Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn mở cửa, hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới; quá trình quốc tế hóa nền kinh tế ngày càng trở nên mạnh
mẽ; tự do hóa thương mại, đầu tư và tài chính đang diễn ra với cường độ và quy mô
chưa từng có. Với vai trò là hoạt động kinh doanh đầy tiềm năng trong lĩnh vực tài
chính – ngân hàng, hoạt động cho vay ngoại tệ ngày càng được chú trọng phát triển,
góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên,
khi thị trường tài chính – tiền tệ ngày càng phát triển, tỷ giá giữa các đồng tiền ngày
càng biến động khó lường đem lại không ít rủi ro cho hoạt động cho vay vốn ngoại
tệ của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam như thực tế đã chứng minh trong
những năm qua.
Vì vậy, để hoạt động cho vay ngoại tệ có hiệu quả cao, hạn chế rủi ro tín
dụng, đặc biệt là rủi ro do những yếu tố khách quan (thay đổi các yếu tố kinh tế – xã
hội, biến động lãi suất, tỷ giá ) cũng như chủ quan (từ phía ngân hàng và khách
hàng vay vốn) mang lại, Vietcombank cần có chính sách quản trị rủi ro chặt chẽ,
hiệu quả cao
Với việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với phân tích
thực tiễn hoạt động cho vay ngoại tệ tại Vietcombank trong giai đoạn từ 2007 –
2009, luận văn đã đạt được các kết quả nghiên cứu sau:
Thứ nhất, thông qua việc nghiên cứu tổng quan về tín dụng ngân hàng, rủi ro
tín dụng, cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng, luận văn đã cho thấy
hoạt động tín dụng của ngân hàng là một hoạt động chịu sự tác động của các yếu tố
khách quan cũng như chủ quan. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung
và hoạt động cho vay ngoại tệ nói riêng đóng một vai trò quan trọng, không thể
thiếu của nền kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như hiện
nay. Bên cạnh đó, một số bài học kinh nghiệm trong việc quản lý rủi ro khi cho vay
ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng được đề cập trong luận văn.
Đây là tiền đề, cơ sở lý luận để phân tích thực trạng cho vay ngoại tệ tại Ngân hàng
TMCP Ngoại Thương Việt Nam.
Thứ hai, luận văn đã phân tích thực trạng hoạt động tín dụng nói chung và
cho vay ngoại tệ nói riêng tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. Các rủi
ro mà Ngân hàng thường gặp khi cho vay ngoại tệ cũng được đi sâu tìm hiểu, đó là
các rủi ro gây ra do ảnh hưởng của các nhân tố khách quan, rủi ro do bản thân ngân
hàng hay rủi ro xuất phát từ phía khách hàng. Mặc dù trong thời gian qua, Ngân
hàng đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay
ngoại tệ, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi một vài hạn chế. Để khắc phục những hạn
chế này, Ngân hàng cần có những giải pháp kịp thời để đáp ứng các mục tiêu đã đề
ra, và đứng vững trong cạnh tranh với các ngân hàng thương mại trong nước cũng
như các định chế tài chính quốc tế đầy tiềm lực về tài chính, công nghệ và trình độ
quản lý.
Thứ ba, trước những yêu cầu khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, để hoạt động cho vay ngoại tệ tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương đảm bảo hạn
chế được rủi ro tín dụng, đạt được các mục tiêu đề ra mà Ngân hàng đề ra, trên cơ
sở những bài học kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại Việt Nam được đưa ra
ở chương 1 và thực trạng cho vay ngoại tệ của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương
Việt Nam tại chương 2, luận văn đã đưa ra một loạt các giải pháp có tính thực tiễn
như việc xây dựng một danh mục đầu tư hợp lý, chú trọng phân tích thông tin, công
tác quản lý khoản vay, bồi dưỡng đạo đức cán bộ, kết hợp các công cụ phòng ngừa
rủi ro tỷ giá khi cho vay ngoại tệ, xây dựng hệ thống thông tin ngân hàng nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động cho vay ngoại tệ cũng như giảm thiểu rủi ro tín dụng
phát sinh từ hoạt động cho vay. Từ đó luận văn cũng đề xuất một số kiến nghị với
Nhà nước, các ngành, các cấp có liên quan và Ban lãnh đạo của Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc nâng cao chất
lượng quản trị rủi ro tín dụng ngoại tệ tại Ngân hàng.
103 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2449 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của hoạt động cho vay ngoại tệ tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thích hợp với
tập thể/cá nhân để xảy ra nợ xấu.
Việc kết hợp sử dụng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ khi cho khách hàng
vay vốn bằng ngoại tệ không những sẽ làm hạn chế rủi ro do tỷ giá biến động từ lúc
cho vay cho đến khi thu hồi nợ, mà còn giúp ngân hàng thu lợi nhuận thông qua sự
biến động tương đối giữa các loại ngoại tệ với nhau. Như vậy, Ngân hàng vừa đảm
bảo thu được nợ gốc, lãi từ phía khách hàng đúng hạn, không làm tăng nợ xấu do
biến động tỷ giá; tránh trường hợp khách hàng có khả năng trả nợ (có đủ số tiền
VND tương đương) nhưng không mua được ngoại tệ khi đến hạn thanh toán. Ngoài
ra, Ngân hàng còn thu được phí mua bán ngoại tệ, tăng thu nhập cho ngân hàng. Kết
hợp hai mảng nghiệp vụ dường như hoàn toàn tách biệt nhưng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, Ngân hàng đã vượt qua năm 2009, một năm đầy khó khăn, thử thách
với thành quả cao, tỷ lệ nợ xấu là 2,54% thấp nhất trong vòng 3 năm trở lạ, lãi từ
hoạt động kinh doanh ngoại tệ đạt trên 925 tỷ đồng, chiếm 18% tổng lợi nhuận của
Ngân hàng.
2.5.2. Tồn tại và nguyên nhân
Đầu tư lớn vào các ngành kinh tế có khả năng gặp nhiều rủi ro như kinh
doanh bất động sản, vận tải biển, công nghiệp đóng tàu... Đây cũng là những ngành
chiếm tỷ lệ dư nợ lớn. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng vẫn chưa đánh giá, tính toán
chính xác được mức lợi nhuận cũng như rủi ro kỳ vọng mà Ngân hàng có thể thu
được khi cho khách hàng vay vốn.
Quy trình tín dụng luôn được cải tiến cho phù hợp với thực tế. Từ khi tiến
hành tái cơ cấu ngân hàng đến nay, quy trình tín dụng với khách hàng doanh nghiệp
đã được sửa đổi, bổ sung hai lần năm 2006 (Quy trình 90) và năm 2009 (Quy trình
246) tuy nhiên thủ tục cho vay vốn còn rườm rà, phiền phức, gây khó khăn cho
khách hàng.
Công nghệ ngân hàng lõi (corebanking) được sử dụng trong một thời gian
dài mà chưa được nâng cấp bổ sung; cơ sở dữ liệu còn sơ sài, chưa khoa học, chưa
liên kết với thông tin giữa các mảng nghiệp vụ của ngân hàng với nhau; một số chỉ
tiêu về giới hạn tín dụng, hạn mức cho vay vốn không phản ánh chính xác giữa cơ
sở dữ liệu trên hệ thống với thực tế hồ sơ, gây khó khăn cho người sử dụng.
Trước sự cạnh tranh gay gắt, khốc liệt giữa các ngân hàng, đôi khi với mục
đích thu hút và giữ khách hàng, thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng, cán bộ
khách hàng đã lơ là các nguyên tắc cho vay, “linh động” giải quyết cho vay với
khách hàng khi chưa đủ hồ sơ, giấy tờ cần thiết theo quy định, giải ngân theo bản
fax. Chính điều này đã góp phần gia tăng rủi ro tín dụng.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ được Vietcombank xác định là yếu tố cốt
lõi trong việc đánh giá, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro. Tuy nhiên, mô hình
này mới được áp dụng và triển khai trong một thời gian ngắn, trong vòng 1 năm kể
từ tháng 6/2008 đến nay. Hơn nữa, việc đánh giá chất lượng tín dụng phụ thuộc rất
lớn vào chất lượng thông tin đầu vào mà cán bộ tín dụng thu thập được. Do đó, chỉ
một sự đánh giá không chính xác của cán bộ tín dụng có thể gây ảnh hưởng nghiêm
trọng tới việc xếp loại khách hàng, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của toàn hệ
thống.
