Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế

Tóm lại, với năng lực cạnh tranh và qui mô sản xuất như hiện nay, để ngành công nghiệp giấy có thể tồn tại và phát triển đủ lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập, cùng với nỗ lực của chính mình, các doanh nghiệp ngành giấy vẫn đang rất cần được sự quan tâm đúng mức của Chính phủ, của xã hội bằng những cơ chế đặc thù riêng cho việc đầu tư phát triển. Chỉ có như vậy, ngành công nghiệp giấy mới hội đủ các điều kiện cần thiết để ổn định và phát triển, chủ động hội nhập vào khu vực,và thực sự trở thành ngành kinh tế chủ lực của công nghiệp Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

pdf83 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2424 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cực đổi mới thiết bị và hiện đại hóa công nghệ, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực có trình độ và tác phong làm việc hiện đại, kết hợp hài hòa giữa đầu tư xây dựng mới với đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở hiện có, phát triển vùng nguyên liệu, cân đối giữa tiêu dùng và sản xuất, xuất nhập khẩu, tăng sản lượng, phấn đấu đảm bảo chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa, góp phần tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ngành đã cụ thể hóa phương hướng hành động của mình bằng việc đưa ra những quan điểm ngành phải tập trung chú ý giải quyết trong chặng đường tới năm 2010, những quan điểm đó như sau: Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 58 - - Phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam phải đảm bảo tiếp cận trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới, có biện pháp ràng buộc đối tác nước ngoài chuyển giao công nghệ để chúng ta vươn lên chủ động sản xuất từng phần hoặc toàn bộ thiết bị sản xuất, hạn chế tối đa việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ để sản xuất giấy như trước đây. Đồng thời, ngành giấy kết hợp với việc tổ chức sản xuất trong nước một số bộ phận của dây chuyền, thiết bị lẻ và phụ kiện thay thế, nhằm tiết kiệm ngoại tệ; tạo nhanh các điều kiện cho công nghiệp cơ khí trong nước phát triển vươn lên. - Định hướng phát triển lâu dài của ngành công nghiệp giấy là tập trung vào các dự án quy mô lớn và vừa để đảm bảo sản xuất có hiệu quả, trong giai đoạn phát triển trước mắt có đầu tư các dự án quy mô nhỏ để tận dụng những thế mạnh tại chỗ như nguyên vật liệu, thị trường, nhân lực . . . nhất là các tỉnh miền núi, Tây Nguyên...; Ở một số địa phương, có thể nghiên cứu đầu tư xây dựng nhà máy chế biến nguyên liệu với quy mô nhỏ, sản phẩm không đòi hỏi chất lượng cao, phù hợp với năng lực quản lý, sử dụng lao động tại địa phương. - Về bố trí quy hoạch: Việc xây dựng các cơ sở sản xuất giấy sẽ được nghiên cứu, đánh giá rất kỹ về địa điểm, đặc điểm nguồn nguyên liệu, nhu cầu thị trường (tại chỗ và trên địa bàn cả nước), điều kiện hạ tầng và khả năng huy động vốn đầu tư để đảm bảo hiệu quả lâu dài. Việc bố trí quy họach phát triển nguồn nguyên liệu giấy phải phù hợp với quy họach chung của ngành nông nghiệp, gắn liền với quy hoạch giống cây trồng, đặc điểm từng vùng về điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, khí hậu), điều kiện xã hội và phải đi đôi với việc xác định mô hình hợp lý về hệ thống sản xuất và tổ chức quản lý các vùng nguyên liệu cũng như chính sách giá nguyên liệu và phương thức thu mua, cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. - Phát triển công nghiệp giấy, gồm cả vùng nguyên liệu, phải được thực hiện trong mối liên kết chặt chẽ với bảo vệ an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 59 - trường cảnh quan, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và góp phần vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. - Về huy động các nguồn vốn đầu tư: Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để khuyến khích mọi thành phần kinh tế và tranh thủ các nhà đầu tư nước ngoài tham gia phát triển ngành giấy. Tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài một cách hợp lý, đảm bảo vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Việc thực hiện phương châm này là tùy thuộc vào đặc điểm của từng dự án, từng địa phương, từng giai đoạn cụ thể để quyết định phương thức đầu tư thích hợp (trong nước tự đầu tư hoặc liên doanh với nước ngoài). Đẩy mạnh chủ chương xã hội hoá đối với ngành giấy; Nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối (khoảng 51%), số cổ phẩn còn lại sẽ áp dụng hình thức cổ phần hoá, huy động nguồn vốn trong xã hội. - Phát triển vùng nguyên liệu phục vụ ngành công nghiệp giấy có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện Chiến lược phát triển ngành giấy ở nước ta. Ngành giấy sẽ có biện pháp đầu tư sản xuất bột giấy nhằm tăng nhanh sản lượng bột giấy trong nước, phấn đấu đến năm 2005 không phải nhập bột giấy, lệ thuộc vào nước ngoài. - Bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề để có thể nhanh chóng tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, phương pháp tổ chức quản lý sản xuất tiên tiến nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh khi nước ta hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. 