Nội dung chương 1 Luận văn MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
Do vấn đề bản quyên nên giá của luận văn có giá hơi cao, nhưng rất cần thiết cho các bạn chọn đề tài tương tự.
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3092 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa thị trường theo chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng từ Đại hội VI (12/1986), Việt Nam bắt đầu thực hiện mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, đem lại những thành quả to lớn về kinh tế và xã hội. Nền kinh tế nước ta có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh kinh tế đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng đến các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp xảy ra trong thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Pháp luật Việt Nam nói chung, cũng như pháp luật thương mại nói riêng đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hoà giải, toà án hay trọng tài. Trên thế giới, phương thức giải quyết bằng trọng tài được áp dụng rất rộng rãi nhưng ở Việt Nam thì phương thức giải quyết tranh chấp này vẫn còn những hạn chế nhất định. Nguyên nhân chủ yếu là do pháp luật nước ta còn những quy định chưa phù hợp và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tế, trong đó tiêu biểu là các quy định về việc hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại trong quá trình giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên nước ta đang từng bước hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài, tiêu biểu là sự ra đời của Luật trọng tài thương mại năm 2010 cơ bản đã khắc phục được những điểm chưa phù hợp của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
Nước ta đang thực hiện chủ trương khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài thương mại khi phát sinh tranh chấp giữa các bên. Vấn đề trên xuất phát từ nhu cầu của các chủ thể kinh doanh, các thể nhân, pháp nhân muốn giải quyết việc tranh chấp của mình một cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả, đồng thời cũng góp phần giảm tải công việc cho Toà án. Toà án và trọng tài thương mại tồn tại độc lập nhau nhưng có mối quan hệ hỗ trợ mật thiết với nhau. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật trọng tài, đặc biệt là quy định rõ ràng về mối quan hệ hỗ trợ của Cơ quan tư pháp đối với trọng tài là một vấn đề cấp thiết. Từ những lập luận trên, Người viết đã chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Phạm vi nghiên cứu:
Quy định pháp luật về trọng tài thương mại rất rộng do đó việc nghiên cứu, tìm tài liệu còn hạn chế, đề tài nghiên cứu có giới hạn, thời gian làm đề tài ngắn, thêm vào đó trong thời gian làm đề tài thì Luật trọng tài thương mại 2010 mới có hiệu lực và được áp dụng vào thực tế chưa lâu (thời gian từ khi bắt đầu làm luận văn đến khi báo cáo luận văn) nên Người viết chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về cơ chế hỗ trợ của Cơ quan tư pháp (Toà án, Cơ quan thi hành án) đối với hoạt động của trọng tài thương mại trong quá trình giải quyết tranh chấp, cụ thể được quy định trong Luật trọng tài thương mại 2010 trên cơ sở so sánh với PLTTTM 2003, Luật mẫu Uncitral và Luật trọng tài của một số nước trên thế giới.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Luận văn hướng tới mục đích là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về trọng tài thương mại hiện hành trong việc hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại của Cơ quan tư pháp, nêu lên thực trạng, bất cập của pháp luật, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiệnn pháp luật về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại của Cơ quan tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, Người viết sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp liệt kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích luật viết, tổng hợp để thực hiện việc nghiên cứu đề tài.
Nghiên cứu qua sách báo và tạp chí, những bài bình luận khoa học pháp lý về vấn đề hỗ trợ tư pháp đới với hoạt động của trọng tài thương mại.
Bố cục của luận văn
Luận văn trình bày gồm những phần:
Mục lục.
Lời mở đầu.
Chương 1: Khái quát chung về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và sự cần thiết của việc hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Chương 2: Cơ sở lý luận và pháp lý về việc hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Kết luận vấn đề.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Khái quát chung về trọng tài thương mại
Khái niệm trọng tài thương mại
Trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp theo đó các bên đưa những tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đua ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt của trọng tài viên, với tư cách là một bên tứ ba độc lập nhằm chấm dứt các xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện.
Theo Pháp lệnh trọng tài thương mại được Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI thông qua ngày 25 tháng 2 năm 2003, có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2003 (PLTTTM 2003) được hiểu là: Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định.
Theo Luật trọng tài thương mại 2010 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2011 (sau đây gọi tắt là Luật trọng tài thương mại 2010) được hiểu là: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010.
Có thể hiểu rằng, trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận đưa các tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp theo một trình tự tố tụng nhất định.
Đặc điểm của trọng tài thương mại
Từ những mô hình tổ chức và hoạt động của trọng tài thương mại của một số nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có thể đưa ra một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, trọng tài thương mại là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động theo pháp luật và quy chế về trọng tài thương mại. Thuật ngữ trọng tài phi Chính phủ không có nghĩa là cơ quan trọng tài này sẽ không chịu sự quản lý, giám sát của Nhà nước. Phi Chính phủ là để phân biệt với một cơ quan tài phán Nhà nước, có quyền lực Nhà nước. Nhà nước không can thiệp sâu vào các hoạt động của các cơ quan trọng tài, nhưng sẽ thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua hệ thống các quy định pháp luật, cũng như những tác động khác như tham gia điều ước quốc tế, đào tạo, hỗ trợ kinh phí và cơ sở vật chất… Các quy định của Nhà nước nói chung đều có tác động theo hai hướng tích cực, tiêu cực đến hiệu quả giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài là sự kết hợp của hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Trước tiên, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của pháp luật về trọng tài. Cũng giống như các phương thức giải quyết tranh chấp khác, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng có một số nguyên tắc nhất định. Một trong những nguyên tắc cơ bản của trọng tài đó là thẩm quyền được hình thành từ ý chí thoả thuận của các bên tranh chấp. Ý chí đó thường được thể hiện dưới dạng các thoả thuận bằng văn bản hay còn gọi là thoả thuận trọng tài. Do vậy, thoả thuận trọng tài giữa các bên chính là luật trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho trọng tài. Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, bắt buộc các bên đương sự phải thi hành. Do đó, nhìn ở một gốc độ nào đó thì quyết định của trọng tài cũng có tính chất như quyết định của cơ quan tài phán công.
