Chất lượng tín dụng luôn luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của hoạt động ngân hàng.
Hiện nay chất lượng tín dụng chưa cao , tỷ lệ nợ quá hạn có chiều hướng gia tăng. ở
một số nơi nợ quá hạn đang là vấn đề nổi cộm và nóng bỏng trong hoạt động tín dụng.
Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn có nhiều: do thiên tai lũ lụt , do thay đổi cơ chế
chính sách, do rủi ro trong kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn. Nhưng có điều
đáng quan tâm là không ít ngân hàng còn theo đuổi lợi nhuận phiến diện , cho phép
cấp dưới cho vay đảo nợ. Cơ chế khoán của một số ngân hàng còn nhiều sơ hở lại
thiếu kiểm tra an toàn vốn. Một số cán bộ vi phạm nghiêm trọng chế độ tín dụng ,
thậm chí cố ý làm sai , lợi dụng các sơ hở của cơ chế chính sách.
27 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2419 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợ đến hạn và nợ quá
hạn. Nợ chưa đến hạn là nợ chưa đến thời hạn thanh toán khoản nợ sẽ được thu hồi
khi đến hạn.nợ đến hạn là khoản nợ đến hạn thanh toán,nó được dùng để đánh giá chất
lượng của một khoản tín dụng đã cung cấp có ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán
của Ngân HàngThương Mại. Nợ quá hạn là những khoản nợ vì lý do nào đó mà đến
hạn thanh toán mà chưa thanh toán được. Nợ quá hạn càng lớn ,mức độ thiếu thanh
khoản càng cao. Vấn đề gải quuyết nợ quá hạn là vấn đề quan trọng với hoạt động của
Ngân HàngThương Mại.
Phân loại theo tính chất đảm bảo của khoản nợ. Theo cách này các khoản nợ được
chia làm hai loại: nợ có đảm bảo và nợ không có đảm bảo. Trong khoản nợ có đảm
bảo có hai hình thức là cho vay thế chấp đó lá người đi vay phải thế chấp tài sản
nhưng tài sản thế chấp vẫn thuộc quyền sử dụng của khách hàng,một hình thức nữa là
cho vay cầm cố tài sản thế chấp thuộc quyền quản lý của ngân hàng.nợ không có tài
sản đảm bảo có hai hình thức là cho vay tín chấp khi các khoản cho vay không căn cứ
vào tài sản thế chấp mà căn cứ vào uy tín của khách hàng lòng tin của ngân hàng với
khách hàng, một hình thức nữa là cho vay bảo lãnh ngân hàng cho vay dựa vào sự bảo
lãnh của một người thứ ba
Phân loại theo mức độ rủi ro của các khoản nợ. Dựa vào cách phân loại này,Ngân
HàngThương Mại có khả năng quản lý chặt chẽ các khoản nợ,phát hiện sớm các khoản
nợ có vấn đề để xử lý kịp thời,đảm bảo khả năng thanh toán khi đến hạn.
5. Nguyên tắc tín dụng
Nguyên tắc tín dụng là kim chỉ nam cho việc điều hành hoạt động tín dụng ,là chuẩn
mực và thước đo để cán bộ thừa hành thực thi nhiệm vụ một cách tốt nhất.thông
thường nguyên tắc tín dụng phải đảm bảo nội dung cơ bản là giải quyết hợp lý giữa ba
lợi ích của nhà nước ,của khách hàng và của ngân hàng, đồng thời phải hạn chế tới
mức tối đa rủi ro tín dụng vì sự tồn tại của ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng được thực hiện đựa trên cơ sở các nguyên tắc sau .
Cho vay những khoản vay có mục đích.
Cho vay có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Đây là nguyên tắc đảm
bảo thực chất của tín dụng. Tính chất tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu nguyên tắc này không
được thực hiện đầy đủ. Doanh nghiệp khi vay vốn phải cam kết trả đầy đủ vốn và lãi
sau một thời gian nhất định cam kết này được ghi trong khế ước vay nợ.
Cho vay có tài sản thế chấp tài sản thế chấp có thể là vật tư hàng hoá ,tài sản cố định
của doanh nghiệp ,số dư trên tài khoản tiền gửi hoặc có thể cam kết trả nợ thay của cơ
quan khác...thậm chí có thể là uy tín của chủ doanh nghiệp.
Cho vay theo kế hoạch thỏa thuận từ trước(theo hợp đồng đã kí kết ). Quan hệ tín
dụng phản ánh nhu cầu về vốn và lợi nhuận của các doanh nghiệp. Nó liên quan chặt
chẽ tới quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp song lại mang tính thoả thuận rất
lớn. Do đó cần được pháp luật bảo hộ.
6. Chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng theo một cách hiểu nào đó chính là sự đáp ứng yêu cầu của khách
hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại ,phát triển của
ngân hàng.
Đối với khách hàng chất lượng tín dụng thể hiện ở sự phù hợp với mục đích sử dụng
của khách hàng ,với lãi suất và kì hạn nợ hợp lý ,thủ tục đơn giản ,thuận tiện thu hút
được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
Đối với sự phát triển kinh tế xã hội ,tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá
,giả quyết công ăn việc làm ,khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế ,thúc đẩy
quá trình tích tụ và tập trung sản xuất ,giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín
dụng và tăng trưởng kinh tế.
Đối với Ngân HàngThương Mại phạm vi ,mức độ ,giới hạn tín dụng phải phù hợp với
thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với
nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
a. Các nhân tố khách quan:
Về mặt vĩ mô nền kinh tế ổn định sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố lạm phát ,khủng hoảng làm cho khả
năng tín dụng và khả năng trả nợ vay không biến động lớn. Song với mục tiêu tăng
trưởng kinh tế nhà nước sử dụng mức lạm phát vừa phải để tăng trưởng tín dụng kích
thích đầu tư nhưng có một vấn đề đặt ra là qui mô của hoạt động tín dụng sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng. Nếu mở rộng qui mô quá mức giới hạn các Ngân
HàngThương Mại sẽ chịu thiệt hại lớn do lạm phát.
Lãi suất của nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Doanh nghiệp chỉ
tham gia hoạt động tín dụng khi họ kỳ vọng lợi tức thu được từ các khoản đầu tư bù
đắp được lãi suất mà ngân hàng đưa ra. Lợi tức của ngân hàng được bị giới hạn bởi
mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy khi lãi suất cao hơn lợi nhuận của doanh
nghiệp ,các doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ ngân hàng ảnh hưởng tới quá
trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh
tế
Nhóm nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng là các tác nhân trực tiếp
tham gia quan hệ tín dụng ,đó là người gửi tiền,ngân hàng và người vay tiền. Tín dụng
nghĩa là sự vay mượn dựa trên cơ sở tín nhiệm ,lòng tin. Vì vậy chất lượng tín dụng
phụ thuộc vào ba yếu tố: khách hàng ,ngân hàng và sự tín nhiệm , trong đó sự tín
nhiệm là cầu nối giữa mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Sự tín nhiệm càng
cao,thu hút khách hàng càng lớn. Khách hàng vừa là chủ thể đại diện cho bên cung về
vốn vừa là người đại diện cho bên cầu về vốn. Với tư cách người cung vốn tín dụng
họ mong muốn nhận được từ ngân hàng một khoản lãi từ tiền gửi. Hay những dịch vụ
thanh toán thuận tiện. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng sẽ làm tăng
thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động để đáp ứng nhu cầu của người đi vay. Đối
với người đi vay, họ đến ngân hàng với mong muốn được đáp ứng một khoản tín dụng
để sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh của họ với sự xác định rõ ràng về số
lượng tiền vay, thời hạn và lãi suất có thể chấp nhận được. Nếu nhu cầu của khách
hàng được chấp nhận với thái độ niềm nở và thủ tục đơn giản sẽ thu hút được nhiều
khách hàng tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng được thuận lợi, chất lượng tín dụng
được đảm bảo.
