Quy định minh bạch các quan hệ tiền tệ, tín dụng giữa NHTW với các Bộ,
ngành nhất là với Bộ Tài chính - trong đó những quy định quan trọng là: Quy định về
việc NHTW thống nhất quản lý ngoại hối, dự trữ quốc gia (cả ngoại tệ Xuất khẩu tài
nguyên và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu thông qua các NHTM), việc bắt buộc
Kho bạc Nhà nước phải mở tài khoản và thanh toán duy nhất qua hệ thống thanh toán
quốc gia của hệ thống NHTW.
119 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuận lợi cho các hộ nghèo,
doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã ở những vùng chuyển dịch cơ cấu và vùng sâu
vùng xa tiếp cận nguồn vốn ngân hàng được dễ dàng.
- Việc thực hiện nhiệm vụ cho vay chuyển dịch cơ cấu kinh tế được đặt trong
tổng thể nhiệm vụ, định hướng trong giai đoạn tới, đặc biệt là gắn với nhiệm vụ ổn định
kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng một cách bền vững. Do vậy, cho vay chuyển dịch cơ
cấu được thực hiện theo nguyên tắc gắn liền với mục tiêu kiểm soát lạm phát, đảm bảo
tăng trưởng kinh tế một cách ổn định.
- Nâng cao công nghệ thanh toán, thay đổi cơ cấu mệnh giá của đồng kíp để
thực hiện tốt chức năng trung tâm thanh toán của nền kinh tế, và nâng cấp công nghệ
thông tin trong hệ thống ngân hàng.
- Tăng cường công tác thanh tra giám sát và đổi mới hoạt động thanh tra của
NHNN Lào theo hướng thiết lập các thiết chế an toàn và xây dựng hệ thống thông tin để
thực hiện giám sát từ xa, nghiên cứu xây dựng hệ thống cảnh báo sớm.
- Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý một cách kịp thời, đồng bộ và hợp lý
cho hoạt động của hệ thống ngân hàng cho phù hợp với điều kiện thực tế, trên nguyên
tắc an toàn, hiệu quả, xây dựng các khuôn khổ pháp luật cần thiết để từng bước xây
dựng và phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ theo hướng đảm bảo thị trường tiền
tệ đóng vai trò tiếp nhận, chuyển tải tác động của các quyết định điều tiết tiền tệ của
NHNN Lào đến cung cầu vốn của nên kinh tế, và tạo dựng các điều kiện cần thiết để
phát triển thị trường vốn.
- Đổi mới hoạt động của các NHTM: (1) Đổi mới cơ cấu quản lý, cơ cấu tổ chức,
nâng cao năng lực quản trị điều hành và năng lực tài chính theo nguyên tắc đảm bảo hiệu
quả cao hạn chế rủi ro, thể hiện quyền tự chủ của các NHTM; (2) Cải cách công nghệ thông
tin để hiện đại hóa trong việc hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách tốt nhất và thông
qua hệ thống điều hành này NHNN Lào có thể kiểm soát được toàn bộ luồng vốn ra vào của
các NHTM; (3) Tăng cường công tác kiểm toán nội bộ của các NHTM, nhằm hạn chế rủi
ro trong hoạt động.
- Nâng cao năng lực tài chính và quản lý điều hành các NHTM, đặc biệt là
NHTM quốc doanh xử lý nợ tồn đọng một cách dứt điểm trong năm 2006, đảm bảo
trong sạch bảng cân đối cho các NHTM, nợ quá hạn thấp hơn 5%. Trên cơ sở đó tạo cơ
sở vững chắc từng bước phát triển đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế [36].
3.1.3. Định hướng xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ở Lào giai đoạn
2000 - 2010
Đối với CSTT NHNN Lào thực hiện CSTT một cách hợp lý và linh hoạt và
quản lý mức cung ứng tiền tính trung bình 22%, tỷ lệ tín dụng tăng lên trung bình 20%.
Đảm bảo vững chắc mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trên cơ sở xóa bỏ các công cụ quản
lý hành chính, xây dựng và hoàn thiện các công cụ mới của CSTT, đưa toàn bộ hệ thống
từng bước tham gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập quốc tế, cụ thể:
- Tạo dựng một khuôn khổ CSTT thích hợp, xác định rõ mục tiêu hoạt động,
mục tiêu trung gian cho điều hành CSTT nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu cuối
cùng.
- Nâng cao năng lực điều hành CSTT của NHNN Lào thông qua việc đổi mới
điều hành các công cụ. CSTT theo hướng nâng cao hiệu quả và tính nhạy bén của các
công cụ CSTT, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các công cụ và sự phối hợp chặt chẽ
trong điều hành CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để NHNN Lào thực sự là
người chỉ đạo thị trường tiền tệ.
- Xây dựng thị trường tiền tệ vững mạnh theo hướng đảm bảo thị trường tiền tệ
đóng vai trò tiếp nhận, chuyển tải tác động của các quyết định điều tiết tiền tệ của
NHNN Lào đến cung - cầu vốn của nền kinh tế.
- Xây dựng và hoàn thiện các nghiệp vụ thương mại, phát triển một số trung tâm
giao dịch nghiệp vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của CSTT giúp
NHNN Lào điều tiết kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung ứng thích hợp với yêu cầu
kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa giao
dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng hệ thống kiểm soát chu chuyển vốn
quốc tế, đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài. Kiểm soát tiến tới xóa bỏ sử
dụng ngoại tệ trong thanh toán và tiết kiệm trong nội bộ tiến tới trên lãnh thổ CHDCND
Lào chỉ thanh toán bằng đồng Kíp Lào. Đa dạng hóa công cụ tài chính, các hình thức
đầu tư, phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt kết hợp biện pháp quản lý ngoại tệ
một cách hợp lý.
- Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi xuất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng tự do
hóa có sự điều tiết gián tiếp của Nhà nước thông qua lãi suất định hướng của NHNN
Lào (lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản).
- Xây dựng và hoàn thiện NVTTM, phát triển một số trung tâm giao dịch nghiệp
vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của CSTT giúp NHNN Lào điều tiết
kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung cấp phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ.
- Kiểm soát, hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng Đô la hóa và Baht hóa trên
cơ sở nâng cao vị trí đồng kíp, đa dạng hóa các công cụ tài chính, các hình thức đầu tư,
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt kết hợp với các biện pháp quản lý ngoại tệ
một cách có hiệu quả.
- Hiện đại hóa hệ thống thanh toán bù trừ. Hoàn thiện việc nối mạng giữa các
trung tâm giao dịch lớn ở các vùng với các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính
thuộc ngân hàng và phi ngân hàng trên từng vùng. Hệ thống thanh toán của NHNN Lào
cũng cung cấp dịch vụ thanh toán có hiệu quả cho hoạt động của thị trường tiền tệ, thị
trường tài chính và các giao dịch khác trong hoạt động kinh doanh ngoại hối.
- Đổi mới cơ cấu quản lý, nâng cao năng lực quản trị điều hành và năng lực tài
chính cho các ngân hàng thương mại theo nguyên tắc đảm bảo giảm thiểu rủi ro trong
hoạt động và quyền tự chủ trong kinh doanh của các ngân hàng.
- Tiếp tục nâng cao hơn nữa công nghệ ngân hàng, đặc biệt là công nghệ thanh
toán trong toàn hệ thống, đảm bảo thanh toán nhanh, kịp thời, và thông qua hệ thống
thanh toán này NHNN Lào có thể kiểm soát được toàn bộ luồng vốn ra vào hệ thống
[37].