Thứ ba, theo pháp luật của nhiều nước và theo pháp luật Việt Nam điều ghi nhận sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc tổ chức và hoạt động của trọng tài thương mại. Tòa án hỗ trợ trọng tài về các nội dung như: thông qua trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài thương mại, Tòa án đảm bảo các quyết định của trọng tài thương mại được thực thi trên thực tế khi các bên tranh chấp không tự nguyện thi hành, Tòa án hỗ trợ trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản, cấm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản đang tranh chấp, chỉ định trọng tài viên. Nhìn chung, mỗi quốc gia áp dụng các quy tắc tố tụng trọng tài khác nhau nhưng về cơ bản các quy tắc này cũng có nhưng điểm chung do hầu hết các trung tâm trọng tài trên thế giới đều xây dựng dựa trên khuôn mẫu của Luật trọng tài mẫu UNCITRAL Luật trọng tài mẫu quốc tế của UNCITRAL thông qua tháng 12/1966 tại khóa họp thứ XXI Đại hội đồng liên hiệp quốc.
.
Thứ tư, trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức cơ bản đó là trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế.
Thứ năm, phán quyết của trọng tài thương mại có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất kì cơ quan, tổ chức nào. Trọng tài chỉ xét xử 1 lần và phán quyết có giá trị chung thẩm, và nếu không bị hủy thì phán quyết được chuyển sang ngay Cơ quan thi hành án. Đó chính là lý do doanh nghiệp thích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vì tranh chấp được giải quyết rất nhanh. Hai bên có thể thỏa thuận yêu cầu trọng tài giải quyết trong 1 - 2 tháng, còn nếu đưa ra Tòa án có thể mất vài năm.
Phân loại trọng tài thương mại
Nhìn chung, trọng tài ở nhiều nước trên thế giới thường tổ chức dưới hai hình thức là trọng tài Ad-hoc (trọng tài vụ việc) và trọng quy chế (trọng tài thường trực). Trọng tài Việt Nam cũng được phân thành hai hình thức bao gồm:
Trọng tài Ad-hoc (trọng tài vụ việc): là hình thức trọng tài do các bên thành lập để giải quyết cho từng vụ tranh chấp mà họ yêu cầu. Sau khi vụ việc đã được giải quyết xong thì trọng tài Ad-hoc sẽ tự giải tán.
Trọng tài quy chế (trọng tài thường trực): là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động thường xuyên, có điều lệ, có quy tắc tố tụng riêng, có bản danh sách trọng tài viên.
Cả hai điều được thành lập để giải quyết các tranh chấp mà các bên thỏa thuận lựa chọn và trong những lĩnh vực pháp luật cho phép (hoặc không cấm) đều là tổ chức phi chính phủ (không có tính chất quyền lực nhà nước). Giữa chúng có các điểm khác nhau cơ bản sau:
- Về mặt thời gian: trọng tài thường trực hoạt động thường xuyên, trong khi đó trọng tài sự việc chỉ được các bên thành lập để giải quyết một tranh chấp nhất định và khi giải quyết xong thì chấm dứt hoạt động.
- Về quy chế tổ chức và hoạt động: trọng tài thường trực có quy chế tổ chức và hoạt động định sẵn (các bên tranh chấp không có quyền tham gia xây dựng, sửa đổi) trong khi đó quy tắc thành lập và hoạt động của trọng tài vụ việc do các bên xây dựng.
- Về quy tắc tố tụng: trọng tài thường trực có quy tắc tố tụng riêng của mình (đối với một số tổ chức trọng tài thường trực, khi các bên lựa chọn các tổ chức này thì có nghĩa là các bên chọn quy tắc tố tụng của tổ chức đó, đối với một số tổ chức khác, các bên có thể lựa chọn các quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài thường trực khác) trong khi đó trọng tài sự việc không có quy tắc tố tụng định sẵn mà các bên phải thỏa thuận xây dựng (có thể thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng của trọng tài thường trực nào đó để áp dụng thay cho việc xây dựng).
- Về đội ngũ trọng tài: trọng tài thường trực có sẵn đội ngũ trọng tài viên để các bên lựa chọn, còn trọng tài sự việc không có (các bên phải thỏa thuận trên cơ sở phù hợp với pháp luật).
Vai trò của trọng tài thương mại
Trong kinh doanh, không một doanh nghiệp, cá nhân nào không muốn đạt được lợi nhuận cao nhất, cùng với sự đồi hỏi về giữ bí mật kinh doanh, vấn đề giải quyết tranh chấp diễn ra phải nhanh chóng và tiết kiệm chi phí nhất. Do đó, trọng tài là một phương thức giải quyết tối ưu mà họ có thể lựa chọn. Bên bên cạnh đó trọng tài góp phần làm giảm tải công việc cho Tòa án khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển thì các tranh chấp xảy ra ngày càng phổ biến.
