Luận văn Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay

Với đường lối đúng đắn của Đảng, trong những năm vừa qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển con người. Mặc dù, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ phát triển chưa cao, song những thành tựu về xóa đói, giảm nghèo, về giáo dục, y tế cho con người đã đạt được những thành quả đáng trân trọng, thể hiện tính đúng đắn trong đường lối, đồng thời là kết quả của sự nỗ lực phấn đấu của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển con người ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân khách quan (về mặt kinh tế, xã hội, do hoàn cảnh lịch sử để lại), cả nguyên nhân chủ quan (sự đầu tư chưa có hiệu quả cao vào nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, xóa đói, nghèo cho nhân dân), mà trình độ sự phát triển con người ở nước ta còn nhiều hạn chế cần khắc phục.

pdf69 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5110 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật và tinh thần của nhân dân được nâng lên một bước đáng kể. Theo số liệu của "Báo cáo phát triển con người" (HDR) các năm 2001, 2004, 2005, chỉ số phát triển con người được nâng lên một bước đáng kể, phát triển đều theo thời gian. thể hiện: Năm 1990, chỉ số HDI là: 0,610. Năm 1995, chỉ số HDI là: 0,649. Năm 1997, chỉ số HDI là: 0,664. Năm 2000, chỉ số HDI là: 0,686. Năm 2002, chỉ số HDI là: 0,691. Năm 2003, chỉ số HDI là: 0,704 Trung bình mỗi năm, chỉ số phát triển con người ở nước ta tăng là 0,007. đặc biệt, từ năm 2002 đến 2003 tăng 0,013, cao hơn mức tăng trung bình là 0,005. Như chúng ta đã biết chỉ số HDI là phép tính trung bình của 3 chỉ số về thu nhập, giáo dục và tuổi thọ. ở nước ta, nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì thứ bậc xếp hạng HDI luôn luôn cao hơn. Ví dụ: Năm 1997: chỉ số HDI đứng hàng thứ 110/174 nước có thống kê, trong khi đó, thu nhập quốc dân GDP tính theo bình quân đầu người đứng vị trí thứ 133, tức là chỉ số HDI vượt lên 23 bậc so với GDP thu nhập bình quân tính theo đầu người. Năm 2002: chỉ số HDI đứng hàng thứ 112/177 nước có thống kê, trong khi đó, thu nhập quốc dân GDP tính theo bình quân đầu người đứng vị trí thứ 124, tức là chỉ số HDI vượt lên 12 bậc so với GDP thu nhập bình quân tính theo đầu người. Năm 2003,theo "Báo cáo phát triển con người 2005", chỉ số HDI đứng hàng thứ 108/177 nước có thống kê, trong khi đó, thu nhập quốc dân GDP tính theo bình quân đầu người đứng vị trí thứ 124, tức là chỉ số HDI vượt lên 12 bậc so với GDP thu nhập bình quân tính theo đầu người. Chỉ số giáo dục và sức khỏe tăng nhanh hơn so với chỉ số thu nhập. Thực tế có rất ít nước trên thế giới có sự chênh lệch dương (chỉ số HDI xếp ở đạt mức cao hơn so với GDP bình quân đầu người) về trình độ phát triển con người như ở nước ta. Nhiều nước trên thế giới còn có sự chênh lệch âm, kể các các ở các nước có chỉ số HDI ở trình độ cao như Luxembourg (chênh lệch - 14), Mỹ (chênh lệch - 4)… và các nước chậm phát triển có chỉ số HDI thấp thì sự chênh lệch này lại càng trầm trọng hơn như Guinea (chênh lệch - 30), Angola (chênh lệch - 38). Điều này khẳng định có nhiều quốc gia mặc dù có nền kinh tế phát triển cao song chưa chắc con người đã có điều kiện phát triển. So sánh đối chiếu thực tế con số trên đây ta thấy, thành tựu lớn nhất ở nước ta là với một quốc gia có thu nhập không cao, song sự phát triển con người đã đạt được nhiều thành tựu đáng nổi trội, với mức tăng ngày càng cao của chỉ số giáo dục và sức khỏe, thể hiện nét đặc thù ở Việt Nam với những tiến bộ rõ rệt trong phát triển con người. Đạt được những kết quả như vậy là nhờ Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến các chính sách về kinh tế - xã hội đối với con người, thể hiện cụ thể như: giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; thực hiện quá trình chuyển đổi từ phân phối bình quân trong thời kỳ bao cấp sang phân phối theo kết quả lao động là chủ yếu. Thực hiện công bằng xã hội là cơ sở để nhân dân phát huy được sức mạnh của các tầng lớp nhân dân đóng góp vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của chính nhân dân. Quan tâm tới giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội… cho toàn thể nhân dân, thể hiện sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, định hướng đúng mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta xây dựng. Để phát triển con người, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì trước tiên phải phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân. Sự tăng trưởng về kinh tế nước ta qua 20 năm đổi mới là cơ sở để nâng cao đời sống nhân dân, mà trước tiên là đời sống vật chất cho nhân dân. Đời sống nhân dân được cải thiện, ngày càng được nâng cao, một mặt thể hiện kết quả của sự tăng trưởng kinh tế ở nước ta, mặt khác, thể hiện tính đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, chính sách của Nhà nước vì mục tiêu nâng cao đời sống cho nhân dân. Theo thống kê trong "Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)", nếu từ năm 1986 đến 1996, chúng ta từng bước khắc phục sự khủng hoảng kinh tế - xã hội, thì từ năm 1996 đến nay đã đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của 10 năm (1990 - 2000) đạt 7,5%; năm 2000 so với năm 1990, GDP tăng hơn 2 lần. Trong 5 năm (2001 - 2005), GDP bình quân đã tăng gần 7,5%. Thu nhập bình quân đầu người năm 1990 là 200 USD tăng lên khoảng 600 USD vào năm 2005. Sự tăng trưởng này đã đóng góp to lớn vào việc đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa, xóa đói, giảm nghèo… nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. * Về giáo dục, đào tạo Cùng với sự tăng trưởng kinh tế là sự phát triển của giáo dục, đào tạo con người. Có thể nói trong 20 năm đổi mới vừa qua và đặc biệt trong những năm gần đây, với sự nhận thức về vị trí, vai trò của giáo dục - đào tạo trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước đã có những bước tiến bộ đáng kể. Coi giáo dục và đào tạo làm quốc sách hàng đầu, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư, ưu tiên cho giáo dục - đào tạo. Kết quả của những việc làm đó là: đã đưa nước ta trở thành nước có chỉ số phát triển giáo dục khá cao trong khu vực. Ví dụ, Năm 1997 là 