Hệ thống thông tin nội bộ, báo cáo tín dụng của Vietcombank cập nhật còn
chậm, còn mang tính chất thủ công giữa các bộ phận, phòng ban, phần lớn là những
thông tin mang tính không chính thức và thiếu tính hệ thống, vẫn chưa thực hiện
được các báo cáo tự động. Các thông tin mới chỉ dừng lại ở tổng dư nợ cho vay nội
bảng, ngoại bảng (theo từng chi nhánh, khách hàng, theo thời hạn, loại tiền tệ) mà
chưa có các báo cáo tổng hợp theo từng sản phẩm tín dụng, từng mặt hàng, lĩnh vực
đầu tư. Đôi khi Ngân hàng chưa có được nguồn thông tin chính xác, kịp thời và đầy
đủ, dẫn đến một số quyết định sai lầm như khách hàng dùng một tài sản thế chấp
cho nhiều ngân hàng khác nhau, khách hàng vay tiền với mục đích đảo nợ, hoặc trả
nợ cho ngân hàng khác.
Đội ngũ cán bộ, nhân viên Ngân hàng phần lớn là những người còn trẻ, kinh
nghiệm còn hạn chế, chưa được đào tạo và trang bị kiến thức một cách đầy đủ về
mô hình quản trị rủi ro. Chất lượng các Báo cáo thẩm định, Báo cáo kiểm tra vốn
vay chưa cao còn khá phổ biến. Hiện tượng cán bộ tín dụng tha hóa, biến chất vẫn
còn lác đác xuất hiện trong ngân hàng chủ yếu là do khâu tổ chức, quản lý cán bộ
còn chưa chặt chẽ, chế độ lương thưởng chưa thật sự phù hợp.
Nhìn chung, yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành ngân
hàng đã và đang đặt ra thách thức với Ngân hàng TMCP Việt Nam, đó là chất lượng
tín dụng ngoại tệ, ngăn ngừa và hạn chế những rủi ro tập trung trong danh mục đầu
tư, rủi ro nợ xấu, rủi ro phát sinh từ yếu tố con người. Những nguyên nhân dẫn tới
rủi ro cũng được đánh giá, phân tích rõ, từ đó có tìm ra các giải pháp kịp thời nhằm
hạn chế rủi ro, đạt mục tiêu tăng trưởng an toàn trong hoạt động cho vay ngoại tệ,
áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong xu thế hội nhập.
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG TÍN DỤNG NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI
THƢƠNG VIỆT NAM
3.1. Mục tiêu, định hƣớng và chiến lƣợc phát triển của Ngân hàng TMCP
Ngoại Thƣơng Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1.1. Mục tiêu, định hƣớng phát triển
Tiếp tục thực hiện định hướng phát triển 10 năm của Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương với phương châm “An toàn – Hiệu quả - Phát triển”, Ngân hàng
đã đề ra chiến lược kinh doanh thích hợp, năng động, bám sát các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, phát huy nội lực, đẩy mạnh công tác huy
động vốn, thực hiện các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và triển khai các nhiệm vụ
chiến lược sau:
Thứ nhất, xác định hoạt động ngân hàng thương mại là cốt lõi, chủ yếu, vừa
phát triển bán buôn vừa đẩy mạnh bán lẻ, tiếp tục mở rộng mạng lưới trong nước,
khẳng định vị thế đối với mảng hoạt động kinh doanh „lõi‟ của Vietcombank là hoạt
động ngân hàng thương mại.
Thứ hai, đa dạng hóa hoạt động kinh doanh bằng cách mở rộng và đẩy mạnh
một cách phù hợp các lĩnh vực ngân hàng đầu tư (tư vấn, môi giới, kinh doanh
chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư...), dịch vụ bảo hiểm; các dịch vụ tài chính và phi
tài chính khác, bao gồm cả bất động sản thông qua liên doanh với các đối tác nước
ngoài.
Thứ ba, tăng cường năng lực quản trị điều hành và hiện đại hóa công nghệ
ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và sử dụng vốn, có cơ cấu tổ chức
và mô hình quản trị hiện đại, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế tốt nhất,
sẵn sàng cho hội nhập và phát triển.
Thứ tư, nâng cao năng lực tài chính bảo đảm an toàn hoạt động và phát triển.
Thứ năm, nâng cao sức cạnh tranh của Vietcombank trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, ứng dụng nền tảng công nghệ hiện đại, tiên tiến nhất, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của quản trị cũng như của sản phẩm/tiện ích phục vụ khách hàng
với chất lượng cao.
Thứ bảy, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua việc tuyển
dụng, đào tạo, bố trí, sắp xếp và khuyến khích nhân tài cũng như thu hút chất xám
từ các khu vực kinh tế phát triển.
Thứ tám, đảm bảo quản trị và duy trì các chỉ tiêu tài chính, tỷ lệ an toàn một
cách minh bạch, công khai các chuẩn mực và thông lệ quốc tế tốt nhất; giữ vững vai
trò chủ đạo, chủ lực của Vietcombank trong hệ thống các ngân hàng thương mại tại
Việt Nam.
Trong đó, định hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Ngoại
Thương Việt Nam trong thời gian tới [10]:
Phát triển tín dụng bền vững và hiệu quả. Không ngừng nâng cao chất lượng
tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng thông qua việc áp dụng hệ thống chấm điểm tín
dụng cho khách hàng dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ để từ đó phân loại khách
hàng và điều chỉnh hạn mức tín dụng cho phù hợp; đo lường mức độ rủi ro để có
biện pháp kịp thời tạo cơ sở cho việc quản lý rủi ro ở mức tốt nhất.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tài trợ dự án và quan tâm đến vị thế và vai trò
của Ngân hàng thông qua việc đưa ra các biện pháp kiên quyết và hữu hiệu nhằm
cải thiện chất lượng tín dụng tại các chi nhánh có chất lượng tín dụng thấp, kiên
quyết thu hồi nợ xấu.
Chú trọng nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng và tăng cường công
tác kiểm tra, kiểm soát trên toàn bộ hệ thống. Tăng cường năng lực tự kiểm tra của
các tổ chức tín dụng và công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng. Đẩy
mạnh việc thể chế hóa, quy trình hóa nghiệp vụ và các mặt công tác của ngân hàng.
Hạn chế nợ quá hạn ở mức dưới 3%.
Hình thành một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, đưa ra các quy định, quy trình,
quy chế phù hợp với các chuẩn mực quốc tề về an toàn trong kinh doanh tiền tệ,
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát.
3.1.2. Chiến lƣợc phát triển
Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, bất
kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần xây dựng cho mình một chiến lược phát triển lâu
dài với mục tiêu quan trọng là chỉ đạo, hướng dẫn đơn vị nắm bắt cơ hội thị trường,
đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn nhằm khắc phục những yếu kém, giữ
vững và phát triển các lợi thế cạnh tranh của mình. Xây dựng chiến lược là đi tìm,
củng cố và phát huy lợi thế cạnh tranh. Chiến lược là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động, thông tin và phối hợp hành động trong doanh nghiệp.
Về mục tiêu phát triển: phấn đấu trở thành Ngân hàng thương mại hàng đầu
ở Việt Nam, hoạt động đa năng, kết hợp bán buôn với bản lẻ, mở rộng các dịch vụ
ngân hàng, phục vụ phát triển kinh tế trong nước và trở thành một ngân hàng quốc
tế khu vực.