Sự ra đời của trọng tài thương mại là một tất yếu trong việc đa dạng hoá các cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong vấn đề kinh tế. Theo đó, các nước trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, ngoài Toà án, đều có một cơ quan tài phán khác là trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại giúp giải quyết nhanh gọn và hiệu quả các tranh chấp góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong mỗi quốc gia, và trên phạm vi quốc tế. Ở nước ta hiện nay, việc mở rộng khả năng, cơ hội cho các nhà sản xuất kinh doanhthì việc sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam với cộng đồng quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội.
Khái quát chung về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Lịch sử hình thành và phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Sự hình thành và phát triển của trọng tài trước khi có Luật trọng tài thương mại 2010
Giai đoạn trước khi PLTTTM 2003 có hiệu lực
Trước khi có PLTTTM 2003, ở Việt Nam tồn tại hai loại hình trọng tài, bao gồm trọng tài kinh tế nhà nước và trọng tài phi Chính phủ.
Đối với trọng tài kinh tế nhà nước
Trọng tài kinh tế nhà nước là mô hình trọng tài do Nhà nước lập ra, có có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước Ths. Vũ Ánh Dương: Dự án Luật trọng tài thương mại và sự tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, trang tin Tạp chí nghiên cứu lập pháp:
. Như vậy, thực chất, trọng tài kinh tế nhà nước là cơ quan của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nhà nước. Mô hình này được hình thành đầu tiên bằng Nghị định số 20/TTg Nghị định 20/TTg ngày 14 tháng 4 năm 1960 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tê nhà nước.
ngày 14/4/1960. Sau đó, được nâng lên bằng Pháp lệnh trọng tài kinh tế nhà nước năm 1990 Pháp lệnh trọng tài kinh tế nhà nước
, theo đó, trọng tài được tổ chức ở ba cấp, đó là trọng tài kinh tế nhà nước, trọng tài kinh tế tỉnh và trọng tài kinh tế huyện. Mô hình này tồn tại đến năm 1993 và bị thay thế bởi hệ thống Tòa án kinh tế theo Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức Tòa án năm 1993 Luật tổ chức Tòa án
. Bắt đầu từ thời điểm này, các Tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Đối với trọng tài phi chính phủ:
Trọng tài phi Chính phủ là là một tổ chức độc lập, không phu thộc vào hệ thống các cơ quan nhà nước. Nó có thể được thành lập ở dạng các công ty hoặc các hiệp hội trọng tài. Mô hình này phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường. Ví dụ: Hiệp hội trọng tài Mỹ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản, Tòa án trọng tài quốc tế Luân Đôn.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn này tồn tại hai mô hình trọng tài khác nhau, cụ thể là Hội đồng trọng tài ngoại thương và Trung tâm trọng tài kinh tế.
Hội đồng trọng tài ngoại thương
Năm 1963, Hội đồng trọng tài ngoại thương ra đời bằng Nghị định 59/CP ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ về việc thanh lập Hộ đồng trọng tài ngoại thương. Tiếp sau sự ra đời của Hội đồng trọng tài ngoại thương là sự ra đời của Hội đồng trọng tài hàng hải khi Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định 153/CP ngày 5/10/1964 về việc thành lập Hội đồng trọng tài hàng hải. Hai tổ chức trọng tài trên có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong mua bán ngoại thương và hoạt động hàng hải có ít nhất một bên là chủ thể nước ngoài. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải được hợp nhất lại và đổi tên thành Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam (VIAC) đặt bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam bởi Quyết định 204-TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
Trung tâm trọng tài kinh tế
Hàng loạt các trung tâm trọng tài kinh tế ra đời sau khi Nghị định 116/CP Nghị định 116/CP ngày 5 tháng 9 năm 1994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế.
có hiệu lực. Có năm trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định này: 02 trung tâm trọng tài tại thành phố Hà Nội, 01 trung tâm trọng tài tại thành phố Hồ Chí Minh, 01 trung tâm trọng tài tại thành phố Cần Thơ và 01 trung tâm trọng tài tại tỉnh Bắc Giang).
Như vậy, tuy các trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định 116/CP mang bản chất là hình thức trọng tài phi Chính phủ, nhưng lại chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản khác nhhau. Cụ thể, VIAC hoạt động theo Quyết định 204/TTg, còn 05 trung tâm trọng tài lại được thành lập và hoạt đọng theo quy định của Nghị định 116/CP. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật điều chỉnh ở giai đoạn này đều có giá trị pháp lý thấp, mới dừng ở mức cao nhất là Nghị định. Nội dung văn bản còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ và chưa có cơ chế bảo đảm cần thiết để hành hành có hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng do cơ bản là do được ban hành trong bối cảnh nước ta đang chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì đây là một khái niệm hoàn toàn mới, chưa hề có trong thực tiễn Việt Nam. Đã có thời chúng ta loay hoay với những khái niệm như thế nào là trọng tài kinh tế, trọng tài thương mại, tiêu chí nào để xác định đó là tranh chấp khinh tế, tranh chấp kinh doanh hay tranh chấp thương mại TS. Dương Văn Hậu: Một số vấn đề và lý luận và thực tiễn của trọng tài thương mại Việt Nam, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật.