0,82 (xếp thứ 53/174 nước), cao hơn mức trung bình trong khối các nước có chỉ số HDI trung bình là 0,10 (mức trung bình của khối là 0,72); Năm 2002 là 0,82 (xếp thứ 97/177 nước), cao hơn mức trung bình trong khối các nước có chỉ số HDI trung bình là 0,07 (mức trung bình của khối là 0,75). Năm 2003 là 0,82 (xếp thứ 101/177 nước), trong khi đó, mức trung bình trong khối các nước có chỉ số HDI trung bình là 0,75 (cao mức trung bình của khối là 0,07). (Theo "Báo cáo Phát triển con người" năm 2001, 2004 và 2005). Đây là một chỉ số khá cao, được xếp vào hạng khối các nước phát triển cao về giáo dục. Trong 20 năm đổi mới, "Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học" [41, tr. 80]. Cụ thể, năm 2000 cả nước đã đạt được chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đến giữa năm 2004, đã có tới trên 20 tỉnh thành đạt tới trình độ phổ cập giáo dục ở bậc trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi đạt 90% và trong những năm gần đây, tỷ lệ này có xu hướng ngày càng tăng, năm học 2003 - 2004 đạt 94,4%. Đến nay, tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã đạt tới 95%, đây là kết quả khá cao trong khu vực và trên thế giới. ("Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)") Đạt được những thành tựu đó là do Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Thể hiện, Nhà nước cũng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học, huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo theo hướng xã hội hóa, đầu tư cao cho giáo dục; đồng thời, thực hiện công bằng trong giáo dục cũng là một động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh của giáo dục Việt Nam. * Về lĩnh vực công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Đến nay, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ, thể hiện, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh được hạ thấp, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi ngày càng giảm. Cụ thể là, năm 1990 trẻ suy dinh dưỡng là 50%, đến năm 2002 giảm xuống còn 30% ("Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006)"). Việc Nhà nước miễn phí khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi là một thành tựu quan trọng trong việc đầu tư vào thế hệ trẻ. Các bệnh viện đã có nhiều cố gắng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong khám chữa bệnh. Tuổi thọ người dân Việt Nam cũng đã được nâng lên đáng kể, đó cũng là một thành tựu quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện con người của Đảng và Nhà nước ta. Nhờ những cố gắng trong công tác y tế mà đến nay tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng lên khá nhanh. Năm 1990 tuổi thọ trung bình là 63 tuổi đến nay tăng lên khoảng 71,3 tuổi (2005) ("Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)"). Cũng giống như chỉ số phát triển giáo dục, chỉ số tuổi thọ ở nước ta được xếp vào hạng cao trong khối các nước có chỉ số HDI trung bình. Chẳng hạn: Năm 1997, chỉ số tuổi thọ nước ta là: 0,71 xếp ở vị trí thứ 106/174 nước, dù chỉ số HDI ở vị trí thứ 110, cao hơn mức trung bình của khối là 0,02 (trung bình của khối các nước có chỉ số HDI trung bình là 0,69) Năm 2002, chỉ số tuổi thọ nước ta là: 0,73 xếp ở vị trí thứ 98/177 nước, dù chỉ số HDI ở vị trí thứ 112, cao hơn mức trung bình của khối là 0,03 (trung bình của khối các nước có chỉ số HDI trung bình là 0,70). Năm 2003 chỉ số tuổi thọ nước ta là: 0,76 xếp ở vị trí thứ 97/177 nước, dù chỉ số HDI ở vị trí thứ 108, cao hơn mức trung bình của khối là 0,06 (trung bình của khối các nước có chỉ số HDI trung bình là 0,70). Sự tăng nhanh về chỉ số tuổi thọ phản ánh mức độ tác động của yếu tố y tế trong việc nâng cao sức khỏe của nhân dân. Đạt được những thành tựu đó là do Đảng và Nhà nước đã có đường lối chính sách đúng cũng như việc đầu tư cho lĩnh vực sức khỏe và y tế cho con người, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có trình độ học thức cao, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước, thể hiện mục tiêu cao cả của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới. * Phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo là một thành tựu lớn nhất trong phát triển con người ở nước ta Thành tựu lớn nhất trong phát triển con người ở nước ta là thành quả của chương trình xóa đói, giảm nghèo. Đây là mục tiêu đầu tiên và là một mục tiêu quan trọng nhất trong Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goal - MDG) mà Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký năm 2000. Trong giai đoạn 2000 - 2005, công tác xóa đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và nước ta đạt được kết quả rất ấn tượng. Nếu tính theo tiêu chuẩn quốc gia, năm 1992 tỷ lệ hộ nghèo là 30% dân số, đến năm 2005, theo dự tính tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 7% dân số. Nếu tính theo tiêu chuẩn quốc tế (tính theo 1 đôla/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung ở nước ta đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002, nếu tính theo tiêu chuẩn mới (2 đôla/ngày/người), thì hộ nghèo năm 2004 còn 27,5% ("Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006"). Với thành tựu này, Việt Nam đã đạt được mục tiêu xóa bỏ tình trạng đói nghèo của năm 2015, nghĩa là vượt trước mục tiêu đề ra là 11 năm. Vì vậy, Việt Nam được coi là nước xóa bỏ tình trạng đói, nghèo nhanh nhất thế giới. Đạt được những thành tựu đó là do Đảng và Nhà nước ta đã "nhận thức sâu sắc việc xóa đói giảm nghèo có ý nghĩa kinh tế - xã hội, chính trị và nhân văn. Chính phủ Việt Nam luôn cam kết coi việc nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế, hướng tới người nghèo và đẩy lùi nghèo đói là một trong những ưu tiên hàng đầu" [32, tr. 9] 2.1.2.2. Những hạn chế về phát triển con người ở nước ta Mặc dù trong những năm vừa qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khá cao về phát triển con người. Tuy nhiên, cho đến nay, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển con người còn có một số hạn chế sau đây: * Chưa có sự phát triển nhanh, còn chậm hơn sự phát triển trung bình của khu vực Đến nay, nước ta đang đứng ở nhóm các nước có chỉ số HDI trung bình. nhìn vào vị trí xếp hạng ta thấy, chỉ số phát triển con người ở nước ta là chưa có sự tăng