Phương châm phát triển của Ngân hàng trong năm 2010, cũng như trong giai
đoạn 2011-2020 là ‘‘Tăng tốc - An toàn – Hiệu quả - Tăng trƣởng’’ („„An toàn’’
trong mọi lĩnh vực kinh doanh, „„Hiệu quả‟‟ mang ý nghĩa kinh tế xã hội, „„Tăng
trưởng‟‟ phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế đất nước và chính sách tiền tệ ngân
hàng). Ngân hàng hi vọng sẽ đem đến cho khách hàng sự an toàn, hiệu quả khi sử
dụng các sản phẩm, dịch vụ của Vietcombank: „„Luôn mang đến cho khách hàng sự
thành đạt’’. Trong thời gian tới, Ngân hàng đặt mục tiêu tăng tốc lên hàng đầu bởi
vì trong khi các đối thủ cạnh tranh đang ngày càng trỗi dậy thì Vietcombank đang
dần chậm lại. Do đó, đề ra chiến lược tăng tốc phát triển là phù hợp với yêu cầu
ngày càng cao của xã hội.
Chiến lƣợc huy động và sử dụng vốn:
Tăng trưởng huy động vốn tiếp tục được xác định là nhiệm vụ then chốt
trong các năm tới. Huy động vốn là nguồn để mở rộng tín dụng, phát triển hoạt
động kinh doanh vốn, cũng như là thước đo khả năng thanh khoản của hệ thống. Do
đó, Ngân hàng đã xác định huy động vốn cần phải được ưu tiên về nguồn lực, cơ
chế, chính sách, và phải được thực hiện thống nhất trong hệ thống, vì quyền lợi của
toàn hệ thống Vietcombank. Huy động vốn trong năm 2010 phải phấn đấu đạt mức
tăng tối thiểu 23% và phải bảo đảm cơ cấu phù hợp với tăng trưởng tín dụng.
Trên cơ sở đó, tăng trưởng tín dụng dự kiến 20-25% với cơ cấu tín dụng theo
hướng tăng tỷ trọng vốn cho sản xuất, xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ cho vay phi sản
xuất. Tiếp tục nâng cao chất lượng tín dụng với tỷ lệ nợ xấu tối đa không quá 3,5%
(khi áp dụng phân loại nợ theo phương pháp định tính, điều 7 Quyết định 493)
Mặt khác, ngoài việc củng cố và phát triển mối quan hệ với các khách hàng
là công ty, đặc biệt là các khách hàng truyền thống; cần tập trung đẩy mạnh công
tác bán lẻ, tạo bước tiến quan trọng trong hoạt động bán lẻ, xét về tỷ trọng trong cơ
cấu thu nhập của Vietcombank.
Chiến lƣợc tổ chức:
Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức tại Hội sở chính theo mô hình khối; phân
định rạch ròi chức năng nhiệm vụ của các phòng/ban; chuẩn hóa cơ cấu tổ chức của
các chi nhánh, tiến tới một mô hình tổ chức tiên tiến nhất, tạo điều kiện tốt nhất cho
phát triển hoạt động kinh doanh và tăng cường hiệu quả quản lý.
Tiếp tục mở rộng và phát triển mạng lưới trong nước với quy mô hợp lý (xấp
xỉ 40 chi nhánh và phòng giao dịch mới), tiếp tục xúc tiến thành lập và khai trương
hoạt động của các chi nhánh, xem xét việc thành lập chi nhánh tại một số thị trường
trong khu vực; thay đổi cơ cấu sở hữu đối với các công ty 100% vốn.
Đảm bảo an toàn trong hoạt động, tăng cường quản trị rủi ro, đáp ứng quy
định về các tỷ lệ an toàn (vốn tối thiểu, sử dụng vốn/nguồn vốn,...); đảm bảo đầy đủ
và phù hợp, thực hiện tuân thủ các quy trình, quy chế; tăng cường công tác kiểm tra
kiểm soát, kiểm toán, đặc biệt chú trọng công tác kiểm tra bao gồm cả tự kiểm tra.
Nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển chung của hệ thống Ngân
hàng TMCP Ngoại Thương là từng bước xây dựng một ngân hàng hiện đại, hội
nhập với quốc tế. Ngân hàng phải có một mô hình tổ chức khoa học, phù hợp với
mục tiêu kinh doanh, phát huy tính sáng tạo của mọi cấp, tạo ra một bộ máy quản lý
hiệu quả cao, vừa đảm bảo cơ chế quản lý của Nhà nước, vừa đáp ứng đòi hỏi ngày
càng cao của thị trường. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống công
nghệ ngân hàng hiện đại, tiên tiến vừa có khả năng nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo
nhiều sản phẩm ngân hàng mới; vừa nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát chống
rủi ro. Ngân hàng cần xây dựng được đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị tốt, có
đạo đức nghề nghiệp, có năng lực chuyên môn, có kiến thức, vừa biết quản lý tốt
vừa kinh doanh giỏi, đồng thời tạo ra các chuyên gia đầu đàn nhằm đáp ứng yêu cầu
của công tác quản trị ngân hàng hiện đại trong nền kinh tế thị trường.
3.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao chất lƣợng tín dụng khi
cho vay ngoại tệ của Ngân hàng TMCP Ngoại Thƣơng Việt Nam
Hoạt động ngân hàng luôn là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong lịch sử
hoạt động của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam đã có những vụ án lớn
bắt nguồn từ rủi ro tín dụng như vụ Epco - Minh Phụng. Vì vậy, để quản trị rủi ro
tín dụng khi cho vay ngoại tệ, Ngân hàng cần xây dựng được một hệ thống các giải
pháp đồng bộ để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro.
3.2.1. Giải pháp hạn chế rủi ro từ phía ngân hàng
3.2.1.1. Xây dựng một danh mục đầu tư hợp lý
Hằng năm, dựa trên tình hình hoạt động của Ngân hàng, Phòng Chính sách
tín dụng cần xây dựng danh mục đầu tư, trong đó chú trọng ngành nào cần đầu tư
phát triển, ngành nào cần hạn chế đầu tư. Việc xác định danh mục đầu tư có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong công tác quản trị rủi ro tín dụng. Một trong những phương
pháp được áp dụng để kiểm soát rủi ro là đa dạng hóa đầu tư thông qua đầu tư vào
nhiều loại tài sản khác nhau như cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản, động sản....
Danh mục này cần được giám sát, theo dõi chặt chẽ bởi Phòng Quản lý Rủi
ro tín dụng nhằm phát hiện kịp thời, giảm đầu tư vào những ngành đã tăng trưởng
quá nóng, tăng cường đầu tư vào những ngành có tiềm năng phát triển. Quản lý
danh mục đầu tư cần được giám sát thường xuyên theo ngành, lĩnh vực đầu tư, theo
mặt hàng, theo khách hàng/nhóm khách hàng có liên quan... xem có phù hợp với
chính sách phát triển tín dụng từng thời kỳ của Ngân hàng, tình hình thị trường,
kinh tế, xã hội hay không? Từ đó, Ngân hàng sẽ đưa ra các biện pháp điều chỉnh kịp
thời, nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra, trong khi vẫn đảm bảo được mục tiêu chính
là tăng trưởng tín dụng hợp lý, tăng thu nhập, lợi nhuận cho Ngân hàng. Trong giai
đoạn tới, Ngân hàng TMCP Ngoại Thương cần chuyển dịch danh mục đầu tư của
mình theo hướng: tăng tỷ trọng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), giảm tỷ trọng đầu tư vào các doanh nghiệp
nhà nước; tăng đầu tư cho các ngành sản xuất, ngành dịch vụ, giảm đầu tư cho các
ngành trồng trọt, chăn nuôi. Theo đó, Ngân hàng cần ưu tiên cho vay ngoại tệ cho
các khách hàng có nguồn ngoại tệ đầu ra như các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp
xuất khẩu.
Danh mục đầu tư của Ngân hàng ngoài việc phân chia theo ngành, lĩnh vực
đầu tư, còn nên phân chia theo thời gian cho vay. Trong đó, Ngân hàng cần thận
trọng khi đầu tư vốn quá mức cần thiết vào các dự án cho vay dài hạn vì cho vay dài
hạn thường gặp nhiều rủi ro hơn cho vay ngắn hạn. Hơn nữa vốn huy động của ngân
hàng chủ yếu là vốn ngắn hạn do người gửi tiền luôn có tâm lý e ngại sự trượt giá
của đồng tiền. Nếu xảy ra những biến động bất thường người gửi tiền rút khỏi ngân
hàng cùng lúc với số vốn lớn thì ngân hàng sẽ có nguy cơ mất khả năng chi trả, hay
nặng hơn là mất khả năng thanh toán do các khoản vay dài hạn chưa thu hồi được,
hậu quả xấu hơn là khủng hoảng tài chính tiền tệ có nguy cơ xảy ra.