2. Mục tiêu của ngành giấy đến năm 2010 Trên cơ sở đánh giá nhu cầu và tình hình sản xuất trong nước, ngành giấy đã xác định những mục tiêu cụ thể ngành cần phải tập trung đạt được trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp giấy gắn với phát triển vùng nguyên liệu đến năm 2010 Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 60 - - Một là, gia tăng sản lượng giấy và bột giấy, đáp ứng nhu cầu trong nước đang gia tăng mạnh mẽ, tiến tới xuất khẩu giấy và bột giấy. - Hai là, đẩy mạnh trồng cây nguyên liệu giấy để chuyển dịch cơ cấu cây trồng, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa. - Ba là, thúc đẩy đầu tư để mở rộng năng lực sản xuất, đa dạng về chủng loại, mặt hàng ; mở rộng thị trường và tăng ưu thế cạnh tranh của sản phẩm Từ những mục tiêu này ngành giấy đã đề ra các mục tiêu cụ thể. Ngành giấy đang phấn đấu để đến năm 2010 sẽ đạt tổng sản lượng giấy là 1.260.000 tấn/năm (tăng 3,15 lần so với năm 2000) ; sản lượng bột giấy là 2.255.000 tấn/năm (tăng 11,2 lần so với năm 2000). Nước ta không những chủ động được bột giấy trong nước, mà còn có thể xuất khẩu 1.000.000 tấn bột/năm. Đầu tư phát triển ngành công nghiệp giấy và bột giấy theo các mục tiêu trên, không những mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp mà còn góp phần đắc lực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (trong đó thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế công - nông - lâm nghiệp của các vùng nằm trong địa bàn xây dựng nhà máy bột giấy và giấy) đồng thời thực hiện được chủ trương của Nhà nước phát triển kinh tế khu vực miền núi và vùng dân tộc, hình thành các vùng nguyên liệu chuyên canh, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đạt được mục tiêu về sản lượng giấy, bột giấy như trên, ngành giấy có nhu cầu về vốn đầu tư lớn, mà cụ thể trong thời gian tới ngành cần thu hút, sử dụng như sau: Vốn đầu tư nhà máy giai đoạn 2003 – 2010 là 1.690 triệu USD Vốn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu 1997 - 2010 là 320 triệu USD Khối lượng vốn đầu tư đến năm 2010 chỉ là định hướng, Bộ Công nghiệp, Tổng công ty Giấy Việt Nam căn cứ điều kiện thực tế để hiệu chỉnh bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 61 - II/ Các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Để đạt được các mục tiêu, và tuân theo đúng phương hướng trên, không chỉ ngành giấy phải sử dụng các biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, mà cũng rất cần phải có sự trợ giúp khuyến khích của Nhà nước. Vì vậy, trong phần này, trước tiên, tôi sẽ đi vào một hệ thống các giải pháp mà doanh nghiệp giấy nên áp dụng, và sau đó, là các biện pháp nhà nước nên làm để hỗ trợ cho ngành trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh trước thách thức hội nhập kinh tế. A/ Về phía các doanh nghiệp 1. Xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp Chiến lược kinh doanh phù hợp sẽ giúp phát huy được thế mạnh của doanh nghiệp, đạt được mục tiêu đề ra, nâng cao năng lực cạnh tranh. Thực trạng hiện tại trong doanh nghiệp ngành giấy, cũng như trong các doanh nghiệp ngành khác của Việt Nam, việc xây dựng chiến lược kinh doanh thường không được đánh giá, coi trọng đúng. Doanh nghiệp vừa, nhỏ thường xây dựng chiến lược sơ sài, một số doanh nghiệp lớn lại thường đặt ra những chiến lược không thể thực hiện nổi, mang tính kế hoạch nhiều hơn là chiến lược. Trong phạm vi khóa luận của mình, tôi không thể xây dựng được một chiến lược phù hợp với tất cả các doanh nghiệp trong ngành giấy, mà chỉ xin đi vào phân tích chung một số điểm doanh nghiệp ngành cần chú ý khi xây dựng chiến lược cho riêng mình để có tầm nhìn lâu dài trong đầu tư. - Trong chiến lược kinh doanh chung, doanh nghiệp phải xác định được thế mạnh của mình, không đầu tư dàn trải, luôn đưa yếu tố hội nhập vào trong chiến lược để chủ động đối phó. - Về sản phẩm: Trên cơ sở soát lại quy hoạch và chiến lược sản phẩm đã có, doanh nghiệp nên tiến hành điều chỉnh hoặc xây dựng mới chiến lược sản phẩm theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, đặt mục tiêu lợi nhuận dài hạn lên Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 62 - hàng đầu. Sản phẩm phải bám sát với nhu cầu của thị trường, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng. Trước mắt cần tập trung ưu tiên đầu tư phát triển các mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao và có thị trường đầu ra hiện tại lớn, sau đó sẽ dần chuyển sang những mặt hàng có giá trị cao. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến thiết kế, tạo mẫu, chuyển dần từ những mặt hàng chất lượng thấp, trung bình sang những mặt hàng chất lượng cao, giá trị lớn. - Về thị trường: dựa vào khả năng và ưu thế hiện tại của mình, doanh nghiệp tập trung vào phân đoạn thị trường trọng điểm của mình. Doanh nghiệp cần làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, tạo được một mạng lưới tiếp thị phân phối rộng khắp, phản ứng nhanh nhạy trước những thay đổi của đối thủ cạnh tranh. Sau khi củng cố được phân đoạn của mình, doanh nghiệp mới đặt kế hoạch mở rộng thị trường sang những khu vực mới hay mặt hàng mới. - Về phân phối: trong điều kiện công nghệ còn lạc hậu thì chiến lược phân phối hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp cạnh tranh được trong điều kiện hội nhập. Doanh nghiệp phải có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, kể cả chất lượng dịch vụ trước và sau khi bán cho phù hợp với đặc điểm của thị trường tiêu dùng. Đa dạng hóa các kênh tiêu thụ sản phẩm, nhưng nên cố gắng phát triển kênh phân phối sản phẩm trực tiếp, tránh phụ thuộc vào các đơn vị trung gian.. Đưa thương mại điện tử vào như một kênh phân phối mới, năng động, hiệu quả, thường xuyên tiến hành tuyên truyền quảng bá sản phẩm của mình qua nhiều phương thức khác nhau, thực hiện công tác phục vụ kỹ thuật khi bán và sau bán sao cho thật thuận lợi cho khách hàng. - Về đổi mới công nghệ: doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch từng bước đổi mới dây chuyền công nghệ để tăng năng suất, hạ giá thành. Đầu tiên, cần lựa chọn các khâu quan trọng trong dây chuyền sản xuất có ảnh hưởng Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 63 - trước nhất đến chất lượng và giá thành sản phẩm để tiến hành đổi mới, nâng cấp trước. - Về nhân lực: Nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh, đIều hành, quản lý doanh nghiệp cho người quản lý, trình độ tay nghề của người lao động, chú trọng phát huy sáng kiến, cải tiến trong hoạt động của doanh nghiệp. - Về giá cả: trong điều kiện chất lượng sản phẩm của ngành nói chung còn kém so với hàng nước ngoài, doanh nghiệp nên sử dụng giá như một công cụ để cạnh tranh, thường xuyên sử dụng các biện pháp khuyến mại, giảm giá, chiết giá,áp dụng các dịch vụ hậu mãi thuận lợi để khuyến khích người tiêu dùng mua hàng. 2. Xây dựng nhận thức đúng đắn về hội nhập Để nâng cao năng lực cạnh tranh và có thể chủ động hội nhập kinh tế, đối phó với những tác động xấu của hội nhập đòi hỏi mỗi doanh nghiệp, cũng như