Luận văn Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12

Nói chung ở nước ta thị trường vật liệu xây dựng là tương đối ổn định, hàng năm nhu cầu về xây dựng có tăng nhưng chậm. Tuy nhiên nếu có biến động xảy ra thì lại rất lớn. Chẳng hạn cơn sốt xia măng cách đây vào khoảng 4 năm (1998) đã làm đầy túi tiền những nhà sản xuất và những nhà kinh doanh lớn, nhưng lại đem lại hậu quả dư thừa cho các năm sau đó. Các nhà máy sản xuất liên tục mọc lên với công suất lớn hàng năm cho ra lò hàng triệu tấn xi măng với chất lượng tương đối cao.

pdf66 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2432 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c xác định. Nhân viên hòng máy sẽ tiến hành lập các bản kế hoạch tiêu thụ cho năm tiếp theo. 1.3 Xây dựngkế hoạch tiêu thụ sản phẩm Trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu đã được chỉ ra và đã dược lượng hoá và là kết quả của quá trình nghiên cứu thu nhập thông tin bên ngoài và trong nội bộ công ty với phương pháp phân tích xử lý số liệu qua máy vi tính cũng với những kỹ thuật dự báo ngắn hạn. Phòng kế hoạch sẽ tiến hành lập bản kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của Công ty năm 2002. Biểu 15: Kế hoạch tiêu thụ mặt hàng năm 2002 Mặt hàng tiêu thụ Đơn vị tính Thực hiện 2001 Kế hoạch 2002 1. Xi măng tấn 62.400 72.000 Ximăng rời - 5.980 6000 Xi măng bao - 56.420 66.000 2. Vỏ bao Xi Măng 10 3vỏ 15.398 18.000 Vỏ bao xm Hoàng thạch - 14.100 12.000 VBXMLucksvaxi - 148.55 2.500 Vỏ bao ximăng Chinfong - 302,7 1000 VBXMSĐ - 1.209,25 1.200 Các loại khác cột 203 1.300 3. Cột điệnli tâm - 1.274 2.200 cột điện li tâm 12A - 193 320 CĐ 12B - 165 268 12C - 151 253 10A - 129 209 10B - 115 187 10C - 90 154 Cột điện chiếu sáng 10A - 82 110 10B - 70 165 Cột H7,5 - 57 143 Cọt H8,5 - 50 121 CDD LT 14B(G6B + N8B) - 44 77 14C(G6D + N8D) - 28 56 14D(G6D + N8D) - 21 30 18 B( G8Bb + N10B) - 20 27 18C(G8C + N10C) - 19 19 Các loại khác - 20 43 Biểu 16: Kế hoạch kết quả tiêu thụ năm 2002 Tên sản phẩm Đơn vị Sản lượng Doanh thu(1000đ) Thuế VAT(1000 đ) Lợi nhuận(1000 đ) 1. Ximăng tấn 72.000 44.121.000 4.412.100 575.989 2. Vỏ bao xi măng vỏ 18.000.000 115.312.00 0 4.531.200 856.596 3. Cột điện li tâm Cột 2.200 5.012.000 501.200 42.415 TỔNG 94.445.000 13.856.600 1.475.000 Cùng với việc xây dựng các chỉ tiêu tiêu thụ Công ty còn tiến hành lập kế hoạch tiếp thị hàng hoá phân phối sản phẩm qua các bộ tiêu thụ thuộc những thị trường khu vực khác nhau. Thường thì Công ty trích 1% doanh thu cho tất cảcác chi phí tiếp thị thị trường bán hàng. Đối với kế hoạch phân phối thị trường dựa vào số lượng xin cấp của cán bộ tiêu thụ, chỉ tiêu sản lượng đối với mỗi thị trường khu vực. Căn cứ vào lượng xuất nhập trong tháng, quí năm Công ty tổ chức tiếp nhấnp từ nhà máy và giao chỉ tiêu kế họch cho bọ phận quản lý bảo quản và vận chuyển. Biểu 17: Kế hoạch giá bán các sản phẩm công nghiệp năm 2002. Tên sản phẩm Giá thành sản phẩm Chi phí tiếp thị bán hàng Giá thành toàn bộ Giá bán Thuế VAT Giá thanh toán 1.Xi măng + Xi măng rời 540.000 5.400 545.400 547.000 54.700 601.700 + Xi măng bao 580.000 5.800 585.800 587.000 58.700 645.700 2.Vỏ bao xi măng + Vỏ bao xi măng Hoàng Thạch 2.636 263,6 2899,6 2900 290 3190 - Lucksvaxi 2.636 263,6 2899,6 29000 290 3190 - Chinh Phong 2.636 263,6 2899,6 29000 290 3190 - Sông Đà 1.800 180 1980 19000 190 2090 - Các loại khác 1.917 197,7 2108 ,7 2200 220 2420 3.Cột điện ly phân CĐKT 12A 1.118.982 12.000 1.131.482 1.250.000 125.000 1.375.000 12B 1.319.822 15.000 1.334.422 1.500.000 150.000 1.650.000 12C 1.561.381 23.700 1.585.081 2.370.000 237.000 2.267.000 10A 706.211 8.180 712.391 818.000 81.800 899.800 10B 747.712 9.550 757.262 955.000 95.500 1.050.500 10C 797.875 13.600 811.475 1.360.000 136.000 1.496.000 Cột điện chiếu sáng 10A 858.932 9.550 868.482 955.000 96.500 1.050.500 10B 739.109 8.182 747.291 818.182 81.818 900.000 Cột H 7,5 349.198 3.906 353.089 390.000 39.000 429.000 Cột H8,5 379.731 4.370 384.101 437.000 43.700 480.000 CĐLT 14B (G 6B + N 8B) 3.082.827 35.700 3.118.527 3.570.000 357.000 3.927.000 14C (G 6C + N 8C) 3.469.067 38.800 3.507.867 3.880.000 388.000 4.268.000 14 D (G 6D + N 8D) 3.610.086 40.300 3.650.386 4.030.000 403.000 4.433.000 18 B (G8B + N10B) 3.761.660 343.600 3.805.260 4.360.000 436.000 4.796.000 18 C (G 8C + N10 C) 3.990.616 44.600 4.035.216 4.460.000 446.000 4.906.000 Các loại khác 3.992.906 49.000 3.991.906 4.900.000 490.000 5.390.000 Để đảm bảo được mục tiêu đề ra trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm Công tycòn đưa ra các biện pháp để thực hiện tốt các mục tiêu đó: - Đối với xi măng biện pháp đầu tiên là phải tập trung cải tiến và nâng cao năng suất lò nung. Thực hiện các hợp đồng chuyển giao công nghệ với các chuyên gia, tổ chức quản lý sử dụng máy móc thiết bị và có kế hoạch dự trữ vật tư phụ tùng giữ ổn định và nâng cao chất lượng xi măng, tăng uy tín sản phẩm của Công ty. Do