trưởng nhanh. Năm 1990 nước ta đứng ở vị trí 112 trong bảng xếp hạng chỉ số HDI, đến năm 2003, chúng ta mới vươn lên đứng ở vị trí thứ 108. Nếu chia trung bình về chỉ số của nhóm các nước phát triển trung bình về HDI thì đến nay Việt Nam vẫn thấp hơn mức trung bình của nhóm này. Ví dụ: năm 2002, chỉ số HDI trung bình của 86 nước trong nhóm là 0,695, trong khi đó, chỉ số HDI của Việt Nam là 0,691, đứng ở vị trí 67/86 nước trong nhóm; năm 2003, chỉ số HDI trung bình của 88 nước trong nhóm là 0,718, trong khi đó, chỉ số HDI của Việt Nam là 0,704, đứng ở vị trí 51/88 trong nhóm. Từ năm 2002 đến 2003, mức tăng trung bình của các nước trong khối là 0,023, trong khi đó Việt Nam chỉ tăng có 0,013, thấp hơn mức trung bình của khu vực là 0,01. Năm 2002 thấp hơn mức trung bình trong nhóm là 0,004, thì đến năm 2003 thấp hơn rất nhiều: 0,014. Con số này phản ánh trình độ phát triển con người của Việt Nam trong nhóm là còn thấp. Tuy nhiên, sự chỉ số phát triển con người ở nước còn thấp là do chỉ số thu nhập thập thấp chứ chỉ số tuổi thọ là khá cao, thậm chí chỉ số giáo dục là rất cao. Cho nên, sự so sánh với nước ngoài để đánh giá chỉ số phát triển con người chỉ là tương đối. * Chất lượng giáo dục thấp, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi Về mặt giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho con người hiện nay ở nước ta còn nhiều bất cập đó là sự phát triển không cân bằng về tỷ lệ người biết chữ và tỷ lệ nhập học của trẻ em giữa các tỉnh, thành phố, giữa các vùng, các dân tộc. Theo số liệu của "Báo cáo phát triển con người năm 2001", tỷ lệ nhập học đúng tuổi của trẻ em các dân tộc thiểu số là rất khác nhau, hiện nay, trẻ em dân tộc H’mông là 41,5%, dân tộc Tày là 95%. ở các vùng xa xôi hẻo lánh có khoảng 10% trẻ em trong độ tuổi 6 - 14 tuổi chưa đến trường. Hiện nay, số trẻ em khuyết tật đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với cộng đồng xã hội, bao gồm các trẻ em khuyết tật bẩm sinh, các trẻ em chịu ảnh hưởng của chất độc màu da cam… có tỷ lệ đi học tương đối thấp, khoảng 33% trẻ em khuyết tật chưa bao giờ được đến trường, chỉ có 15% trẻ em khuyết tật học hết bậc học tiểu học. Hiện nay, mặc dù nước ta đạt tỷ lệ cao về số người biết chữ và số học sinh phổ thông, nhưng chất lượng giáo dục và đào tạo chưa cao, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, các vùng dân tộc ít người còn khá thấp, điều này thể hiện bằng số học sinh đỗ đại học, cao đẳng là rất thấp, tiêu biểu như các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Sơn La… Tình trạng "tái mù chữ" đang có xu hướng gia tăng, thể hiện chất lượng "xóa mù chữ" ở các tỉnh này là rất thấp, tạo nên con số ảo về số người biết chữ ở các tỉnh này, thể hiện quá trình đầu tư cho phát triển con người chưa có hiệu quả cao, khó đảm bảo tính bền vững trong mục tiêu phát triển con người trong thời gian tới. Đó chính là một trong những khó khăn, thách thức cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở khu vực nông thôn, miền núi, tạo nên sự chênh lệch về trình độ dân trí ngày càng cao giữa các tỉnh, các vùng, miền. * Các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân còn nhiều bất cập, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh một số tỉnh còn khá cao Trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho con người, mặc dù chúng ta đã đạt được nhiều tiến bộ, song bên cạnh đó, công tác chăm sóc sức khỏe cho con người còn nhiều hạn chế, những năm gần đây do giá thuốc và giá các dịch vụ y tế lên cao nên nhân dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc khám, chữa bệnh. ở các tỉnh miền núi, các dịch vụ y tế còn lạc hậu, xa khu dân cư. Vì vậy, chưa tạo được những điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Sự tăng giá thuốc và các dịch vụ y tế hiện nay là một thách thức rất lớn đối với người dân, đặc biệt là dân nghèo vốn chiếm tỷ lệ cao trong xã hội. Mặc dù hiện nay chúng ta đã giảm được 50% số người nghèo đói, song điều đó không có nghĩa là họ có đủ khả năng để vượt qua những thách thức, khó khăn và rủi ro nảy sinh trong cuộc sống, nhất là về mặt sức khỏe, lương thực. Tức là chưa có nền tảng cần thiết bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững trong thời gian tới. Hiện nay, tỷ lệ tử vong của bà mẹ giữa các vùng, khu vực trên cả nước có sự cách biệt: ở các tỉnh miền núi có thể cao gấp 10 lần so với các tỉnh, thành phố và khu công nghiệp. Theo báo cáo của Bộ Y tế, năm 2003, tỷ lệ tử vong ở bà mẹ ở tỉnh Bình Dương chỉ có 45 trường hợp, trong khi đó, ở tỉnh Cao Bằng là 411 trường hợp. Điều này thể hiện sự chênh lệch khá cao về trình độ phát triển con người trong lĩnh vực y tế, chúng ta chưa đạt được mục tiêu phát triển con người đồng đều giữa các khu vực trong cả nước. * Về lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo Thành tựu xóa đói, giảm nghèo còn chưa vững chắc, Việt Nam vẫn còn là nước nghèo, mức sống của người dân còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Năm 2004, thu nhập bình quân đầu người là 560 USD, đây là mức thu nhập chỉ nằm cận ngay trên của chuẩn nghèo quốc tế. Hiện nay tỷ lệ người nghèo ở vùng nông thôn là rất cao và đặc biệt là miền núi (95% số người nghèo sống ở nông thôn, miền núi), khoảng cách chênh lệch về số người nghèo giữa các tỉnh thành phố cũng rất lớn, Thành phố Hồ Chí Minh có số người nghèo chiếm 1,8% dân số, tỉnh Lai Châu chiếm 76% dân số điều này thể hiện sự phát triển con người người giữa các tỉnh thành phố là chưa cân đối. Sự khác biệt đói nghèo giữa các dân tộc còn lớn, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách và đầu tư nhiều về kinh tế, văn hóa, xã hội cho các vùng dân tộc, miền núi, nhưng tỷ lệ người nghèo ở các dân tộc ít người là cao nhất, tốc độ giảm nghèo cũng chậm hơn. Đến năm, 2002, số người nghèo ở các dân tộc ít người gấp ba lần người nghèo ở dân tộc Kinh. (Theo số liệu của "Việt Nam thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ"). Sự phân hóa giàu- nghèo trong khu vực cũng như giữa các khu vực, các dân tộc, tỉnh, thành có xu hướng ngày càng tăng không chỉ là sự thách thức cho sự phát triển con người, mà còn ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Tình trạng tái nghèo đã xuất hiện và đang có xu hướng phát triển, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, các vùng dân tộc thiểu số. Đời sống nhân dân ở các vùng miền núi còn rất nhiều khó khăn, họ vừa mới thoát khỏi tình trạng đói về thiếu lương thực, song, cuộc sống của họ vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Tình trạng đói nghèo luôn rình dập, những rủi ro do điều kiện tự nhiên tác động như hạn hán, lũ lụt luôn đe dọa đến đời sống của đồng bào khu vực này. Đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển bền vững mà trước tiên là đảm bảo những yêu cầu tối thiểu về đời sống ở các vùng này. 2.1.