… Thêm vào đó, các văn bản pháp luật về trọng tài, chưa đề cập đến các chế định cơ bản của trọng tài như: vấn đề thỏa thuận trọng tài, sự hỗ trợ cần thiết của Cơ quan tư pháp… Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực thương mại chưa đồng bộ, chưa điều chỉnh kịp thời các quan hệ thương mại phát sinh trong thực tiễn.
Giai đoạn từ khi Pháp lệnh trọng tài thương mại có hiệu lực
Pháp lệnh trọng tài thương mại được Quốc hội thông qua ngày 25/3/2003 và có hiệu lực ngày 1/7/2003, sau sáu năm chuẩn bị, soạn thảo trên mười dự thảo, tiến hành nhiều hội thảo lấy ý kiến. Sự ra đời của Pháp lệnh là một bước hoàn thiện đáng kể pháp luật về trọng tài thương mại ở nước ta. Về cơ bản Pháp lệnh đã khắc phục được những khiếm khuyết, hạn chế trong các quy định của pháp luật tròng tài thương mại mà theo đánh giá của nhiều nhà nguyên cứu chính những khiếm khuyết, hạn chế đó là nguyên nhân chủ yếu làm giảm sút đáng kể sự hấp dẫn của chế định trọng tài trong thực tiễn giải quyết tranh chấp nảy sinh trong quá trình kinh doanhTS. Nguyễn Thái Phúc: Một số ý kiến về Pháp lệnh trọng tài thương mại, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
. Trong bối cảnh Pháp lệnh được ban hành vào thời điểm Luật Thương mại 1997 vẫn đang có hiệu lực nhưng các nhà lập pháp đã mạnh dạn đưa khái niệm thương mại theo hướng mở, tương thích với Luật mẫu về trọng tài Thương mại UNICITRAL, mà không “bó buộc” trong 14 hành vi quy định trong Luật Thương mại 1997. Đây được coi là bước “đột phá” trong công tác lập pháp vào thời điểm này. Có thể nói, PLTTTM 2003 đã khắc phục hầu hết các bất cập trong các quy định trước đây đặc biệt là các quy định về sự hỗ trợ, giám sát của Tòa án, Cơ quan thi hành án trong quá trình giải quyết tranh chấp và thi hành quyết định trọng tài. Vấn đề này đã góp phần là cho các doanh nghiệp tin tưởng lựa chọn và sử dụng trọng tài nhiều hơn.
Sự hình thành và phát triển của trọng tài từ khi Luật trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực cho đến nay:
Qua gần 10 năm thực hiện, PLTTTM 2003 đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập và cần được khắc phục kịp thời. Những vấn đề cần được xem xét hoàn thiện như: thỏa thuận trọng tài vô hiệu, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, việc triệu tập nhân chứng, vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, việc hủy quyết định trọng tài mà đặc biệt là cơ chế hỗ trợ của Tòa án, Cơ quan thi hành án đối với các quyết định của trọng tài.
Để khắc phục những bất cập trong một số quy định của PLTTTM 2003, Luật trọng tài tài thương mại đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2011. Luật trọng tài Thương mại được ban hành trong điều kiện đất nước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới, vì thế đã giúp cho Pháp luật về trọng tài của Việt Nam tiến gần hơn tới các chuẩn mực quốc tế, đưa hoạt động của trọng tài thương mại tại Việt Nam sẽ bước sang một giai đoạn phát triển mới.
Pháp lệnh trọng tài thương mại đặt dấu ấn đầu tiên trong hệ thống văn bản pháp lý về lĩnh vực tranh chấp thương mại, nhưng cũng có một số hạn chế. Để khắc những hạn chế này, Luật trọng tài Thương mại đã có những thay đổi rất mới. Thứ nhất, tính an toàn với thỏa thuận trọng tài của Luật cao hơn Pháp lệnh trọng tài. Tính vô hiệu của thỏa thuận trọng tài cũng được hạn chế bớt để gần gũi hơn với thực tiễn trọng tài thương mại. Thứ hai, hội đồng trọng tài cũng được thêm một số quyền, chẳng hạn như quyền được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trực tiếp. Thứ ba, hội đồng trọng tài có thể triệu tập các nhân chứng để hỗ trợ cho trọng tài. Ngoài ra, điểm khiến phán quyết trọng tài trở nên hấp dẫn hơn, đó là căn cứ để hủy phán quyết trọng tài rõ ràng minh bạch hơn. Luật cũng mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài (như được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng) và giảm nguy cơ phán quyết của trọng tài bị Tòa án tuyên hủy. Trước đây, không ít bên thua kiện không muốn thi hành phán quyết, trọng tài có thể yêu cầu Tòa án hủy nhưng do một số nhược điểm nên căn cứ hủy có thể bị lạm dụng. Theo Luật, tính minh bạch của căn cứ hủy phán quyết trọng tài được nâng lên mức cao hơn.
Khái niệm và ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài:
Khái niệm phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại:
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất phi nhà nước thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết xung đột băng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. Trọng tài là phương thức do các bên thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 thì “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này Khoản 1 điều 3, Luật trọng tài thương mại 2010.