Trong một số trường hợp, khi danh mục đầu tư cho một lĩnh vực đã gần đạt
tỷ lệ tối đa cho phép, nhưng xét thấy dự án vay vốn có hiệu quả và Ngân hàng có
thể kiếm lời thông qua các gói dịch vụ đi kèm như phát hành thư tín dụng, thanh
toán, thấu chi... thì Ngân hàng có thể xem xét cho vay. Một trong những giải pháp
tận dụng cơ hội trong trường hợp này là cho vay đồng tài trợ. Khi cho vay đồng tài
trợ, mỗi ngân hàng tham gia đều có thế mạnh riêng nên có thể phối hợp với nhau
trong khâu thẩm định dự án, giám sát sử dụng vốn vay và giảm thiểu khả năng xảy
ra rủi ro tín dụng cũng như giảm thiểu tổn thất khi rủi ro xảy ra.
3.2.1.2. Thu thập, phân tích thông tin đầu vào về ngành hàng/khách hàng/doanh
nghiệp/dự án để có định hướng phù hợp ngay từ đầu
Thông tin là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng cho vay, đặc biệt là
công tác thẩm định ban đầu. Thẩm định các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh
doanh được coi là khâu quan trọng trước khi quyết định cho vay. Do đó, nếu cán bộ
tín dụng không coi trọng khâu này sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng
của khoản vay. Cán bộ tín dụng cần thu thập, phân tích các thông tin về khách hàng,
ngành hàng, dự án đầu tư, đánh giá nguồn tiền và khả năng trả nợ của khách hàng...
dựa vào các thông tin lấy từ báo, tạp chí, website có uy tín..., tránh tình trạng phân
tích thông tin dựa hoàn toàn vào nguồn thông tin do khách hàng cung cấp. Căn cứ
vào kết quả phân tích thông tin đầu vào và so sánh với danh mục đầu tư của Ngân
hàng trong từng thời kỳ các cấp có thẩm quyền sẽ đưa ra quyết định có phê duyệt
khoản vay hay không? Trong đó, Ngân hàng cần chú trọng đến việc:
Kiểm tra tư cách pháp nhân của người đi vay, mức độ tín nhiệm với
các ngân hàng trong quá trình giao dịch, đặc biệt là giao dịch có liên quan đến hoạt
động tín dụng (thông qua nguồn tin từ Trung tâm thông tin tín dụng – CIC).
Kiểm soát chặt chẽ báo cáo tài chính của doanh nghiệp bởi đây là một
căn cứ quan trọng để xem xét hoạt động, kinh doanh, năng lực tài chính của doanh
nghiệp vay vốn. Trong đó Ngân hàng cần quan tâm chặt chẽ đến các báo cáo tài
chính có được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập và có uy tín hay không?
Với những dự án cho vay lớn, Ngân hàng nên thuê tổ chức tư vấn độc
lập, có tư cách pháp nhân, có uy tín, năng lực để thẩm định và xác nhận trước khi
cho vay. Dù việc này có thể làm tăng chi phí hoạt động của Ngân hàng, nhưng việc
sử dụng ý kiến độc lập bên ngoài sẽ giúp giảm thiểu rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
3.2.1.3. Chú trọng công tác quản lý khoản vay, phát hiện ngay những khoản vay
có dấu hiệu rủi ro
Khi cho vay, ngân hàng cần chuyển khoản trực tiếp số tiền vay vốn vào tài
khoản thanh toán của đối tác bên vay theo đúng số tiền như trên các điều khoản quy
định tại các hợp đồng kinh tế, hoá đơn bán hàng, biên bản nghiệm thu từng hạng
mục công trình... mà hạn chế phát tiền mặt hoặc giải ngân vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng vay vốn. Đây là biện pháp được sử dụng nhằm đảm bảo vốn vay được
sử dụng đúng mục đích như trên các điều khoản đã ký kết giữa bên vay và bên cho
vay.
Trong quá trình giải ngân, Ngân hàng cần thường xuyên theo dõi chặt chẽ
tiến độ hoàn thành của dự án, hạng mục đầu tư... thông qua quá trình kiểm tra định
kỳ hoạt động của doanh nghiệp, dự án đầu tư (kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay).
Nếu phát hiện ra sai phạm do sử dụng vốn vay sai mục đích, Ngân hàng có thể thực
hiện các biện pháp thu hồi nợ trước hạn hay chuyển nợ quá hạn...
Sau khi khoản vay đã hoàn thành quá trình giải ngân hoặc hết thời hạn rút
vốn theo quy định trong hợp đồng tín dụng, cán bộ khách hàng cần theo dõi sát sao
tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh thu, thu nhập của bên vay
để đôn đốc thu nợ đúng hạn. Nếu do nguyên nhân khách quan mà trong thời gian
ngắn doanh nghiệp chưa trả được nợ thì Ngân hàng có thể gia hạn nợ hoặc điều
chỉnh số tiền trả nợ từng kỳ của khách hàng vay vốn.
Tăng cường rà soát các hồ sơ tín dụng và thường xuyên kiểm tra các nghiệp
vụ có liên quan đến công tác tín dụng. Để khách quan và tránh sự móc nối cấu kết
giữa khách hàng và cán bộ tín dụng, Ngân hàng có thể sử dụng biện pháp kiểm tra
chéo giữa các chi nhánh. Đoàn kiểm tra nội bộ của chi nhánh này sẽ có nhiệm vụ
kiểm tra hoạt động cho vay tại chi nhánh khác, kết quả kiểm tra sẽ được gửi về
phòng Kiểm tra nội bộ đặt tại Hội sở chính. Khi khoản vay có dấu hiệu rủi ro, Ngân
hàng có thể cùng với khách hàng tìm cách khắc phục, giảm thiểu rủi ro như đôn đốc
người mua thanh toán tiền hàng cho người bán,...
3.2.1.4. Bồi dưỡng đạo đức cán bộ, xây dựng chính sách quản lý, luân chuyển
cán bộ một cách phù hợp
Cán bộ tín dụng (khách hàng) có vai trò quan trọng đối với hoạt động ngân
hàng. Họ là cán bộ trực tiếp mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng, nhưng
ngược lại cũng có thể mang đến những rủi ro. Để hạn chế rủi ro đối với hoạt động
tín dụng nói chung, và cho vay ngoại tệ nói riêng, công tác cán bộ phải được coi
trọng, đặt lên hàng đầu.
Bồi dƣỡng kiến thức chuyên môn:
Vietcombank cần trang bị đầy đủ kiến thức tín dụng cho cán bộ thông qua
các lớp tập huấn, khóa đào tạo ngắn hạn như kỹ thuật thẩm định dự án đầu tư, đánh
giá khách hàng, biện pháp quản lý rủi ro tín dụng, kiến thức về kinh tế, luật pháp,
quản lý nhà nước và các chính sách liên quan đến quyền sở hữu tài sản, đăng ký
giao dịch bảo đảm, phát mại tài sản...
Thường xuyên tổ chức các buổi tổng kết, đúc rút kinh nghiệm phòng tránh
rủi ro, xử lý nợ từ các chi nhánh làm tốt công tác xử lý nợ xấu. Bên cạnh đó, Ngân
hàng cần mời các chuyên gia về luật đến giảng, trao đổi kinh nghiệm rút ra từ các
tình huống, vụ án có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng để giúp cán bộ hiểu thêm về
pháp luật, từ đó đưa ra các quyết định cho vay an toàn.