3.2. Những giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính
sách tiền tệ ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
3.2.1. Nâng cao tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước Lào
* Sự độc lập của NHTW CIB (Central Bank Independent) thể hiện:
1. Sự độc lập về mặt pháp lý cần được thiết lập rõ ràng và đồng bộ.
2. Sự độc lập mục tiêu có nghĩa là ủy ban CSTT của NHTW có thể độc lập và
quyết định mục tiêu lạm phát hay không sau khi đã tham vấn Chính phủ, vì nó mang
tính quyết định việc thực thi CSTT.
3. Trong thực tế, sự độc lập của NHTW trong việc điều hành CSTT với Chính
phủ, các sức ép chính trị và xã hội cũng cần được tăng cường. Trong nội dung này sự
can thiệp của Chính phủ vào CSTT cần được loại bỏ hoàn toàn. Thêm vào đó, cam kết
ổn định giá cả dưới góc độ chính trị cũng là quan trọng.
* Sự độc lập của NHTW trong việc thực thi CSTT nói chung và đặc biệt trong
trường hợp lựa chọn giải pháp sử dụng chính sách mục tiêu lạm phát là tối quan trọng, bởi
vì sự phụ thuộc về chính trị và kinh tế đã hạn chế các NHTW không thể lựa chọn mục
tiêu, chính sách mà không bị ảnh hưởng của Chính phủ. Điều này làm cho các đơn vị
kinh tế không tin tưởng vào CSTT của NHTW. Chính vì vậy, trong những năm gần đây
rất nhiều quốc gia đưa ra các kiến nghị về mặt pháp lý nhằm làm cho NHTW độc lập
hơn.
ở CHDCND Lào, Luật Ngân hàng đến nay đã có Luật Ngân hàng số 04 ngày
10/07/1990 và được sửa đổi thông qua Quốc hội và có hiệu lực 14/10/ 1999. Quy định
trong Điều 3, NHNN Lào, là cơ quan của Chính phủ làm tham mưu cho Chính phủ
trong việc quản lý vĩ mô CSTT trong cả nước...; ... bảo vệ giá trị đồng Kíp Lào trong
nước và quốc tế... [40, tr. 3]. Và một số điều chưa quy định chi tiết, đến nay Luật các tổ
chức tín dụng chưa xây dựng được. Nhưng đến ngày 22/3/2000 Chủ tịch nước
CHDCND Lào đã ký ban hành Nghị định số 02/ CHDCNDL về hoạt động của ngân
hàng thương mại.
Như vậy, sự độc lập của NHNN chưa đủ để có thể chủ động điều hành CSTT
quốc gia. Để nâng cao tính độc lập của NHNN Lào, luận văn đề nghị một số ý kiến sau
đây:
1. Nâng cao tính độc lập tương đối của NHNN trong việc thực thi CSTT tức
tăng cường chức năng NHTW của NHNN để NHNN thực hiện các công cụ của CSTT
một cách linh hoạt, tự chủ hơn. Điều này không có nghĩa là NHNN hoàn toàn độc lập
với Chính phủ nhưng NHNN phải được trao thêm nhiều quyền hạn và trách nhiệm trong
việc xây dựng và thực thi CSTT để từ đó đạt được mục tiêu nói chung và mục tiêu lạm
phát nói riêng mà Chính phủ cho rằng hợp lý.
2. Tách bạch các chức năng không thuộc về NHNN là rất ít như đã nêu trên.
Điều này hàm ý rằng việc vay mượn của Chính phủ từ NHNN là rất ít hoặc không có,
đồng thời việc Chính phủ can thiệp, chỉ định những khoản tín dụng cũng phải rất hạn
chế hoặc không có.
3. Nhiệm kỳ của Thống đốc NHNN ít nhất là 5 năm nếu không cần thiết phải
chuyển công tác.
3.2.2. Tăng cường khả năng dự báo lạm phát
Chính sách mục tiêu lạm phát là một khung đón đầu nhìn xa của CSTT dựa trên
dự báo lạm phát trung hạn. Đồng thời, đây là một hệ thống trong đó CSTT được điều
hành thường sử dụng lãi suất ngăn hạn là mục tiêu điều hành mà không có mục tiêu trung
gian nhằm hội tụ lạm phát được dự báo trong tương lai vào gần mục tiêu lạm phát đã
được lựa chọn cho giai đoạn trung hạn. Do vậy, dự báo lạm phát chính xác có vai trò
thiết yếu cho một hệ thống lạm phát.
Nhưng, sự bất ổn định ngày càng tăng của môi trường kinh tế và tài chính làm
cho việc dự báo lạm phát trong tương lai trở nên khó khăn hơn. Hầu hết các NHTW đều
sử dụng nhiều mô hình trong đó bao gồm các mô hình cấu trúc, chuỗi thời gian, sưu tập
các chỉ số sức ép lạm phát nhằm tăng cường khả năng dự báo lạm phát.
- Trong thực tế ở CHDCND Lào, vấn đề dự báo lạm phát tương đối khó khăn. Cho
đến nay, việc tính chỉ số lạm phát CPI cũng còn đang có nhiều vấn đề cần xem xét lại.
Trong đó chủ yếu là nâng cao công tác phân tích dự báo đó là:
1. Hoàn thiện hệ thống thống kê của ngành ngân hàng: Xây dựng chế độ báo
cáo thống kê theo hướng yêu cầu các NHTM báo cáo chỉ tiêu, nâng cấp và hoàn thiện
công nghệ thông tin về thống kê.
2. Cần chú trọng đến việc trang bị đầy đủ các trang thiết bị cho việc phân tích
định lượng.
3. Cần bố trí cán bộ chuyên trách cho công việc phân tích và dự báo trên cơ sở
phân tích định tính và định lượng.
4. Có kế hoạch đào tạo cán bộ toàn diện nắm vững kiến thức về kinh tế vĩ mô
hiện đại, phân tích và lập chương trình tài chính, tiếp cận với phân tích dự báo theo mô
hình kinh tế lượng.
5. Xây dựng cơ chế phối hợp với các Bộ, ngành trong điều hành CSTT nhằm
hạn chế những tác động ngược chiều của các chính sách kinh tế vi mô, qua đó nâng cao
hiệu quả điều hành CSTT và quản lý ngoại hối cũng như khuyến khích sử dụng tiền
Kíp.
6. Xây dựng một hệ thống cảnh báo về những biến động bất thường về lãi suất,
tỷ giá và tăng trưởng tín dụng của NHNN đối với các TCTD.
Đây là giải pháp rất cần thiết trong quá trình nâng cao năng lực điều hành chính
sách tiền tệ. Đặc biệt trong giai đoạn thị trường tiền tệ chưa phát triển, năng lực tài
chính của các NHTM còn yếu và các công cụ điều hành gián tiếp NHNN còn hạn chế,
thì việc hình thành một hệ thống cảnh báo của NHNN Lào là rất cần thiết để đảm bảo
hiệu quả điều hành CSTT.
7. Phát triển thị trường tiền tệ và thị trường trái phiếu Chính phủ
- Trong năm 2006, NHNN Lào cần nghiên cứu ban hành cơ chế hoạt động cho
các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, xây dựng các qui định cho việc áp dụng các công cụ
phát sinh, như nghiệp vụ Swap, Forward, quyền lựa chọn, để tạo điều kiện đa dạng hóa
các hoạt động của thị trường.
- NHNN Lào cần chủ động tuyên truyền và hướng dẫn các chủ thể thị trường
hiểu và áp dụng các công cụ phát sinh của thị trường tiền tệ.
- Xây dựng thị trường thứ cấp của thị trường tiền tệ nhằm đảm bảo tính thanh
khoản của các công cụ và khả năng thanh toán của các NHTM.
- Nâng cao năng lực quản lý vốn khả dụng của các NHTM, các NHTM cần hình
thành bộ phận quản lý vốn khả dụng của mình nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn.