đó phải thực hiện theo dõi chất lượng nguyên liệu đầu vào cho đến từng bước công nghệ trong quá trình sản xuất và từng lô xi măng xuất xưởng. Trên cơ sở giá thành được giao, quản lý chặt chẽ các chi phí đầu vao, tiết kiệm vật tư nguyên liệu, giảm giá thành sản xuất để có điều kiện cạnh tranh với các loại xi măng khác trên thị trường. Về bao bì xi măng nhiệm vụ số một được dặt r a là tiếp thị trên thị trường và giữ cứng thị phần đã có quan hệ truyền thống trong những năm qua. Với cột điện ly tân thực hiện chế độ kiểm tra thường xuyên chất lượng sản phẩm tại mọi khâu cốt liệu cốt thép, hơi nước đến cường độ mẫu mã của từng loại cột có uy tín, tạo chế độ đứng vững chắc trên thị trường. Tăng cường công tác thị ngay từ khâu thiết kế mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm để đảm bảo hàng sản xuất ra được tiêu thụ hết. Nói chung hiện nay nỗ lực cố gắng của Công ty vẫn là tập trung và nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tạo ra uy tín với khách hàng để tăng phần chiếm lĩnh thị trường, đạt tốc độ tiêu thụ cao hơn. 1.4. Đơn vị lập kế hoạch Hiện nay đơn vị lập phụ trácông nghệ và đảm nhận công việc lập kế hoạch tiêu thụ phòng kinh tế kế hoạch. Đơn vị này còn lập các kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài chính, kế hoạch kinh doanh. Việc lập kế hoạch phòng kinh tế kế hoạch kết hợp với phòng vật tư tiêu thụ. Những nhân viên lập kế hoạch phối hợp với những nhân viên nghiên cứu thị trường, tổ chức tiêu thụ sản phẩm của phòng vật tư tiêu thụ, cùng với các chỉ tiêu do ban lãnh đạo cấp trên đưa xuống để thiết kế bản kế hoạch tiêu thụ cho năm. Phòng kế hoạch bao gồm trưởng phòng, phó phòng, nhân viên lập báo cáo , kế hoạch trên máy vi tính, nhân viên tiếp nhận và kiểm tra hợp đồng cung cấp nguyên vật liệu, tiêu thụ.. Tất cả những nhân viên này chịu sự quản lý của trưởng phòng, do trưởng phòng phân công nhiệm vụ, trách nhiệm. Với công việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Sau khi nhận được các chỉ tiêu cấp trên đưa xuống cùng với những thông tin thu nhập từ những tài liệu có liên quan trong Công ty kết hợp với thông tin từ các nhân viên nghiên cứu thị trường của phòng vật tư tiêu thụ. Mỗi nhân viên thực hiện công việc của mình để hoàn thành bản kế hoạch tiêu thụ. Kế hoạch tiêu thụ cho năm tiếp theo là công việc tiếp theo của lập báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh trong năm trước. Để thuận tiện cho việc đánh giá nhận xét để rút ra những phương pháp tốt nhất cho thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của năm tiếp theo. Một kế hoạch tốt, sát với thực tế sẽ là công cụ để kiểm tra phần thực hiện, định hướng tốt cho quá trình tiêu thụ, hướng dẫn viên cho quá trình tiêu thụ sẽ cho thấy năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ nhân viên tham gia lập kế hoạch. 2. Thực hiện kế hoạch Thực hiện kế hoạch là công việc tiếp theo của phòng kế hoạch sau khi kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập xong. ở khâu này đơn vị cần phải tổ chức thực hiện các công việc sau 2.1. Phổ biến kế hoạch. Sau khi lập bản kế hoạch tiêu thụ sản phẩm trong năm tới phòng kế hoạch sẽ báo cáo nội dung và kiến nghị các giải pháp để thực hiện kế hoạch tại hội nghị cuối năm. Trong đó có các cấp lãnh đạo từ giám đốc đến phó giám đốc và các trưởng, phó phòng trực thuộc công ty. Tại cuộc họp sau khi tổng kết báo cáo kết quả các hoạt đọng sản xuất kinh doanh của công ty trong năm, phòng kế hoạch sẽ thông báo nội dung chi tiết của kế hoạch cho năm tới, trong đó có kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Các thành viên có mặt trong hội nghị tham gia đóng góp ý kiến, sửa đổi bổ sung để hoàn thiện kế hoạch. Giám đốc sẽ là người quyết định ký chấp nhận kế hoạch và giao trách nhiệm cụ thể cho các phòng ban có liên quan. 2.2 Triển khai thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm đến từng bộ phận có liên quan: Sau khi quán triệt nội dung kế hoạch căn cứ vào các chỉ tiêu đưa ra, cùng với những biện pháp cụ thể, phòng kinh tế kế hoạch có trách nhiệm soạn thảo, in ấn thành văn bản gửi cho các bộ phận liên quan: phòng vật tư tiêu thụ, phòng kinh doanh, các xí nghiệp sản xuất,... Các đơn vị này căn cứ vào kế hoạch giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên có trách nhiệm phải thực hiện. Đối với phòng kế hoạch có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, quản lý việc thực hiện kế hoạch của các đơn vị khác. Phòng vật tư tiêu thụ sẽ tiến hành tổ chức, phân công nhiệm vụ cho các nhân viên tiếp thị, vận chuyển, và tiếp nhận hàng từ các xí nghiệp, ký kết các hợp đồng. Đơn vị này có trách nhiệm theo dõi tình hình sản xuất của các xí nghiệp sản xuất và những biến động trên thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đối với các xí nghiệp sản xuất phải thực hiện kiểm tra, bảo dưỡng máy móc để duy trì tốc độ sản xuất. Tích cực quản lý và theo dõi hối thúc công nhân làm việc, sử dụng