Bồi dƣỡng đạo đức lối sống:
Xử lý nghiêm các cán bộ tín dụng có phẩm chất đạo đức kém, hành vi không
trung thực khi tiến hành thẩm định, cho vay bằng các biện pháp giảm lương, cắt
thưởng, điều chuyển sang các bộ phận khác, đặc biệt là bộ phận thu hồi nợ xấu.
Có cơ chế khen thưởng với những cán bộ có phẩm chất tốt, không có nợ xấu
phát sinh.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm, gắn trách nhiệm với quyền lợi. Xây dựng
chính sách lương, thưởng hợp lý, khuyến khích đánh giá theo hiệu quả công việc.
Chế độ, chính sách lương thể hiện đúng năng lực của người lao động, sự công bằng
sẽ giúp Ngân hàng giữ chân người tài, đồng thời cũng là động lực thúc đẩy sáng tạo,
học hỏi không ngừng của cán bộ, nhân viên.
3.2.1.5. Giám sát, xử lý nợ xấu
Giám sát khoản vay:
Rủi ro tín dụng khi cho vay ngoại tệ là không tránh khỏi bởi các nguyên nhân
chủ quan (hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn,...) cũng như khách
quan (chính sách điều hành tỷ giá của nhà nước thay đổi...). Trong đó, giám sát các
khoản nợ ngay từ khi nợ xấu chưa phát sinh là biện pháp cần được coi trọng trong
việc quản trị rủi ro tín dụng, đặc biệt là rủi ro khi cho vay ngoại tệ. Để dần phù hợp
với các thông lệ quốc tế Basel II, chuẩn mực quốc tế IAS 39 và thực hiện phân loại
nợ theo Điều 7 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (phân loại nợ theo phương pháp
định tính), Ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ khách hàng thông qua việc đánh giá tình hình kinh doanh, tài chính, tài
sản, uy tín của khách hàng với Ngân hàng.
Ngoài ra, giám sát rủi ro còn được thể hiện ở việc cán bộ khách hàng, cán bộ
tác nghiệp thực thi các quy trình, quy chế, quy định hiện hành của Ngân hàng.
Cán bộ khách hàng: thường xuyên gặp gỡ khách hàng, kiểm tra tại chỗ, kiểm
tra việc sử dụng vốn vay và tài sản bảo đảm thường xuyên, định kỳ 3 tháng (với
khoản vay ngắn hạn) hoặc 6 tháng (với khoản vay trung, dài hạn). Việc kiểm tra
thường xuyên, định kỳ sẽ giúp Vietcombank nhanh chóng phát hiện những rủi ro, từ
đó sẽ đưa ra các biện pháp nhanh chóng, kịp thời nhằm ngăn ngừa, khắc phục rủi ro.
Cán bộ tác nghiệp: giám sát từng tài khoản vay, khả năng trả nợ của khách
hàng, thực hiện tính toán mức độ thiệt hại của ngân hàng khi rủi ro xảy ra (trích lập
dự phòng cụ thể...), báo cáo hạn mức, việc thực thi các điều khoản trong hợp đồng.
Xử lý nợ xấu là biện pháp cuối cùng nhằm hạn chế tối đa thiệt hại cho Ngân
hàng. Để công tác xử lý nợ xấu có hiệu quả, việc trước tiên cần thực hiện là thường
xuyên theo dõi, giám sát hoạt động của khách hàng, định kỳ đánh giá năng lực tài
chính của khách hàng (thông qua các báo cáo tài chính hàng quý), nguồn thu, tiền
mặt của khách hàng (các tài khoản tiền gửi), xếp hạng tín dụng khách hàng thường
xuyên thông qua cả hai phương pháp định tính và định lượng. Từ đó nhanh chóng
phát hiện ra sự suy giảm khả năng trả nợ của khách hàng.
Khi phát sinh nợ xấu cần chuyển hồ sơ sang bộ phận xử lý nợ xấu, cán bộ
thuộc bộ phận xử lý nợ cần tiến hành các nhiệm vụ sau:
Rà soát khoản vay và tài sản bảo đảm; kiểm tra và đánh giá lại giá trị
của tài sản.
Thu thông tin cập nhật về khách hàng như thông tin về khả năng,
thiện chí trả nợ của khách hàng, người bảo lãnh vay vốn; đánh giá khả
năng tài chính hiện tại của khách hàng.
Kiên quyết xử lý trách nhiệm, tài sản thế chấp; đồng thời phân tích kỹ
tình hình để có cách tiếp cận đúng đắn; đưa ra những giải pháp phù
hợp khi cơ cấu nợ cho khách hàng. Theo đó, Ngân hàng có thể áp
dụng các chiến lược duy trì hoặc rút lui.
Chiến lƣợc duy trì được áp dụng đối với các khách hàng có mối quan hệ bền
vững, tốt đẹp với ngân hàng. Đó là những doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát
triển nhưng đang gặp khó khăn về tiền mặt trong thời gian ngắn. Với nhóm khách
hàng này, Ngân hàng có thể hỗ trợ khách hàng khắc phục khó khăn để giảm thiệt
hại cho cả hai bên như cơ cấu, thương thảo lại số tiền, kỳ hạn trả nợ cho khách
hàng, tiếp tục cho vay vốn để vực lại hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chiến lƣợc rút lui được áp dụng với các khách hàng mất khả năng hoàn trả;
khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, cố tình lừa đảo. Khi các khoản vay không thể
trả được hoặc không thể tiếp tục duy trì mà không làm phương hại đến vị thế ngân
hàng thì Ngân hàng có thể ngừng giải ngân, đơn phương chấm dứt khoản vay, phát
mại tài sản thế chấp, thu hồi công nợ của khách hàng, khiếu kiện, đòi bồi thường...
Ngân hàng cần thành lập bộ phận xử lý nợ chuyên trách theo dõi quản lý nợ
xấu trên cơ sở kết hợp giữa bộ phận pháp chế và bộ phận tín dụng. Bộ phận xử lý
nợ có trách nhiệm đôn đốc, thu hồi nợ xấu. Bên cạnh đó, việc kiên quyết xử lý nợ
tồn đọng, xử lý những khoản nợ nằm ở các dự án hoạt động không có hiệu quả của
những doanh nghiệp đã giải thể hoặc hoạt động kém cũng cần được Ngân hàng áp
dụng. Việc giải quyết nợ tồn đọng sẽ góp phần giải phóng nguồn vốn bị đóng băng,
giúp ngân hàng thu hồi vốn để mở rộng hoạt động tín dụng và phát triển.
Ngoài ra, Vietcombank cần xây dựng một quy chế, chế tài xử lý trách nhiệm
với cá nhân, tập thể để xảy ra nợ xấu khi tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống trên 5%;
tích cực xử lý tài sản thế chấp nhằm giảm thiểu, thu hồi nợ xấu như phối hợp với
các cơ quan chức năng để xử lý gọn các vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu.
Trong một số trường hợp cần thiết Ngân hàng có thể bán nợ cho các ngân hàng
khác hay đối tác của khách hàng nhằm thu hồi một phần hay toàn bộ nợ xấu, tránh
bị đọng vốn trong kinh doanh.
3.2.1.6. Xây dựng hệ thống thông tin ngân hàng
Hệ thống thông tin tín dụng góp phần đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân
hàng, mở rộng tín dụng và giảm sự không cân xứng về thông tin giữa người đi vay
và người cho vay; cho phép người cho vay đánh giá rủi ro chính xác hơn và cải
thiện chất lượng đầu tư, dễ dàng tư vấn lựa chọn phương án, giảm thiểu chi phí tín
dụng. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, để đối phó với tình trạng
gia tăng nợ quá hạn của người đi vay, Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống thông
tin của riêng mình, bao gồm các thông tin về khách hàng, thông tin về thị trường; từ
đó đưa ra các cảnh báo sớm góp phần nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng.
3.2.1.7. Áp dụng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt động ngân
hàng
Hiện nay, các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đều cung cấp các loại hình
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tương đối giống nhau. Để nâng cao tính cạnh tranh,
đồng thời cá biệt hóa sản phẩm, dịch vụ so với các ngân hàng thương mại khác,
Vietcombank cần đổi mới mạnh mẽ phương thức quản lý, cách thức hoạt động
trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực tín dụng. Các giải pháp sử dụng công nghệ
tiên tiến trong hoạt động ngân hàng cần được triển khai trong thời gian tới là:
Một là, hệ thống máy chủ, mạng lõi (corebanking) của Ngân hàng cần phải
được nâng cấp, củng cố thường xuyên.