- Thị trường trái phiếu Chính phủ hiện nay đang ở mức rất sơ khai. Do vậy cần
phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, qua đó hình thành được đường lãi suất chỉ
đạo hiệu quả. Để phát triển thị trường này, trước hết cần:
+ Chấm dứt việc phát hành trái phiếu Chính phủ để nhận nợ cho các NHTM.
+ Việc phát hành cần thực hiện bằng kênh đấu thầu qua NHNN Lào. Đối tượng
mua chỉ là các định chế tài chính.
+ Ngân sách cần có kế hoạch về khối lượng phát hành hàng năm, có chia theo
quí và thông báo với các NHTM chủ động cân đối nguồn vốn, đầu tư trái phiếu chính
phủ một cách tự nguyện.
8. Giải pháp kiểm soát mở rộng tín dụng phục vụ nhu cầu tăng trưởng:
Kiểm soát mức độ tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu đã định có tầm quan
trọng đặc biệt, không chỉ phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mà còn kiểm soát được
lạm phát và giữ được sự phát triển an toàn của các NHTM. Để thực hiện được mục tiêu
này, NHNN Lào cần:
- Bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện các công cụ CSTT, xử lý nợ tồn đọng, nâng
cao năng lực tài chính của các NHTM, năng lực tài chính của các doanh nghiệp. NHNN
Lào cần đánh giá, rà soát lại cơ chế tín dụng hiện tại, trên nguyên tắc nâng cao quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về việc cho vay của các NHTM. Việc giám sát chất lượng cho
vay cần yêu cầu các NHTM thực hiện theo các quy định về thiết chế an toàn. Không
nên qui định cứng nhắc các khoản vay đều phải có thế chấp. Việc thế chấp hay không
thế chấp do các NHTM tự xem xét quyết định.
- Đề nghị Bộ Tài chính khẩn trương thực hiện các cam kết với ADB, để hệ
thống ngân hàng có thể xem xét nới lỏng điều kiện cho vay một cách chủ động, đảm
bảo thực hiện đúng tốc độ tăng trưởng tín dụng dự kiến.
9. Nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra giám sát.
- NHNN Lào tiếp tục hoàn thiện các quy định về thanh tra giám sát theo nguyên
tắc. Nâng cấp hệ thống giám sát từ xa một cách hợp lý, tiếp tục đào tạo nâng cao năng
lực cán bộ thanh tra có chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng và được đào tạo cơ bản nghiệp
vụ thanh tra.
- Về xử lý nợ tồn đọng: Với mục tiêu xử lý dứt điểm nợ tồn đọng trong năm
2006, NHNN Lào phối hợp với Bộ Tài chính đề tạo cơ sở cho các NHTM có năng lực hoạt
động kinh doanh của mình trong nền kinh tế cạnh tranh và hội nhập.
(1) Đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án xử lý nợ tồn đọng hiện nay. Bên cạnh
NHNN Lào cần nghiên cứu hình thành công ty mua bán nợ phù hợp với luật pháp của
Lào, đồng thời nghiên cứu xem xét tìm kiếm thêm các nguồn vốn khác của NHNN Lào
không vượt quá mức cung ứng tiền hàng năm để xóa các khoản nợ không có khả năng
thu hồi.
Mô hình tổ chức của công ty mua bán nợ có thể trực thuộc Chính phủ, có quyền
lực lớn, để thực hiện mua bán lại nợ đọng hiện nay của các NHTM, nhằm làm trong
sạch cán cân đối với tài sản của các NHTM. Nguồn vốn của công ty này có thể là từ
nguồn phát hành trái phiếu dài hạn của Chính phủ, của công ty, nguồn tài trợ của nước
ngoài và một phần đóng góp của các NHTM, hoặc từng NHTM có nợ tồn đọng hình
thành các công ty mua bán nợ riêng để tập trung xử lý nợ tồn đọng của mình;
(2) Việc xử lý nợ tồn đọng của các NHTM cần có sự phối hợp đồng bộ với việc cơ
cấu lại nợ và củng cố năng lực tài chính của các doanh nghiệp nhà nước.
- Về nâng cao năng lực tài chính và hoạt động:
+ Để các NHTM nhà nước tạo được sức bật trong hoạt động vấn đề cần được
xử lý trong 2 năm 2006, 2007 là cấp hơn 700 tỷ kíp vốn điều lệ cho các NHTM nhà
nước xử lý nợ tồn đọng. Vì vậy, NHNN Lào cần phối hợp với Bộ Tài chính để xử lý
việc cấp vốn điều lệ và xử lý nợ tồn đọng của ngân sách nhà nước với các doanh
nghiệp, qua đó giảm nợ tồn đọng của các NHTM theo đúng với các cam kết với ADB.
Hiện nay, do ngân sách khó khăn, việc thực hiện cam kết với ADB không thực hiện
được đúng tiến độ. Vì vậy NHNN Lào cần nghiên cứu xây dựng phương án nâng cao
vốn điều lệ cho các NHTM nhà nước từ nhiều nguồn khác nhau, có thể tính đến khả
năng thu hút nguồn vốn của tư nhân, của nước ngoài để nâng cao vốn điều lệ cho các
NHTM. Việc xây dựng phương án này nên tham khảo thêm kinh nghiệm của Việt Nam
và một số nước trong khu vực và thế giới.
+ Nâng cao hơn nữa chất lượng tài sản có bằng cách: Ngoài việc xử lý nhanh nợ
tồn đọng tiếp tục nâng cao năng lực thẩm định cho vay của cán bộ tín dụng, của ban
thẩm định cho vay, chấm dứt việc cho vay theo chỉ định của cấp trên.
+ Các NHTM cần xem xét hình thành bộ phận quản lý nguồn vốn (bộ phận này
có trách nhiệm cân đối nguồn vốn của NH đảm bảo khả năng thanh khoản và không để
nguồn vốn dư thừa. Đồng thời tính toán và quyết định mức lãi suất cơ bản của NH).
+ Ngân hàng Nhà nước Lào cần ban hành thiết chế an toàn và phòng chống rủi
ro buộc các NHTM phải thực hiện theo đúng các qui định đó.
+ Mở rộng và đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án đổi mới công nghệ thanh toán
của ngân hàng từ nguồn tài trợ của các nước.
- Về mở rộng mạng lưới hoạt động:
+ Để thúc đẩy hoạt động sản xuất ở vùng sâu,vùng xa, hỗ trợ người nghèo có
vốn sản xuất, NHNN Lào cần bắt tay xây dựng cơ chế tổ chức và hoạt động của ngân
hàng chính sách, tạo dựng những điều kiện cần thiết để đến năm 2006 có thể thành lập
và đi vào hoạt động của ngân hàng.
+ Trong thời gian chưa thành lập được ngân hàng này, cần đánh giá xem xét lại
các quy định về hoạt động của các quĩ tín dụng nhân dân hiện nay, để tiếp tục hoàn
chỉnh mô hình hoạt động này cho phù hợp với đặc điểm phân bố dân cư của Lào.
+ NHNN Lào cần nghiên cứu xem xét khả năng cho phép các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài mở rộng thêm chi nhánh ở những tỉnh, huyện, bản đang có tiềm năng
phát triển.