hết năng lực của nhà máy. Nếu nhận thấy sự giảm sút, xuống cấp của các thiết bị máy móc sản xuất thì phải kiến nghị ngay. Chú ý kiểm tra chất lượng sản phẩm ngay từ khi mới ra lò. Để đảm bảo tốt chất lượng phải tiến hành nghiên cứu, phân tích thử nghiệm có khoa học các đặc tính của nguyên liệu trước khi cho vào sản xuất. Khâu này rất quan trọng. Lãnh đạo xí nghiệp trực tiếp giao nhiệm vụ đến từng đơn vị, tổ đội ngay từ khâu tổ chức tiếp nhận các nguyên liệu đầu vào, đến tổ chức sản xuất và đưa vào kho thành phẩm. Ở giai đoạn triển khai kế hoạch này, xí nghiệp có thể kiến nghị với ban lãnh đạo công ty về điều kiện làm việc, chế độ chính sách đối với công nhân của nhà máy. Hoặc những kiến nghị về sự sửa đổi mới các trang thiết bị sao cho phù hợp với những chỉ tiêu mà kế hoạch đưa ra chẳng hạn như: sản lượng, giá thành sản xuất, chất lượng, mẫu mã, sản phẩm,... Triển khai, giao trách nhiệm đến từng bộ phận và cuối cùng là những thành viên cụ thể, đặt lợi ích của họ trên phần công việc được giao các nhân viên này sẽ rõ được phần việc của mình và hướng tới thực thi công việc đó. 2.3 Đánh giá và điều chỉnh kế hoạch: Quán triệt quan điểm kế hoạch chỉ là phương hướng, là những mục tiêu cần thực hiện mà mỗi đơn vị, mỗi thành viên phải hướng vào đó làm tốt những gì có thể để đạt được. Những biến động về môi trường kinh doanh diễn ra liên tục và rất khó có thể nắm bắt kiểm soát hết được. Điều này luôn được công ty quan tâm và tìm cách giải quyết. Ngay trong quá trình triển khai kế hoạch, với các kiến nghị của các nhân viên phải tiến hành thực hiện kế hoạch, hoặc của tập thể, đơn vị ban lãnh đạo công ty phải xem xét, tiếp nhận để chỉ đạo phòng kế hoạch có thể bổ sung hoặc sửa chữa lại các chỉ tiêu cho phù hợp. Chẳng hạn phòng tổ chức sản xuất dưới xí nghiệp báo cáo lên lượng cung ứng nguyên liệu đầu vào bị hạn chế, đối tác cung ứng ép giá lên, dẫn đến chi phí sản xuất tăng lên và như vậy giá thành sản xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm sẽ tăng lên. Trong trường hợp này nếu không tìm được nguồn cung ứng khác kịp thời cho thời hạn sản xuất thì công ty bắt buộc phải tăng giá bán trên mỗi đơn vị sản phẩm. Trong quá trình thực hiện kế hoạch tiêu thụ, căn cứ vào các báo cáo thường xuyên từ các xí nghiệp sản xuất, phòng kinh doanh, phòng vật tư, tiêu thụ,... phòng kế hoạch tiến hành xem xét nghiên cứu và đưa ra các nhận xét đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới các chỉ tiêu kế hoạch. Các ảnh hưởng này có thể tích cực hoặc tiêu cực. Thực tế trong những năm qua nói chung thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty tương đối ổn định. Nhưng không phải những chỉ tiêu kế hoạch nào đưa ra cũng được thực hiện tốt đó là vì những lý do sau: - Phòng kế hoạch thiên về các chỉ tiêu tiêu thụ cho cấp trên giao xuống hoặc căn cứ quá nhiều vào phần thực hiện kế hoạch tiêu thụ của năm trước. - Sự phối hợp giữa các đơn vị trong công ty trong công tác lập kế hoạch tiêu thụ hầu như là chưa có, dẫn đến những sai lệch chủ quan. - Khả năng nghiên cứu nắm bắt thông tin trên thị trường tiêu thụ còn kém, đặc biệt là những thông tin về sản phẩm và đối thủ cạnh tranh. Chủ yếu thu thập qua tài liệu sách báo, chưa trực tiếp tiến hành điều tra hoặc điều tra chưa sâu. - Khả năng dự báo những biến động trên thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp chưa được chính xác. Trước tình hình đó, hiện nay công ty luôn chú trọng quản lý, theo dõi và kiểm tra quá trình thực thi kế hoạch đưa ra những đánh giá chính xác và điều chỉnh lại một số chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp với tình hình thực tế. Sau mỗi tháng, quý từ các báo cáo kết quả tiêu thụ, công ty sẽ có kế hoạch kiểm tiến hành kiểm tra lại tình hình thực tế để lập kế hoạch tiêu thụ cho quý sau hoàn thiện hơn, rồi trình lên ban lãnh đạo công ty cho phép tổ chức thực hiện. BẢNG 18: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP QUÍ I/2002 Tên sản phẩm Đơn vị KH QI TH QI %TH KH QI %KH 99 1. Xi măng tấn 19.000 17.279 90,94 24 2. Vỏ bao XM 103 vỏ 3.314 3.112 93,9 17,28 3. Cột điện li tâm cột 559 490 87,65 22,27 Theo bảng trên cho thấy tình hình thực hiện kế hoạch QI/2002 tuy các sản phẩm đều chưa đạt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra nhưng lượng chênh lệch so với kế hoạch là không lớn và kết quả này hoàn toàn có thể chấp nhận được. Do thị trường tiêu thụ vẫn còn đang gặp khó khăn. Đánh giá tình hình thực tế bổ sung thêm các biện pháp để tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. Phòng kế hoạch tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ cho QII/2002 đã tính phần bù đắp vào kế hoạch tiêu thụ QI chưa thực hiện được để phù hợp với kế hoạch năm 2002. - Tiêu thụ xi măng : 19.200 tấn. - Tiêu thụ vỏ bao xi măng : 4.840.000 vỏ. - Tiêu thụ cột điện li tâm : 550 cột. Cùng với các chỉ tiêu trên công ty còn đưa ra các giải pháp để thực hiện tốt kế hoạch. Đối với sản phẩm xi