Nhóm nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật,tính đầy đủ và
khoa học của hệ thống pháp luật đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật
và trình độ dân trí của dân cư. Thực tiễn qua lịch sử phát triển của kinh tế thị trường
cho ta thấy rằng pháp luật là một phần không thể thiếu của nền kinh tế thị trường. Pháp
luật có nhiệm vụ tạo lập một môi truờng pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh tiến hành thuận tiện và đạt hiệu quả kinh tế cao, là cơ sở giải quyết các vấn đề
khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy nhân tố pháp lý có vai trò hết sức quan trọng
đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng hoạt động tín dụng nói riêng.
Ngoài những yếu tố kể trên còn có những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
như đạo đức xã hội có liên quan đến rủi ro trong tín dụng trong trường hợp lợi dụng
lòng tin để lừa đảo, hoặc do dân trí chưa cao ,kém hiểu biết dẫn đến chưa hiểu đúng
bản chất hoạt động ngân hàng có những biểu hiện làm ảnh hưởng tới chất lượng hoạt
động tín dụng. Bên cạnh đó chu kỳ phát triển kinh tế trong nước, tình hình kinh tế xã
hội của nước ngoài cũng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng. Các yếu tố tự
nhiên như thiên tai, lũ lụt... tác động đến các dự án đầu tư của khách hàng dẫn đến khó
khăn trong khả năng trả nợ.
b. Các nhân tố bên trong.
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng đã đề ra, nó
có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Điều đó cũng
có nghĩa rằng chất lượng tín dụng tùy thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của
ngân hàng thương mại có đúng đắn hay không. Bất cứ một ngân hàng nào muốn có
chất lượng tín dụng đều phải có chính sách tín dụng rõ ràng, thích hợp cho ngân hàng
mình.
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng , nhờ có
thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết đến cho
vay,theo dõi và quản lý tài sản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các
nguồn có sẵn từ ngân hàng, từ khách hàng ,từ các nguồn thông tin khác(các cơ quan
thông tấn báo chí, toà án). Số lượng, chất lượng của thông tin thu nhận được có liên
quan đến độ chính xác trong việc phân tích ,nhận định thị trường, khách hàng...để đưa
ra những quyết định phù hợp. Thông tin càng đầy đủ nhanh nhạy chính xác,toàn diện
thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng cao.
Tổ chức ngân hàng được xắp xếp một cách có khoa học đảm bảo sự phối hợp chặt
chẽ,nhịp nhàng giữa các phòng ban trong từng ngân hàng trong toàn bộ hệ thống ngân
hàng cũng như giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính pháp lý sẽ tạo điều
kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng , theo dõi, quản lý sát sao các khoản vốn
huy động cũng như các khoản vốn cho vay.
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như
trong hoạt động của ngân hàng. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự
ngày càng cao để có thể đối phó kịp thời , có hiệu quả với các tình huống khác nhau
của hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và giỏi
chuyên môn sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy
ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng.
Một nhân tố cũng không kém phần quan trọng đó là sự kiểm tra kiểm soát nội bộ. Đây
là biện pháp giúp ban lãnh đạo ngân hàng có được những thông tin về tình trạng kinh
doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc tiến phù hợp
với mục tiêu đề ra. Các hoạt động đó bao gồm việc kiểm tra chính sách tín dụng và
các thủ tục có liên quan đến các khoản vay(thẩm quyền về điều hành quản lý , giám sát
các hoạt động cho vay ). Bên cạnh đó tiến hành kiểm tra định kỳ, báo cáo các trường
hợp ngoại lệ , những vi phạm chính sách, thủ tục , kiểm soát kế toán và các hoạt động
có liên quan đến cho vay.
Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng là một yếu tố không thể xem nhẹ, để có
thể quản lý và theo dõi hiệu quả hoạt động tín dụng song song với việc nâng cao chất
lượng các công tác trên cần phải chú ý tới các phương tiện cần thiết phục vụ cho quá
trình quản lý hoạt động tín dụng. Trang bị đầy đủ trang thiết bị tiên tiến phù hợp với
khả năng tài chính và phạm vi hoạt động của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của
công nghệ ngân hàng những trang thiết bị cho hoạt động của nó đòi hỏi ngày càng hiện
đại.
8. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
a. với sự phát triển kinh tế -xã hội
Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá,tín dụng đã có những đóng góp đáng kể trong việc
thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để thúc đẩy tiến trình phát triển của xã hội.
Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng , với một khối
lượng tiền như cũ , có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn tạo điều kiện tiết kiệm
tiền trong lưu thông,củng cố sức mua của đồng tiền ,qua đó ngân hàng thực hiện tốt
hơn chức năng tạo tiền hay tạo ra phương tiện thanh toán trong lưu thông làm tốt hơn
vai trò trung tâm thanh toán
Chất lượng tín dụng làm cho ngân hàng thực hiện tốt hơn chức năng trung gian tín
dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư,tín dụng góp phần
điều hoà vốn trong nền kinh tế. Tăng cường tín dụng sẽ giảm thiểu lượng tiền thừa
trong lưu thông. Điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền
kinh tế mà còn tạo điều kiện mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt ,từ đó
tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội góp phần điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ.
Tín dụng là công cụ thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế
theo từng nghành ,từng lĩnh vực. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần tăng
hiệu quả sản xuất xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động.
b.Với sự tồn tại và phát triển của Ngân HàngThương Mại
Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương
mại do đó tạo thêm vốn do việc tăng thêm vòng quay vốn tín dụng và thu hút được
nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm , dịch vụ tạo ra hình ảnh tốt về biểu
tượng và uy tín của ngân hàng và sự trung thành của khách hàng. Chất lượng tín dụng
tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm , dịch vụ do giảm được , giảm chi phí nghiệp
vụ,quản lý.
Chất lượng tín dụng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng , tạo thế mạnh cho
ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. Thực tế cho thấy ngân hàng chỉ tồn tại và phát
triển khi hoạt động có hiệu quả, tức là thu được lợi nhuận từ các dịch vụ của mình. Mà
trong các dịch vụ của ngân hàng cung cấp cho khách hàng thì quan trọng nhất là hoạt
động tín dụng ,do đó chất lượng tín dụng có liên quan hệ mật thiết và cực kỳ quan
trọng tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng thương mại là một doanh
nghiệp đặc biệt hoạt động trên lĩnh vực tài chính và tiền tệ nhưng mục tiêu của nó
cũng không khác các doanh nghiệp khác đó là cũng bỏ vốn ra kinh doanh để thu được
lợi nhuận do dó việc nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu nhất là trong điều
kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt không khoan nhượng hiện nay.