3.2.3. Kiểm soát các công cụ và chính sách tiền tệ để đạt được mục tiêu
điều hành
+ Công cụ lãi suất
Tỷ lệ lãi suất ngắn hạn thường được sử dụng là mục tiêu điều hành trong chính
sách mục tiêu lạm phát. Một tỷ lệ lãi suất ngắn hạn để được chọn là mục tiêu điều hành
phải thỏa mãn các điều kiện sau: (1) phải tồn tại một cơ chế mà lãi suất ngắn hạn có thể
đơn phương quyết định lãi suất dài hạn mà không có cơ chế ngược lại. (2) Cần thiết
phải có sự kiểm soát nhờ đó NHTW có thể sử dụng các công cụ chính sách thích hợp để
điều chỉnh lãi suất ngắn hạn. (3) NHTW có thể thông báo một cách có hiệu quả dự định
của mình tới dân chúng dưới góc độ là sự thay đổi trong mục tiêu điều hành sẽ tác động
tới lãi suất ngắn hạn và sau đó tới lãi suất dài hạn thông qua sự thay đổi trong dự đoán
lạm phát [52].
Xét trong điều kiện Lào hiện nay (căn cứ trên những phân tích về hạn chế trong
việc điều hành công cụ lãi suất thời gian qua), luận văn đề nghị lựa chọn lãi suất ngắn hạn
liên ngân hàng làm mục tiêu điều hành. Tuy nhiên, để lãi suất ngắn hạn liên ngân hàng của
Lào thỏa mãn các điều kiện cần phải thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng.
Luận văn đề nghị các giải pháp như sau:
- Tạo ra môi trường pháp lý cần thiết cho thị trường: rà soát và sửa đổi những
văn bản cũ, ban hành thêm những văn bản cần thiết mới.
- Tăng cường sự quản lý, giám sát của NHNN đối với TCTD về quản lý vốn
khả dụng NHNN có thể can thiệp kịp thời khi cần thiết.
- Mở rộng các thành viên tham gia thị trường theo hướng nới lỏng các tiêu
chuẩn được tham gia trên thị trường, đồng thời, thành lập các tổ chức môi giới tiền tệ và
các nhà kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp nhưng cũng phải chú ý đến trách nhiệm của
các tổ chức này trong việc tạo điều kiện thực hiện CSTT có hiệu quả.
- Mở rộng các loại hàng hóa trên thị trường như cho phép mua bán các giấy tờ
có giá dài hạn, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh thương
phiếu để đưa thương phiếu vào hoạt động, kết hợp với kho bạc nhà nước trong việc phát
hành trái phiếu, tín phiếu kho bạc.
- Kết hợp thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng một thị trường liên ngân
hàng thống nhất.
- áp dụng công nghệ thanh toán điện tử trong việc thanh toán trên thị trường
liên ngân hàng.
Cơ chế truyền dẫn của CSTT nói đến hàng loạt các quá trình thông qua đó,
CSTT ảnh hưởng đến giá cả, số lượng của các công cụ tài chính và các hoạt động kinh
tế thực sự như lạm phát và tăng trưởng. Các kênh truyền dẫn tiền tệ có thể phân loại
thành kênh giá cả và kênh số lượng: kênh giá cả sau đó có thể chia thành các kênh nhỏ:
kênh lãi suất, kênh tỷ giá và kênh giá tài sản; kênh số lượng được chia thành kênh tiền
tệ và kênh tín dụng. Trong hệ thống mục tiêu lạm phát, kênh lãi suất đóng vai trò quan
trọng do lãi suất ngắn hạn được dùng làm mục tiêu điều hành để đạt được mục tiêu lạm
phát.
Sơ đồ 3.1: Kênh truyền dẫn của lãi suất lên giá [52]
Để nâng cao hiệu quả của kênh lãi suất đối với nền kinh tế, luận văn đề nghị:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Lào vì hoạt động của hệ
thống NHTM đóng vai trò quyết định đến hiệu quả tác động của CSTT: các NHTM
cạnh tranh với nhau trên thị trường tín dụng và tiền gửi thông qua chính sách lãi suất
của từng ngân hàng. Hiển nhiên nếu lãi suất huy động của ngân hàng A cao hơn ngân
hàng B thì ngân hàng A sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền hơn và nếu lãi suất
LS dài hạn
danh nghĩa
LS dài hạn
thực
Tiêu dùng,
Đầu tư
Tỷ giá
danh nghĩa
Tỷ giá
thực
Xuất khẩu
nhập khẩu
LS
n
gắ
n
hạ
n
da
nh
n
gh
ĩa
C
hí
nh
s
ác
h
tiề
n
tệ
Tổng cầu
G
iá cả
cho vay thấp hơn thì sẽ cho vay được nhiều hơn. Do đó ảnh hưởng tới mức lãi suất chung
trên thị trường liên ngân hàng.
- Về cơ chế điều hành lãi suất: như đã đề cập ở chương 2, từ 1/6/2002, NHNN
thực hiện chuyển cơ cấu lãi suất cơ bản sang cơ chế lãi suất thỏa thuận. Lãi suất thỏa
thuận nghĩa là lãi suất được xác định trên cơ sở sự nhất trí cho vay và người đi vay
trong thỏa thuận về một hợp đồng vay mượn. Nếu mức lãi suất này không bị khống chế
bởi biên độ quản lý thì mức lãi suất thỏa thuận trong các quan hệ vay mượn song phương
cũng không nằm ngoài mức lãi suất thị trường hình thành trên quan hệ cung cầu. Quá trình
tự do hóa lãi suất ở các nước cho thấy tùy thuộc tình hình phát triển kinh tế, mức độ phát
triển của thị trường tiền tệ ở mỗi nước mà chính sách những bước khác nhau trong quá
trình tự do hóa lãi suất. Tuy nhiên, ở bất kỳ nước nào, quá trình tự do hóa lãi suất chỉ được
xem là thành công nếu sau khi tự do hóa lãi suất hệ thống tiền tệ vẫn được ổn định, lãi suất
trên thị trường tiền tệ không có những dao động lớn do sự cạnh tranh quá mức của các
trung gian tài chính dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ, làm ảnh hưởng đến sự ổn
định kinh tế - xã hội, đến lợi ích của các nhà đầu tư, của người gửi tiền và các trung gian
tài chính. Chính vì vậy, quá trình tự do hóa lãi suất của Lào cần phải có những bước đi
thận trọng phù hợp với điều kiện của mình, đồng thời phải có sự phối hợp nhịp nhàng với
các công cụ khác.
Hơn nữa, trong điều kiện đồng Kíp Lào còn yếu thì cần thiết phải điều hành lãi
suất Kíp Lào cao hơn so với lãi suất quốc tế, đặc biệt phải cao hơn mức lãi suất USD,
Bath Thái Lan nhằm hạn chế tình trạng Đô la hóa và Bath hóa. Đồng thời, phải có cơ chế
điều chỉnh tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt và ổn định tương đối nhằm ngăn chặn tình
trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ và giảm thiểu rủi ro hối đoái cho các doanh nghiệp.
- Thị trường tiền tệ và thị trường tài chính phát triển không có sự can thiệp của
Chính phủ vào thị trường và không có sự sai lệch trong cơ cấu lãi suất là các điều kiện quan
trọng để nâng cao hiệu quả của cơ chế truyền dẫn của CSTT. Chính vì vậy, cần phải có
những biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hai loại thị trường này. Quá trình mở cửa
thị trường tài chính, tiền tệ Lào phải được tiến hành dần dần theo từng bước một cách thận
trọng và nhất thiết không được để kíp Lào mất giá quá lớn bởi sự chênh lệch về tỷ giá hối
đoái hoặc lãi suất trong điều kiện mở cửa thị trường tiền tệ là nguyên nhân căn bản và tạo
cơ hội cho đầu cơ tiền tệ, gây nên tình trạng kinh tế "bong bóng", cuối cùng tất yếu sẽ dẫn
đến khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng kinh tế đất nước. Do vậy, thị trường tài chính và
thị trường tiền tệ Lào trong giai đoạn 2000 - 2010 cần phải được thúc đẩy phát triển theo
hướng sớm trở thành các thị trường có đầy đủ vốn, đầy đủ hàng hóa được quản lý tốt và
được điều tiết chặt chẽ - được chuẩn bị tương đối kỹ càng để từng bước mở cửa hội nhập
tài chính - tiền tệ khu vực và toàn cầu.