”. Theo đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài bao gồm tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, tranh chấp giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại, hoặc các tranh chấp mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài Điều 2, Luật trọng tài thương mại 2010.
. Với quy định như trên, Luật trọng tài thương mại 2010 đã thể hiện sự tiến bộ khi mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài so với PLTTTM 2003, nó không còn gói gọn trong phạm vi hoạt động thương mại mà còn mở rộng sang các hoạt động khác.
Ngoài ra, trọng tài còn được hiểu theo cách hiểu chung nhất là cơ quan xét xử do các bên thành lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên và trong lĩnh vực mà pháp luật quy định để giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Trọng tài được thành lập theo định nghĩa trên thường được dùng để chỉ các trọng tài thương mại ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, các tranh chấp thương mại được giải quyết bằng một cơ quan Nhà nước mà ta thường gọi là trọng tài kinh tế. Do là tổ chức trọng tài được thành lập bởi cơ quan Nhà nước nên trọng tài kinh tế vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế Nhà nước.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở tự nguyện. Để tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thì các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Cũng giống như hòa giải, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đều có sự xuất hiện của một bên thứ ba. Tuy nhiên, đối với hòa giải, vai trò của bên thứ ba chỉ mang tính chất hỗ trợ, giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau. Còn đối với phương thức trọng tài, sau khi xem xét vụ việc tranh chấp, trọng tài đưa ra phán quyết có gia trị cưỡng chế thì hành đối với các bên tranh chấp mà các bên không thê kháng cáo ở bất kì cơ quan, tổ chức nào.
Ưu điểm của phươnng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại:
Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại bằng trọng tài cho thấy có một số ưu điểm sau:
Thứ nhất, quyết định của trọng tài là chung thẩm và vì vậy nó có giá trị bắt buộc đối với các bên, các bên không thể chống án hay kháng cáo. Việc xét xử tại trọng tài chỉ diễn ra ở một cấp xét xử, đó cũng chính là điều khác biệt cơ bản so với xét xử tại Tòa án bởi thông thường xét xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội đồng trọng tài sau khi tuyên phán quyết xong là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và chấm dứt sự tồn tại.
Thứ hai, hoạt động của trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài xét xử vụ kiện là do các bên thỏa thuận lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện, do đó các trọng tài viên là người theo vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy họ có điều kiện để nắm bắt và tìm hiểu thấu đáo các tình tiết của vụ việc. Chính điều này có lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận, điều mà ít khi xảy ra ở Tòa án.
Thứ ba, trọng tài xét xử bí mật bởi tiến trình giải quyết của trọng tài có tính riêng biệt. Hầu hết các quy định pháp luật về trọng tài của các quốc gia đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là một ưu điểm quan trọng bởi các doanh nghiệp không muốn các chi tiết của vụ tranh chấp bị đem ra công khai trước Tòa án, điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ tư, khi xét xử, trọng tài cho phép các bên được sử dụng kinh nghiệm của các chuyên gia và điều này được thể hiện ở quyền chọn trọng tài viên của các bên. Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên trình độ, năng lực, sự hiểu biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên biệt như licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ, chứng khoán…
Thứ năm, hoạt động xét xử của trọng tài liên tục do đó tiết kiệm thời gian, chi phí và tiền bạc cho doanh nghiệp. Trong khi đó giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thường rất khó đạt được điều này bởi Tòa án phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, do đó tình trạng án tồn đọng là điều không thể tránh khỏi.
Thứ sáu, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thể hiện tính năng động, linh hoạt và mềm dẻo, do đó dễ thích ứng hơn so với giải quyết tranh chấp bằng Tòa án. Tòa án khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy định có tính chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Thực tiễn cho thấy giải quyết tranh chấp bằng trọng tài VIAC thường kéo dài tối đa là 6 tháng, trong khi đó giải quyết tranh chấp tại Tòa án có trường hợp kéo dài mấy năm.
Thứ bảy, việc xét xử tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo tính bí mật cao và vì vậy sẽ tránh cho các bên nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có, trong khi đó việc xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các bên rơi vào thế đối đầu nhau với kết cục là một bên được thừa nhận như một người chiến thắng, còn bên kia thấy mình là một kẻ thua cuộc.
Việc xét xử tranh chấp bằng trọng tài trên thực tế đã làm giảm đáng kể mức độ xung đột, căng thẳng của những bất đồng bởi nó diễn ra trong một không gian kín, nhẹ nhàng, mang nặng tính trao đổi để tìm ra sự thật khách quan của vụ/việc. Đó chính là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau. Hơn nữa, sự tự nguyện thi hành quyết định của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn có thể diễn ra trong tương lai.
Với những ưu điểm như vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã ngày càng trở thành một phương thức tố tụng kinh doanh - thương mại hữu hiệu và được các bên lựa chọn ngoài tố tụng bằng Tòa án.
Khái quát về sự hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại
Khái niệm hỗ trợ tư pháp
Theo Đại từ điển tiếng Việt, hỗ trợ có nghĩa là giúp đỡ nhau, giúp thêm vào Bộ giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn Hóa – Thông Tin, 1998, tr. 835.
, tư pháp là việc xét xử theo pháp luật các hành vi vi phạm phám luật Bộ giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn Hóa – Thông Tin, 1998, tr. 1756.