iii. Thực trạng hoạt động tín dụng
1. Trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986)
Ngày 6 tháng 5 năm 1951 chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số15/SL thành lập ngân
hàng quốc gia Việt Nam. Kể từ ngày đó hệ thống ngân hàng đã từng bước lớn lên cùng
với đất nước qua các giai đoạn của sự phát triển.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống ngân hàng một cấp. Ngân hàng nhà nước
vừa đóng vai trò phát hành tiền, quản lý lưu thông tiền tệ, vùa đóng chức năng của một
ngân hàng chuyên doanh đó là hoạt động nhận tiền gửi của nhân dân và cho vay đối
với nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng được xác lập theo địa giới hành chính, mỗi tỉnh
có một chi nhánh ngân hàng trung ương tỉnh, mỗi huyện có một chi nhánh ngân hàng
trung ương huyện. Hoạt động tín dụng được sử dụng làm công cụ có hiệu lực thực hiện
nhiệm vụ kinh tế ,chính trị của Đảng và nhà nước trong từng thời kỳ cách mạng. Vốn
tín dụng ngân hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng, duy trì củng
cố và phát triển các tổ chức kinh tế XHCN. Trong quá trình phát triển ,hoạt động tín
dụng không ngừng được cải tiến cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm từng bước
nâng cao hiệu quả vốn tín dụng. Tuy vậy do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân, việc
quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung thống nhất tình hình đất nước có chiến
tranh, hạn chế về trình độ cán bộ... nên chất lượng tín dụng có những hạn chế nhất
định.
Đầu tư dựa trên cơ sở chỉ đạo của chính phủ, chủ yếu cho vay quốc doanh, không quan
tâm đến các thành phần kinh tế khác; tín dụng mang tính bao cấp cho vay không quan
tâm đến hiệu quả , chỉ thực hiện theo kế hoạch, mệnh lệnh, không quan tâm đến thị
trường cũng như các quy luật kinh tế khách quan nên hiệu quả thấp, chế độ hạch toán
kinh tế chỉ là hình thức.
Tỷ Lệ (%) vốn td tham gia cấu thành địng mức vốn lưu động của doanh nghiệp
Đơn vị %
Các qđ
Nghành
QĐ 54/ttg ngày
19/12/1959
QĐ 32/cp ngày 11/2/1977
NSNN
cấp
NH cho vay NSNN cấp NH cho vay
XN công nhiệp,GTVT
XN nông nghiệp
XN thương nghiệp
XN dịch vụ
70
70
30
30
30
30
70
70
50
50
30
10
50
50
70
90
Tín dụng được tập trung chủ yếu cho kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể .
Trong tín dụng ngắn hạn, tổng dư nợ không ngừng tăng thêm, dư nợ đến cuối năm
1985 đã tăng 43 lần so với cuối năm 1980. Tốc độ tăng bình quân hàng năm 150,3%.
Sự bất cập trong hệ thống ngân hàng là nguyên nhân gây ra hiện tượng ngân hàng nhà
nước vừa là người phát hành vừa là người cho vay; vừa quản lý vừa kinh doanh. Hoạt
động tín dụng chỉ coi trọng tín dụng ngắn hạn coi nhẹ tín dụng trung hạn và dài hạn,
bao cấp vốn tín dụng thay cấp vốn ngân sách cho các đơn vị kinh tế. Lấy tiền phát
hành làm nguồn vốn, lấy vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn và cho vay xây dựng cơ
bản. Coi nhẹ công cụ lãi suất trong điều hoà cung cầu vốn điều chỉnh tiền tệ và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn. Lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay làm cho các doanh
nghiệp tìm mọi biện pháp để vay vốn ngân hàng với lãi suất thấp, sử dụng tiền vay
không đúng mục đích,không hiệu quả ,có trường hợp dùng tiền vay để gửi tiết kiệm
hay cho vay lại. Do tổ chức chồng chéo, đội ngũ cán bộ đông về số lượng nhưng trìng
độ không đồng đều, quản lý theo kiểu hành chính mệnh lệnh nên hiệu suất công tác
thấp.
Nguyên nhân của tình hình trên là do thời gian dài không thừa nhận thị trườngvà chịu
ảnh hưởng nặng nề của tính bao cấp trong hoạt động tín dụng dẫn đến sự ỷ lại vào nhà
nước ,các đơn vị sử dụng vốn lãng phí thất thoát không thu hồi được nợ, làm thiệt hại
cho nhà nước. Chất lượng tín dụng thời kì này mang tính bề nổi.
2. Giai đoạn 1986 đến 1990
Trong thời kỳ này nhận định được hạn chế của thời kỳ bao cấp , khi cả nước bước vào
thời kỳ đổi mới chất lượng tín dụng cũng được cải thiện đáng kể. Tín dụng thời kỳ này
đã bước đầu chú ý đến hiệu quả và góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế trong
các xí nghiệp quốc doanh. Tín dụng tăng nhanh chủ yếu là tín dụng ngắn hạn cho vay
vốn lưu động (chiếm 90 đến 95% tổng số dư nợ cho vay nền kinh tế ). Tín dụng vốn cố
định bị hạn chế. Điều đáng chú ý là việc cải thiện cho vay với doanh nghiệp quốc
doanh. Tín dụng không còn tham gia theo phần định mức vốn lưu động mà chỉ nhằm
bổ xung nhu cầu vốn cần thiết vượt quá vốn tự có của doanh nghiệp. Điều đó dã phát
huy chức năng đòn bẩy của tín dụng chống bao cấp thu hẹp dần phạm vi cấp phát của
ngân sách nhà nước. Bằng việc cho vay trong hạn mức tín dụng và cho vay ngoài hạn
mức tín dụng đã bước đầu gắn liền với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tuy
nhiên tín dụng vẫn bị động và chưa có ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế tín dụng
cho ngân sách ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Tín dụng chưa theo kịp sự phát triển của
sản xuất xã hội theo đường lối đổi mới của Đảng sản xuất thời kỳ này bung ra mạnh ,
các ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu vốn đã làm cho có sự nảy sinh gần như tự
phát của nhiều tổ chức tín dụng đứng ra huy động với lãi suất hấp dẫn và cho vay tràn
lan. Do lãi suất thị truờng không có sự quản lý và điều tiết các quy chế chưa được ban
hành kịp thời đã làm xuất hiện mộy số tổ chức tín dụng thiếu lành mạnh chạy theo mục
đích kiếm lời lừa đảo. Tính đến 20/11/1990 chỉ còn có 18 đơn vị hoạt động bình
thường trên 100 đơn vị có khó khăn , số còn lại mất khả năng chi trả trầm trọng hoặc
vỡ nợ.
Hoạt động tín dụng chưa thực hiện được cơ chế kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh
tế thể hiện lãi âm lãi suất cho vay <lãi suất tiền gửi< tốc độ lạm phát (trong thời kỳ
1987-1990 lãi suất tiền gửi bình quân là 72% cho vay bình quân là 51,6%, mức độ lạm
phát bình quân là 183,8%), nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên do đây là giai đoạn
chuyển tiếp từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường nên cơ chế quản lý
mới chưa hoàn chỉnh chưa đủ mạnh để bứt khỏi cơ chế cũ. Mọi hoạt động tín dụng còn
mang nặng ảnh hưởng của cơ chế bao cấp, tuy vậy chất lượng tín dụng bắt đầu tiếp
cậnvới thị trường , đáp ứng nhu cầu vốn theo tín hiệu thị trường góp phần chống bao
cấp qua tín dụng tăng tính sáng tạo chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy
vậy tín dụng còn bị động chưa có hiệu quả kinh tế chưa thực sự là đòn bẩy kinh tế.