măng: + Thực hiện quản lý chặt chẽ chất lượng nguyên liệu đầu vào để đảm bảo chất lượng. + Nâng cao chất lượng mẫu mã bao bì, từ 15/4 thực hiện đóng bao mới có chất lượng cao và đẹp hơn, đảm bảo không tăng giá. + Thực hiện các biện pháp tiết kiệm đảm bảo định mức tiêu hao nguyên liệu và nhất là năng lượng điện, than giảm giá đầu vào để hạ giá thành sản phẩm đảm bảo có điều kiện cạnh tranh với các xi măng cùng loại trên thị trường. Với vỏ bao xi măng tăng cường công tác kiểm tra chất lượng từ bán thành phẩm đến thành phẩm cuối cùng là vỏ bao. Tăng cường công tác tiếp thị để đưa sản phẩm cột điệm vào công trình thi công. 3-/ Nhận xét về tình hình xây dựng và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty XL - VT - VT - S. Đà 12: Trong những năm qua công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp có nhiều ảnh hưởng tích cực đến tốc độ tiêu thụ và các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên bên cạnh đó công tác này còn nhiều hạn chế. 3.1 Ưu điểm: Công tác xây dựng kế hoạch tiêu thụ là định hướng, chỉ dẫn tốt cho các thành viên trong công ty thực hiện tốt công việc của mình. Thông qua các chỉ tiêu kế hoạch và chỉ tiêu thực hiện ban lãnh đạo tiến hành đánh giá so sánh, nhận xét được khả năng thực hiện các mục tiêu mà công ty đã đề ra. Từ đó có thể điều chỉnh, huy động các nguồn lực cần thiết: vốn, lao đọng, dây chuyền công nghệ, vật tư thiết bị,... để phù hợp với tình hình thực tế. Kế hoạch tiêu thụ gắn người lao động với công việc được giao, họ luôn ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ đối với công ty. Công tác lập kế hoạch tiêu thụ đơn giản, phù hợp với trình độ và khả năng của các nhân viên thực hiện. 3.2 Hạn chế: Là một đơn vị sản xuất kinh doanh với quy mô không lớn, công ty chưa có kế hoạch tầm chiến lược do sản phẩm sản xuất ra hầu như được đưa vào thị trường tiêu thụ luôn. Phòng kế hoạch chưa chủ động trong việc xác định những căn cứ cơ sở định mức các chỉ tiêu, nghiên cứu và thu thập những thông tin từ nội bộ công ty và thị trường tiêu thụ. Các căn cứ chủ yếu dựa vào chỉ tiêu do Tổng công ty giao xuống. Các chỉ tiêu đưa ra trong kế hoạch mang tính chủ quan chưa theo sát tình hình biến động trên thị trường, có thể dẫn đến bỏ lỡ cơ hội sản xuất kinh doanh lớn đem lại doanh thu và lợi nhuận cao hơn. Những nội dung được xây dựng còn ở trong phạm vi hẹp, chủ yếu đưa ra các chỉ tiêu định hướng cần phải thực hiện. Còn các nội dung khác như khách hàng, thị trường, tiếp thị, phân phối thì chưa được chú trọng lắm. Đó là các nội dung mang tính giải pháp thúc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tuy nhiên nó chưa được xây dựng thành kế hoạch cụ thể mà trong quá trình tiêu thụ tuỳ theo tình hình thực tế công ty mới bắt đầu tổ chức triển khai thực hiện. Điều này làm giảm bớt tính năng động, sáng tạo, sự nhiệt tình với công việc của các nhân viên. Bởi vì nếu như kế hoạch được lập đầy đủ các nội dung công ty có thể giao chỉ tiêu, khoán, bắt buộc các nhân viên phải thực hiện. Gắn quyền lợi của họ với trách nhiệm chắn chắn họ phải nỗ lực làm việc hơn. Về phương pháp tiến hành xây dựng kế hoạch chủ yếu vẫn áp dụng phương pháp cân đối, so sánh, liên hệ. Chưa có những trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, để trợ giúp cho công việc lượng hoá các chỉ tiêu, xử lý, thu nhận các thông tin còn thiếu chính xác. Công ty chưa thực sự tuân thủ qui trình xây dựng kế hoạch tiến hành lập kế hoạch cho năm tiếp theo ngay sau khi báo cáo tổng kết kết quả thực hiện tiêu thụ năm trước đó. Dựa vào các chỉ tiêu của ban lãnh đạo đưa xuống phòng kế hoạch, lập kế hoạch không tổ chức xét duyệt hoặc có xét duyệt thì không không trải qua thời gian nghiên cứu xem xét và đánh giá lại. Sự liên kết, trao dổi bổ sung để hoàn thiện kế hoạch giữa các phòng ban đơn vị chưa chặt chẽ. Tổ chức phân công giao nhiệm vụ còn mang tính chung chung chưa kích thích được khả năng làm việc hay chưa khai thác được hết tiềm lực lao động. * Tuy nhiên trong những năm tới nhận thấy khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Công ty chú trọng hơn đến các hoạt động nhằm thúc đẩy khả năng tiêu thụ, mở rộng thị trường, tăng quy mô sản xuất kinh doanh. Một trong những hoạt động đó là công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Công ty sẽ có những biện pháp xây dựng hợp lý, khoa học và tổ chức triển khai thực hiện một cách chặt chẽ hơn. PHẦN III HOÀN THIỆN CÔNG TÁC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY XL - VT - VT - S. ĐÀ 12 I-/ PHƯƠNG HƯỚNG KẾ HOẠCH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP CỦA CÔNG TY TRONG NHỮNG NĂM TỚI. 1-/ Đặc điểm tình hình tiêu thụ sản phẩm trong những năm tới: Trong bối cảnh nền kinh tế Châu Á đang bị khủng hoảng, tốc độ phát triển chững lại và giảm đi. Rất nhiều lĩnh vực chủa đạo của nền kinh tế bị suy thoái, trong đó lĩnh vực sản xuất công nghiệp đang đứng trước nhiều trở ngại khó khăn. Thu thập trung bình