức lãi suất theo quy định hiện hành tại thời điểm rút vốn, tức là được vay với mức lãi suất 3%/năm, thời gian vay là 12 năm và có 3 năm ân hạn, còn lại là vay theo quy định của Quỹ hỗ trợ phát triển.  Được coi là lĩnh vực ưu đãi đầu tư và hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước.  Cho sử dụng nguồn vốn ODA vào các dự án xử lý môi trường cho các cụm công nghiệp Dệt tập trung mới và các cơ sở Dệt hiện có. 2. Chính sách ưu đãi đầu tư mới vào các cụm công nghiệp Dệt May tập trung 88  Khuyến khích các dự án đầu tư mới ngành Dệt May vào các cụm công nghiệp tập trung để thuận tiện cho việc xử lý môi trường và liên kết kinh doanh bằng các chính sách ưu đãi.  Nhà nước hỗ trợ một phần vốn ngân sách, vốn ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng một số cụm công nghiệp Dệt May mới và đầu tư các công trình xử lý nước thải. 3. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu Dệt May  Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch và đấu thầu hạn ngạch Dệt May cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức Dệt May quốc tế, cho công tác xúc tiến thương mại và đầu tư nguồn nguyên liệu cho ngành Dệt May.  Hỗ trợ các doanh nghiệp Dệt May đẩy mạnh xuất khẩu hàng Dệt May vào thị trường Mỹ với mức hỗ trợ là 7% trên kim ngạch xuất khẩu (tính theo giá FOB) vào thị trường Mỹ. Đồng thời khuyến khích việc thành lập các liên doanh với nước sản xuất hàng Dệt May xuất khẩu vào thị trường Mỹ trong thời gian còn được hưởng quy chế phi hạn ngạch vào thị trường Mỹ. 4. Chính sách hỗ trợ cây bông vải Để chủ động cung ứng được nguyên liệu chính của ngành Dệt với giá cả cạnh tranh, việc đầu tư phát triển cây bông vải cần được Chính phủ quan tâm, hỗ trợ. Hiện nay, sản lượng bông xơ mới đạt 8.500 tấn tức là chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu ngành Dệt. Mục tiêu đến năm 2010, sản lượng bông xơ là 95.000 tấn, đáp ứng được 70% nhu cầu của ngành Dệt. Chính sách hỗ trợ cây bông vải được thực hiện như sau:  Hỗ trợ vốn ngân sách cho công tác nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, lai tạo hạt giống, kiểm tra chất lượng bông xơ và công tác khuyến nông. 89  Cho phép ngành bông vải được hưởng các Quỹ sau: +) Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp. +) Quỹ bảo hiểm tín dụng để hỗ trợ nông dân. +) Quỹ bảo hiểm ngân hàng đối với một số hàng nông sản xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. 90 KẾT LUẬN Trên cơ sở nghiên cứu tình hình phát triển của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong những năm vừa qua và những cơ hội, thách thức đặt ra cho ngành Dệt May Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO, ta thấy có những đặc điểm nổi bật sau : Qua hơn 10 năm đổi mới, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã có những thành công nhất định. Tốc độ tăng trưởng qua các năm cao. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, bắt đầu tạo được uy tín đối với khách hàng trong nước. Tuy nhiên, so với các nước các nước xuất khẩu Dệt May trong khu vực thì có thể thấy rằng nội lực của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam còn yếu, đặc biệt là trình độ về thiết bị, công nghệ của ngành Dệt. Sự yếu kém trong ngành Dệt đã làm cho ngành May phải nhập khẩu cao những nguyên liệu đầu vào, đồng thời không tạo ra được những mối liên kết kinh tế mạnh thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010 – Bộ Công nghiệp & Tổng Công ty Dệt May Việt Nam. 2. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và triển vọng gia nhập của Việt Nam – Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 3. Chiến lược tăng tốc ngành Dệt May đến năm 2010 – Tổng Công ty Dệt May Việt Nam. 4. Việt Nam chính sách thương mại và đầu tư - Bộ Thương mại. 91 5. Tạp chí Dệt May Việt Nam. 6. Các tạp chí khác : Kinh tế và phát triển, Phát triển kinh tế, Thương mại, Con số và sự kiện, Nghiên cứu kinh tế, Nghiên cứu Đông Nam Á, Công nghiệp, Kinh tế và dự báo, Việt Nam - Đông Nam Á. 7. Các báo : Thời báo kinh tế, Đầu tư, Công nghiệp, Kinh tế quốc tê, Thời báo ngân hàng, Thời báo tài chính Việt Nam. 8. Các nguồn số liệu : Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Tổng cục hải quan, Tổng công ty Dệt May Việt Nam. 9. Một số tài liệu khác. 92 Bảng 9 : Vốn đầu tư nước ngoài vào ngành May (1990 – 2001) Đơn vị tính : Triệu USD Chỉ tiêu Tổng 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1. Vốn đầu tư đăng ký 372 7,37 42,48 54,49 33,12 29,27 50,97 45,22 34,76 8,33 8,95 40,51 16,11 2. Vốn rút phép 60,69 0 0,5 0 2,99 6,17 9,48 26,27 6,02 6,39 0,8 1,34 1 3. Vốn còn hiệu lực 311 7,37 42,43 54,49 30,12 23,1 41,49 18,59 28,74 1,49 8,87 39,17 15,11 4. Vốn thực hiện 233,89 0 6,52 7,41 23,79 23,88 31,19 38,06 48,51 15,17 17,43 21,93 0 5. Vốn 100% NN 273 3,49 6,48 36,51 22,19 24,05 43,62 42,06 32,26 5 7,91 37,11 12,56 6. Vốn liên doanh 91 3,88 34,15 17,98 10,93 5,22 5,67 3,16 2,5 0 1,04 3,4 3,55 7. Vốn hợp doanh 7 0 1,85 0 0 0 1,68 0 0 3,33 0 0 0 Qui mô vốn BQ 1 dự án 2,17 1,23 4,72 4,19 1,84 1,54 2,68 2,38 2,48 1,67 0,99 1,56 1,15 Nguồn : Bộ Kế hoạch & Đầu tư 93 5. Vốn 100% NN 1458 5,34 0 5,18 522,3 53,39 380,5 6 148,4 213 41,71 8,5 35,16 4,8 6. Vốn liên doanh 179 10,01 9,41 25,21 71,02 9,32 9,3 35,6 7,27 1,5 0 0,02 0 7. Vốn hợp doanh 1 0 0 0 0 0 0,7 0 0 0,2 0 0 0 Qui mô vốn BQ 1 dự án 16,75 7,84 5,45 7,72 49,44 10,34 29,99 12,27 18,36 6,20 1,70 3,91 1,6 0 Nguồn : Bộ Kế hoạch & Đầu tư 94 Bảng 6: Dự án đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt (1990 - 2001) Chỉ tiêu Tổng 88-90 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1. Dự án cấp phép 101 4 3 8 12 10 13 15 12 7 5 9 3 2. Dự án rút phép 18 1 0 2 1 1 2 0 5 3 1 2 0 3. Dự án hiệu lực 83 3 3 6 11 9 11 15 7 5 4 7 3 4. Dự án 100% NN 73 1 0 4 10 7 11 10 10 4 5 8 3 5. Dự án liên doanh 26 3 3 4 2 2 2 5 2 2 0 1 0 6. Dự án hợp doanh 2 0 0 0 0 1 0 0 0 1 0 0 0 Nguồn : Bộ Kế hoạch & Đầu tư Bảng 7: Vốn đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt (1990 - 2001) Đơn vị tính : Triệu USD Chỉ tiêu Tổng 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1. Vốn đầu tư đăng ký 1692 31,36 16,36 61,78 593,32 103,41 389,96 184 220,27 43,41 8,5 35,16 4,8 2. Vốn rút phép 159,37 5,53 0 18,64 0,47 1,78 10,78 0 34,84 68,53 7,57 11,23 0 3. Vốn còn hiệu lực 1533 15,35 9,41 27,39 543,9 108,3 337 184 213,6 44,18 8,51 35,58 4 4. Vốn thực hiện 597 0 4,87 4,19 74,45 46,43 75,38 139,33 111,58 40,64 46,3 54,3 0

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May từ nay đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO.pdf
Luận văn liên quan