toàn ngành giấy phải xây dựng cho mình một nhận thức đúng đắn về hội nhập , bởi như Tôn Tử nói “biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng”, chỉ có hiểu rõ về hội nhập thì doanh nghiệp mới có thể hội nhập thành công. Nên doanh nghiệp bắt buộc phải có nhận thức, tư tưởng về hội nhập. Tư tưởng đó bao gồm những vấn đề sau: - Bản chất của hội nhập là gì? - Tiến trình hội nhập của Việt Nam như thế nào? - Hội nhập là không thể tránh khỏi. Nó là cơ hội đồng thời cũng là thách thức. Không sợ hội nhập, chỉ sợ không chuẩn bị tốt. - Hội nhập gắn liền với cạnh tranh, nhưng không phải hội nhập thì mới có cạnh tranh - Ỷ lại vào bảo hộ tất yếu sẽ bị đào thải - Thực sự quyết tâm hội nhập - Nhà nước cho cần câu chứ không cho con cá Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 64 - - Nhà nước chỉ hỗ trợ tạo chính sách thông thoáng, chứ sẽ không trợ cấp trực tiếp cho doanh nghiệp ( tăng vốn, xóa nợ)… , cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia Những tư tưởng trên phải được doanh nghiệp phổ biến cho toàn thể công nhân viên trong doanh nghiệp, từ người lãnh đạo quyết định chiến lược của doanh nghiệp đến anh công nhân vận hành máy bình thường. Chỉ khi tất cả mọi người trong doanh nghiệp thấm nhuần tư tưởng, họ cảm thấy áp lực của hội nhập đang đến gần, lúc ấy, mọi người mới thấy nguy cơ, thách thức của hội nhập đe dọa, bức bách họ, và họ sẽ phải nỗ lực, cố gắng nhiều hơn vì công việc, nghề nghiệp, vì doanh nghiệp, ngành của mình. Đồng thời với việc truyền bá tư tưởng về hội nhập, doanh nghiệp cũng phải luôn luôn bám sát, cập nhật các thông tin về hội nhập như thuế suất, luật lệ, cam kết của ta và các đối tác thương mại, thông tin về chính sách thương mại, chính sách xnk… để có biện pháp kịp thời đối phó với tình hình, chủ động phản ứng mau lẹ trước những diễn biến trên thị trường. Doanh nghiệp nên lập ra một bộ phận chuyên trách thu thập, nghiên cứu và phân tích các thông tin về hội nhập, và liên quan đến hội nhập sao cho thật nhanh và chính xác. Bởi ngày nay trong thời đại hội nhập, thì “thời gian là vàng, còn thông tin là tiền”. 3. Áp dụng biện pháp giảm chi phí, nâng cao chất lượng Trong thời gian qua, các doanh nghiệp trong ngành giấy Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp để hạ giá thành và nâng cao khả năng cạnh tranh. Song giá thành vẫn còn cao, nên sức cạnh tranh của hàng hóa thấp hơn so với hàng hoá đến từ các nước khác. Muốn cố gắng tiết kiệm, giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp trong ngành, ngoài việc tiến hành đầu tư máy móc, công nghệ mới, nâng cao trình độ quản lý, theo tôi doanh nghiệp cũng còn nên tiến hành một số biện pháp như sau: Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 65 - Thứ nhất, nâng cao nhận thức của nhân viên về việc tiết kiệm, hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh. Nhận thức về tầm quan trọng của việc tiết kiệm, hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh có ý nghĩa chiến lược sống còn đối với doanh nghiệp và với ngành giấy, nên phải xây dựng nhận thức về việc tiết kiệm, hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh cho tất cả mọi thành viên trong ngành từ cán bộ cấp cao đến người công nhân bình thường, dấy lên và thường xuyên duy trì phong trao coi việc hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh, để tư tưởng đó ăn sâu vào tiềm thức của người công nhân. Kinh nghiệm của Nhật nhiều thập kỷ qua cho thấy với mô hình phát triển doanh nghiệp dựa trên sức mạnh của cộng đồng, đã làm cho từ chủ hãng đến người công nhân, nhất cử nhất động luôn luôn coi trọng việc nâng cao chất lượng và giảm giá thành hàng hóa để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Như thế, người lao động sẽ hăng say làm việc, coi công việc của công ty, của xí nghiệp cũng chính là công việc của chính mình, coi tài sản của công ty như tài sản của chính mình, họ coi việc đi làm muộn, lãng phí nguyên vật liệu, lãn công, làm ra một sản phẩm chất lượng thấp là nỗi day dứt của mình, là có lỗi với bản thân, với công ty, vì họ đã làm cho sức cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp suy giảm, họ luôn luôn tìm tòi biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu. Đối với một ngành sử dụng nhiều nguyên liệu đầu vào, điều kiện đầu tư cho công nghệ để giảm chi phí, nâng cao chất lượng của ngành còn khó khăn, thì việc nâng cao nhận thức về tiết kiệm và năng lực cạnh tranh là một biện pháp mà ngành có thể áp dụng một cách đơn giản và hiệu quả. Thứ hai, áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng. Doanh nghiệp của ngành nên áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng. Các doanh nghiệp có thể bỏ hàng tỉ đồng để đầu tư, máy móc nhà xưởng, thì cũng nên bỏ 1/10 số tiền đó ra để áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng. Bởi lợi ích của nó không chỉ là một “tấm áo đẹp” để đi triển lãm, quảng cáo mà còn là một biện Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 66 - pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng sản phẩm, thoả mãn khách hàng, cải tiến chất lượng, tăng cường sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hệ thống quản lý nhằm giảm chi phí, phát huy nội lực, đạt được sự phát triển bền vững, lâu dài, nếu doanh nghiệp biết cách áp dụng và sử dụng đúng, hiệu quả. Nó không phải là một khoản chi phí doanh nghiệp bất đắc dĩ phải bỏ ra, mà là một khoản đầu tư cho chất lượng thực sự, trong đó đặt hiệu quả lên hàng đầu. Hiện tại, trong ngành mới chỉ có một số ít các doanh nghiệp ( Bãi Bằng, Tân Mai, cổ phần giấy Sài Gòn ) áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, và thực tế đã chứng minh rằng những doanh nghiệp này cũng đã đạt được một số kết quả tốt, chất lượng sản phẩm được nâng cao hơn so với trước và so với các doanh nghiệp không áp dụng, giảm được chi phí, sản phẩm bị hỏng và ô nhiễm môi trường. Sản phẩm của các doanh nghiệp này đã được người tiêu dùng tín nhiệm qua các cuộc bình chọn “hàng Việt Nam chất lượng cao”. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đang và sẽ áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, cũng phải lưu tâm đến một số điểm sau để việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đạt được hiệu quả cao nhất - Mục đích của hệ thống tiêu chuẩn chất lượng là nhằm giảm chi phí , nâng cao năng lực cạnh tranh và kết quả kinh doanh, thông qua công tác quản lý để làm ra những sản phẩm có chất lượng theo ý muốn, chứ không phải là nhận một tờ giấy chứng nhận sản phẩm. - Không nên đánh đồng giá trị của chứng chỉ về HTQLCL với giá trị của HTQLCL được chứng nhận. Không nên coi mục tiêu được chứng chỉ là trọng yếu, mà phải coi việc thực hiện HTQLCL sao cho có hiệu quả mới là quan trọng. - Để áp dụng hệ thống quản lý chất lượng có hiệu quả, doanh nghiệp phải biết cách sử dụng, và sử dụng có hiệu quả, chứ không chỉ là sở hữu hệ thống quản lý chất lượng để đem khoe nó như một “tấm áo đẹp”. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 67 - - Khi áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, phải thực hiện một cách thường xuyên, liên tục với mục đích rõ ràng. - Trong quá trình thực hiện phải tuân thủ nghiêm ngặt một số nguyên tắc sau: + Coi trọng vai trò con người trong hoạt động sản xuất, kinh doanh + “Chất lượng là trên hết” + Quản lý theo văn bản. + Nguyên tắc kiểm tra + Nguyên tắc toàn diện + Nguyên tắc đồng bộ + Nguyên tắc kế hoạch 4. Phát huy nhân tố con người Thực tiễn đã chứng minh, nhân tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Để phát triển, công ty phải hướng tới thị trường, công việc này là công việc của cả tập thể chứ không phải của cá nhân riêng ai. Tài sản lớn nhất của các công ty ngày nay không phải là lâu đài hay công xưởng, mà là ý tưởng, là chất xám của con người, con người làm ra sản phẩm, máy móc, chứ không phải máy móc “sản xuất” ra con người. Việc phát triển nhân tố con người đóng vai trò then chốt, là điều kiện vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện giải pháp kinh doanh của mình, đầu tư vào nguồn nhân lực là hoạt động sinh lời nhất, hiệu quả nhất đối với tất cả các doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thì vai trò của nguồn nhân lực lại càng được đánh giá cao hơn. Bởi trong điều kiện nước ta, khi các yếu tố như năng lực công nghệ và năng lực tài chính còn thiếu và yếu thì nguồn nhân lực dồi dào, thông minh, cần cù, chăm chỉ chính là lợi thế lớn nhất để Việt Nam hội nhập thành công. Chính vì thế, công nghiệp Việt Nam nói chung, và ngành công nghiệp giấy nói riêng phải tập trung phát huy nhân tố con người một cách hiệu Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 68 - quả nhất để khai thác được những thế mạnh của họ, hạn chế, khắc phục những điểm yếu của người lao động mới có thể cạnh tranh được thành công khi chúng ta hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Khi đầu tư cho nguồn nhân lực, ngành giấy nên thực hiện một số biện pháp sau: Doanh nghiệp của ngành giấy (đặc biệt là DNNN) cần phải chú trọng hơn nữa trong vấn đề kiện toàn bộ máy tổ chức, đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ, cải tiến lề lối làm việc, rèn luyện đạo đức tác phong lao động phải sắp xếp, bố trí lao động một cách hợp lý đúng người đúng việc, tránh tình trạng chuyên môn một đằng phân công một nẻo. Sắp xếp lại các phòng ban theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, năng động và có hiệu quả, xây dựng nội quy làm việc rõ ràng, nghiêm khắc, thưởng phạt phân minh để thúc đẩy tác phong làm việc công nghiệp cho người lao động. Doanh nghiệp nên quan tâm đào tạo và đầu tư thích đáng cho cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp. Bởi các thành viên Ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt, như tăng doanh thu lợi nhuận, mà còn cả lợi ích - uy tín lâu dài của doanh nghiệp và đây cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thế nên, Ban giám đốc phải nắm vững kiến thức vững chắc không chỉ về kinh tế, quản lý, mà còn phải có kiến thức cả về công nghệ để bắt kịp tốc độ phát triển của quá trình hội nhập. Để phát huy năng lực của bộ phận này đòi hỏi ngành giấy phải chú trọng vào việc tìm và bồi dưỡng những cán bộ trẻ có tài, có năng lực, năng động với thời cuộc. Đối với người lao động, cần thông qua việc “xã hội hóa giáo dục và đào tạo”, tiến hành đào tạo và tái đào tạo đội ngũ lao động theo chiến lược sản phẩm đã xác định, theo hướng tỷ trọng lao động cơ bắp giảm dần và tỷ trọng lao động trí tuệ tăng lên và ngày càng chiếm ưu thế trong tổng lao động của doanh nghiệp. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 69 - Chủ động đề xuất và tổ chức nhiều phong trào thi đua phấn đấu lao động với những khẩu hiệu như “Năng suất, chất lượng, tiết kiệm là nguồn thu nhập của chúng ta”, “lao động hiệu quả là tăng thu nhập của chính mình”, tổ chức những cuộc thi tay nghề, sáng kiến của cán bộ công nhân viên. Điều này vừa làm cho người công nhân gắn bó chặt chẽ hơn với nhà máy của mình, vừa giúp doanh nghiệp tìm được những cá nhân điển hình tốt để bồi dưỡng và nhân rộng. Những phong trào thi đua này phải đi sâu vào thức tế lấy năng suất, chất lượng, hiệu quả làm thước đo, chứ không được mang nặng tính hình thức, phô trương. Song song với việc phát động các phong trào thi đua, các doanh nghiệp ngành giấy cũng nên đề ra hình thức khen thưởng tôn vinh xứng đáng cho những cá nhân, tổ chức có sáng kiến hay, làm việc hiệu quả. Việc khen thưởng phải đúng người, đúng việc, đúng năng lực, khả năng, đúng lúc, đúng nơi để kịp thời khích lệ người lao động làm việc hăng say và tư duy sáng tạo. Luôn luôn chú ý quan tâm đến nguyện vọng, tâm tư của người lao động, đảm bảo tính công bằng trong đãi ngộ, môi trường lao động ít độc hại và một bầu không khí tập thể hoà thuận, thoải mái và năng động. Xây dựng một bầu không khí “văn hóa doanh nghiệp” lành mạnh và phù hợp với ngành, làm người lao động từ trên xuống dưới luôn thấm nhuần tư tưởng, mục đích hoạt động của doanh nghiệp, của ngành. Nó sẽ góp phần tạo ra một chất keo gắn bó giữa những người lao động với nhau và giữa người lao động với công ty của mình. Từ đó, có thể thúc đẩy động cơ làm việc, năng lực của người lao động, phát huy năng lực sáng tạo của người lao động, giúp người lao động tiếp thu được các chuẩn mực đạo đức và có thái độ hăng hái làm việc, nhằm đạt được mục đích của công ty, tạo động lực mạnh mẽ cho sự thành đạt của công ty. Doanh nghiệp cũng như ngành giấy nên lập ra một quỹ để khuyến khích nhân viên đến các trường đại học cập nhật những kiến thức mới, tiếp cận vấn đề một cách hiện đại đáp ứng đòi hỏi của điều kiện hội nhập. Có biện pháp khuyến khích, thu hút nhân tài về với doanh nghiệp, với ngành giấy như tặng Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 70 - học bổng cho sinh viên khá giỏi, tạo điều kiện thuận lợi, sắp xếp cho những sinh viên khá giỏi được dễ dàng vào làm việc trong ngành, đãi ngộ cho họ thỏa đáng, bình đẳng để họ yên tâm cống hiến sức lực và tài năng của mình cho doanh nghiệp. 5. Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp ngành giấy Liên kết kinh tế là sự thiết lập mối quan hệ giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh nhằm bổ sung, hỗ trợ nhau, giảm chi phí, đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất, tạo ra sức cạnh tranh mạnh... Đối với doanh nghiệp, liên kết kinh tế là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu tạo ra sự thành công. Lợi ích của việc liên kết kinh tế thể hiện ở chỗ : - Tạo điều kiện để tiết kiệm về qui mô, chi phí. - Giúp doanh nghiệp chủ động với sự phức tạp của thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa thương mại, dễ chinh phục những thị trường mới. - Tăng khả năng linh hoạt của doanh nghiệp, phản ứng nhanh nhạy hơn với những thay đổi của môi trường kinh doanh. - Giúp doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng hơn với các công nghệ mới. - Giúp giảm thiểu các rủi ro. - Tạo điều kiện giảm nhẹ cơ cấu bên trong doanh nghiệp, thông qua việc chuyên môn hóa trong các công đoạn sản xuất, kinh doanh. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng quyết liệt, doanh nghiệp của ngành giấy dù thuộc quốc doanh, hay ở ngoài quốc doanh đều có những điểm yếu lớn so với những đối thủ cạnh tranh hùng mạnh của nước ngoài, tổng sản lượng của ngành giấy Việt Nam năm cao nhất (năm 2002) mới chỉ khoảng 500.000 tấn không bằng một tập đoàn giấy của Indonesia (tập đoàn APP sản xuất 3 triệu tấn giấy/năm), máy móc còn lạc hậu, tiềm lực tài chính còn nhỏ bé. Thì như đã trình bày ở trên về lợi ích của liên kết kinh tế, một trong những lối ra khả thi nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành giấy, Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 71 - chính là phải liên kết các doanh nghiệp lại với nhau để phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp ngành giấy có thể liên kết đôi bên, ba bên, liên doanh với doanh nghiệp trong nước, hay liên doanh với công ty nước ngoài, liên doanh liên kết để cùng đầu tư sản xuất một loại sản phẩm,…nhưng hiệp hội là hình thức tổ chức phù hợp nhất để hỗ trợ, liên kết và xây dựng tinh thần cộng đồng của các doanh nghiệp ngành giấy. Đây sẽ là một kênh hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển các doanh nghiệp của ngành giấy trong việc cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, tình hình tài chính,...tư vấn để doanh nghiệp có thể hoạt động một cách tốt nhất, đồng thời, các doanh nghiệp trong hiệp hội sẽ có điều kiện dễ dàng liên kết, phối hợp hoạt động với nhau. Hiệp hội là một tổ chức đại diện hợp pháp về mặt quyền lợi, giúp doanh nghiệp giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong thời gian qua, tuy hiệp hội giấy vẫn chưa thực hiện được hết những chức năng quan trọng của mình, hoạt động vẫn mang tính hình thức, tự phát chưa chủ động, quy chế hoạt động, nội dung hoạt động còn đơn điệu, thiếu chặt chẽ, chưa phát huy được hết hiệu quả như mong muốn, nhưng không thể nói hiệp hội ngành giấy đã hoạt động không có hiệu quả gì. Hiệp hội đã lập và hiệu đính một số tiêu chuẩn ngành, tạo lập được mối quan hệ với các hiệp hội giấy khác trong khu vực và nhiều nước trên thế giới, đã gia nhập liên đoàn công nghiệp Bột giấy và giấy ASEAN, thường xuyên tổ chức hàng năm các cuộc tham quan, tìm kiếm cơ hội hợp tác với các đối tác nước ngoài cho các thành viên của hiệp hội giấy Việt Nam hay tổ chức các cuộc hội thảo mang tính chuyên đề của ngành... Với cách tiếp cận như vậy đã giúp các doanh nghiệp giảm bớt chi phí cho hoạt động tìm kiếm khảo sát đối tác cung cấp thiết bị ở nước ngoài mà vẫn đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Trong tương lai, vì lợi ích của chính mình, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn phải tích cực tham gia vào hoạt động của hiệp hội, góp phần nâng cao vai trò của hiệp hội. Để từ đó sẽ chuyển Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 72 - hướng phát triển hiệp hội giấy theo hướng mới, biến hiệp hội thành một tổ chức xã hội hoạt động vì lợi ích của ngành với cơ chế gọn nhẹ thu hút được sự tham gia của mọi doanh nghiệp trong ngành từ lớn đến nhỏ, tập trung ủng hộ các quyền lợi chính đáng và cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, thuận lợi trong hoạt động. Hiệp hội sẽ là một đầu mối đủ năng lực, uy tính để tập hợp các doanh nghiệp trong toàn ngành trên cơ sở tự nguyện phân công hợp tác theo chuyên môn hóa sâu, mới đem lại hiệu quả cao, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau. 6. Đầu tư hợp lý cho công nghệ Với tư duy thiển cận, trước mắt thì dường như hoạt động đầu tư khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đạivà tăng tỷ suất khấu hao tài sản cố định dẫn đến hệ quả làm cho giá thành hàng hóa vống lên trong khi giá bán hàng hóa không đổi. Nhưng trong trung và dài hạn, kỹ thuật, công nghệ mới cho phép các doanh nghiệp tiệm cận trình độ kỹ thuật – công nghệ trung bình của thế giới, đưa năng suất lao động tăng lên, tạo ra những sản phẩm với chất lượng cao, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp doanh nghiệp chuyển từ thế bị động sang thế chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại là lối thoát ra khỏi suy thoái. Đấy là một tất yếu không thể đảo ngược, đầu tư công nghệ là bắt buộc, vấn đề đặt ra là đầu tư công nghệ mới như thế nào? Đầu tư phải phù hợp đúng