Nhìn chung đây là bước thay đổi lớnđánh dấu bước chuyển biến căn bản làm tiền đề
cho hoạt động tín dụng chuyển hẳn sang kinh doanh theo cơ chế thị trường.
3. Giai đoạn 1990 đến nay
a. Tích cực
Đặc điểm nổi bật nhất đánh dấu cho thời kỳ này là Nghị định 53/HĐBT về việc thành
lập hệ thống ngân hàng hai cấp thể hiện qua hai pháp lệnh:pháp lệnh về Ngân hàng nhà
nước và pháp lệnh về Ngân hàng ,hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính có hiệu lực
từ tháng 10/1990 đã tạo nhân tố mới cho nền kinh tế nhưng đã đem lại những hình
thức và nội dung mới trong lĩnh vực hoạt động chu chuyển vốn. Với sự thay đổi này
của hoạt động tín dụng đã góp phần khắc phục tình trạng rối loạn và lạm phát trầm
trọng kéo dài,khắc phục một bước tình trạng doanh nghiệp quốc doanh ỷ vào vốn bao
cấp của ngân sách nhà nước,với phương châm đi vay để cho vay các ngân hàng thương
mại đã tích cực huy động vốn với nhiều hình thức phong phú thích hợp như : Phát
hành kỳ phiếu ,trái phiếu ,đa dạng hoá các loại tiền gửi tiết kiệm nên đã tăng trưởng
được nguồn vốn để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế ,nguồn vốn huy động
vào cuối năm 1995 tăng gần 7 lần so với năm 1990. Tỷ trọng huy động vốn của các
ngân hàng thương mại quốc doanh so với tổng khối lượng hoạt động của hệ thống
ngân hàng trong toàn quốc tuy giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số
nguồn vốn huy động. Điều đó chứng tỏ các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn
chiếm ưu thế trong cạnh tranh và đảm bảo lòng tin với người gửi tiền.
Cơ cấu cho vay thay đổi theo hướng của nền kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế
quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo trên lĩnh vực hoạt động tiền tệ tín dụng và là công
cụ trực tiếp để thực hiện các chủ trương đường nối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế tăng nhanh, tính đến cuối năm 1995 tổng dư nợ
đối với nền kinh tế tăng gần bảy lần so với năm 1990. Tỷ trọng cho vay nền kinh tế
quốc doanh tăng dần từ 10% năm 1991 lên 42% năm 1995 trong khi vẫn đảm bảo có
chọn lọc đápứng vốn để duy trì những doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả.
Thông qua chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo xu hướng tăng dần tỷ trọng cho vay trung
,dài hạn tù 15% năm 1991 đến 31% năm 1995 trong đó chủ yếu là cho vay trung và dài
hạn của các ngân hàng thương mại quốc doanh (chiếm trên 90%tổng dư nợ trong toàn
hệ thống ngân hàng )đã chứng tỏ vai trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại quốc
doanh đối với nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng ngân hàng được đổi mới, đã chuyển hướng thực sự theo cơ chế thị
trường , phương thức hoạt động kinh doanh đa năng , tác phong lề nối đổi mới , lấy
chất lượng làm mục tiêu chính cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Các điều
kiện vay vốn và phương thức đầu tư vôns luôn được cải tiến. Hiệu quả sử dụng vốn
cao , hầu hết các món vay vùa qua đều được sử dụng đúng mục đích, doanh nghiệp
làm ăn có lãi trả được lãi cho ngân hàng. Dư nợ tín dụng tăng trưởng liên tục có hiệu
quả. Cơ chế lãi suất linh hoạt trong khuôn khổ mức lãi suất do ngân hàng nhà nước qui
định , chính sách khách hàng bám sát tín hiệu thị trườngđẫ thu hút được nhiều khách
hàng , tạo động lực mạnh thúc đẩy kinh doanh ngày càng phát triển
Tín dụng góp phần thực hiện các chính sách xã hội tập trung vốn đầu tư vào các
trương trình dự án lớn như : mở rộng cho vay hộ nông dân và hộ cá thể. Cho vay sinh
viên các trường đại học cao đẳng, cho vay với hộ nghèo trên toàn bộ các tỉnh trên ba
miền của đất nước. Ngoài ra còn thực hiện nhiều hình thức tín dụng tài trợ khác từ các
nguồn vốn tài trợ uỷ thác
như các chương trình tín dụng Việt Đức cho vay người nghèo từ Đức trở về...
Việc thực hiện đa dạng hoá các loại hình tín dụng (tài trợ nhập khẩu và xuất khẩu trực
tiếp cho vay phát triển kinh tế biển tín dụng hỗ trợ sản xuất kinh doanh ...)để đáp ứng
nhu cầu vốn của thị trường trên cơ sở phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng. Lãi suất
chuyể dần từ lãi suất âm sang lãi suất dương tiến dần đến lãi suất thị trường. Sự tiến bộ
trong chính sách tín dụng chứng tỏ khả năng thích nghi của các ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế thị trường. Các ngân hàng đã cố gắng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
tăng vòng quay tiền tệ , giảm nợ quá hạn lãi ngày càng cao góp phần tăng trưởng kinh
tế hạn chế lạm phát.
Tuy nhiên trong bước đầ chuyển sang kinh tế thị trườngbên cạnh những thành tựu đã
đạt hoạt động tín dụng còn có những hạn chế nhất định đòi hỏi các ngân hàng thương
mại cần phải tiếp tục xem xét để cải tiến không ngừng chất lượng tín dụng
b. Những tồn tại
Nhìn chung nợ quá hạn đã giảm nhiều so với trước đây nhưng vẫn còn cao so với
thông lệ quốc tế. Tỷ lệ nợ quá hạn từ 16% năm 1990 giảm xuống 12,5% năm 1992 ;
9,6% năm 1993 ;4,6% năm 1994; 3,5% năm 1995; 1,87% năm 1996 ;1,72% năm 1997
tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn cao, trong số nợ quá hạn chủ yếu là nợ có khả năng thu hồi
do các ngân hàng còn nắm giữ tài sản thế chấp, có thể thanh lý để giảm tỷ lệ nợ quá
hạn .
Việc chấp hành các điều luật và thể lệ tín dụng ngắn hạn và trung hạn chưa nghiêm túc
còn vi phạm nguyên tắc đối tuợng cho vay. Một biểu hiện của hiện tượng này là cho
vay trong trường hợp vốn tự có của doanh nghiệp quá nhỏ, chênh lệch giữa vốn tự có
của doanh nghiệp và vốn vay tới hàng chục thậm chí hàng trăm lần nhất là các khoản
vay cho xây dựng cơ bản nhiều trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ , có nợ quá
hạn vẫn được vay. Cho vay thiếu vật tư đảm bảo , việc thế chấp tài sản còn nhiều sơ
hở. Hồ sơ thế chấp vay vốn còn nhiều trường hợp chỉ mang tính hình thức, chưa đảm
bảo cơ sở pháp lý. Việc lưu trữ tài sản thế chấp tại ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn
do bị hạn chế bởi thiếu kho đảm bảo. Cho vay sai chức năng không đúng đối tượng ví
dụ như công ty Đất Việt tại thành phố Hồ Chí Minh không có chức năng kinh doanh
nghành may mặc nhưng ngân hàng ngoại thương Hồ Chí Minh vẫn cho vay 2 triêụ
USD để mua lại toàn bộ phân xưởng may mặc của công ty Minh Phụngdẫn tới không
trả được nợ theo hợp đồng.