của xã hội giảm sút dẫn đến sản phẩm sản xuất ra có sức tiêu thụ chậm gây ùn tắc vốn ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sản xuất. Là một quốc gia nằm trong khu vực, Việt Nam cũng không tránh khỏi tình trạng giảm sút của nền kinh tế. Những năm tới được đánh giá là những năm khó khăn nhất trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tốc độ phát triển kinh tế giảm đi, các ngành nghề không mở rộng được quy mô, tăng năng suất. Tốc độ tiêu thụ sản phẩm bị giảm sút nghiêm trọng, mức độ khó khăn ở thị trường đầu ra cho sản phẩm ngày một tăng khiến cho không ít những doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân phải ngừng hoạt động, giải thể. Trên thị trường vật liệu xây dựng, trong khi lượng hàng cung ứng vào thị trường không ngừng tăn lên thì lượng tiêu thụ lại giảm đi. Theo nguồn thông tin từ công ty, Tổng công ty xây dựng Sông Đà cho biết trong những năm tới sản phẩm công nghiệp sẽ gặp phải một số khó khăn trên thị trường tiêu thụ. - Lượng cung ứng sản phẩm ra ngoài thị trường ngày càng nhiều với giá cả ổn định, chất lượng cao hơn, mẫu mã đa dạng và có thẩm mỹ hơn, cùng với những dịch vụ bán hàng đa dạng, có thể thoả mãn mọi yêu cầu của khách hàng. - Mức độ xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng giảm xuống. Tình trạng này sẽ kéo dài nếu như không đảm bảo được tốc độ phát triển kinh tế. - Những nhu cầu đòi hỏi của khách hàng về dịch vụ cung ứng hàng hoá đa dạng và phong phú hơn. - Một số nhà máy xi măng đang xây dựng và sắp đi vào sản xuất với sự mở rộng sản xuất của các nhà máy khác tăng năng suất sản xuất lên tới 1,2 triệu - 2 triệu tấn/năm/1 nhà máy. Trước những thông tin, dự báo đó sản phẩm công nghiệp của công ty trong nhằm năm tới gặp trở ngại khó khăn lớn nhất vẫn là thị trường tiêu thụ, ở đó sản phẩm sẽ gặp phải sự cạnh tranh gay gắt về chất lượng, giá cả và khả năng cung ứng các dịch vụ bán hàng. Tuy nhiên công ty cũng có những thuận lợi là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty xây dựng Sông Đà, công ty đã có uy tín với khách hàng, có khả năng thực hiện dịch vụ vận chuyển, vận tải tốt. 2-/ Những mục tiêu chủ yếu của công ty: Quyết tâm duy trì và phát triển sản xuất công nghiệp công ty kiên định giữ vững sản lượng sản xuất qua các năm. Mục tiêu cơ bản của công ty trong hững năm tới là: + Sử dụng tối đa năng lực sản xuất của các nhà máy, đảm bảo hàng năm sản xuất từ 72.000 - 82.000 tấn xi măng, 18 triệu - 20 triệu vỏ bao xi măng và 2.200 - 2.500 cột điện. + Giữ vững tốc độ phát triển tổng giá trị sản phẩm từ 5 - 10%. + Duy trì, ổn định thị trường truyền thống, mở rộng xâm nhập các thị trường mới, tăng thị phận trên thị trường. + Đạt mức lợi nhuận từ 1,475 tỷ trở lên, đạt 2,11% doanh thu. + Đảm bảo và nâng cao thu nhập của công nhân viên khoảng 850.000đ/người trở lên. + Bảo toàn và phát triển vốn sản xuất kinh doanh, chủ động với các biến động trong quá trình sản xuất đến quá trình tiêu thụ. II-/ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY XL - VT - VT - S. ĐÀ 12 Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được áp dụng ở hầu hết các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở nươc ta. Tuy nhiên cũng hầu hết các doanh nghiệp chưa thực sự khai thác được hết những cái lợi từ việc lập kế hoạch và chưa coi trọng công tác lập kế hoạch. Một vấn đề được đặt ra là làm thế nào để kế hoạch tiêu thụ sản phẩm vừa là công cụ quản lý tiêu thụ kết quả kinh doanh của công ty vừa là phương tiện thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm là cho lượng sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nhanh đúng tiến độ, tăng tốc độ chu chuyển vốn, tránh ùn tắc, thua lỗ. Một kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được coi là tốt, là hợp lý phải đảm bảo được các điều kiện trên, ngoài ra các chỉ tiêu mà kế hoạch đưa ra phải sát với tình hình thực tế nội bộ công ty và môi trường kinh doanh nội dung mà kế hoạch đưa ra phải đầy đủ, tương đối chính xác. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, dưới đây sẽ trình bày một số kiến nghị để hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty XL - VT - VT - Sông Đà 12. 1-/ Hoàn thiện cơ sở định mức và dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm: Như phần hai đã phân tích cơ sở định mức và dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm là những nhân tố vô cùng quan trọng trước khi bước vào lập kế hoạch tiêu thụ chính thức. Nếu như những yếu tố này được giải quyết tốt, đúng, chính xác và hợp lý sẽ cho một bản kế hoạch là những chỉ dẫn cho hoạt động tiêu thụ tốt hơn, và là công cụ cho giám sát kiểm tra trong suốt quá trình tiêu thụ. Hoàn thiện cơ sở định mức và dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm là vấn đề công ty cần phải chú trọng trong giai đoạn hiện nay. Những định mức về tiêu thụ sản phẩm có thể là định mức về sản lượng sản phẩm, chi phí sản xuất, chi phí do tiêu thụ giá thành, giá