nơi, đúng chỗ, đúng thời gian. Như công ty giấy Việt Trì, khi đầu tư dây chuyền sản xuất giấy duplex đã gặp khó khăn về tài chính, dây chuyền đầu tư mới làm doanh nghiệp phải trả số tiền lãi nhiều trong thời gian đầu, sản phẩm tiêu thụ khó khăn, nên 9 tháng đầu năm nay doanh nghiệp lỗ tới 30,686 tỷ đồng. Có ý kiến cho rằng khó khăn về tài chính trên của doanh nghiệp là do đầu tư dây chuyền mới, nếu công ty cứ duy trì nhà máy cũ, sản phẩm cũ, thì trong vài năm vẫn có lãi vài tỷ đồng. Nhưng khi mà thời điểm hội nhập của Việt Nam ngày càng Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 73 - gần. Không đầu tư thì vẫn với cơ cấu sản phẩm như cũ, trong vài năm nữa, khi thuế suất giảm xuống, với dây chuyền cũ như vậy, liệu nhà máy còn có lãi nữa không hay sẽ bị sập tiệm? Khó khăn công ty giấy Việt Trì gặp phải chỉ một phần là do khoản vốn đầu tư lớn, còn phần quan trọng là do thời gian đầu tư quá dài dẫn đến bỏ lỡ mất cơ hội. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với nguồn vốn còn hạn hẹp hơn nhiều, phải trả lãi suất cao hơn, nhưng họ đầu tư nhanh và gọn nên sản phẩm của họ nhanh chóng tung ra thị trường, nắm bắt cơ hội. Để đầu tư công nghệ hợp lý, theo tôi trong thời gian tới các doanh nghiệp giấy Việt Nam nên đầu tư theo những phương hướng sau: - Thời gian đầu tư phải thật nhanh chóng, chủ động với diễn biến của thị trường. - Với lợi thế của người đi sau, doanh nghiệp giấy Việt Nam có thể đầu tư mới cho mình những dây chuyền tương đối hiện đại và phù hợp với mình, tiến dần từ trình độ công nghệ lạc hậu lên công nghệ khu vực. Đối với các dây chuyền cũ thì tiến hành nâng cấp những dây chuyền còn tương đối tốt, loại bỏ dần dần những dây chuyền quá cũ, hao phí nguyên liệu nhiều. - Đầu tư, hợp tác, liên kết với các viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật trong nước để phát triển sản phẩm mới, công nghệ mới. Đây là một hình thức đầu tư rất tốt, đôi bên cùng có lợi, mà hiện nay các doanh nghiệp trong nước còn chưa quan tâm lắm. - Đầu tư có chiều sâu, chuyển dần từ những dây chuyền công nghệ sản xuất sản phẩm có chất lượng trung bình, kém sang dây chuyền công nghệ sản xuất sản phẩm chất lượng cao, giá trị lớn. Đầu tư vào CNTT như một biện pháp hỗ trợ quản lý cho doanh nghiệp, giảm chi phí hành chính. - Đầu tư phù hợp với năng lực của mình, trình độ của mình về tiềm lực tài chính và khả năng nắm bắt kỹ thuật. - Đa dạng hóa hình thức đầu tư, các doanh nghiệp trong ngành có thể liên doanh liên kết cùng đầu tư một dây chuyền, phối hợp với các doanh nghiệp Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 74 - ngoài nước xây dựng nhà máy mới, huy động vốn đầu tư qua kênh chứng khoán… B/ Về phía Nhà nước 1. Xây dựng chiến lược qui hoạch phát triển ngành giấy hợp lý, kịp thời Hiện nay, đang có tình trạng tự phát quy hoạch xây dựng vùng nguyên liệu giấy, và nhà máy sản xuất ở khắp nơi, rộ lên phong trào “nhà nhà làm giấy, người người làm giấy”. Chương trình chiến lược của các cơ quan liên quan đến ngành giấy cũng rất khác nhau. Tình trạng đó là do các tỉnh đều muốn thông qua đầu tư này để hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, và từ một phép tính đơn giản, năng lực sản xuất hiện tại chưa cung cấp đủ 60% thị trường, với tiềm năng về con người và tự nhiên, chúng ta đủ khả năng đáp ứng nhu cầu mà không cần phải nhập khẩu, và lại quên mất khả năng cạnh tranh gay gắt của hàng nước ngoài. Nhưng để một nhà máy giấy hoạt động hiệu quả cần phải đầu tư quy mô lớn với công suất trên 50.000 tấn, với vốn đầu tư lên đến vài trăm triệu USD/dự án, đồng thời phải xây dựng được vùng nguyên liệu đảm bảo thuận lợi cho việc khai thác và vận chuyển nguyên liệu cho các nhà máy. Thế nên, cần có sự can thiệp của Nhà nước để tạo sự thống nhất trong quy hoạch tổng thể phát triển ngành giấy và vùng nguyên liệu giấy, có vậy mới tạo được điều kiện phát triển ngành giấy. Thực tế, biểu hiện thừa nguyên liệu sản xuất giấy và bột giấy ở Việt Nam hiện nay chỉ diễn ra cục bộ, còn xét tổng thể, ngành giấy vẫn thiếu nguyên liệu. Do vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần đặt ra tiêu chí bắt buộc để xây dựng vùng nguyên liệu và những nhà máy sản xuất bột giấy mới. Cụ thể, dự án phải đáp ứng được các yêu cầu như giá thành sản phẩm phải thấp hơn mức giá nhập khẩu tại thời điểm đó, phải đảm bảo thu hồi được vốn đầu tư. Về nguyên liệu, các nhà máy mới phải đảm bảo thu mua nguyên liệu tại chỗ Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 75 - cho người trồng rừng với mức giá thấp nhất là 300.000 đồng/m3. Đối với từng vùng, dự án xây dựng các dự án phải chi tiết, đồng bộ và hợp lý giữa vị trí đặt nhà máy và vùng nguyên liệu; cần tính tới yếu tố cơ sở hạ tầng giao thông phục vụ vận chuyển nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất giấy và bột giấy. Đối với các địa phương đã hội đủ các điều kiện nêu trên, theo công nghệ tiên tiến và tiêu chuẩn về môi trường của Việt Nam hiện nay, quy mô tối thiểu phải là 50 000 tấn/năm. Đi kèm theo nó là vùng nguyên liệu được quy hoạch khoảng 80 000 ha. Quy mô công suất này là phù hợp với thực tế của nước ta về vùng, sự phân tán của vùng nguyên liệu, khả năng đáp ứng về cơ sở hạ tầng, nguồn vốn đầu tư cũng như việc tổ chức quản lý... Sau này, nếu có điều kiện thì các nhà máy có thể sẽ được mở rộng thêm quy mô và tăng công suất lên gấp 2 hoặc 3 lần. Về phân bố, Nhà nước nên đặt các nhà máy giấy tập trung lại không nên bố trí các nhà máy chạy dọc theo vùng chiều dài đất nước, bởi lẽ, đặc thù của công nghiệp giấy cho thấy, một nhà máy dù có qui mô lớn hay nhỏ đều phải trải qua các giai đoạn chế biến gỗ, sản xuất bột giấy và giấy, sản xuất năng lượng điện, nước sạch, xử lý hóa chất, nước thải... để đảm bảo được những công đoạn đó thì phải đầu tư lớn cho thiết bị và công nghệ. Do vậy, nếu công suất không đủ lớn thì sản xuất sẽ không hiệu quả (vì định phí quá cao). Chúng ta đã có những bài học cay đắng từ 1.000.000 tấn mía đến 10.000.000 tấn thép do xây dựng nhà máy tràn lan, không có qui hoạch tổng thể, nên sản phẩm sản xuất ra có giá thành cao, chất lượng kém. Chính vì vậy, Nhà nước nên giao cho một cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm xây dựng qui hoạch, chiến lược phát triển vùng nguyên liệu và nhà máy giấy trên cả nước, các cơ quan khác chỉ có quyền tư vấn, để trách tình trạng chồng chéo trong qui hoạch, gây lãng phí và chậm trễ trong đầu tư. Tránh tình trạng việc xây dựng chiến lược thiếu tính khả thi, khi xây dựng chiến lược phải dựa trên thực tế nguồn lực của đất nước, quan hệ cung cầu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, chiến lược, khi xây dựng chiến lược cho ngành, Nhà nước nên cho phép các Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 76 - doanh nghiệp trong ngành tham gia đóng góp ý kiến xây dựng để từ chiến lược đến thực tế không còn là một khoảng cách quá xa. 2. Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư phát triển ngành giấy Nhìn lại tổng thể sự phát triển của ngành trong nhiều năm qua, ta thấy ngành vẫn gặp phải một số trở ngại khá lớn từ cơ chế quản lý của nhà nước. Nên tôi xin có một số đề xuất mà Nhà nước nên áp dụng để hỗ trợ, khuyến khích những người sản xuất và nhà đầu tư trong ngành trong thời gian tới: - Áp dụng thuế suất VAT 5% đối với sản phẩm giấy sản xuất trong nước, góp phần giảm giá bán, nâng sức cạnh tranh cho các sản phẩm trong nước sản xuất. Miễn giảm thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu, hóa chất là đầu vào cho sản xuất của ngành. Hạn chế giải ngân các nguồn vốn ODA bằng giấy trong thời gian trước mắt. - Đối với những nhà máy sử dụng nguyên liệu là giấy phế liệu. Đề nghị nhà nước có chính sách hỗ trợ bằng việc cho phép khấu trừ thuế VAT đầu vào đối với loại nguyên liệu này. Có thể khi thực hiện chính sách này sẽ có nhiều khó khăn, vì phần lớn những người thu gom giấy loại trong nước đều buôn bán nhỏ và không hề có chứng từ hóa đơn, nhưng là việc nên làm vì sẽ hạn chế ô nhiễm môi trường, và khuyến khích những người sản xuất. - Có chính sách bảo lãnh vốn vay cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư phát triển ngành. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với tư duy năng động và nhạy bén của mình đã góp phần làm đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm trong nước. Nhưng với tiềm lực tài chính nhỏ bé thì mỗi doanh nghiệp sẽ khó có thể đầu tư những dự án lớn đem lại hiệu quả lớn cho xã hội, nếu không có sự giúp sức của Nhà nước về vốn cho họ, tạo môi trường bình đẳng, thông thoáng và thuận lợi cho họ phát triển. - Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, thường có các dự án đầu tư lớn. Nhà nước cần đẩy nhanh quy trình xét duyệt dự án, giảm sự chồng chéo trong Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 77 - cơ chế quản lý, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp trong ngành với lãi suất ưu đãi với thời hạn trả xong nợ là 15 năm và thời gian khấu hao là 18 năm thay vì chỉ 10 năm (trả nợ) và 12 - 15 năm (để khấu hao) theo những quy định hiện nay của Chính phủ để đảm bảo tiến độ triển khai các dự án mới hiệu quả, góp phần gia tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm. Cần phải đẩy nhanh quá trình giải ngân cho các dự án của nhà nước. Cho phép các dự án đầu tư trong chiến lược tăng tốc được vay thương mại (khi quỹ hỗ trợ phát triển chưa có điều kiện cấp đủ) để đầu tư cho kịp tiến độ, sau đó có thể cấp bù chênh lệch lãi suất. - Xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách phù hợp để bảo hộ “hợp pháp” cho sản xuất trong nước bằng việc cho ra đời luật thuế chống bán phá giá, luật cạnh tranh để bảo vệ sản xuất trong nước nói chung và sản xuất giấy nói riêng, trước những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh của các tập đoàn nước ngoài (bán phá giá hàng…). - Đối với rừng nguyên liệu giấy: Thực tế cho thấy, không có rừng nguyên liệu giấy thì không thể có công nghiệp giấy. Nhưng đầu tư trồng rừng nguyên liệu thường rất lâu (7-9 năm đối với cây nguyên liệu sợi ngắn, 10-15 năm đối với cây nguyên liệu sợi dài), rủi ro trong quá trình đầu tư lớn, lợi nhuận lại không cao. Vì thế, Nhà nước nên có chính sách hợp lý để khuyến khích nhân dân trồng rừng nguyên liệu giấy, ưu đãi cho nông dân các địa phương tham gia phát triển vùng nguyên liệu cung cấp cho sản xuất bột giấy và giấy. Cụ thể là: + Thực hiện tốt chính sách giao đất giao rừng; gắn đất rừng với từng hộ nông dân, khuyến khích lợi ích vật chất với trách nhiệm người trồng rừng, từng bước nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc vùng cao, vùng sâu. Bảo đảm thu nhập cho người trồng rừng nguyên liệu. + Lập quy hoạch vùng nguyên liệu giấy trên phạm vi toàn quốc để có cơ sở thiết lập các dự án đầu tư. Trong quy hoạch phải hình thành những vùng tương đối rộng, liên tục cho trồng rừng nguyên liệu giấy để có thể thực hiện Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 78 - công nghiệp hóa, hiện đại hóa công nghiệp trồng rừng. Từ đó có thể đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm của người nông dân, đảm bảo thu nhập cho họ. + Lãi suất vay vốn trồng rừng chỉ nên bằng 50% lãi suất ưu đãi hiện hành. + Miễn thu thuế trồng rừng ở chu kỳ đầu và giảm 50% ở chu kỳ thứ hai. + Dự án được sử dụng nguồn vốn ngân sách cấp để thực hiện giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm lâm nghiệp vào mục đích trồng rừng . + Hướng dẫn, cung cấp giống cây trồng tốt, thường xuyên tư vấn, hỗ trợ về kỹ thuật canh tác cho người trồng rừng. 3. Sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh cho toàn ngành Doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong ngành giấy, chỉ riêng tổng công ty giấy đã chiếm 36% tổng sản lượng giấy, nhưng doanh nghiệp Nhà nước cũng là bộ phận có sức cạnh tranh khá yếu, nhiều doanh nghiệp đang thua lỗ, công nghệ lạc hậu từ 30-40 năm so với mặt bằng chung của thế giới. Chính vì vậy Nhà nước cần có biện pháp kiên quyết tác động vào bộ phận này để tăng năng lực cạnh tranh cho toàn ngành bằng hai biện pháp chính: - Giải thể ngay những nhà máy quá lạc hậu, liên tục làm ăn thua lỗ. Đối với những nhà máy công nghệ quá lạc hậu, chất lượng sản phẩm kém, sản lượng thấp, gây ô nhiễm môi trường, làm ăn lại thường xuyên thua lỗ, thì tốt nhất là giải thể để có thể tập trung nguồn lực về tài chính và công nghệ vào những doanh nghiệp có năng lực lớn hơn. Dù có tiếc nhưng là biện pháp bắt buộc phải thực hiện, nếu không để đến thời điểm vài năm nữa thì các doanh nghiệp này cũng phải tự sập tiệm mà thôi. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 79 - - Tiến hành cổ phần hóa nhằm tập trung, thu hút nguồn lực: Trong ngành giấy hiện nay ở nước ta, công ty cổ phần đang là một hình thức khá phổ biến, các công ty này đang làm ăn khá hiệu quả (điển hình như Hapaco, cổ phần giấy Sài Gòn,…). Các công ty cổ phần xét trên nhiều phương diện rõ ràng mang lại hiệu quả cao và lợi ích thiết thực cho doanh ngiệp, nó đang và sẽ trở thành định hướng phát triển của các doanh nghiệp hiện đại do những ưu thế cạnh tranh vượt trội của nó trong huy động vốn, chia sẽ rủi ro, kích thích lao động sáng tạo, trách nhiệm và xã hội hóa lực lượng sản xuất xã hội. Chính vì vậy chuyển đổi từ DNNN sang công ty cổ phần là một biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong thời gian qua, Nhà nước đã tiến hành cổ phần hai doanh nghiệp thuộc tổng công ty giấy là công ty giấy Viễn Đông và công ty diêm Thống Nhất, hai công ty này sau khi được cổ phần đã hoạt động tương đối tốt. Nhà nước cũng dự định đến năm 2006 sẽ cổ phần thêm một số công ty nữa thuộc tổng công ty giấy. Nhưng theo tôi thời điểm năm 2006 mới bắt đầu tiến hành cổ phần hóa là quá chậm, nhất là từ năm 2003 trở đi ngành giấy phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt do giấy nhập từ các nước Asean có mức thuế nhập khẩu là 20% và năm 2006 là 5%. Chính vì vậy Nhà nước cần có biện pháp đẩy nhanh hơn quá trình cổ phần hóa, đồng thời khuyến khích thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào các doanh nghiệp sẽ được cổ phần: Như bán cổ phần ưu tiên cho các đối tượng là cán bộ công nhân viên công tác tại nhà máy, phát hành cổ phiếu thông qua kênh thị trường chứng khoán… 4. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho ngành giấy, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ Để thúc đẩy quá trình ứng dụng công nghệ hiện đại vào ngành, tăng năng lực cạnh tranh, đề nghị Nhà nước cấp vốn ngân sách cho nghiên cứu khoa học, đặc biệt là đầu tư cho công trình nghiên cứu cải tạo giống cây trồng cho năng suất cao, nghiên cứu ứng dụng những nguyên liệu sẵn có vào sản xuất. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 80 - Phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý nhằm phát triển thị trường công nghệ, coi sản phẩm nghiên cứu là loại hàng hóa đặc biệt, đi đôi với phát huy tính tự chủ của các tổ chức nghiên cứu khoa học - công nghệ ; coi trọng nhập khẩu và ứng dụng có hiệu quả công nghệ mới tạo động lực về lợi ích để thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ gắn bó với sản xuất, kinh doanh, hướng vào nâng cao năng lực cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp trong ngành. Chính phủ tạo môi trường thúc đẩy các doanh nghiệp đặt hàng cho các tổ chức khoa học - công nghệ, liên kết với nhau nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới, thúc đẩy hoạt động tự nghiên cứu, sáng tạo trong các doanh nghiệp. Có chính sách để nhà doanh nghiệp bắt tay với người nghiên cứu, để kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế. Nhà nước nên có những cơ chế cụ thể cho việc giải quyết nguồn nhân lực để đáp ứng và đi kịp với yêu cầu của các dự án đầu tư xây dựng mới với quy mô lớn và hiện đại. Mở thêm trường đào tạo công nhân kỹ thuật cho ngành, ở cấp đại học và sau đại học, mở thêm khoa về công nghệ sản xuất giấy và liên quan đến công nghệ sản xuất giấy.  Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 81 - Kết luận Tóm lại, với năng lực cạnh tranh và qui mô sản xuất như hiện nay, để ngành công nghiệp giấy có thể tồn tại và phát triển đủ lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập, cùng với nỗ lực của chính mình, các doanh nghiệp ngành giấy vẫn đang rất cần được sự quan tâm đúng mức của Chính phủ, của xã hội bằng những cơ chế đặc thù riêng cho việc đầu tư phát triển. Chỉ có như vậy, ngành công nghiệp giấy mới hội đủ các điều kiện cần thiết để ổn định và phát triển, chủ động hội nhập vào khu vực,và thực sự trở thành ngành kinh tế chủ lực của công nghiệp Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một số giải pháp mà tác giả trình bày ở trên đây chỉ mang tính đề xuất, các doanh nghiệp trong ngành tùy thuộc vào đặc điểm, nguồn lực của mình mà sẽ xây dựng một cho riêng mình một chiến lược, giải pháp phù hợp, thích ứng với tình hình hoạt động kinh doanh của mình. Với tư duy và kiến thức còn hạn hẹp, nên giải pháp tác giả đưa ra có thể chưa phải tối ưu cho các doanh nghiệp giấy, nhưng tác giả mong rằng, những giải pháp đã đưa ra có thể có một tác dụng nhất định cho ngành và cho các doanh nghiệp của ngành trong cuộc cạnh tranh gay gắt với hàng hóa nước ngoài. ******* Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 82 - Tài liệu tham khảo 1. Trần Sửu, trường đại học ngoại thương. Giáo trình quản lý chất lượng hàng hóa và dịch vụ, năm 1999. 2. Nguyễn Trung Vãn, trường đại học ngoại thương. Giáo trình marketing lý thuyết. 3. Thời báo kinh tế Việt Nam các năm 2002, 2003. 4. Báo cáo tổng kết của tổng công ty giấy Việt Nam năm 2001, 2002. 5. Báo cáo kết quả sxkd 9 tháng đầu năm 2003 và dự báo kế hoạch sxkd năm 2004 của tổng công ty giấy Việt Nam. 6. Tạp chí công nghiệp giấy số 6 và số 9 năm 2003. 7. Tạp chí công nghiệp nhịp sống số cuối tháng năm 2003 8. Tạp chí công nghiệp số 6, 10, 14 năm 2003. 9. Quyết định số 160/QĐ-TTg, ngày 4-9-1998 về việc phê duyệt qui hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp giấy đến năm 2010. 10. Thời báo kinh tế Sài Gòn năm 2003. 11. Tạp chí cộng sản năm 2002, 2003. 12. Niên giám thống kê của tổng cục thống kê năm 2000 và 2001. 13. Trang web www.vinapimex.com.vn 14. Một số trang web khác: www.vir.com.vn, www.tapchicongsan.org.vn,.. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 83 -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ..pdf
Luận văn liên quan