Việc thiết lập mối quan hệ giữa CSTT và mục tiêu điều hành chỉ là vấn đề liệu
NHTW có kiểm soát mục tiêu điều hành hay không? Việc phát triển một thị trường tiền
tệ ngắn hạn và các công cụ của CSTT gián tiếp rất quan trọng để tăng cường khả năng
kiểm soát của NHTW đối với mục tiêu điều hành.
+ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM)
Trong thời gian tới, NVTTM sẽ được thực hiện theo hướng trở thành công cụ
chủ yếu trong điều hành CSTT do khả năng tác động linh hoạt, chủ động và thường xuyên
của nó. Đây là một kỹ thuật điều chỉnh lãi suất được ưa chuộng.
Để nghiệp vụ TTM phát triển theo ý đồ can thiệp của mình, NHNN cần:
- Thường xuyên rà soát các cơ chế, quy chế làm cơ sở pháp lý cũng như các quy
định pháp luật liên quan đến hoạt động thị trường mới. NVTTM và điều chỉnh theo hướng
tạo điều kiện thuận lợi thu hút các thành viên tham gia thị trường. ở đây cần chú trọng đảm
bảo sự thông suốt về kỹ thuật giao dịch thông qua việc cải tiến, hoàn thiện chương trình
phần mềm giao dịch của Cục Công nghệ tin học ngân hàng. Về phía các NHTM cần đảm
bảo đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu với các phương tiện nối mạng máy tính với trung
tâm giao dịch của thị trường đi đôi với nâng cao năng lực kinh doanh và hiểu biết nghiệp
vụ.
- Mở rộng các loại hàng hóa cho thị trường. Những loại hàng hóa mới có thể bổ
sung thêm là các chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, hối phiếu ngân hàng, các hợp đồng
bán - mua lại hay các trái phiếu Chính phủ vẫn còn thời hạn không quá mức quy định...
sau khi NHNN Lào đã đưa ra được các chuẩn mực đảm bảo chi trả và chuyển giao kịp
thời các loại giấy tờ có giá đó, tạo điều kiện để thị trường hoạt động có hiệu quả.
- Tăng số lượng các phiên giao dịch.
- Đa dạng hóa các phương thức giao dịch.
Tuy nhiên, những điều nêu trên vẫn chưa đủ, mà cần phải có sự phối kết hợp
uyển chuyển nhịp nhàng với các công cụ khác như công cụ tái cấp vốn hay dự trữ bắt
buộc.
+ Công cụ tái cấp vốn
Việc tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM phải được lựa chọn, tính toán cẩn
thận giữa hai công cụ NVTTM và tái cấp vốn, bởi vì nếu cả hai công cụ cùng được áp
dụng, chúng rất dễ triệt tiêu nhau. Việc các NHTM lựa chọn công cụ nào ở đây phụ
thuộc vào lãi suất chiết khấu và lãi suất trên thị trường mở. Nghiên cứu thực trạng thực
thi CSTT ở các nước theo đuổi chính sách mục tiêu lạm phát cho thấy hầu hết các nước
này đều coi trọng việc sử dụng NVTTM hơn. Xét về mặt lý thuyết, việc chọn lựa
NVTTM cũng hợp lý hơn vì đối với nghiệp vụ này, những thành viên tham gia thị
trường không biết trước được mức lãi suất sẽ là bao nhiêu, nên việc đặt giá thầu rất thận
trọng và như vậy, nó phản ánh sát thực hơn quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường.
Hơn nữa, trên thị trường mở, NHNN chủ động hơn trong việc thực hiện ý đồ can thiệp
của mình do họ chính là người đặt ra yêu cầu mua bán trên thị trường.
Chính vì vậy, luận văn đề nghị NHNN phải có những biện pháp để hạn chế việc
lui tới cửa sổ chiết khấu của các NHTM, đặc biệt phải chấm dứt tình trạng cho vay chỉ
định qua kênh tái cấp vốn vì đây là khoản vốn không xuất phát từ cầu vốn khả dụng của
các NHTM.
+ Công cụ dự trữ bắt buộc
Hiện tại và trong những năm tới công cụ dự trữ bắt buộc ở Lào vẫn có tác động
tới nhu cầu vốn khả dụng của các NHTM và đồng thời cũng tác động đến hiệu quả của
CSTT. Vì vậy, cần phải có những biện pháp nâng cao hiệu quả điều tiết của công cụ
này. Luận văn đề nghị:
- Điều chỉnh cách tính dự trữ bắt buộc theo số dư tiền gửi của các TCTD tại Sở
Giao dịch NHNN và các chi nhánh NHNN.
- Cần phải có tiền gửi dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi trên 12 tháng. Việc
tăng diện tiền gửi phải chịu bắt buộc để NHNN Lào có thể kiểm soát chặt hơn lượng
tiền dự trữ tại các NHTM.
- Cần chú ý khi phối hợp sử dụng công cụ khác, đặc biệt khi cần có sự tác động
kép cả về giá cả và về lượng việc kết hợp giữa NVTTM với DTBB có hiệu quả rất
nhanh chóng.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến thị
trường.
3.2.4. Tăng cường sự rõ ràng, tính nhất quán và tin cậy của chính sách tiền
tệ
Tính rõ ràng và nhất quán có vai trò thiết yếu để đảm bảo tính tin cậy của
CSTT. Chúng giúp cho dân chúng có thể hiểu được các quyết định của những người
làm chính sách. Do vậy, tạo động lực cho các nhà chính sách đạt tới mục tiêu lạm phát
và tăng độ tin tưởng của dân chúng vào việc đạt được mục tiêu lạm phát.
Như vậy, để nâng cao tính rõ ràng, nhất quán của CSTT, luận văn kiến nghị như
sau:
- Thứ nhất, NHNN phát hành một bản báo cáo về tình trạng lạm phát hoặc báo
cáo CSTT trong đó có bao gồm dự báo lạm phát và tăng trưởng kinh tế cho các năm sau
đó trình báo cáo này lên Quốc hội.
- Thứ hai, Quốc hội có thể chất vấn Thống đốc NHNN hoặc các thành viên của
Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia.
- Thứ ba, nếu tỷ lệ lạm phát lệch khỏi mục tiêu, Thống đốc ngân hàng phải báo
cáo lên Quốc hội hoặc Chính phủ giải thích nguyên nhân và dự định phương hướng điều
chỉnh của Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia.
Mất lòng tin vào CSTT sẽ làm tăng dự đoán lạm phát. Tăng dự đoán lạm phát đến
lượt nó sẽ làm tăng chi phí đưa lạm phát trở về mức kiểm soát được; do vậy, sự đáng tin
cậy cũng rất quan trọng đối với CSTT. Tuy nhiên, nếu CSTT chỉ tập trung chủ yếu vào
mục tiêu duy nhất là ổn định giá cả để tăng cường tính tin cậy của chính sách thì có thể xảy
ra những biến đổi trong ngắn hạn của đầu ra một cách không cần thiết do có một sự đánh
đổi ngắn hạn giữa lạm phát và tăng trưởng mặc dù không có sự đánh đổi ngược chiều dài
hạn giữa hai yếu tố này. Có thể có một sự đánh đổi nào đó giữa tính tin cậy và sự năng
động. Khi thực hiện một CSTT tự do, vấn đề không nhất quán sẽ nảy sinh. Trong trường hợp
này, tăng cung tiền tệ sẽ mang lại tỷ lệ lạm phát cao mà không tăng việc làm cũng như sản
lượng. Do vậy, chúng ta cần một cách thức thực hiện CSTT khoa học hơn để phản ánh mức
đổi tối ưu giữa tính tin cậy và sự năng động. Quy trình như vậy chính là nguyên tắc tự do
của CSTT. Các nhà làm chính sách thường cam kết với dân chúng và điều hành CSTT tuân
theo các quy tắc CSTT; do vậy, thị trường tài chính có thể tạo ra những dự đoán rõ ràng về
các hành động chính sách trong tương lai.