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế về phát triển con người ở nước ta Trong giai đoạn hiện nay, ở nước ta, sự phát triển con người còn nhiều hạn chế là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan sau đây: * Về nguyên nhân khách quan Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh. Cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu rất thấp, trước Cách mạng Tháng Tám 1945 nước ta có trên 90% dân số mù chữ, trận đói năm 1945 cướp đi sinh mạng hơn 2 triệu người. Sau khi đất nước thống nhất, mặc dù chúng ta đã xây dựng được cơ sở vật chất ban đầu cho chủ nghĩa xã hội. Song về cơ bản còn ở tình trạng kém phát triển, chưa có đủ điều kiện để nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần cho nhân dân. Điều kiện khách quan đó chi phối sự phát triển kinh tế, xã hội, tới tiến trình phát triển con người ở nước ta. Trong những năm đổi mới vừa qua, mặc dù nền kinh tế có tăng trưởng cao, song, "tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng; chất lượng tăng trưởng thấp; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế còn thiếu vững chắc; đời sống nhân dân ở nhiều vùng còn rất khó khăn" [14, tr. 112]. Khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi ngày càng doãng ra. Nền kinh tế ở các tỉnh miền núi tăng trưởng chậm, vì vậy, không có đủ các điều kiện để đầu tư xây dựng các công trình văn hóa, trường học, bệnh viện… để phục vụ nhu cầu văn hóa và tinh thần cho nhân dân. Sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam là do chính người dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng với một nước trên 80% là nông dân, chịu ảnh hưởng của thói quen, phong tục tập quán lạc hậu, trình độ dân trí thấp là gánh nặng cho ngành giáo dục, đào tạo trong việc nâng cao trình độ tri thức cho nhân dân, đặc biệt, đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Việc xây dựng trường lớp, tạo cơ sở vật chất ban đầu đã là khó khăn cho Nhà nước, thì việc vận động đồng bào cho con em đi học lại càng khó khăn hơn. Tình trạng con em các dân tộc học hành bỏ dở giữa chừng thường xuyên xảy ra ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, việc vận động con em đồng bào các dân tộc ít người đến trường còn phải thực hiện chương trình xóa mù chữ cho người lớn. Đây là một việc làm rất khó khăn cho Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là đối với ngành giáo dục ở địa phương. Cùng với những khó khăn về giáo dục trong nâng cao trình độ cho nhân dân là những khó khăn về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cho con người, với một quốc gia có dân số đông cũng là một gánh nặng đối với ngành y tế, đặc biệt là đối với vùng dân tộc thiểu số, nơi có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh lớn nhất. Do chịu ảnh hưởng của lối sống cũ, đồng bào ở một số vùng thường chữa bệnh tại nhà theo các biện pháp của những thầy mo nên số người tử vong vì những căn bệnh thông thường là rất lớn. Đây là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng tử vong cao, đặc biệt là tình trạng tử vong ở bà mẹ và trẻ em. Vì vậy, chỉ số tuổi thọ ở các tỉnh miền núi luôn thấp hơn ở các tỉnh đồng bằng và thành thị. Do ảnh hưởng bởi tư tưởng cũ lạc hậu, "trời sinh voi, trời sinh cỏ", trọng nam khinh nữ, phải có "con trai để nối dõi tông đường" đang làm cho tỷ lệ dân số tăng nhanh. Hiện nay tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở các hộ gia đình ở vùng nông thôn, miền núi vẫn là khá nhiều, họ chỉ chú ý đến việc sinh con trai và nhiều con chứ chưa chú ý đến chăm sóc sức khỏe lâu dài và hơn nữa cũng không có điều kiện để đảm bảo cuộc sống khỏe mạnh, chứ chưa nói tới sự việc học hành và tham gia vào xã hội. Dân số tăng nhanh là thách thức đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế. Vì vậy, khó có đủ các điều kiện để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. * Về nguyên nhân chủ quan Trong những năm qua, nền kinh tế có sự tăng trưởng nhanh, sự tăng trưởng đó là do Đảng và Nhà nước ta có đường lối chính sách đúng đắn trong tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, sự tăng trưởng đó chủ yếu là ở các tỉnh công nghiệp, các thành phố lớn, còn ở một số tỉnh đồng bằng, miền núi là rất chậm chạp. Có nhiều lý do để đánh giá sự tăng trưởng khập khiễng này, song trong những năm vừa qua, đầu tư của Nhà nước vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn chưa có hiệu quả cao. Điều này làm cho nền kinh tế ở các tỉnh chậm phát triển thì khó có thể thực hiện được mục tiêu xóa đói nghèo, nguy cơ tái nghèo xuất hiện, khó đảm bảo sự thành công và sự bền vững trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo, điều này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu về giáo dục, y tế cho nhân dân. Chính phủ và các cơ quan ban ngành mới chú ý đến việc hoàn thành mục tiêu của chương trình phổ cập giáo dục tiểu học chứ chưa thực sự quan tâm đến chất lượng giáo dục ở các tỉnh miền núi. Vì vậy, có nhiều hiện tượng học sinh miền núi học hết tiểu học mà chưa biết đọc, chưa làm được những phép tính thông thường. Các con số báo cáo của các tỉnh đã hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học là con số thiếu chính xác, có nhiều số ảo, không đánh giá đúng thực tế. Do chất lượng giáo dục thấp, nên học sinh khi học hết cấp khó có thể học tiếp lên bậc cao hơn; mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên cho con em vùng dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa… nhưng số học sinh thi đỗ vào các trường đại học và cao đẳng là rất thấp. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là do cơ quan chính quyền các tỉnh quá chạy theo bệnh thành tích nên đã không chú ý đến chất lượng giáo dục cho cho học sinh. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục là chất lượng dạy và học còn hạn chế, phương pháp dạy và học còn chưa phù hợp, tài liệu học tập còn ít, đơn điệu. Đội ngũ giáo viên còn thiếu ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, xa, trình độ hạn chế. Điều này là do điều kiện làm việc và ưu đãi cho giáo viên, chất lượng đào tạo chưa phù hợp… Chất lượng giáo dục con người thấp, cùng với nó là trình độ học vấn, lối sống cũ của đồng bào các dân tộc thiếu số đang là một thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và sự phát triển con người nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Chất lượng y tế và chăm sóc sức khỏe của nhân dân còn thấp, công tác khám chữa bệnh chưa được tổ chức thường xuyên, công tác xã hội hóa giáo dục chưa có hiệu quả. Chính sách dân số chưa được thực hiện một cách triệt để, tỷ lệ tăng dân số ở khu vực nông thôn và đặc biệt là ở miền núi, tập trung ở các vùng dân tộc thiểu số vẫn cao. Công tác giáo dục dân số chưa được xã hội hóa, chưa được các cấp, các ngành và các cơ quan đoàn thể quan tâm thường xuyên. 2.2. Một số giải pháp cơ bản để phát triển con người ở Việt nam hiện nay Một là, Tăng cường thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi. Xóa đói, giảm nghèo là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đây là điều kiện quan trọng, là nền tảng để phát triển con người, vì muốn phát triển con người thì trước tiên phải nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, trên cơ sở đó nâng cao trình độ dân trí, sức khỏe cho nhân dân. Thực tế cho thấy, khi người dân no đủ, họ mới chú ý đến việc chăm lo đến giáo dục, sức khỏe và mới có điều kiện tham gia vào các hoạt động xã hội trong những lĩnh vực nằm trong tiêu chí phát triển con người. Để thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo cần phải làm tốt những việc sau đây: - Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố, gắn với công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nông thôn và miền núi, trước hết là trong mặt trận nông nghiệp, nhằm phát triển kinh tế ở nông thôn, miền núi, giải quyết việc làm cho nhân dân. - Tiếp tục hoàn thiện chính sách xóa đói, giảm nghèo: + Tập trung trợ giúp các địa phương có nhiều hộ nghèo phát triển kinh tế thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có năng suất, giá trị cao. Phát triển kinh tế hàng hóa ở các khu vực này theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động trong công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao động nông nghiệp. + Tăng nguồn vốn tín dụng cho xóa đói, giảm nghèo, trợ giúp người nghèo sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, Nhà nước cần tạo điều kiện về mặt bằng kinh doanh, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. + Tăng cường bằng ngân sách Nhà nước vào các địa bàn khó khăn nhất như: vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới, hải đảo, các vùng dân tộc thiểu số, trước tiên là cơ sở hạ tầng giao thông, giáo dục, y tế… + Thực hiện tốt chính sách trợ giúp cho các nhóm người dễ bị tổn thương ở các vùng chịu nhiều thiên tai nhằm giảm thiểu những rủi ro, ngăn ngừa tình trạng tái nghèo ở các khu vực này. - Đẩy mạnh xã hội hóa công tác xóa đói, giảm nghèo, nhằm huy động các nguồn lực trong các tầng lớp dân cư, trong các cơ quan, xí nghiệp… Đồng thời, tăng cường dân chủ hóa, công khai hóa công tác xóa đói, giảm nghèo, đề cao tinh thần trách nhiệm, tính chủ động sáng tạo của các cấp chính quyền, xử phát nghiêm minh đối với những trường hợp làm thất thoát kinh phí trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Hai là, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nâng cao trình độ dân trí, trình độ nhận thức cho nhân dân, theo quan điểm của Đảng, là mục tiêu của phát triển con người, đồng thời là động lực cho sự phát triển con người. Muốn đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo xây dựng con người mới, đòi hỏi phải làm tốt những việc sau đây: - Thực hiện xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và tiến tới là trung học cơ sở trong cả nước. Đây là giải pháp quan trọng nhằm giúp đông đảo người nghèo có cơ hội tiếp cận với tri thức cơ bản, giúp họ nâng cao trình độ tri thức tri thức phổ thông, để học có đủ năng lực tham gia vào xã hội. - Nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, trong đó nâng cao trình độ giáo viên có ý nghĩa quyết định. Nhà nước phải có chính sách đãi ngộ giáo viên có trình độ, khuyến khích giáo viên công tác tại vùng sâu, vùng xa. - Thực hiện cải cách chương trình giáo dục, đào tạo và đổi mới cách dạy và học là yêu cầu bức xúc có tầm quan trọng hàng đầu trong đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta. Cụ thể: + Cải cách chương trình giáo dục sao cho đáp ứng yêu cầu tạo nền tảng tri thức cho sự phát triển con người toàn diện, đồng thời phù hợp với yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. + Đổi mới cách dạy và học phải chuyển từ hướng dạy học theo lối "áp đặt" sang hướng trang bị các phương pháp tiếp cận, thu nhận và xử lý các thông tin và tri thức nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. - Tăng cường giáo dục theo hình thức thường xuyên nhằm bồi dưỡng trình độ cho các tầng lớp nhân dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật trong các nhà trường, đặc biệt cần trang bị máy vi tính và các thiết bị giáo dục hiện đại, để học sinh tiếp cận với tri thức khoa học hiện đại, gắn học với hành, gắn lý luận với thực tiễn. Ba là, hoàn thiện hệ thống y tế, chương trình dân số. Mục tiêu trong những năm tới (từ nay đến năm 2010) là nâng cao chất lượng của các dịch vụ y tế cơ bản cho con người ở tất cả các vùng, miền, nhằm làm giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư, giữa các vùng miền, đảm bảo cho mọi người dân được chữa các bệnh thông thường, giảm nhanh tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em, thực hiện tốt chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình. Để thực hiện được mục tiêu trên cần phải thực hiện một số giải pháp sau: - Nhà nước phải tăng mức chi ngân sách đầu tư cho lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, trong