Hoạt động tín dụng còn chưa phản ánh đúng thực chất của các khoản nợ do việc xác
định thời hạn cho vay, gia hạn nợ,chuyển nợ quá hạn , cho vay mới trả nợ cũ nhiều nơi
còn tuỳ tiện. Một hiện tượng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đó là nhiều ngân
hàng thương mại cho vay khi không có đầy đủ thông tin về khách hàng, cán bộ tín
dụng chưa nắm chắc tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có
trường hợp nhiều ngân hàng thương mại cùng cho vay một doanh nghiệp dẫn đến nợ
khó đòi hoặc bị lừa đảo. Việc một số ngân hàng thương mại tập trung cho vay một số
khách hàng quá lớn trên 10% vốn tự có của ngân hàng dẫn đến rủi ro lớn về khả năng
trả nợ như những vụ đã đi vào dư luận của cả nước như TAMEXCO,dệt Nam Định...
Một hạn chế lớn đó là việc sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn huy động được. Do lãi
suất cho vay hạ nên nhiều khách hàng trả nợ trước hạn để vay lại với lãi suất hạ hơn.
Trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất thì ngân hàng lại không cho vay ra
được số vốn đã huy động. Sở dĩ có tình trạng trên là do ngân hàng chưa thay đổi kịp
với sự thay đổi của cơ chế ,ngân hàng không tìm được khách hàng đủ tiêu chuẩn để
cho vay hoặc mức cho vay của một số ngân hàng đã xấp xỉ hạn mức tín dụng nên
không được sử dụng thêm nguồn vốn đã huy động. Tuy nhiên mức cho vay bình quân
của các ngân hàng mới đạt 60-65% số vốn huy động. Đặc biệt vốn cho vay hộ nghèo
với lãi suất thấp không giải ngân được trong khi các đối tượng này đang rất cần vốn để
sản xuất. Tình hình trên cho thấy tín dụng chưa nhạy bén với cơ chế thị trường , chưa
dự tính được sự thay đổi của môi trường kinh doanh , cũng như chưa có định hướng
lâu dài với nhưng phương án dự phòng rủi ro trong khi cơ chế lại chưa ổn định dẫn tới
tín dụng chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng.
4. Một số nguyên nhân
Một trong số nguyên nhân chủ quan là do một số ngân hàng và cán bộ ngân hàng
buông lỏng quản lý , thiếu tinh thần trách nhiệm đã không kiểm tra chặt chẽ trước
trong và sau khi vay nên các đơn vị đã sử dụng sai mục đích nhưng cán bộ tín dụng
không phát hiện và ngăn chặn kịp thời dẫn đến đơn vị không trả được nợ đúng hạn.
Trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng tuy đã được quan tâm đào tạo song vẫn còn nhiều
bất cập chưa đáp ứng nhu cầu của cơ chế thị trường, chưa đủ khả năng, trình độ ,kinh
nghiệm đánh giá đúng tính hiệu quả và mức độ rủi ro của dự án, vốn cho vay nên đã
không ngăn ngừa có hiệu quả rủi ro ngay từ khi xét duyệt cho vay. Một số ít cán bộ
còn cố ý làm sai không chấp hành nghiêm chỉnh thể lệ làm phát sinh những hiện tượng
tiêu cực dãn đến bị lừa đảo, cho vay không thu hồi được nợ. Việc kiểm tra kiểm soát
các khoản tiền vay của khách hàng chủ yếu giao cho cán bộ tín dụng trực tiếp kiểm tra
thu hồi nợ , chưa có sự phối hợp giữa các bộ phận. Mặt khác trong điều kiện địa bàn
hoạt động rộng gây khó khăn trong việc theo dõi khách hàng.
Các phương tiện máy móc phục vụ nghiệp vụ và thông tin ở nhiều chi nhánh ngân
hàng còn yếu kém , chất lượng thông tin cung cấp còn chưa cao đây cũng là một trong
các nguyên nhân làm cho phân tích , nhận định khách hàng kém chính xác, các quyết
định tín dụng kém hiệu lực.
Vai trò chủ động kiểm tra , kiểm soát chưa thường xuyên , sâu sát ,nghiêm túc là một
yếu tố trựe tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi
ro chưa thực sự phát huy hiệu quả. Việc phối hợp giữa các ngân hàng thương mại
trong việc cung cấp thông tin về khách hàng và việc kiểm tra cũng còn nhiều hạn chế.
Tuy đã bắt đầu bắt nhịp với kinh tế thị trường nhưng các chính sách và cơ chế quản lý
vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh , đổi mới và hoàn thiện.Mặt khác
quá trình thích ứng của các doanh nghiệp với cơ chế thị trường còn chậm ,việc điều
chỉnh và chuyển hướng phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với kinh tế thị
trường và chính sách kinh tế vĩ mô. Điều đó dẫn đến sự khó khăn trong việc đảm bảo
chất lượng tín dụng. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa đầy đủ , chưa
đồng bộ. Một số văn bản pháp lý có liên quan đến vấn đề thế chấp vay vốn ngân hàng
còn chưa đầy đủ và thiếu văn bản hướng dẫn nên quá trình thực hiện còn gặp nhiều
khó khăn.hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết
các tranh chấp, thanh lý tài sản thế chấp, bảo lãnh... Chưa có các tiêu chuẩn quản lý tín
dụng được quy định bằng văn bản có tính thống nhất đối với các ngân hàng thương
mại, các nguyên tắc tín dụng chưa được chỉnh sửa cho phù hợp với thực tế đã gây
không ít khó khăn trong quản lý hoạt động tín dụng.
vi. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
1. Đánh giá đúng thực tế khách hàng
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường song song với việc mở rộng phạm vi và qui mô
tín dụng đối tuợng khách hàng cũng ngày càng phong phú, theo đó cũng làm tăng khả
năng rủi ro đe doạ sự tồn tại của ngân hàng vì vậy việc đánh giá khách hàng có sự
quan trọng đặc biệt. Chất lượng đánh giá khách hàng thể hiện ở khả năng phân tích
nhận định tình hình khách hàng trước trong và sau khi cho vay điều này có quan hệ
trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Tiến hành đánh giá nhu cầu vay vốn của khách hàng
xác định khách hàng là ai mục dích của khoản vay , khả năng thu hồi vốn. Người vay
phải có tư cách tốt(là công dân tốt hay doanh nghiệp có uy tín trên thị trường)có đủ tư
cách pháp nhân và năng lực pháp lý ,người vay có tình hình sản suất kinh doanh tốt có
khả năng phát triển. Người vay phải có khả năng trả món nợ đúng thời hạn. Tình hình
vốn của doanh nghiệp cũng là một yếu tố giúp ngân hàng phân tích được rủi ro, người
vay phải có tình hình tài chính vững chắc và không ngừng được phát triển. Điều đó
được thể hiện ở tài sản của doanh nghiệp không ngừng tăng lên một cách hợp pháp.
Thế chấp thể hiện mức độ an toàn của vốn tín dụng do đó nó cần được quan tâm đúng
mức khi đánh giá khách hàng. Khả năng trả nợ của khách hàng liên quan trực tiếp đến
tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ,chỉ tiêu đó thể hiện ở tỷ lệ lãi so với
tổng số vốn:
Lãi ròng sau thuế
Tỷ lệ lãi =
Vốn tự có
Tỷ lệ này phản ánh mức sinh lời trên một đồng vốn tự có là cơ sở đánh giá khả năng
tồn tại của khách hàng. Ngoài những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân hàng pải quan
tâm đến tình hình nợ của doanh nghiệp có bao nhiêu ngân hàng đã cung cấp tín dụng
cho doanh nghiệp ,có nợ quá hạn không, khả năng thu hồi các khoản nợ này.