bán sản phẩm,... chẳng hạn năm 2002 định mức sản lượng tiêu thụ là 72.000 tấn xi măng, với giá định mức là: 602.000 đồng/tấn, sản lượng tiêu thụ vỏ bao xi măng là 18 triệu cái, giá định mức 2.900 đồng/cái, cột điện 2.200 cột giá định mức trung bình 1,395 triệu đồng/cái. Với sản lượng và giá bán định mức công ty tiến hành các hoạt động dự báo thị trường tiêu thụ. Căn cứ vào lượng đã định mức có thể dự báo mức độ đạt được bao nhiêu phần trăm để có những điều chỉnh phù hợp. Để xây dựng được các định mức tương đối hợp lý chính xác phải xác định được những căn cứ, cơ sở của định mức. Thực tế trong những năm qua việc xác định những cơ sở định mức và công tác nghiên cứu dự báo thị trường chưa được coi là vấn đề quan trọng và vì thế mọi quyết định đưa ra khi lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm mang tính chủ quan nhiều hơn. Trong những năm tới công ty cần tiến hành tổ chức, thực hiện tốt các vấn đề sau: - Thành lập riêng một nhóm nghiên cứu thị trường, với kinh phí riêng với đầy đủ các trang thiết bị cần thiết, và giao cho nhóm những nội dung cụ thể cần thu thập từ thị trường tiêu thụ. - Công ty cần lên kế hoạch các nội dung, các phương pháp, trình tự tiến hành trước khi bước vào nghiên cứu thị trường. Các nội dung hay đối tượng được nghiên cứu bao gồm: thị trường về mặt địa lý, thị trường về dân cư, mức thu nhập và khả năng tiêu thụ sản phẩm của họ. + Tâm lý tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng về loại sản phẩm. + Lượng cung trên thị trường biểu hiện: sản lượng, giá cả, các dịch vụ cung ứng, khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm, hiện tại và xu thế vận động của nó. + Liệt kê hết các sản phẩm và đối thủ cạnh tranh, tìm hiểu nguồn cung ứng hàng hoá ra thị trường của họ: chất lượng, giá cả và sản lượng cung cấp hàng năm. + Những nhân tố ảnh hưởng tới thị trường tiêu thụ như: kinh tế, chính trị và luật pháp của nhà nước. Với những nội dung nghiên cứu như trên, công ty tiến hành triển khai cho bộ phận nghiên cứu, bằng phương pháp nghiên cứu tại bàn hay tại hiện trường; trong một khoảng thời gian nào đó phải xác định được những nội dung sau (cùng là sự lựa chọn của khách hàng và người tiêu dùng):  Sản phẩm với những đặc tính của nó.  Quy cách, mẫu mã phẩm chất sản phẩm.  Giá cả sản phẩm.  Thời gian đáp ứng.  Quy mô nhu cầu hay dung lượng thị trường về sản phẩm công nghiệp của công ty. - Hoàn thiện hệ thống sổ sách báo cáo thống kê kết quả sản xuất, kết quả tiêu thụ và những báo cáo tài chính, những thông tin về năng lực sản xuất của nhà máy và khả năng vận chuyển sản phẩm đến nơi tiêu thụ. - Tăng cường tính chủ động sáng tạo của đội ngũ cán bộ, nhân viên phòng kế toán tránh tình trạng áp dụng áp đặt các chỉ tiêu do cấp trên đưa xuống nay tranh đua lấy thành tích. - Đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên có kinh nghiệm, trình độ và khả năng suy đoán, dự báo thị trường cao. Tăng cường đầu tư bổ sung thêm các trang thiết bị hiện đại cho việc phân tích và xử lý các thông tin thu được, đem lại những con số chính xác hơn. Tóm lại những căn cứ để xác định các chỉ tiêu là vô cùng quan trọng giải pháp để nâng cao khả năng dự báo thị trường, tìm kiếm những thông tin chính xác sẽ đưa ra những định mức chỉ tiêu chính xác và phù hợp hơn cho một bản kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. 2-/ Hoàn thiện nội dung và phương pháp xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm: Thông thường kế hoạch tiêu thụ sản phẩm bao gồm các nội dung về thị trường, khách hàng sản phẩm cùng với những nội dung để thực hiện là tiếp thị, phân phối và dịch vụ,... Công ty phải xác định mức độ quan trọng của từng nội dung và phải lượng hoá toàn bộ, một phần hay những phân tích định tính. Để xác định được nội dung kế hoạch tiêu thụ một cách đầy đủ và khoa học công ty phải thực hiện tốt các nội dung sau: Nội dung chuẩn bị xây dựng kế hoạch: ở nội dung này công ty cần phải tiến hành thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết, giao trách nhiệm phân công công việc đối với các nhân viên. Ngoài ra công ty nên tổ chức tìm hiểu nghiên cứu khoa học và lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm để đưa ra nội dung phù hợp cho kế hoạch của công ty. Nội dung tính toán các chỉ tiêu, nghiên cứu đưa ra các chỉ tiêu phù hợp, tiến hành tính toán các chỉ tiêu theo các mô hình, công thức đã được khoa học kinh tế nghiên cứu và công nhận. Việc tính toán các chỉ tiêu phải phụ thuộc vào những thông tin, dữ liệu đã thu thập được lấy nó làm căn cứ để đưa ra các định mức cụ thể: Nội dung xét duyệt kế hoạch, sau khi phòng kế hoạch phác thảo lên một bản kế hoạch trình lên ban lãnh đạo tiến hành đánh giá kiểm tra, xét duyệt. Giám đốc ký chấp nhận kế hoạch sau khi đã xét duyệt rồi gửi lại phòng kế hoạch lập bản kế hoạch chính thức. Trong quá trình xét duyệt phải xác định các yếu tố sau: + Mỗi nội dung gắn với đối tượng nào và mức độ ảnh hưởng của nó