Mục tiêu lạm phát đôi khi cũng bị chỉ trích do chỉ quan tâm đến mục tiêu lạm
phát mà bỏ qua sản lượng. Tuy nhiên, sự chỉ trích này đặt không đúng chỗ. Xét về khía
cạnh lý thuyết, thậm chí nếu áp dụng mục tiêu lạm phát chặt chẽ, nghiên cứu sản lượng
vẫn rất quan trọng bởi vì sản lượng đóng vai trò xác định lạm phát trong tương lai.
NHTW sẽ vẫn phải quan tâm đến chỉ tiêu sản lượng trong chức năng phản ứng của
mình.
Một vấn đề khác liên quan đến độ tin cậy của CSTT là dân chúng hiểu tỷ lệ lạm
phát cơ sở đến mức độ nào. Cần có những cố gắng để phổ cập khái niệm này và mục đích
của mục tiêu lạm phát và tỷ lệ lạm phát cơ sở cũng như cố gắng tính ra tỷ lệ lạm phát cơ sở
chính xác hơn để có tính được lạm phát cơ sở tốt hơn.
3.2.5. Các bước thực hiện chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát
Các bước thực hiện chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Lào.
Thứ nhất: Xác định được cơ quan và thực hiện mục tiêu: Trong luận văn này
kiến nghị việc theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả là mục tiêu duy nhất của CSTT và để
thực hiện mục tiêu này, NHNN Lào sử dụng chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát
được quy định trong Luật Ngân hàng và Chính phủ cũng phải quy định rõ ràng cơ quan
thực hiện mục tiêu là NHNN Lào
Thứ hai: Trong quá trình điều hành CSTT, NHNN lựa chọn công cụ trực tiếp
của CSTT là lãi suất ngắn hạn làm mục tiêu điều hành kết hợp với các công cụ khác để
hướng tới mục tiêu đề ra.
Thứ ba: Trên cơ sở NHNN là cơ quan xây dựng và thực thi CSTT, NHNN phải
tính toán để đưa ra khung thời gian của mục tiêu, khung lạm phát mục tiêu. Như chúng
ta đã biết lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ mật thiết với nhau và đối với mỗi
quốc gia một tỷ lệ lạm phát thích hợp nào đó sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh
tế ở Lào, theo các nhà nghiên cứu thì tỷ lệ lạm phát thích hợp đủ để kích thích tăng
trưởng là 8-9%; chính vì vậy, luận văn đề nghị xác định khung lạm phát mục tiêu là 8-
10% và thời gian để đạt được mục tiêu là 2 năm.
Thứ tư: Định kỳ 3 tháng, NHNN Lào họp đánh giá tổng kết tình hình thực thi
chính sách để đưa ra định hướng điều hành cho giai đoạn tiếp theo.
3.3. Một số kiến nghị
Trước hết chúng ta cần xác định rằng để có thể đạt được mục tiêu đề ra không
chỉ sử dụng các biện pháp công cụ từ phía NHNN cụ thể là các công cụ của CSTT, mà
cần phải có hàng loạt những biện pháp tổng thể phối hợp trong việc hoạch định và thực
thi chính sách tài chính- tiền tệ quốc gia. Việc hoạch định và thực thi này lại phải đảm
bảo nằm trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội và đồng thời phải tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ
mô đã xác định ở từng năm và cho cả giai đoạn phát triển. Chính vì vậy, luận văn đưa ra
một số kiến nghị trong việc phối hợp thực thi chính sách này như sau:
1. Đối với Chính phủ
- Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng cho
các thành phần kinh tế phát triển, hạn chế và tiến tới chấm dứt việc cho vay theo chỉ
định của Chính phủ.
- Chính phủ nên hạn chế sự can thiệp của mình vào hoạt động của NHNN, chỉ
nên chỉ đạo hoạt động mang tính chất định hướng mà không nên theo tính định lượng.
Đồng thời, việc chỉ đạo điều hành CSTT phải thực hiện nhanh chóng, kịp thời.
- Đề nghị xem xét thay đổi mệnh giá đồng Kíp cho hợp lý với từng giai đoạn có
tính kinh tế cao và hợp lý vì nó liên quan đến giá trị và tâm lý đến bản sắc dân tộc của
mình.
- Nên tập trung các chu chuyển tiền tệ qua một đầu mối quản lý duy nhất là
NHNN nhằm thực hiện chức năng NHTW tốt hơn trong việc thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia như:
+ Hoạt động tiết kiệm của Bưu điện và các tổ chức được phép hoạt động kinh
doanh về tài chính - tiền tệ phải báo cáo đều đặn, chính xác, đầy đủ cho NHNN một
cách kịp thời.
+ Việc tồn tại hệ thống kho bạc nhà nước nhằm tạo điều kiện để NHNN thực hiện
vai trò là ngân hàng của Chính phủ. Đồng thời, việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho
bạc và công trái nên thông qua hệ thống ngân hàng.
2. Đối với Quốc hội
Đến nay, Luật NHNN Lào đã và đang có hiệu lực thi hành. Đây là giai đoạn
hoạt động NHNN Lào gắn chặt với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội với những đặc điểm có nhiều nhân tố mới bởi những thời
cơ và thách thức vận động đan xen rất mạnh mẽ và mang tính thời đại mới. Do những biến
đổi nhanh chóng và mang tính khách quan của quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc
tế mà vai trò của Luật Ngân hàng cần phải được đổi mới để mở rộng đối tượng điều chỉnh,
tăng cường vị thế pháp lý và trách nhiệm cao hơn cho NHNN. Chính vì vậy, luận văn kiến
nghị sửa đổi Luật NHNN và xây dựng thêm Luật các TCTD theo hướng như sau:
+ CHDCND Lào hiện nay chưa có Luật Tổ chức tín dụng, vì vậy cần phải
nhanh chóng xây dựng Luật Các tổ chức tín dụng để các tổ chức tín dụng đáp ứng được
đòi hỏi của hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến tài chính - ngân hàng.
+ Sửa đổi Luật NHNN Lào
Nhìn chung, qua thực tế áp dụng, Luật NHNN đã thấy xuất hiện những hạn chế
sau:
- Quy định về vị thế của NHNN còn nhấn mạnh chủ yếu là cơ quan của Chính
phủ, quá coi nặng chức năng quản lý nhà nước trực tiếp, xem nhẹ vai trò là NHTW của
các ngân hàng. Quyền hạn của Thống đốc cũng thể hiện khá mờ nhạt và bị chia sẻ.
- Các quy định pháp lý về vận hành các công cụ của CSTT như: chiết khấu, tái
chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở lãi suất cơ bản, quản lý ngoại hối v.v.. chưa chi tiết,
vừa không rõ ràng, vừa thiếu điều kiện ràng buộc và mang nặng tính hành chính.
- Một số quy định cụ thể khác như quy định về lãi suất cơ bản, về hàng hóa của
nghiệp vụ thị trường mở cần xem xét để hủy bỏ hoặc phải định nghĩa lại.