2. Thiết lập và duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng
Khách hàng liên quan trực tiếp tới chất lượng tín dụng , họ vừa là người cho vay ,vừa
là người đi vay ,thiết lập mối quan hệ lâu dài với khách hàng giúp ngân hàng có điều
kiện nắm vững các thông tin liên quan tới khách hàng để có đối sách thích hợp để
đứng vững trong cạnh tranh.
Ngày nay vai trò của ngân hàng trong việc trực tiếp và chủ động tìm hiểu khách hàng
đã trở nên phổ biến cùng với hiệu quả của nó đem lại với chất lượng hoạt động của
ngân hàng,do đó tầm quan trọng của Marketing ngân hàng đã thể hiện rõ.mỗi ngân
hàng cần thiết lập bộ phận tiếp thị để nghiên cứu thị trường xem xét đánh giá các mối
quan hệ với khách hàng tìm hiểu ,thăm dò khách hàng về đặc điểm ,nhu cầu khách
hàng cũng như các động cơ của khách hàng. Định kỳ phân tích đánh giá mối quan hệ
với khách hàng để tìm ra những khúc mắc và giải quyết kịp thời. Không ngừng nâng
cao và củng cố uy tín của ngân hàng trên thị trường thông qua việc cải thiện các thể
chế cho vay .
3. Tăng cường quản lý nợ ,giải quyết nợ quá hạn
Tiến hành đánh giá phân loại các khoản nợ để quản lý rủi ro tín dụng cho các khoản nợ
nói riêng cũng như toàn bộ tài sản nói chung, mức độ rủi ro của các khoản nợ sẽ được
điều chỉnh theo quá trình diễn biến của các khoản nợ. Những căn cứ để phân loại nợ là
dựa vào khả năng tài chính ,giá trị của tài sản thế chấp hoặc khả năng của người bảo
lãnh. Phân loại theo thời gian quá hạn của các khoản nợ. Việc phân loại đánh giá nợ sẽ
phản ánh tình hình hoạt động của ngân hàng giúp cho việc kiểm tra kiểm soát dễ dàng
thuận tiện ,là căn cứ để đánh giá rủi ro, xây dựng quỹ dự phòng rủi ro ,định lượng rủi
ro để có biện pháp thích hợp để giảm thiểu rủi ro .
Có biện pháp rà soát lại toàn bộ khách hàng cũng như các khoản nợ đặc biệt là nợ quá
hạn ,kiểm tra kiểm soát quá trình cho vay để không phát sinh thêm nợ quá hạn mới.
Chú trọng các biện pháp giảm tỷ lệ nợ quá hạn như tăng cường thông tin tín dụng để
kịp thời phát hiện nguyên nhân xử lý. Vấn đề giải quyết nợ quá hạn là hết sức bức
bách đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh do tồn đọng các khoản nợ của
các doanh nghiệp nhà nước từ thời kỳ bao cấp nó ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của
ngân hàng. Một số biện pháp cụ thể như dùng áp lực của cơ quan bảo vệ pháp luật chủ
yếu là cơ quan cảnh sát kinh tế ép các đối tượng có hành vi lừa đảo phải thu xếp nguồn
trả nợ , khởi kiện các khoản nợ lừa đảo .
4. Xây dựng và sử dụng hợp quỹ dự phòng rủi ro
Rủi ro là một tất yếu trong kinh doanh nhưng ta phải có cơ chế chủ động để chống lại
nó. Kinh doanh tiền tệ có mức độ rủi ro cao gấp đôi so với các loại hình kinh doanh
khác bởi vì nó còn phụ thuộc vào khả năng kinh doanh của khách hàng. Quỹ dự phòng
tổn thất tín dụng được hình thành dựa trên cơ sở dự kiến một khoản rủi ro trích trước
vào chi phí của ngân hàng để thực hiện các khoản tín dụng. Tỷ lệ trích lập rủi ro căn
cứ vào số liệu của những năm trước, các thông tin như quy định của nhà nước, chất
lượng quản lý ,khả năng thu nợ ... và đòi hỏi phải được điều chỉnh thường xuyên. Quỹ
dự phòng rủi ro có tầm quan trọng đối với việc bù đắp rủi ro của ngân hàng khi ngân
hàng làm ăn thua lỗ do những nguyên nhân khách quan hay được dùng để bù đắp
khoản rủi ro do khách hàng gây ra cho ngân hàng. Việc sử dụng đúng mục đích của
quỹ này cần được các nhà quản trị ngân hàng quan tâm một cách đúng đắn.
5. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng để giảm thiểu rủi ro
Việc đa dạng hoá các loại hình tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng giảm thiểu được rủi ro,
tạo uy tín với khách hàng ,có cơ sở để mở rộng tín dụng. Nguyên tắc của vấn đề này là
khi đa dạng hoá các hình thức tín dụng sẽ giúp sử dụng tối đa nguồn vốn huy động
được các khoản tín dụng sẽ phân tán cho các khách hàng không tập trung vào một
khách hàng quá lớn để khi xảy ra rủi ro ,khả năng thu hồi vốn của ngân hàng sẽ hiệu
quả hơn do mức độ rủi ro đã dược phân tán. Do đòi hỏi của thị trường các hình thức tín
dụng không chỉ bó hẹp trong các nghiệp vụ truyền thống mà phải mở rộng các hình
thức nghiệp vụ khác như: tín dụng thue mua , nghiệp vụ thị trừng hối đoái , cầm cố
nhất là khi Việt Nam đã có thị trường chứng khoán nên các nghiệp vụ của thị trường
chứng khoán cần được thiết lập và mở rộng như ủy thác đầu tư , môi giới chứng
khoán. Tuy nhiên các phương án đưa ra phải có tính thực tiễn và có hiệu quả. Ngân
hàng nên tận dụng lợi thế của mình trong lĩnh vực tư vấn thông tin đối với khách hàng
mà điển hình là lập và thẩm định dự án đầu tư. Để thực hiện được những dịch vụ loại
này đòi hỏi ngân hàng phải thực sự là nơi sản xuất thông tin và khách hàng phải thực
sự thấy được điều đó ngoài ra ngân hàng cần có đội ngũ cán bộ có năng lực và trình độ
để làm tốt công việc này.
6. Hoàn thiện bộ máy tổ chức , công nhân viên
Cơ cấu tổ chức có hiệu quả là phải đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận
chức năng trong nội bộ của ngân hàng thương mại và điều quan trọng là phải xác định
rõ phạm vi quyền hạn trách nhiệm của từng bộ phận. Cần phải coi quản lý chất lượng
tín dụng như bất cứ một chức năng quản lý chủ yếu nào. Cán bộ cấp cao có trách
nhiệm hướng dẫn cấp dưới về những phương pháp và thủ tục phù hợp, giám sát những
nguyên nhân có thể xảy ra và có biện pháp xử lý kịp thời. Đối với nhân viên cấp dưới
không thể dạt được sự tiến bộ thực sự về chất lượng tín dụng nếu không có sự hợp tác
và cam kết đầy đủ của toàn bộ cán bộ công nhân viên. Cần bồi dưỡng tinh thần trách
nhiệm cho nhân viên bên cạnh đó có những biện pháp khen thưởng hoặc kỷ luật
nghiêm minh, giúp đỡ các nhân viên tretrong công tác chuyên môn ,là tấm gương tốt
cho họ noi theo.
7. Nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất của cán bộ công nhân viên
Nâng cao trình độ chuyên môn , nghiệp vụ khắc pjục tình trạng yếu kém về kỹ thuật
nghiệp vụ của cán bộ tín dụng là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Để thực hiện giải
pháp này các ngân hàng cần rà soát lại đội ngũ cán bộ để có thể đào tạo và bổ xung kịp
thời những mặt còn yếu ,còn thiếu. Tuỳ theo điều kiện của ngân hàng để lựa chọn hình
thức đào tạo hợp lý :thường xuyên hay nâng cao , tập trung hay tại chức. Bên cạnh đó
chú trọng công tác giáo dục chính trị ,tư tưởng của tín dụng để chông rủi ro do chính
nhân viên ngân hàng gây ra. Việc đào tạo và đào tạo lại cần hướng tới một mục đích
cụ thể tránh đào tạo tràn nan, điều đó liên quan đến vấn đề sử dụng hợp lý nhân viên
để đạt hiệu quả cao nhất. Trên cơ sở yêu cầu trên ngân hàng có thể quy định tiêu chuẩn
cán bộ phù hợp với đặc điểm hoạt động của mình.
8. Tăng cường kiểm tra kiểm soát khách hàng và nội bộ.
Tiến hành kiểm tra định kỳ dựa trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, kiểm tra
thường xuyên ,đột xuất tại cơ sở của khách hàng. Để đảm bảo tính khách quan phải
tiến hành kiểm tra thêm từ các thông tin từ các nguồn khác. Nắm vững sự biến đổi
trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nắm vững chu kỳ
sản phẩm để có kế hoạch giúp doanh nghiệp về vốn và thu nợ kịp thời. Ngoài ra cũng
chú ý tới những thông tin khác có liên quan để dự báo khả năng trả nợ của doanh
nghiệp.
Đối với ngân hàng phải xem xét tình hình tuân thủ chính sách , thủ tục cho vay , những
nhược điểm của quy trình tín dụng, năng lực trình độ cán bộ trong thực hiện nghiệp vụ
tín dụng kịp thời phát hiện những sai phạm để chấn chỉnh kịp thời chống tiêu cực ngay
trong cán bộ làm kế toán, tín dụng. Yêu cầu của việc giám sát là phải được tiến hành
thường xuyên, có hệ thống theo nội dung đã quy định trong chế độ ,thể lệ cho vay
,theo chế độ thường xuyên hay đột xuất. Kiện toàn bộ máy kiểm tra kiểm soát nội bộ
và khách hàng đảm bảo sự trong sạch.
9. Thế chấp vay vốn và xử lý tài sản thế chấp.
Nguyên tắc cho vay có vật tư bảo đảm là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tín dụng,
nó có liên quan trực tiếp đến chất lượng tín dụng và hiệu quả của ngân hàng. Nguyên
tắc đó được thể hiện trong thực tế trong việc thế chấp của khách hàng để vay vốn.
Dưới góc độ ngân hàng khi cho vay vốn đòi hỏi các doanh nghiệp phải có thế chấp
theo mức độ tín nhiệm. Mức độ tín nhiệm được thể hiện bằng các chỉ tiêu tài chính , uy
tín trên thương trường... Hiện nay các ngân hàng thương mại áp dụng các nguyên tắc
thế chấp còn chưa đầy đủ hoặc thiếu linh hoạt dẫn đến rủi ro tín dụng mất vốn hoặc
tình trạng ứ đọng vốn do không cho vay được. Sự đa dạng hoá trong các loại hình thế
chấp, sự thông thoáng trong các quy định và việc áp dụng linh hoạt sẽ đem lại hiệu
quả trong hoạt động tín dụng. Đối với các doanh nghiệp mạnh ,nổi tiếng họ luôn luôn
coi trọng chữ tín vì mất uy tín trên thị trường là mất tất cả đối với họ chữ tín còn quý
hơn tài sản vì vậy các ngân hàng cần linh hoạt trong việc thế chấp trong việc cho vay
đối với họ để việc giải phóng các khoản tiền huy động được quay vòng vốn nhưng vẫn
đảm bảo hiệu quả. Một hình thức phổ biến trong hoạt động thế chấp đó là thế chấp
bằng tài sản cố định , tài sản cố định có thể là tài sản cố định hữu hình hoặc vô hình.
Một thực tế xảy ra đối với rất nhiều ngân hàng là do trình độ còn hạn chế hoặc do việc
thiếu trách nhiệm mà trong khi đánh giá giá trị tài sản thế chấp gây tổn thất cho ngân
hàng. Việc đánh giá giá trị tài sản thế chấp cần phải tiến hành thường xuyên, không chỉ
dánh giá giá trị hiện tại mà còn đánh giá giá trị tương lai tránh tình trạng khi khách
hàng vay vốn giá trị tài sản thế chấp được ngân hàng chấp thuận nhưng khi có rủi ro
xảy ra ngân hàng xử lý bằng cách phát mại hoặc sử dụng vào mục đích khác thì do
biến động của thị trường và các yếu tố khác mà tài sản thế chấp không còn giá trị như
trước và làm ngân hàng chịu thiệt thòi.
Việc xử lý các tài sản thế chấp khi không thu hồi được các khoản nợ là một yêu cầu
bức bách. Đối với các tài sản cầm cố thế chấp mà ngân hàng đã thu để gán nợ ,xiết nợ
hướng chủ yếu là phát mại để thu hồi vốn về phục vụ kinh doanh nhưng trong từng
điều kiện nhất định khi chưa phát mại được thì phải có giải pháp khai thác sử dụng để
tạo nguồn thu và thu hồi nợ dần. Trong việc khai thác sử dụng tài sản thế chấp của
ngân hàng có liên quan đến sự bất cập của các quy phạm và quy định của pháp luật đòi
hỏi phải có sự ban hành các quy định cụ thể phù hợp với vấn đề này.
10. Ap dụng chặt chẽ công cụ hạch toán kinh doanh để xác định hiệu quả chất
lượng tín dụng .
Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác ngân hàng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận
nhất là trong điều kiện hiện nay các doanh nghiệp đã tự chủ về mặt tài chính. Do đó
công cụ hạch toán kinh doanh càng thể hiện tầm quan trọng của mình,nó cho biết
chính xác tình hình hoạt động của ngân hàng ,mặt mạnh yếu ,khả năng mở rộng khả
năng kinh doanh và hiệu quả của ngân hàng. Cũng như trong các hoạt động khác của
ngân hàng hoạt động tín dụng cũng thể hiện tầm quan trọng của công cụ này. Bằng hệ
thống chỉ tiêu phù hợp ngân hàng quản lý một cách có hiệu quả tình hình tín dụng của
mình, hạch toán được chi phí huy động một cách chính xác từ đó có kế hoạch sử dụng
nó một cách hiệu quả hơn. Việc tiến hành các nghiệp vụ tín dụng,hoạch toán chi phí ,
lợi nhuận được lượng hoá là một thuận tiện lớn trong hoạt động quản lý. Tận dụng
được tác dụng của cộng cụ này cho ta thấy hoạt động thu nhỏ của ngân hàng, thực tế
cho thấy ngân hàng nào áp dụng có hiệu quả công cụ này kết hợp với các biện pháp
khác sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Những sơ suất trong nghiệp vụ của hoạt động tín dụng
có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng, nó ảnh hưởng đến phương thức hoạt
động của ngân hàng trong tương lai. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng của hoạt động
tín dụng cần được chú ý để nâng cao và tránh tình trạng các số liệu xa rời thực tế. Mọi
hoạt động cần phải được lượng hoá trên cơ sở chi phí và doanh thu từ đó xác định
được hiệu quả một cách chính xác. Việc phản ánh chính xác của hệ thống chỉ tiêu
không ngoại trừ những tiêu cực trong nội bộ đội ngũ cán bộ của ngân hàng điều đó cần
có sự phối hợp với các biện pháp có hiệu quả khác.