. Từ hai khái niệm hỗ trợ và tư pháp, ta có thể hiểu hỗ trợ tư pháp là việc giúp đỡ trong xét xử một vụ việc, một hành vi vi phạm pháp luật, giúp cho quá trình xét xử được tiến hành một cách thuận tiện, nhanh chóng và có hiệu quả cao nhất.
Như vậy, hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài có thể hiểu là việc hỗ trợ cần thiết cho các hoạt động giải quyết tranh chấp trong quá trình tố tụng của trọng tài, mang lại kết quả tốt nhất là giải quyết thỏa đáng được tranh chấp giữa các bên.
Sự hỗ trợ đối với hoạt động của trọng tài thương mại
Theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 thì hai cơ quan tư pháp có thẩm quyền hỗ trợ đối với hoạt động của trọng tài thương mại là Tòa án và Cơ quan thi hành án gồm các hoạt động hỗ trợ như: áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, hỗ trợ đối Hội đồng trọng tài do các bên thành lập, triệu tập nhân chứng, thu thập chứng cứ, xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, xem xét hủy quyết định trọng tài và thi hành quyết định trọng tài.
Sự cần thiết phải hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại
Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Cơ quan tư pháp
Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Tòa án
Là một tổ chức phi Chính phủ, trọng tài thương mại ở tất cả các nước không mang quyền lực Nhà nước khi giải quyết tranh chấp. Trên thực tế, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp độc lập với Tòa án. Nhưng với bản chất là phương thức tài phán tư, trọng có những hạn chế nhất định về thẩm quyền và trong trường hợp ấy phải cần đến sự hỗ trợ của Tòa án. Luật trọng tài thương mại 2010 đã xác lập vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với trọng tài. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo sự độc lập của trọng tài, Luật đã nhấn mạnh Tòa án chỉ hỗ trợ trọng tài trong các trường hợp cụ thể, không có quyền can thiệp vào quá trình tố tụng trọng tài.
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập với Tòa án, điều này tạo cho trọng tài nhưng thuận lợi về việc chủ động trong quá trình tố tụng giải quyết tranh chấp, tôn trọng và bảo đảm cho các bên có quyền tự do định đoạt tối đa về mọi lĩnh vực liên quan điến giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, cũng đặt ra cho trọng tài những khó khăn khi không có sự đồng thuận, hợp tác thiện chí của cả hai bên tranh chấp trong quá trình tố tụng cũng như sự tự nguyện thi hành quyết định trọng tài. Đây có thể coi là vấn đề quyết định đến sự hấp dẫn của phương thức tài phán này và quyết định hiệu quả trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của trọng tài. Với những nước có Luật trong tài, có lịch sử phát triển lâu đời của trọng tài thương mại tì trong nội dung của pháp luật về tài phán kinh tế điều có những quy định về sự hỗ trợ quyền lực của Nhà nước thông qua vai trò của cơ quan tài phán tư pháp là Tòa án đê trọng tài thương mại hoạt động thuận lợi hơn trong giải quyết tranh chấp.
Ở Việt Nam, suốt một thời gian dài trong lịch sử lập pháp, chúng ta không hề có quy định sự hỗ trợ của tài phán nhà nước đối với tài phán phi Chính phủ trong pháp luật tài phán kinh tế mà chỉ đơn thuần là sự quản lý hành chính nhà nước đối vơi hoạt động của trọng tài. Pháp luật trọng tài ở nước ta trước khi có PLTTTM 2003 được xây dựng trên các quan điểm hoàn toàn xa lạ với thông lệ quốc tế. Theo các quan điểm này, trọng tài thương mại là một thiết chế tài phán phi Chính phủ, do đó phải được thiết lập sao cho có thể tồn tại độc lập với Tòa án. Kết quả của quan điển trên là giữa trọng tài và Tòa án ở nước ta trong thời gian này không hề tồn tại mối quan hệ nào và đây có thể coi là nguyên nhân cơ bản nhất làm trọng tài thương mại không thể phát huy được ưu điểm của mình cũng như sức hấp dẫn của nó kho các bên tranh chấp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Với sự ra đời của PLTTTM 2003, Pháp lệnh thi hành án dân sự 2003, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã thể hiện rõ một quan điểm mới tiếp cận với sự phát triển của pháp luật tài phán của các nước phát triển. Trong đó, một trong những nội dung cơ bản là việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Toà án trong việc hỗ trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của trọng tài. Có thể gọi đây là một sự tiếp sức cho trọng tài, thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc đa dạng hóa các phương thức giải quyết tranh chấp tạo điều kiện tối đa cho các chủ thể kinh doanh tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Luật trọng tài thương mại 2010 được ban hành nhằm khắc phục những khuyết điểm của PLTTTM 2003, phù hợp với tình hình thực tế, đưa phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại tiến gần hơn với chuẩn mực quốc tế. Luật trọng tài thương mại 2010 càng củng cố và nhấn mạnh mối quan hệ hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Với Tòa án, trọng tài thương mại giúp chia sẻ gánh nặng giải quyết tranh chấp thương mại trong bối nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển và không ngừng hội nhập vào nền kinh tế phát triển năng động trên thế giới thì việc giao lưu kinh tế ngày càng nhiều, việc dẫn đến tranh chấp ngày càng tăng là việc không thể tránh khỏi. Đối tượng sử dụng trọng tài nhiều hơn, giúp giảm nhẹ gánh nặng xét xử của Tòa án, doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và thời gian khi sử dụng trọng tài giải quyết tranh chấp.
Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Cơ quan thi hành án
Sau khi xem xét vụ việc, trọng tài sẽ đưa ra phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thi hành. Vấn đề đặt ra ở đây, trong trường hợp bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì Cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế các bên thi hành, Đây là một biện pháp bảo đảm quyết định của trọng tài sẽ được thi hành trên thực tế. Do đó, tạo mối quan hệ khăn khít giữa trọng tài và Cơ quan thi hành án sẽ tạo điều kiện choc ac bên khi đã chọn trọng tài thì phải tôn trọng những quyết định của trọng tài, nếu không sẽ bị cưỡng chế thi hành bởi Cơ quan thi hành án.
Vai trò của Cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại
Vai trò của Tòa án
Trọng tài thương mại vừa mang bản chất thương lượng, vừa mang bản chất của cơ qua tài phán. Là cơ quan “tài phán tư” hoạt động của trọng tài không thể thiếu vai trò hỗ trợ của Tòa án trong quá trình tố tụng, không thể phát huy được hiệu quả nếu tồn tại biệt lập với Tòa án bởi lẽ:
Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, trọng tài viên bắt có được trên cơ sở thỏa thuận của các bên tranh chấp giao cho và ủy nhiệm. Khi giải quyết vụ việc theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, thì các quyết định của trọng tài chỉ có hiệu lực đối với các bên tranh chấp đó nhưng lại không có quyền ra lệnh bắt buộc đối với vên thứ ba hay với tổ chức nào khác dù có liên quan đến tổ chức đó. Trong trường hợp này, để đảm bảo các quyết định của trọng tài được thực hiện thù Tòa án – cơ quan quyền lực Nhà nước sẽ giữ vai trò hỗ trợ giúp đỡ trọng tài khi cần thiết. Hiệu quả của việc thi hành phán quyết trọng tài trong một số trường hợp phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của Tòa án.
Do phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực thi hành bắt buộc đối với các bên tranh chấp, nên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên nếu có sự vi phạm, không trung thực, sai sót từ phía trọng tài. Vì vậy, cần có sự hỗ trợ cũng như giám sát từ phía Tòa án đối với hoạt động của trọng tài, góp phần tăng tính hiệu quả và khách quan khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, tuy trọng tài và Tòa án là hai hình thức tài phán khác nhau nhưng vì có cùng một chức năng xét xử để đạt tới mục đích là giữ vững trật tự trong kinh doanh và bảo vệ quyền lợi cho các bên nên trọng tài và Tòa án không thể tồn tại tách biệt nhau.
Vai trò của Cơ quan thi hành án
Thi hành quyết định của trọng tài thương mại là giai đoạn cuối cùng của qua trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Bởi vây, nếu công đoạn này không được thục hiện hoặc thực hiện không phù hợp thì nó sẽ làm cho việc xét xử tranh chấp của trọng tài trở nên vô nghĩa nếu như bên phải thi hành quyết định đó không tự nguyện thi hành. Và, nếu để điều đó xảy ra thì khả năng các trường hợp tự nguyện thi hành quyết định trọng tài sẽ ngày càng hạn chế hơn, bởi đằng sau sự tự nguyện ấy, ngoài ý thức chấp hành, tôn trọng quyết định trọng tài, bao giờ cũng có mối e ngại về việc nếu không tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế. Nói cách khác, nếu việc cho thi hành quyết định của trọng tài được tiến hành một cách phù hợp thì nó góp phần không chỉ làm cho các hoạt động tố tụng của trọng tài trong các giai đoạn trước đó có hiệu quả thiết thực, mà còn cho quyết định của trọng tài khác trong tương lai được thi hành một cách tự nguyện hơn. Mặt khác, nếu không có cơ chế bảo đảm quyết định của trọng tài được thi hành trên thực tế thì việc cho phép chọn trọng tài sẽ không còn là điều mà các bên trong thương mại lựa chọn. Để làm được điều này thì không thể thiếu được vai trò của Cơ quan thi hành án – cơ quan mang quyền lực Nhà nước.
Kết luận chương 1
Tuy phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đã xuất hiện khá lâu ở Việt nam, nhưng vẫn chưa phát huy được hiệu quả, số vụ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ít, doanh nghiệp chưa thật sự tin tưởng vào trọng tài, doanh nghiệp chưa có thói quen chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp Vũ Tiến Lộc: Dự thảo Luật trọng tài, ngày 28/11/2009, trang tin Ý kiến nhân dân về dự thảo Luật, Pháp lệnh:
. Một trong nhưng nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do pháp luật chưa có những đầy đủ, còn nhiều bất cập chưa phù hợp với tình hình thực tế về vai trò hỗ trọ của Tòa án, Cơ quan thi hành án. Từ những phân tích trên cho thấy, sự hôc trợ của Tòa án, Cơ quan thi hành án đối với hoạt động của trọng tài thương mại khi giải quyết tranh chấp. Vì vậy, vai trò hỗ trợ của Tòa án, Cơ quan thi hành án cần được quy định cụ thể, đầy đủ và đồng bộ hơn. Để hiểu rõ về các hoạt động hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với trọng tài, cũng như các vướng mắc về quy định của pháp luật so với tực thực tiễn Người viets sẽ đi vào tìm hiểu ở chương tiếp theo.