tới tốc độ tiêu thụ sản phẩm như thế nào. + Nội dung đó có phù hợp với quy mô sản xuất kinh doanh và qui mô tiêu thụ sản phẩm của công ty hay không. + Khi thực hiện những nội dung này công ty có gặp phải những khó khăn trở ngại nào không có thể vượt qua được không, tránh tình trạng lãng phí thời gian, tiền của và nguồn nhân lực. Những yếu tố trên cũng là những căn cứ để xác định một nội dung chính xác hơn cho kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Muốn vậy công ty cần phải nắm bắt đầy đủ các thông tin nội bộ và những thông tin từ môi trường bên ngoài phải trải qua một thời gian nghiên cứu, phân tích và đánh giá với đội ngũ nhân viên làm việc nhiệt tình và có trách nhiệm. Phương pháp xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm ở công ty hiện nay chủ yếu vẫn là phương pháp cân đối. Error! = Error! Error! : Tổng nhu cầu về sản phẩm công nghiệp của công ty. Error! : Nguồn hàng mà công ty có khả năng cung ứng. Công ty sau khi tiến hành nghiên cứu xác định được nhu cầu của thị trường về 3 loại sản phẩm: xi măng, vỏ bao xi măng, cột điện li tâm, tiến hành các hoạt động nhằm lượng hoá một cách tương đối nhu cầu. Sau đó xem xét khả năng cung ứng nguồn hàng của công ty, nguồn hàng này bao gồm: tồn kho đầu kỳ, lượng hàng đặt thêm của các công ty khác, lượng hàng công ty tự sản xuất. Trong những năm tới công ty nên sử dụng đến các phương pháp kinh tế kỹ thuật, tăng khả năng phân tích và xử lý dữ liệu qua máy vi tính tính toán các yếu tố theo yêu cầu và khả năng, lập các bảng cân đối giữa nhu cầu và khả năng, so sánh giữa nhu cầu và khả năng theo quan điểm toàn diện, từ đó xác lập, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. 3-/ Phân công và phối hợp trong xây dựng kế hoạch: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty là kết quả của quá trình xây dựng với sự tham gia đóng góp của rất nhiều đơn vị trực thuộc công ty. Thực tế sự liên kết phối hợp giữa các đơn vị trong công ty để tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ chưa được chú trọng và hầu như không có. Theo các chỉ tiêu của cấp trên, cùng với các báo cáo của các phòng ban công ty và dưới các xí nghiệp sản xuất, phòng kế hoạch sẽ lập nên một kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Nên ít nhiều kế hoạch mang tính chủ quan và xa rời với thực tế thực hiện. Một thực tế không thể phủ nhận được là tất cả các phòng ban đều có thể nắm bắt được thông tin từ hai phía: nội bộ công ty và bên ngoài thị trường, nên nếu có sự phối hợp, trao đổi, thảo luận giữa các phòng ban này cùng với phòng kế hoạch sẽ đảm bảo cho việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được chính xác hơn. Trước hết trong nội bộ phòng kế hoạch, sau khi nhận được các chỉ tiêu cấp trên giao cùng với những thông tin sơ bộ đã có được ngoài thị trường thì ông trưởng phòng trực tiếp giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhân viên và quy rõ trách nhiệm của họ. Công việc này phải rõ ràng phải đảm bảo cho các nhân viên thấy rõ được phần công việc của mình và mức độ trách nhiệm của mình trong kế hoạch tiêu thụ. - Nhân viên thực hiện việc kiểm tra sổ sách báo cáo kỳ trước, thu thập các thông tin và số liệu cần thiết cho kỳ này. - Nhân viên kiểm tra và lên sổ sách các hợp đồng tiêu thụ, xác định rõ thời gian và số lượng, giá cả và dịch vụ cần cung ứng cho khách hàng. - Nhân viên quản lý máy vi tính thực hiện nạp các số liệu thu được từ hoạt động nghiên cứu thị trường, so sánh, phân tích đánh giá để chuẩn bị định mức các chỉ tiêu cho kế hoạch tiêu thụ trong năm. Trong quá trình tiến hành xây dựng kế hoạch tiêu thụ phòng kế hoạch phải phối hợp liên kết chặt chẽ với các đơn vị khác như: phòng vật tư tiêu thụ, phòng kinh doanh, các phòng ban của các xí nghiệp sản xuất, các phòng ban này sẽ cung cấp những thông tin cần thiết và thường xuyên tham gia thảo luận đánh giá đưa ra những quan điểm riêng để rồi tổng hợp lại thành một quan điểm chung có tính thuyết phục nhất. Cụ thể phòng tài chính kế toán chuẩn bị các tài liệu liên quan đến kết quả tiêu thụ như doanh thu, lợi nhuận của từng loại sản phẩm công nghiệp của công ty năm trước, các báo cáo tài chính thể hiện các chỉ tiêu đạt được về mặt giá trị hay bảng cân đối kế toán thể hiện nguồn vốn và cơ cấu của vốn. Trưởng phòng có trách nhiệm trực tiếp báo cáo lên cấp trên. Phòng vật tư tiêu thụ chuẩn bị các tài liệu, lập các báo cáo kết quả thực hiện sản xuất kinh doanh của năm trước biểu hiện các chỉ tiêu thực hiện kế hoạch và tỉ lệ % hoàn thành kế hoạch, tổ chức nghiên cứu thị trường xác định nhu cầu thị trường, sau đó báo cáo lên ban lãnh đạo công ty. Các nhà máy, xí nghiệp nơi trực tiếp sản xuất có trách nhiệm báo cáo thực trạng năng lực và khả năng làm việc của máy móc, thiết bị trong kỹ thuật, các nguồn vật tư cung ứng, năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ công nhân viên,... Các phòng ban, bộ phận trực thuộc công ty trong quá trình làm việc