Một số chỉ tiêu cần quan tâm
Doanh số cho vay kỳ này so với kỳ trước
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ tổn thất = Tỷ lệ nợ quá hạn / Quỹ dự phòng tổn thất
Tỷ lệ cho vay thị trường = Cho vay thị trường/ Tổng tài sản có
Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số cho vay / Dư nợ bình quân
11. Một số giải pháp vĩ mô.
Bên cạnh các giải pháp của chính ngân hàng thương mại được áp dụng để nâng cao
chất lượng tín dụng cũng cần phải có những biện pháp vĩ mô của nhà nước cũng như
của ngân hàng trung ương để tạo một môi trường thực sự thuận lợi cho các ngân hàng
thương mại hoạt động một cách hiệu quả.
Một giải pháp cụ thể mà các ngân hàng thương mại mong muốn là việc hoàn thiện và
tạo lập môi trường pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng. Một trong những
nguyên nhân chính của những tồn tại hiện nay về chất lượng tín dụng là chưa có một
môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng. Ví dụ trong vấn đề thế chấp và cầm cố tài
sản chưa có quy định rõ những vấn đề về giấy chứng nhận về quyền sở hữu, thủ tục
chuyển giao quyền sở hữu khi giải quyết tài sản thế chấp , các vấn đề về sở hữu khi
tranh chấp ,thể chế trong quá trình kiện tụng và xét xử tịch thu tài sản thế chấp, những
điều chỉnh cơ bản về chính sách tài chính ,tiền tệ ...
Từng bước hoàn thiện chính sách tín dụng của nhà nước cho phù hợp với yêu cầu trình
độ phát triển của nền kinh tế để chỉ đạo hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương
mại. Trong phạm vi nghành ngân hàng nhà nước cần có các quy định cụ thể hơn
hướng dẫn thực hiện các quy định đã ban hành ,đồng thời có những quy chế kịp thời
cho những vấn đề phát sinh tránh ‘trống đánh xuôi kèn thổi ngược ‘. Việc sử dụng có
hiệu quả các công cụ quản lý tiền tệ tạo hướng và là căn cứ của nhiều hoạt động của
ngân hàng thương mại, do đó sự điều chỉnh kịp thời mang tính chất quan trọng. Những
công cụ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng cần điều chỉnh thường xuyên tuỳ
vào điều kiện thực tế là : chính sách dự trữ bắt buộc, lãi suất , hạn mức tín dụng ,chính
sách tỷ giá... Nó ảnh hưởng tới những phản ứng của ngân hàng và của chính khách
hàng. Yêu cầu này cần có sự phối hợp giữa nhiều cơ quan chức năng và là quá trình
lâu dài theo mục tiêu trước mắt và lâu dài.
V. Kết luận
Sau gần nửa thế kỷ hoạt động , ngành ngân hàng nước ta đã từng bước lớn lên cùng đất
nước qua các giai đoạn giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước , xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong cả nước và đặc biệt là giai đoạn triển khai công cuộc đổi mới dưói ánh
sáng đường lối đại hội VI, đại hội VII và đại hội VIII .
Chất lượng tín dụng luôn luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của hoạt động ngân hàng.
Hiện nay chất lượng tín dụng chưa cao , tỷ lệ nợ quá hạn có chiều hướng gia tăng. ở
một số nơi nợ quá hạn đang là vấn đề nổi cộm và nóng bỏng trong hoạt động tín dụng.
Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn có nhiều: do thiên tai lũ lụt , do thay đổi cơ chế
chính sách, do rủi ro trong kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn. Nhưng có điều
đáng quan tâm là không ít ngân hàng còn theo đuổi lợi nhuận phiến diện , cho phép
cấp dưới cho vay đảo nợ. Cơ chế khoán của một số ngân hàng còn nhiều sơ hở lại
thiếu kiểm tra an toàn vốn. Một số cán bộ vi phạm nghiêm trọng chế độ tín dụng ,
thậm chí cố ý làm sai , lợi dụng các sơ hở của cơ chế chính sách.
Yêu cầu nâng cao chất lượng tín dụng đã và đang là mối quan tâm lớn trong hoạt động
của ngân hàng trong lịch sử ,hiện tại và tương lai. Đó là trách nhiệm của chính đội ngũ
cán bộ của ngành ngân hàng và của toàn xã hội do tầm quan trọng của hoạt động ngân
hàng đố với sự phát triển của mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Bằng sự nỗ lực của
mình và sự hỗ trợ của các ngành có liên quan , ngân hàng thương mại đang dần nâng
cao chất lượng tín dụng và hướng đổi mới để hoàn thiện góp phjần quan trọng vào
công cuộc đổi mới của đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tài liệu tham khảo
Ngân hàng việt nam quá trình xây dựng và phát triển
NHNN-1996
Báo cáo thường niên của ngân hàng nhà nước
Năm 1999,2000
Tiền và hoạt động ngân hàng
Tác giả - Lê Vinh Danh
Ngân hàng thương mại
Tác giả - Lê Văn Tư
Tiền , hoạt động ngân hàng và thị trường tài chính
F. MisKin
Giáo trình lý thuyết tài chính và tiền tệ
ĐHKTQD
Tạp chí tài chính
số 5,7,8/1998;2,5,12/2000
Tạp chí ngân hàng
số 7,8,12/1999; 4,6,8/2000, số chuyên đề
Thời báo kinh tế việt nam
Tạp chí đầu tư
Tạp chí chứng khoán
Văn kiện đại hội VI,VII,VIII
Mục lục
I. Mở đầu
II. Một số khái luận cơ bản
1. Khái niệm tín dụng
2. Chức năng của tín dụng
3. Vai trò của tín dụng
4. Phân loại tín dụng
5. Nguyên tắc tín dụng
6. Chất lượng tín dụng
7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
8. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
III. Thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng
1. Trước năm 1986
2. Giai đoạn 1986-1990
3. Giai đoạn 1990- nay
4. Một số nguyên nhân
IV. Một số gải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
1. Đánh giá đúng thực tế khách hàng
2. Thiết lập và duy trì mối quan hệ với khách hàng
3. Tăng cường quản lý nợ , giải quyết nợ quá hạn
4. Xây dựng và sử dụng hợp lý quỹ dự phòng rủi ro
5. Đa dạng hoá các hình thức cho vay để giảm thiểu rủi ro
6. Hoàn thiện bộ máy tổ chức, công nhân viên
7. Nâng cao trình độ năng lực vàphẩm chất cán bộ công nhân viên
8. Tăng cường kiểm tra kiểm soát khách hàng và nội bộ
9. Tài sản thế chấp và sử lý tài sản thế chấp
10. Ap dụng chặt chẽ công cụ hạch toán kinh doanh
11. Một số giải pháp vĩ mô
V. Kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.pdf