Từ những hạn chế trên, luận văn kiến nghị sửa đổi như sau:
1. Vị thế của NHNN Lào cần được độc lập hoặc độc lập tương đối tùy điều kiện
phát triển. Tính độc lập không bao gồm việc NHNN không phải là cơ quan Chính phủ mà
chỉ độc lập tương đối trên nguyên tắc Chính phủ trao nhiều quyền hạn, trách nhiệm mới
cho NHNN và Thống đốc NHNN trên lĩnh các lĩnh vực: Xây dựng và trình dự án CSTT
quốc gia; chủ động sắp xếp bộ máy tổ chức và nhân sự; độc lập tương đối về tài chính
theo cơ chế đơn vị nộp NSNN.
2. Bổ sung các ràng buộc và sửa đổi theo chuẩn quốc tế các nội dung liên quan
đến nghiệp vụ NHTW như đã phân tích ở trên.
3. Đổi mới việc quy định về nghiệp vụ, về chức năng, về mô hình tổ chức, về mô
hình tổ chức của thanh tra ngân hàng để tránh song trùng lãnh đạo, mở rộng đối tượng thanh
tra và tổ chức lại bộ máy thanh tra phù hợp với nghiệp vụ mới.
4. Quy định minh bạch các quan hệ tiền tệ, tín dụng giữa NHTW với các Bộ,
ngành nhất là với Bộ Tài chính - trong đó những quy định quan trọng là: Quy định về
việc NHTW thống nhất quản lý ngoại hối, dự trữ quốc gia (cả ngoại tệ Xuất khẩu tài
nguyên và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu thông qua các NHTM), việc bắt buộc
Kho bạc Nhà nước phải mở tài khoản và thanh toán duy nhất qua hệ thống thanh toán
quốc gia của hệ thống NHTW.
5. Bỏ qua các quy định về trách nhiệm của Bộ, Hội đồng Nhân dân các cấp,...
trong việc tham gia giám sát hoạt động của NHTW.
3. Đối với các Bộ, Ngành có liên quan
- Cần tạo lập mối quan hệ thường xuyên giữa các Bộ, Ngành đặc biệt là Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan
trong việc xây dựng và ban hành hệ thống thông tư liên Bộ. Trong việc thu thập, cung
cấp và trao đổi thông tin cũng như việc cung cấp thông tin cho công chúng. Bộ Tài
chính và NHNN cần phải kết hợp chặt chẽ trong việc điều hành CSTT và chính sách tài
chính một cách hợp lý.
Kết luận
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, nền kinh tế không chỉ chịu ảnh
hưởng của các yếu tố bên trong mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi những yếu tố bên
ngoài và việc thực hiện chính sách tiền tệ mục tiêu kiểm soát lạm phát đối với
CHDCND Lào là vấn đề rất mới. Trên cơ sở sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở cho phương pháp luận và tổng hợp các phương
pháp thống kê và miêu tả, tổng hợp, so sánh, luận văn đã đạt được những nhiệm vụ sau:
1. Hệ thống hóa lý luận về chính sách lạm phát, CSTT và chính sách mục tiêu
kiểm soát lạm phát.
2. Kinh nghiệm thực tiễn CSTT theo mục tiêu lạm phát ở một số nước trên thế
giới và bài học cho CHDCND Lào.
3. Đánh giá thực trạng lạm phát và những nguyên nhân gây ra lạm phát tại Lào
từ năm 1994 đến nay. Đồng thời, luận văn cũng tập trung phân tích, đánh giá thực trạng
điều hành CSTT với mục tiêu kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này nhằm đưa ra được
những thành công và hạn chế trong việc lựa chọn phương thức điều hành CSTT.
4. Trên cơ sở những phân tích ở trên, luận văn đưa ra đề xuất theo đuổi chính
sách mục tiêu lạm phát trong việc thực thi CSTT tại Lào và hệ thống các giải pháp điều
kiện nhằm thực hiện chính sách này.
5. Để có được sự hỗ trợ đắc lực từ Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan hữu
quan khác, luận văn đưa ra các kiến nghị cần thiết để có thể thực hiện chính sách này tại
Lào.
Là công dân của nước CHDCND Lào lại nghiên cứu về một vấn đề còn khá
mới mẻ và phức tạp, hơn nữa còn hạn chế về ngôn ngữ và thời gian. Vì vậy, tác giả
mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên gia cũng
như tất cả những độc giả quan tâm đến vấn đề này để khi có điều kiện luận văn sẽ được
hoàn thiện hơn nữa.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Duệ (2000), Chính sách mục tiêu lạm phát, Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. Hoàng Ngọc Hà (2001), "Nguyên nhân của tình trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay
và khuyến nghị hướng khắc phục", Ngân hàng, (12), tr.1-6.
3. Nguyễn Văn Hà - Lê Văn Tề, (2005), Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
4. Phí Trọng Hiển (2005), "Lạm phát mục tiêu: Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho
Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (323), tr. 53- 63.
5. Lê Xuân Hiếu (2004), "Lạm phát và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam", Ngân hàng,
(10), tr. 22-25.
6. Nguyễn Đắc Hưng (2001), "Mục tiêu lạm phát", Ngân hàng, (2), tr. 55-57.
7. Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Đồng Tiến (2005), "Kết hợp các chính sách kinh tế vĩ mô
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt
Nam giai đoạn 1986 - 2004", Ngân hàng, (2), tr. 1.
8. Ngô Hưởng (2004), "Lạm phát hiện nay nguyên nhân và giải pháp kiềm chế", Ngân
hàng, (11), tr. 1-2.
9. Hoàng Xuân Kế (2004), "Lạm phát ở Việt Nam - Nguyên nhân và giải pháp",
Nghiên cứu kinh tế, (319), tr. 26-33.
10. Lý Minh Khai (2004), Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và phương pháp tính của Tổng cục
Thống kê hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội.
11. Trần Mạch Kiên (2000), "Mục tiêu lạm phát một cách tiếp cận mới về chính sách
tiền tệ", Ngân hàng, (5), tr. 61- 62.
12. Nguyễn Đại Lai (2004), "Một số ý kiến về lạm phát và những giải pháp khắc phục",
Ngân hàng, (11), tr. 3- 4.
13. Lê Quốc Lý (2005), Lạm phát hành trình và giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam,
Nxb Tài chính, Hà Nội.
14. Đỗ Thị Đức Minh (2005), Chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát một cách tiếp
cận trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội.
15. S. Mishkin Frederic, Tiền tệ, ngân hàng, và thị trường tài chính, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Mùi (2004), "Sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ
nhằm kiểm soát lạm phát", Tài chính, (9), tr. 27-28.
17. Nguyễn Đăng Nam (2004), Một số giải pháp tài chính - tiền tệ để bình ổn giá cả kiềm
chế lạm phát, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội.
18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Một số vấn đề cơ bản về tài chính - tiền tệ của
Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.
19. Nguyễn Thiện Nhân (2002), Khủng hoảng kinh tế tài chính ở châu á 1997 - 1999, Nxb
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Nguyễn Minh Phong (2000), Lý thuyết lạm phát giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Dương Hồng Phương (2004), "Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập", Ngân hàng, (8), tr. 9-13.
22. Bùi Thiên Sơn (2004), Kinh nghiệm một số nước về kiểm soát và kiềm chế lạm phát
trong điều kiện nền kinh tế thị trường, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài
chính Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Sỹ (2005), "Nhận xét về quá trình kiểm soát lạm phát", Nghiên cứu
kinh tế, (2), tr. 53.
24. Hồ Khắc Tân (2001), "Tăng trưởng kinh tế và lạm phát", Tài chính, (10), tr. 36.
25. Trần Cao Thành (2000), Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 20 năm xây dựng và phát
triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Nguyễn Quang Thép (2001), "Sự lựa chọn giải pháp chính sách tiền tệ", Ngân hàng,
(5), tr. 59.