Chương 2CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Sự ra đời của Pháp lệnh trọng tài thương mại đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong lich sử lập pháp của Việt Nam trong lĩnh vực tài phán tư
Sự hỗ trợ lẫn nhau giữa cơ quan tư pháp và trọng tài thương mại:
Sự hỗ trợ của Toà án đối với hoạt động của trọng tài thương mại
Toà án hỗ trợ Trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Khái niệm chung về biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Toà án hỗ trợ áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo qui định Luật trọng tài 2010:
Hỗ trợ của Toà án đối với Hội đồng trọng tài do các bên thành lập:
Khái quát về Hội đồng trọng tài do các bên thành lập:
Toà án hỗ trợ trong việc chỉ đinh, thay đổi Trọng tài viên:
Hỗ trợ đăng kí phán quyết Trọng tài vụ việc (Add- hoc):
Toà án hỗ trợ trong việc triệu tập nhân chứng và thu thập chứng cứ:
Toà án hỗ trợ trong việc xem xét thoả thuận trọng tài, thẩm quyền xem xét đối với thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài:
Xem xét thoả thuận trọng tài vô hiệu;
Xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài
Toà án xem xét huỷ quyết định trọng tài:
Sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án đối với hoạt động của trọng tài thương mại
Cơ quan thi hành án hỗ trợ việc thi hành phán quyết trọng tài
Trình tự, thủ tục thi hành phán quyết trọng tài
Chương 3GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Một số bất cập trong việc áp dụng các quy định của Luật trọng tài thương mại 2010:
Giải pháp nâng cao vai trò của Trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hoạt động hỗ trợ tư pháp của Cơ quan tư pháp
Giải pháp chung:
Giải pháp cụ thể về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của Trọng tài thương mại:
KẾT LUẬN VẤN ĐỀ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản quy phạm pháp luật
Bộ luật tố tụng dân sự 2004 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004.
Bộ luật hàng hải 2004 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006.
Luật đầu tư 2005 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, có liệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2006.
Luật doanh nghiệp 2005 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2006.
Luật thương mại 2005 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có liệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006.
Luật chứng khoán 2006 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, có liệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007.
Luật hàng không dân dụng Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007.
Luật thi hành án dân sự 2008 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14 tháng 11 năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009.
Luật trọng tài thương mại 2010 2010 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2011.
Luật trọng tài mẫu quốc tế của UNCITRAL thông qua tháng 12/1966 tại khóa họp thứ XXI Đại hội đồng liên hiệp quốc.
Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 được Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI thông qua ngày 25 tháng 2 năm 2003, có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2003.
Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 có hiệu lực thi hành ngày 14 tháng 1 năm 2004.
Nghị định 116/CP của Chính phủ ban hành ngày 5 tháng 9 năm 1994 về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế.
Nghị định 20-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14 tháng 4 năm 1960 về tổ chức hoạt động và của trọng tài kinh tế nhà nước.
Nghị quyết 05/2003/NQ-HĐTP Hội đồng thẩm phán TANDTC ban hành ngày 31 tháng 7 năm 2003 hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Quyết định 204-TTg của Thủ tướng chính phủ ban hành ngày 28 tháng 4 năm 1993 về tổ chức trung tâm trọng tài kinh tế.
Sách, báo, tạp chí:
Dương Kim Thế Nguyên: Giáo trình Luật thương mại 3, Khoa luật, Trường đại học Cần Thơ, 6/2008, tr 18 – 37.
Dương Thanh Mai: Mối quan hệ giữa Tòa án và trọng tài trong việc bảm đảm hiêu quả giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/1997, tr. 12.
Dương Văn Hậu: Một số vấn đề và lý luận và thực tiễn của trọng tài thương mại Việt Nam, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật.
Đoàn Năng: Một số ý kiến về thực trạng và phương hướng hoàn thiện pháp luật trọng tài kinh tế nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học, số 1, 1998, tr. 18.
Đỗ Văn Đại: Làm thế nào để trọng tài Việt Nam là chỗ dựa của doanh nghiệp?, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2, 2008, tr. 33 – 44.
Lê Hoàng Oanh: Khái niệm trọng tài thương mại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 3, 2004, tr. 9.
Bạch Thị Lệ Thoa: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của Tòa án, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 14, 2009, tr. 23 – 35.
Nguyễn Hồng Tuyến: Những điểm mới của Pháp lệnh trọng tài thương mại, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4, 2003.
Nguyễn Thái Phúc: Một số ý kiến về Pháp lệnh trọng tài thương mại, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
Nguyễn Trung Tín: Công nhận và cho thi hành các quyết định trọng tài thương mại tại Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2005, tr.19.
Trần Hữu Huỳnh: Pháp lệnh trọng tài thương mại – những thử thách phía trước, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4, 2003.
Bộ giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn Hóa – Thông Tin, 1998.
Trang thông tin điện tử:
Vũ Tiến Lộc: Dự thảo Luật trọng tài, ngày 28/11/2009, trang tin Ý kiến nhân dân về dự thảo Luật, Pháp lệnh: [truy cập ngày 5-1-2011].
Vũ Ánh Dương: Dự án Luật trọng tài thương mại và sự tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, trang tin Tạp chí nghiên cứu lập pháp: [truy cập ngày 5-1-2011].
.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chương 1 luận văn- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại.doc