Hai là, thiết lập một trung tâm dự phòng công nghệ thông tin để hạn chế rủi
ro hoạt động một cách thấp nhất.
Ba là, các sản phẩm dịch vụ cần được cung cấp tới khách hàng một cách
thuận tiện, thân thiện, dễ sử dụng nhất.
Bốn là, trong lĩnh vực tín dụng, cần triển khai hoạt động cấp tín dụng cho
khách hàng thông qua internet (tín dụng online).
Việc cung cấp dịch vụ tín dụng cho khách hàng qua Internet (online) sẽ giúp
Ngân hàng giảm thiểu thời gian cấp tín dụng. Khách hàng sẽ không mất thời gian
chờ đợi hồ sơ gửi qua đường bưu điện mà còn có thể nhận được sự tư vấn trực tiếp
của cán bộ khách hàng một cách nhanh chóng, tránh trường hợp phải bổ sung hồ sơ
nhiều lần. Ngoài ra, Ngân hàng có thể hạn chế rủi ro tác nghiệp khi cấp tín dụng bởi
hệ thống máy tính sẽ tự động kiểm tra khách hàng có đủ điều kiện cấp tín dụng, giải
ngân hay không... Từ đó, khả năng xảy ra nợ xấu do lỗi tác nghiệp sẽ suy giảm.
Đồng thời, việc áp dụng chương trình tín dụng online, các nhà quản lý Ngân hàng
có thể giảm chi phí và giám sát hoạt động cấp tín dụng cho khách hàng thường
xuyên, chủ động và chặt chẽ nhất.
3.2.1.8. Coi trọng công tác dự báo trong hoạt động tín dụng
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương là một ngân hàng kinh doanh trong lĩnh
vực tài chính – tiền tệ. Do đó, chỉ một sự thay đổi nhỏ trong môi trường kinh tế – xã
hội, đặc biệt là các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước cũng có tác
động lớn tới hoạt động, doanh thu, lợi nhuận... của Ngân hàng. Hoạt động tín dụng,
trong đó có hoạt động tín dụng ngoại tệ, hiện đang chiếm một tỷ lệ lớn trong hoạt
động Ngân hàng (gần 60% tổng tài sản, 70% thu nhập từ hoạt động kinh doanh)
[19]. Do đó, công tác dự báo trong hoạt động tín dụng cần phải được đặt lên hàng
đầu.
Việc dự báo những biến đổi trong nền kinh tế và đưa ra những cảnh báo sớm
trong hoạt động tín dụng sẽ khiến Ngân hàng chủ động trước những biến động khôn
lường của tình hình kinh tế – xã hội, đồng thời giảm thiểu nguy cơ xảy ra rủi ro đối
với hoạt động cấp tín dụng và giảm nợ xấu phát sinh.
Ngân hàng (thông qua Phòng Chính sách tín dụng) cần xây dựng hệ thống
cảnh báo về các lĩnh vực sau:
Ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh: Khi tình hình kinh tế – xã hội diễn
biến không thuận lợi khiến hoạt động của một số ngành, lĩnh vực suy giảm, Ngân
hàng cần giảm bớt đầu tư mới cho các ngành, lĩnh vực này, đồng thời tìm biện pháp
thu hồi vốn nhanh (đôn đốc khách hàng trả nợ)...
Nợ xấu: khi nợ xấu của toàn hệ thống, của từng chi nhánh vượt quá
một tỷ lệ nhất định (thường là 5%), Ngân hàng cần đôn đốc các bộ phận tiến hành
thu hồi, xử lý nợ xấu kịp thời, nhanh chóng.
Rủi ro tác nghiệp: Trong hoạt động của Ngân hàng, rủi ro tác nghiệp
là không thể tránh khỏi. Rủi ro này có thể xảy ra hàng ngày với muôn hình, muôn
vẻ và dù đã được rút kinh nghiệm ở chi nhánh này nhưng có thể vẫn lặp lại ở chi
nhánh khác. Việc đưa ra cảnh báo trên toàn hệ thống thông qua sổ tay, chia sẻ kinh
nghiệm tại hội nghị tín dụng toàn ngành… sẽ giúp các chi nhánh nhận diện được và
giảm thiểu nguy cơ xảy ra rủi ro.
3.2.2. Giải pháp hạn chế rủi ro từ phía khách hàng
Kiên quyết thu hồi nợ, đặc biệt với các khách hàng có nguồn thu ngoại tệ từ
xuất khẩu, tiến hành thu nợ ngay khi khách hàng nhận được nguồn ngoại tệ với
nguyên tắc khách hàng phải trả lãi trước, trả gốc sau.
Phân tán rủi ro tín dụng thông qua giảm tỷ trọng dư nợ của các khách hàng
lớn, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty; tăng tỷ trọng dư nợ của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; đa dạng hóa các doanh nghiệp
vay vốn; tránh tình trạng một phần lớn dư nợ tập trung vào các ngành tăng trưởng
nóng như kinh doanh bất động sản, xây dựng...
Tăng cường cho vay có tài sản bảo đảm, chỉ cho vay tín chấp trong trường
hợp vay vốn lưu động sản xuất kinh doanh, với một hạn mức tín dụng nhất định
được phê duyệt hàng năm. Trong mọi trường hợp cho vay có tài sản bảo đảm, Ngân
hàng cần yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm cho tài sản và coi đây là điều kiện tiên
quyết trước khi giải ngân, trong đó Ngân hàng là người thụ hưởng bảo hiểm đầu
tiên khi có rủi ro xảy ra. Tài sản bảo đảm dù là tài sản cố định hay tài sản lưu động
thì giá trị của nó cũng thường xuyên biến đổi, trong đó tài sản là máy móc thiết bị
hao mòn nhanh, đó có thể là hao mòn tự nhiên, nhưng cũng có thể là hao mòn vô
hình do sự lỗi thời lạc hậu của hệ thống công nghệ. Để tài sản đảm bảo có giá trị
chính xác khi khấu trừ phân loại nợ định kỳ thì Ngân hàng cần phải thường xuyên
đánh giá lại giá trị của tài sản bảo đảm.
Thường xuyên cập nhật, đánh giá tình hình tài chính của khách hàng thông
qua việc duy trì hoạt động tiền gửi, các báo cáo tài chính hàng quý, hàng năm cũng
như việc sử dụng vốn vay của khách. Tình trạng nợ của khách hàng tại các tổ chức
tín dụng khác cũng cần được lưu ý trước và trong khi cho vay. Thông tin này được
khai thác qua Trung tâm Thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC).
3.3. Một số đề xuất, khuyến nghị
3.3.1. Với Chính Phủ, Ngân hàng Nhà nƣớc
Chính phủ cần thực hiện các biện pháp phù hợp như xây dựng một hệ thống
chính sách đồng bộ, nhất quán và có sự định hướng lâu dài nhằm tạo một môi
trường tín dụng an toàn.
Tiếp tục đổi mới, cơ cấu lại doanh nghiệp, cơ cấu lại nền kinh tế và hệ thống
tài chính – ngân hàng. Đặc biệt là cơ cấu lại, lành mạnh hóa tình hình tài chính và
đổi mới hoạt động của các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước; đánh giá lại
mô hình này để có sự điều chỉnh thích hợp, nhất là việc hạn chế xu hướng mở rộng
quá nhiều chức năng trong khi vốn và năng lực quản lý còn hạn chế.
Hoàn thiện hệ thống pháp lý tạo cơ sở cho hoạt động tài chính, ngân hàng
như ban hành, triển khai thực hiện các nghị định, thông tư hướng dẫn một cách
nhanh chóng, đồng bộ giữa các cấp, các ngành, tránh gây ách tắc và bảo đảm quyền
lợi chính đáng của ngân hàng thương mại.
Rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cá nhân,
tổ chức sử dụng hợp pháp các tài sản đó để Ngân hàng có thể thực hiện đầy đủ việc
thế chấp và đăng ký thế chấp.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần thường xuyên rà soát các văn
bản chồng chéo, thiếu đồng bộ và không phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, cần kịp
thời ban hành các văn bản hướng dẫn các quy định, nghị định của Chính phủ, tránh
trường hợp Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn chung chung, không rõ ràng khiến các
ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong quá trình thực hiện.
Để phòng ngừa rủi ro hiệu quả, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục ban hành,
sửa đổi các quy định liên quan tới hoạt động tín dụng theo các chuẩn mực quốc tế
nhưng vẫn đảm bảo phù hợp với điều kiện, tình hình của Việt Nam. Đặc biệt là việc
triển khai áp dụng hệ thống xếp hạng nội bộ của các tổ chức tín dụng thay vì việc
phân loại nợ theo Điều 6 Quyết định 493 trên cơ sở thống nhất cách thức áp dụng
chung cho tất cả các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng một cách
có hiệu quả, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính tiền tệ, nhất là hoạt động ổn định
của các ngân hàng thương mại; tiếp tục đổi mới hoạt động thanh tra giám sát, đặc
biệt là giám sát rủi ro hoạt động của các ngân hàng.
Đẩy mạnh hoạt động thông tin tín dụng nhằm nâng cao chất lượng quản trị
rủi ro tại các ngân hàng thương mại thông qua các biện pháp như: nâng cao chất
lượng các thiết bị hiện đại nhằm xử lý, phân tích thông tin nhanh chóng; đào tạo đội
ngũ cán bộ về nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học; tuyên truyền để các ngân hàng thương
mại nhận thức đúng về vai trò của Trung tâm Thông tin tín dụng của Ngân hàng
Nhà nước (CIC) để từ đó các ngân hàng có sự hợp tác chặt chẽ với CIC trong việc
chia sẻ thông tin.
Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá thích ứng với diễn biến
trong tình hình mới theo mục tiêu đã định. Cần chủ động hơn trong can thiệp thị
trường ngoại tệ cũng như các biện pháp kỹ thuật khác trong điều hành tỷ giá. Đặc
biệt là thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá chính thức (tỷ giá mua bán của ngân hàng
thương mại) và tỷ giá trên thị trường tự do (tỷ giá chợ đen). Tuy nhiên Ngân hàng
Nhà nước nên duy trì chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết theo hướng ổn định. Mặc
dù trong năm 2009, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các quy định quản lý chặt
chẽ hoạt động của các đại lý thu đổi ngoại tệ, nghiêm cấm việc mua bán ngoại tệ
trái phép và kiểm soát chặt chẽ việc niêm yết bán hàng bằng ngoại tệ, song thị
trường tự do về ngoại tệ vẫn sôi động và khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ
giá chợ đen vẫn chênh lệch khá lớn. Vì vậy Chính Phủ, Ngân hàng Nhà nước cần
tăng cường hơn nữa việc quản lý các đơn vị bán hàng thu bằng ngoại tệ cũng như
các bàn thu đổi ngoại tệ được ủy nhiệm của ngân hàng thương mại, đồng thời xử lý
nghiêm các trường hợp mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do. Ngoài ra, Ngân hàng
Nhà nước cần ra quyết định cấm giao dịch, mua bán, chi trả bằng ngoại tệ trong
nước bằng tiền mặt với số tiền nhất định (chẳng hạn dưới 5000 USD hoặc ngoại tệ
tương đương), đồng thời mọi giao dịch, trao đổi, mua bán, thanh toán vượt số tiền
quy định trên đều phải thực hiện chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng.
3.3.2. Với Ngân hàng TMCP Ngoại Thƣơng Việt Nam
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương mới chỉ bắt đầu đổi mới mô hình cho vay
trong khoảng thời gian ngắn (hơn 3 năm), các bộ phận thuộc khối tín dụng cũng đã
quen với mô hình quản trị rủi ro tín dụng mới. Tuy nhiên, để tăng cường giám sát
rủi ro, các bộ phận trong ngân hàng cần phối hợp tốt nhất nhằm đảm bảo mục đích
cuối cùng là an toàn trong hoạt động tín dụng; chất lượng kiểm tra, giám sát của các
bộ phận tác nghiệp, quản trị rủi ro tín dụng cũng cần nâng cao.
Đa dạng hóa danh mục cho vay, tránh tình trạng tập trung đầu tư quá mức
vào một ngành, lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên với những ngành, lĩnh vực có tiềm năng
phát triển, Ngân hàng có thể duy trì một tỷ lệ đầu tư (cấp tín dụng) lớn, nhưng tỷ lệ
này không được vượt quá 50% tổng tài sản của Ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng
nên tăng cường cho vay theo hợp đồng tài trợ với các dự án mà Ngân hàng đánh giá
là khả thi, có chất lượng cao. Ngoài việc học hỏi được kinh nghiệm cho vay, thẩm
định, giám sát sử dụng vốn vay từ các ngân hàng bạn, Vietcombank còn giảm thiểu
khả năng xảy ra rủi ro và chia sẻ tổn thất khi xảy ra.
Những quy định liên quan đến việc thanh toán gốc, lãi khi cho vay khách
hàng vay vốn bằng ngoại tệ cũng cần được nới lỏng theo hướng: gốc vay có thể
được trả bằng đồng ngoại tệ (ngoại tệ này có thể khác loại ngoại tệ mà khách hàng
vay vốn ban đầu), lãi vay có thể được thanh toán bằng Đồng Việt Nam.
Thường xuyên định giá lại tài sản thế chấp theo định kỳ hàng quý với các
nguyên tắc sau:
Bộ phận (hoặc cấp thẩm quyền) nào đề xuất (hoặc phê duyệt) và quản
lý khoản tín dụng nào thì đề xuất định giá lại tài sản bảo đảm cho
khoản tín dụng đó.
Việc định giá lại tài sản phải được lập thành văn bản, trong đó nêu rõ
căn cứ định giá tài sản.
Giá trị tài sản được định giá lại trên cơ sở giá thị trường của tài sản tại
thời điểm xác định, có thể tham khảo các loại giá quy định của Nhà
nước, giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các yếu tố khác
về giá, thẩm định giá theo pháp luật.
Sau thời gian triển khai hoạt động của mô hình Xếp hạng tín dụng nội bộ
mới hay ứng dụng các sản phẩm tiên tiến trong hoạt động tín dụng như các sản
phẩm bancassurance..., Ngân hàng cần tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm trên toàn
hệ thống để việc quản trị rủi ro tín dụng ngày càng tốt hơn.
Tóm lại, chương III đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
quản lý rủi ro khi cấp tín dụng ngoại tệ cho đối tượng khách hàng là doanh nghiệp
tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam dựa trên thực trạng quản trị rủi ro
tín dụng của Ngân hàng đã được nghiên cứu ở chương II, đồng thời một số kiến
nghị với Chính Phủ, Ngân hàng TMCP Ngoại Thương cũng được đề xuất với mục
đích nâng cao hiệu quả của công tác quản trị rủi ro tại Ngân hàng.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn mở cửa, hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới; quá trình quốc tế hóa nền kinh tế ngày càng trở nên mạnh
mẽ; tự do hóa thương mại, đầu tư và tài chính đang diễn ra với cường độ và quy mô
chưa từng có. Với vai trò là hoạt động kinh doanh đầy tiềm năng trong lĩnh vực tài
chính – ngân hàng, hoạt động cho vay ngoại tệ ngày càng được chú trọng phát triển,
góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên,
khi thị trường tài chính – tiền tệ ngày càng phát triển, tỷ giá giữa các đồng tiền ngày
càng biến động khó lường đem lại không ít rủi ro cho hoạt động cho vay vốn ngoại
tệ của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam như thực tế đã chứng minh trong
những năm qua.