27. Nguyễn Đồng Tiến (2000), "Cần có cách nhìn nhận đúng đắn khi đánh giá lạm phát
ở Việt Nam", Ngân hàng, (9), tr. 19-22.
28. Nhật Trung (2004), "Những vấn đề chung về lạm phát cơ bản - kinh nghiệm của
Philippnes", Ngân hàng, (9), tr. 67- 69.
Tiếng Lào (dịch sang tiếng Việt)
29. Báo cáo thường niên năm 1997 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
30. Báo cáo thường niên năm 1998 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
31. Báo cáo thường niên năm 1999 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
32. Báo cáo thường niên năm 2000 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
33. Báo cáo thường niên năm 2001 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
34. Báo cáo thường niên năm 2002 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
35. Báo cáo thường niên năm 2003 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
36. Báo cáo thường niên năm 2004 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
37. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng 2005- 2020.
38. Đánh giá về tình hình lạm phát ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 2000
(5/2004).
39. Đánh giá hoạt động ngân hàng 5 năm 2001-2005 Ngân hàng Nhà nước Lào.
40. Ngân hàng Nhà nước Lào (2000), Luật Ngân hàng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
Viêng Chăn.
41. Ngân hàng Nhà nước Lào (2000), Quyết định về hoạt động Ngân hàng Thương mại
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Viêng Chăn.
42. Văn kiện Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ VII (2001).
Tiếng Anh
43. Alina Carare, Adrea Schaechter, Mark Stone, and Mark Zelmer, Establishing Initial
Conditions in Support of Inflation Targeting- IMF Working paper.
44. David Dodge Govermor of Reserve Bank of Canada "Inflation targeting in Canada:
Experience and Lesson: 5/2002.
45. Donald T Brash Govermor of Reserve Bank of New Zealand " Inflation targeting 14
years on" 5/2002.
46. Donald T Brash Govermor of Reserve Bank of New Zealand " Inflation targeting in
New Zealand 1988 - 2000" 9/2000.
47. "Economics"- P.A.Samuelsonva W,D. Norhaus- Xuất bản lần thứ 4, 1992, trang
587-588.
48. Edwin M. Truman- Inflation Targeting and the International Financial System-
9/2001.
49. Frederic S. Mishkin, Klaus Schmidt Hebbel- One decade of inflation targeting in the
world: what do we know and what do we need to know- Working paper 8397-
National Bureau of Economic Research 7/2001.
50. Guy Debelle, Paul Masson, Miguel Savastano and Sunil Sharma- Inflation targeting
as a Framework for Monetary Policy.
51. International Monetary Fund (IMF): Lao PDR: Recent ecomic development SM/88/26
1.1988. table 11.
52. Junggun Oh - Inflation Targeting: A New Monetary Policy Framework in Korea
10/2000.
Phụ lục
Việc thiết lập và thực hiện mục tiêu lạm phát ở các nước
Tên
nước
Ngà
y
thực
hiện
Chỉ số mục tiêu
Khung mục
tiêu
Thời gian
thực hiện
mục tiêu
Cơ quan
thiết lập
mục tiêu
úc 9/94 Core CPI 2-3% 1 chu kỳ
kinh doanh
Chính phủ
và NHTW
Brazil 6/99 Headline 1999: 8% 2%
2000: 5% 2%
2001: 4% 2%
1 năm Chính phủ
có sự tư
vấn của
NHTW
Canada 2/91 Core CPI có loại
trừ giá thực phẩm,
năng lượng và thuế
gián thu
1991: 3-5%
1992: 2-4%
6/1994: 1,5-
3,5%
1995-2001L: 1-
3%
1991: 22
thàng
từ 1992 nhiều
năm
Chính phủ
và NHTW
Chi Lê 1/91 Headline CPI 1991: 15-20%
1992: 13-16%
1993: 10-12%
1994: 9-11%
1995: 8%
1991-2000: 1
năm
2001-nay:
không xác
định cụ thể
NHTW có
sự tư vấn
của Chính
phủ
Tên
nước
Ngà
y
thực
hiện
Chỉ số mục tiêu
Khung mục
tiêu
Thời gian
thực hiện
mục tiêu
Cơ quan
thiết lập
mục tiêu
1996: 6,6%
1997: 5,5%
1998: 4,5%
1999: 4,3%
2000: 3.5%
2001-nay: 2-4%
Colombi
a
9/99 Headline CPI 1999: 15%
2000: 10%
2001: 8%
2002: 6%
1 năm Chính phủ
và NHTW
Czech 1/98 Core CPI có loại
trừ giá thực phẩm,
năng lượng và
thuế gián thu
1998: 5,5-6,5%
1999: 4-5%
2000: 3,5-5,5%
2001: 2-4%
1 năm NHTW
Tên
nước
Ngà
y
thực
hiện
Chỉ số mục tiêu
Khung mục
tiêu
Thời gian
thực hiện
mục tiêu
Cơ quan
thiết lập
mục tiêu
Phần Lan 2/93
-
6/98
Core CPI có loại
trừ thuế gián thu,
các khoản trợ giá,
giá nhà và lãi suất
thế chấp
Trung bình 2% 93-95 dài
hạn 1996:
không xác
định
NHTW
Israel 1/92 Headline
CPI
1992: 14-15%
1993: 10%
1994: 8%
1995: 4-11%
1996: 8-10%
1997: 7-10%
1998: 7-10%
1994: 4%
2000: 3-4%
2001: 3-4%
1 năm Chính phủ
có sự tư
vấn của
NHTW
Mexico 1/99 Headline
CPI
1999: 13%
2000 < 20%
2001: 6,5%
2002: 4,5%
1 năm NHTW
Tên
nước
Ngà
y
thực
hiện
Chỉ số mục tiêu
Khung mục
tiêu
Thời gian
thực hiện
mục tiêu
Cơ quan
thiết lập
mục tiêu
Peru 1/94 Headline
CPI
1994: 14-20%
1995: 9-11%
1996: 9,5-
11,5%
1997: 8-10%
1998: 7,5-9%
1994: 5-6%
2000: 3,5-4%
2001: 2,5-3,5%
2002: 1,5-2,5%
1 năm NHTW có
sự tư vấn
của Chính
phủ
Ba Lan 10/9
8
Headline
CPI
1998: <9,5%
199: 6,6-7,8%
2000: 5,4%-
6,8%
2001: <4%
1 năm 2000-
2002 nhiều
năm 2003:
không xác
định
NHTW
Nam
Phi
2/200
0
Core CPI có loại
trừ biến động lãi
suất
3-6% Nhiều năm NHTW
Mục lục
T
rang
Mở đầu 1
Chương 1: lạm phát và chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm
phát
5
1.1. Những vấn đề cơ bản về lạm phát 5
1.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát 13
1.3. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở một số nước
trên thế giới và bài học kinh nghiệm
34
Chương 2: Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm
phát ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào từ năm 1994
đến nay
48
2.1. Thực trạng lạm phát ở Lào từ năm 1994 đến nay 48
2.2. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở Lào
trong những năm qua
63
2.3. Đánh giá việc điều hành chính sách tiền tệ từ năm 1994 đến nay 68
Chương 3: định hướng và giải pháp trong thực hiện chính sách tiền
tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở cộng hòa dân chủ nhân
dân lào
83
3.1. Định hướng xây dựng, phát triển và điều hành chính sách tiền tệ ở Lào
giai đoạn 2005 - 2010
82
3.2. Những giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính
sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
89
3.3. Một số kiến nghị 104
Kết luận 10
7
Danh mục tài liệu tham khảo 108
phụ lục 112
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.pdf