đó ưu tiên đầu tư cho các vùng miền núi, hải đảo, đầu tư cho các chương trình phòng và chữa bệnh cho nhân dân như: sốt rét, bại liệt, lao… Đồng thời củng cố mạng lưới y tế ở các thôn, ấp… - Tăng cường xây dựng bộ máy y tế ngày càng vững mạnh thông qua việc đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ y, bác sĩ, đồng thời giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ này. - Mở rộng thông tin, tuyên truyền và giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho người dân về dân số, giới tính, cung cấp miễn phí các dụng cụ y tế phục vụ cho chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình. - Nâng cao chất lượng hoạt động của bảo hiểm y tế bằng các quy chế rõ ràng để mỗi người thấy rõ giá trị của bảo hiểm và tham tham gia tích cực vào lĩnh vực này. Bốn là, đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao để nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi. Phát triển con người là nâng cao văn hóa cho con người. Văn hóa là mục tiêu, nền tảng, là động lực của phát triển xã hội, phát triển con người. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân là nhiệm vụ, là trách nhiệm thường xuyên, lâu dài của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Để thực hiện được mục tiêu nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân, đặc biệt là người dân ở vùng nông thôn, miền núi, phải làm tốt một số nhiệm vụ sau đây: - Chính quyền địa phương phải kết hợp với nhân dân đầu tư xây dựng và nâng cấp các công trình văn hóa, nhà văn hóa, thư viện ở thôn, xóm, bản… để người dân có điều kiện tiếp xúc với kiến thức khoa học và trước tiên là kiến thức về dân số, về trồng trọt, chăn nuôi. - Các đoàn thể cần kết hợp đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ theo hướng phát huy các giá trị văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân này càng phong phú, đảm bảo cho sự phát triển con người toàn diện. - Nhà nước cẩn đẩy mạnh hoạt động quản lý văn hóa, kiên quyết đấu tranh chống mọi tư tưởng phản động, tiêu cực, đập tan âm mưu diễn biến hòa bình trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, đấu tranh chống các loại tiêu cực và tệ nạn xã hội. Năm là, đẩy mạnh công tác điều tra, báo cáo thường xuyên tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế… để đánh giá thực trạng của việc phát triển con người ở nước ta, đồng thời đưa ra những dự báo kịp thời, làm cơ sở cho Đảng và Nhà nước trong việc đề ra và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội vì định hướng phát triển con người, tiến bộ xã hội. Để thực hiện được những yêu cầu trên, cần phải làm tốt một số việc sau đây: - Các ngành phải có báo cáo thường xuyên, hàng tháng, hàng năm về thực trạng của sự phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế… một cách chính xác, khách quan. - Củng cố tổ chức, hoạt động của cơ quan điều tra, đánh giá các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế… Đồng thời, không ngừng đào tạo,bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ điều tra. Kết luận chương 2 Vấn đề con người và phát triển con người đã được Đảng ta quan tâm ngay từ khi mới ra đời, trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Thông qua quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đời sống nhân dân ngày được nâng cao cả về thể chất lẫn tinh thần. Đảng ta đã kế thừa, tiếp thu và phát triển những tư tưởng về con người và phát triển con người của C.Mác, Ph.Ăngghen; với việc nhận thức, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng đường lối và có chính sách đầu tư thích đáng vào phát triển con người, thể hiện tính nhân văn nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Với tính cách là thành viên của Liên hợp quốc, Chính phủ Việt Nam đã vận dụng sáng tạo và sử dụng có hiệu quả đầu tư (khoa học, kinh nghiệm, tài chính…) cho phát triển kinh tế, xã hội và con người; đã cam kết thực hiện thành công Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) vì sự phát triển con người và tiến bộ xã hội nói chung. Trong lời tựa cuốn: "Việt Nam thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ", Chủ tịch nước Trần Đức Lương khẳng định: Trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của mình, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đề ra các mục tiêu phát triển, các mục tiêu này về cơ bản phù hợp với các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) mà các vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các nước thành viên đã cùng nhau cam kết thực hiện tại Hội nghị Thượng đỉnh tháng 9 năm 2000. Việt Nam đã đưa các MDG đến gần hơn với các điều kiện của đất nước, lồng ghép các mục tiêu đó vào chiến lược và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch 5 năm và hàng năm; tạo ra khả năng cao hơn và có hiệu quả hơn trong việc huy động toàn dân thực hiện các mục tiêu; phù hợp với tiến trình và cam kết chung tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ [32] Trong 20 năm đổi mới vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển con người, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với phát triển con người. Mặc dù, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ phát triển thấp, song chúng ta đã đạt được những kết quả đáng trân trọng về chỉ số phát triển con người (HDI), đặc biệt được thể hiện ở chỉ số tuổi thọ và giáo dục luôn cao hơn các nước trong khu vực có chỉ số phát triển con người loại trung bình. Chất lượng người dân Việt Nam được nâng cao sẽ tạo sức mạnh cho dân tộc bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bước vào tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh và bền vững về kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong những năm qua, trong tiến trình phát triển con người ở nước ta còn có nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội, tới sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tới sự phát triển bền vững của cả cộng đồng nói chung. Để khắc phục những hạn chế đó, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội và toàn thể nhân dân thực hiện tốt những giải pháp về phát triển con người. Có như vậy, sự phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta mới đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển toàn diện con người. Kết luận Vấn đề con người từ lâu đã được nhiều ngành khoa học chú ý nghiên cứu, trong đó có triết học. Ngay từ khi ra đời, cả triết học phương Đông lẫn triết học phương Tây đã chú ý giải thích về cội nguồn của con người và đặt ra những yêu cầu phát triển con người. Tuy nhiên, do hạn chế bởi lịch sử, bởi lập trường giai cấp, các quan điểm triết học duy tâm cũng mới chỉ dừng lại ở việc lý giải sự phát triển con người ở khía cạnh tinh thần, ở "thế giới bên kia", còn các nhà triết học duy vật, mặc dù đề cao con người hiện thực, tìm mục tiêu phát triển con người ở chính thế giới hiện thực, song cũng chưa đặt ra được mục tiêu, con đường xóa bỏ tình trạng người áp bức, bóc lột người và cũng chưa đặt ra yêu cầu của phát triển con người như là một nhu cầu của thực tiễn, là mục tiêu của phát triển xã hội. Phải mãi đến khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, vấn đề giải phóng con người khỏi xã hội có áp bức, bóc lột giai cấp, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện mới được đặt ra như là một nhu cầu tất yếu của hiện thực, là mục tiêu của phát triển kinh tế, xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, muốn giải phóng, phát triển con người thì phải xóa bỏ hết mọi ách áp bức, bóc lột giai cấp, bóc lột con người. Nhiệm vụ trọng đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là phải tiến hành cuộc cách mạng lật đổ chế độ tư bản, xóa bỏ tình trạng người áp bức, bóc lột người, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, giải phóng sức sản xuất xã hội, nhằm mục tiêu cao nhất là phát triển con người. Tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện và phát huy vai trò làm chủ của con người trong xã hội với tính cách sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của con người, do con người và vì sự giải phóng của chính bản thân con người, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Sự ra đời quan điểm phát triển con người của Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) là bước ngoặt trong sự nhận thức về phát triển con người trong thế giới đương đại, với việc đặt con người vào vị trí trung tâm, lấy con người làm mục tiêu cao nhất của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, UNDP đã xây dựng một khái niệm phản ánh khá đầy đủ về mục tiêu phát triển con người, "phát triển con người là sự mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người và nâng cao năng lực lựa chọn của con người" trong việc tham gia vào các hoạt động xã hội. Chương trình này đã quan tâm đến sự phát triển toàn diện, bền vững của cả cộng đồng người, không phân biệt dân tộc, giai cấp, tôn giáo… nó chú ý nhiều đến các tầng lớp dân cư có số đông, đặc biệt là những nhóm dân cư dễ bị tổn thương như người nghèo, người sống ở khu vực miền núi, những người ít được hưởng những thành quả của xã hội hiện đại. Vì vậy, quan điểm này mang tính nhân văn sâu sắc. Để đánh giá sự tiến bộ xã hội, sự phát triển con người, UNDP đã lượng hóa, đưa ra thước đo (chỉ số HDI) làm công cụ đánh giá trình độ phát triển con người ở các quốc gia, cùng với các quốc gia đánh giá thực trạng phát triển con người, để từ đó cùng với nhà nước, chính phủ phấn đấu thực hiện những Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), những mục tiêu liên quan đến phát triển con người vì sự công bằng, bình đẳng, văn minh và tiến bộ nhân loại. Vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam nhiệt tình ủng hộ và tham gia tích cực vào chương trình này vì sự tiến bộ của Việt Nam, cũng như sự tiến bộ của nhân loại. Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo những quan điểm về phát triển con người của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể Việt Nam. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng đã luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng con người mới, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước khắc phục những khó khăn về kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân với những thành tựu vượt trội về phát triển con người. Trong các thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, mặc dù phải giải quyết nhiệm vụ dân tộc, song, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến xây dựng, phát huy vai trò, quyền làm chủ của con người mới xã hội chủ nghĩa. Mặc dù, có những thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta mắc phải một số sai lầm trong đường lối, chính sách đối với con người, song đã kịp thời sửa chữa. Đại hội VI của Đảng ra đời, mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ sau Đại hội VII của Đảng, trong nhiều Nghị quyết Trung ương, vấn đề con người và phát triển con người luôn được Đảng ta đặt vào vị trí trung tâm chiến lược kinh tế - xã hội, với tính cách con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Là thành viên của Liên hợp quốc, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và thực hiện công ước quốc tế vì sự tiến bộ của cả nhân loại, Đảng và Nhà nước ta đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm của UNDP về phát triển con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. Với đường lối đúng đắn của Đảng, trong những năm vừa qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển con người. Mặc dù, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ phát triển chưa cao, song những thành tựu về xóa đói, giảm nghèo, về giáo dục, y tế cho con người đã đạt được những thành quả đáng trân trọng, thể hiện tính đúng đắn trong đường lối, đồng thời là kết quả của sự nỗ lực phấn đấu của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển con người ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân khách quan (về mặt kinh tế, xã hội, do hoàn cảnh lịch sử để lại), cả nguyên nhân chủ quan (sự đầu tư chưa có hiệu quả cao vào nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, xóa đói, nghèo cho nhân dân), mà trình độ sự phát triển con người ở nước ta còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Để thực hiện được mục tiêu phát triển con người ở nước ta hiện nay cần phải hệ thống những giải pháp mà trước tiên là những giải pháp cơ bản nhằm phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế về phát triển con người. Thực hiện đầy đủ những giải pháp này sẽ đảm bảo sự định hướng đúng đắn trong mục tiêu của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và con người và vì sự phát triển toàn diện của con người. Danh mục Tài liệu tham khảo 1. Đặng Quốc Bảo (2002), "Tính tương thích giữa phát triển giáo dục và phát triển kinh tế trong phát triển con người ở Việt Nam", Nghiên cứu con người (2), tr 45 - 48. 2. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thúy Hằng (2003), "Nghiên cứu phát triển con người (HD), chỉ số phát triển con người (HDI) ở nước ta và những vấn đề đặt ra cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển của Thiên niên kỷ (MDG)", Nghiên cứu con người (1), tr 54 - 61. 3. Hoàng Chí Bảo (1996), "Chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực mang đặc trưng khoa học và cách mạng", Triết học (2), tr. 16 - 18. 4. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề về triết học - con người - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (2000), Báo cáo phát triển con người 1999, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Cao Đức Dũng (2002), Vị trí của vấn đề con người trong triết học Mác - Lênin, Luận văn thạc sĩ triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I V, Nxb Sự thật, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung Ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, ban tổng kết chỉ đạo lý luận (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 15. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 16. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 17. Phạm Minh Hạc (2002), "Phát triển con người và chỉ số phát triển con người (HDI) một tư tưởng nhân văn quan trọng trong quản lý xã hội - kinh tế ngày nay", Nghiên cứu con người (3), tr. 3 - 7. 18. Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý (đồng chủ biên) (2002), Nghiên cứu con người, đối tượng và những phương hướng chủ yếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 19. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1998), Sống mãi với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 20. Đoàn Văn Khái (1995), "nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Triết học (4), tr. 20 - 23. 21. Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người và sự nghiệp giải phóng con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 22. Trường Lưu (1993), "Hai mặt trong tư tưởng giải phóng con người của học thuyết Mác: sự cống hiến vĩ đại và những luận điểm phải bị vượt qua", Triết học (3), tr 7 - 12. 23. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 24. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 25. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 26. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 28. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 29. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 30. Ngân hàng thế giới (2003), Báo cáo phát triển thế giới 2003: Phát triển bền vững trong một thế giới năng động, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 31. Ngân hàng thế giới (2004), Báo cáo phát triển thế giới 2004: Cải thiện các dịch vụ để phục vụ người nghèo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 32. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Việt Nam thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, (Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn bản số 4947/VPCP-QHQT, ngày 01 tháng 9 năm 2005) 33. Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2002), "Con người là trung tâm: sự khác biệt giữa hai quan điểm tiêu biểu", Triết học (11), tr. 18 - 27. 34. Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2003), Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph. Ăngghen, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 35. Hồ Sĩ Quý (2005), Về giá trị và giá trị châu á, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 36. Vũ Minh Tâm (chủ biên) (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 37. Lê Hữu Tầng (1993), "Tư tưởng của C.Mác về công bằng và bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội", Triết học (2), tr. 27 - 31. 38. Nguyễn Thanh (1996), "Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay", Triết học (5), tr. 7 - 10. 39. Bùi Tất Thắng (2002), "Nhà nước và sự phát triển con người trong quá trình đổi mới ở Việt Nam", Nghiên cứu con người, (2), tr. 20 - 26 40. Đặng Hữu Toàn (1997), "Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu phát triển con người ở nước ta hiện nay", Triết học, (1), tr. 3 - 5. 41. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (1999), Phát triển con người - từ quan niệm đến chiến lược và hành động, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 42. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2001), Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001: Đổi mới và sự nghiệp phát triển con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 43. Nguyễn Anh Tuấn (2003), "Bước đầu tìm hiểu quan niệm của C. Mác về tha hóa", Nghiên cứu con người (1), tr 15 - 24. 44. Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 45. UNDP (2004), Human Development report 2004. United Nations Development Programme, 1 UN Plaza, New York, New York, 10017, USA. 46. UNDP (2005), Human Development report 2005. United Nations Development Programme, 1 UN Plaza, New York, New York, 10017, USA. 47. Nguyễn Trọng Xuân (2002), "Một số vấn đề về đói, nghèo của nhóm, hộ thuộc diện khó khăn nhất trong cộng đồng ở nông thôn Việt Nam", Nghiên cứu con người (3), tr. 38 - 44. 48. 49. Mục lục 50. Trang Mở đầu 1 Chương 1: Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người 10 1.1. Quan điểm phát triển con người trong lịch sử triết học trước Mác 10 1.2. Quan điểm phát triển con người trong triết học Mác - Lênin 15 1.3 Quan điểm phát triển con người của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) 22 Chương 2. Thực trạng phát triển con người và một số giải pháp cơ bản để phát triển con người ở Việt Nam hiện nay 39 2.1. Thực trạng phát triển con người ở Việt Nam hiện nay 39 2.2. Một số giải pháp cơ bản để phát triển con người ở Việt Nam hiện nay 63 Kết luận 70 Danh mục Tài liệu tham khảo 74

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay.pdf
Luận văn liên quan