Vì vậy, để hoạt động cho vay ngoại tệ có hiệu quả cao, hạn chế rủi ro tín
dụng, đặc biệt là rủi ro do những yếu tố khách quan (thay đổi các yếu tố kinh tế – xã
hội, biến động lãi suất, tỷ giá…) cũng như chủ quan (từ phía ngân hàng và khách
hàng vay vốn) mang lại, Vietcombank cần có chính sách quản trị rủi ro chặt chẽ,
hiệu quả cao…
Với việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với phân tích
thực tiễn hoạt động cho vay ngoại tệ tại Vietcombank trong giai đoạn từ 2007 –
2009, luận văn đã đạt được các kết quả nghiên cứu sau:
Thứ nhất, thông qua việc nghiên cứu tổng quan về tín dụng ngân hàng, rủi ro
tín dụng, cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng, luận văn đã cho thấy
hoạt động tín dụng của ngân hàng là một hoạt động chịu sự tác động của các yếu tố
khách quan cũng như chủ quan. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung
và hoạt động cho vay ngoại tệ nói riêng đóng một vai trò quan trọng, không thể
thiếu của nền kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như hiện
nay. Bên cạnh đó, một số bài học kinh nghiệm trong việc quản lý rủi ro khi cho vay
ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng được đề cập trong luận văn.
Đây là tiền đề, cơ sở lý luận để phân tích thực trạng cho vay ngoại tệ tại Ngân hàng
TMCP Ngoại Thương Việt Nam.
Thứ hai, luận văn đã phân tích thực trạng hoạt động tín dụng nói chung và
cho vay ngoại tệ nói riêng tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. Các rủi
ro mà Ngân hàng thường gặp khi cho vay ngoại tệ cũng được đi sâu tìm hiểu, đó là
các rủi ro gây ra do ảnh hưởng của các nhân tố khách quan, rủi ro do bản thân ngân
hàng hay rủi ro xuất phát từ phía khách hàng. Mặc dù trong thời gian qua, Ngân
hàng đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay
ngoại tệ, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi một vài hạn chế. Để khắc phục những hạn
chế này, Ngân hàng cần có những giải pháp kịp thời để đáp ứng các mục tiêu đã đề
ra, và đứng vững trong cạnh tranh với các ngân hàng thương mại trong nước cũng
như các định chế tài chính quốc tế đầy tiềm lực về tài chính, công nghệ và trình độ
quản lý.
Thứ ba, trước những yêu cầu khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, để hoạt động cho vay ngoại tệ tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương đảm bảo hạn
chế được rủi ro tín dụng, đạt được các mục tiêu đề ra mà Ngân hàng đề ra, trên cơ
sở những bài học kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại Việt Nam được đưa ra
ở chương 1 và thực trạng cho vay ngoại tệ của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương
Việt Nam tại chương 2, luận văn đã đưa ra một loạt các giải pháp có tính thực tiễn
như việc xây dựng một danh mục đầu tư hợp lý, chú trọng phân tích thông tin, công
tác quản lý khoản vay, bồi dưỡng đạo đức cán bộ, kết hợp các công cụ phòng ngừa
rủi ro tỷ giá khi cho vay ngoại tệ, xây dựng hệ thống thông tin ngân hàng… nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động cho vay ngoại tệ cũng như giảm thiểu rủi ro tín dụng
phát sinh từ hoạt động cho vay. Từ đó luận văn cũng đề xuất một số kiến nghị với
Nhà nước, các ngành, các cấp có liên quan và Ban lãnh đạo của Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc nâng cao chất
lượng quản trị rủi ro tín dụng ngoại tệ tại Ngân hàng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT:
1. Vân Anh (2010), “Một vài ví dụ điển hình về một số loại rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại”, Thông tin rủi ro tín dụng, 1, pp. 23
–24.
2. Nguyễn Hòa Bình (2010), “Nhìn lại thành công, vững vàng bước tiếp”,
Thông tin Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, 1, pp. 4 – 7.
3. Chính Phủ (1999), Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
4. Minh Dũng (2009), “Ước lượng rủi ro hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng thương mại”, Thông tin Ngân hàng TMCP Ngoại Thƣơng Việt Nam, 197, pp.
28 – 31.
5. Đoàn Thanh niên Ngân hàng Hà Nội (2003), Quản lý rủi ro trong hoạt
động ngân hàng.
6. Nguyễn Ngọc Điệp (2009), “Liệu pháp nào để giảm bớt căng thẳng ngoại
tệ”, Thông tin Ngân hàng TMCP Ngoại Thƣơng Việt Nam, 196, pp. 18 – 20.
7. Phạm Ngọc Huyến (2009), “Một số suy nghĩ về xử lý tín dụng có vấn đề”,
Thông tin Ngân hàng TMCP Ngoại Thƣơng Việt Nam, 4, pp. 19 – 20.
8. TS. Hoàng Sỹ Kim (2009), “Hệ thống ngân hàng nước ngoài trong nền
kinh tế Việt Nam”, Thị trƣờng tài chính tiền tệ, 23, pp. 27 – 29
9. Trần Hoàng Ngân & Nguyễn Thị Thùy Linh (2007), “Xây dựng chuẩn
mực cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong quá trình hội nhập”, Phát triển Kinh
tế.
10. Đặng Thành (2010), “Vietcombank: Chung sức đồng lòng cùng vượt qua
thử thách… ”, Thông tin Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, 1, pp. 8 – 10.
11. TS. Nguyễn Ngọc Thao (2010), “Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng thương mại”, Thị trƣờng tài chính tiền tệ, 3+4, pp. 53 – 55.
12. Ngân Thương (2010), “Vietcombank vẫn giữ vị thế là một ngân hàng
hàng đâu”, Thị trƣờng tài chính tiền tệ, 5, pp. 16 – 18.
13. Học viện ngân hàng (2006), Giáo trình tín dụng Ngân hàng.
14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1998), Quyết định số 292/1998/QĐ-
NHNN5 ngày 27/8/1998.
15. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2001), Quyết định số 1627/2001/QĐ-
NHNN ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối
với khách hàng.
16. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN
quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
17. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
quy định về phân loại nợ và sử dụng dự phòng để xử lý dự phòng rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng.
18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2007), Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN
ban hành ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN.
19. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2000), Thông tƣ 06/2000/TT-NHNN1
ngày 04/04/2000 hƣớng dẫn thực hiện Nghị định 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ
về bảo đảm tiền vay của các Tổ chức tín dụng.
20. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2009), Thông tƣ 02/2009/TT-NHNN quy
định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân
hàng để sản xuất – kinh doanh.
21. Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2007, 2008, 2009), Bản báo
cáo thường niên năm 2007, 2008, 2009.
22. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (2000), Công văn số 1312/CV-
NHNT.QLTD ngày 24/07/2000 về việc thực hiện Thông tƣ 06/2000/TT-NHNN1
ngày 04/04/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc.
23. Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2008), Quyết định số
247/QĐ-NHNT.CSTD ngày 22/07/2008.
24. Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2008), Quyết định số
246/QĐ-NHNT.CSTD ngày 22/07/2008.
25. Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2008), Quyết định số
245/QĐ-NHNT.CSTD ngày 22/07/2008.
26. Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2009), Quyết định 75-
NHNT.HĐQT ngày 12/03/2009 về việc ban hành Chính sách Quản lý rủi ro của
Ngân hàng TMCP Ngoại Thƣơng Việt Nam.
27. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (2000), Tài liệu hội nghị tập huấn
về đảm bảo tiền vay.
28. Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2009), Tài liệu tập huấn tín
dụng tín dụng.
29. Quốc Hội (1997), Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QH10
30. Quốc Hội (2004), Luật số 20/2004/QH11 ngày 15/06/2004 về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng.
31. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2005), Pháp lệnh Quản lý ngoại hối số
28/2005/PL-UBTVQH11
Website:
32.
33.
34.
TIẾNG ANH:
35. Joel Bessis (2002), Risk management in Banking, Nhà xuất bản John
Wiley & Sons.
36. Shelagh Heffernan (2005), Modern Banking, Nhà xuất bản John Wiley &
Sons.
37. Mark Lagan (2000), Banking Operations – Regulation, Practice &
Treasury Management, Nhà xuất bản Cib.
Website:
38.
39.
40.
41.
42.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3306_582.pdf