trong phạm vi trách nhiệm của mình nên tạo ra mối liên hệ, giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành công việc. Chẳng hạn cung cấp những thông tin cần thiết cho nhau, bổ xung tham gia ý kiến để giúp phòng kế hoạch tiến hành lập kế hoạch được chính xác hơn. Công ty nên khuyến khích mối quan hệ liên kết ngang này giữa các phòng ban chức năng, ban lãnh đạo bày tỏ quan điểm của mình đoàn kết gắn bó giữa các đơn vị với nhau và giữa các thành viên trong cùng một đơn vị với nhau. Thường xuyên khích lệ tinh thần đoàn kết cùng hướng đến mục tiêu mà công ty đã đưa ra trong đội ngũ công nhân viên. Tạo ra bầu không khí làm việc vui vẻ an toàn. 4-/ Hoàn thiện quy trình xây dựng kế hoạch: Để có được một kết quả cuối cùng là một bản kế hoạch tiêu thụ sản phẩm có tính thuyết phục là những chỉ dẫn cho quá trình tiêu thụ thì việc xây dựng kế hoạch tiêu thụ phải trải qua một qui trình có các giai đoạn thực hiện khác nhau nhưng lại quan hệ lô gíc chặt chẽ với nhau. Công ty nên tiến hành xây dựng kế hoạch tiêu thụ theo các giai đoạn sau: Giai đoạn I: Giai đoạn chuẩn bị vào giữa năm báo cáo, ở giai doạn này công ty cần thực hiện các hoạt động sau: + Phân tích mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, xác định các nguồn năng lực tiềm tàng vật tư kỹ thuật, lao động, tiền vốn có thể huy động năm kế hoạch. + Điều tra nhu cầu thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm chủ động bán và ký kết các hợp đồng kinh tế (có thể ký các hợp đồng sơ bộ về tiêu thụ sản phẩm. Ký kết hợp đồng tiêu thụ là bước vô cùng quan trọng, nó xác định thị trường tiêu thụ chắc chắn. Trong hợp đồng công ty thoả thuận với người mua về số lượng, chất lượng, chủng loại quy cách, giá cả và phương thức thanh toán, thời gian có hiệu lực của hợp đồng,... + Điều tra, nắm bắt các thông tin từ sản phẩm và đối thủ cạnh tranh bao gồm sản lượng, giá cả và các thị trường mà nó đang chiếm giữ. Giai đoạn II: Giai đoạn dự thảo kế hoạch. Căn cứ vào những thông tin, dữ liệu có được trong giai đoạn I, công ty xác định các mục tiêu, và dự thảo một kế hoạch tiêu thụ. Phòng kế hoạch thực hiện công việc này rồi báo cáo lên cấp trên. Lãnh đạo tiến hành xem xét và kiểm tra, sửa chữa hay bổ sung kế hoạch rồi ký xác nhận. Phòng kế hoạch tiếp nhận bản kế hoạch đã có xác nhận của ban lãnh đạo cấp trên, chuẩn bị điều kiện cần thiết để lập kế hoạch chính thức. Giai đoạn này, trưởng phòng kế hoạch tổ chức phân công, giao công việc cụ thể cho các nhân viên. Giai đoạn III: Giai đoạn lập kế hoạch chính thức, công ty cần tiến hành một số công việc sau: - Lập kế hoạch tiêu thụ chính thức cho toàn bộ các sản phẩm công nghiệp của công ty. - Phân chia kế hoạch theo quý, tháng. - Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho từng đối tượng mặt hàng, từng đơn vị trong công ty và các xí nghiệp sản xuất. Ở kế hoạch này phải nêu rõ các chỉ tiêu phải đạt được của từng mặt hàng và khối lượng công việc các phòng ban, các đơn vị sản xuất phải thực hiện để đảm bảo mục tiêu tiêu thụ chung. - Sau khi lập kế hoạch xong tiến hành xem xét kiểm tra lại để có những điều chỉnh nếu như có những sai sót trong quá trình lập cho phù hợp và chính xác. - Chuẩn bị tổ chức triển khai và phổ biến đến các bộ phận liên quan. 5-/ Bộ máy xây dựng kế hoạch và công tác cán bộ: Hiện nay phòng kế hoạch là đơn vị thực hiện xây dựng tất cả các kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty. Thời gian tới công ty nên giữ nguyên cơ cấu tổ chức của bộ máy này, ngoài ra có thể bổ sung thêm cán bộ nghiên cứu thị trường, tăng cường công tác giám sát và quản lý, gắn quyền lợi của họ với trách nhiệm mà họ phải thực hiện. Thực hiện kiểm tra, sát hạch lại trình độ và kinh nghiệm của họ nếu tốt thì bổ sung thêm quyền hạn và nghĩa vụ, ngược lại có thể sa thải hoặc chuyển sang đơn vị khác phù hợp với trình độ và khả năng của họ hơn. Tổ chức bồi dưỡng đào tạo lại, nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ phòng kế hoạch, nâng cao trình độ nghiệp vụ của các nhân viên và có chế độ, chính sách khuyến khích tính chủ động sáng tạo của mỗi thành viên tạo môi trường đoàn kết, hướng các nhân viên quan tâm hơn đến lợi ích của công ty và làm tất cả những gì có thể để thúc đẩy quá trình đạt được các mục tiêu mà công ty đã đưa ra. 6-/ Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá ở công ty nói chung: Trong quá trình đi sâu nghiên cứu, phân tích kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nhận thấy tình hình thực hiện công tác kế hoạch hoá ở công ty còn nhiều vấn đề hạn chế như: kế hoạch hoá ở cấp công ty còn chịu sự chi phối rất lớn của kế hoạch hoá cấp Tổng công ty, giai đoạn chuẩn bị cho lập các kế hoạch còn thiếu nhiều khâu quan trọng. Các mục tiêu đề ra còn cao hơn so với thực tế. Để khắc phục tình trạng này, trong những năm tới công ty nên chủ động xây dựng và thực hiện các kế hoạch. - Trực tiếp tổ chức thi công các thông tin ngay trong một bộ công ty từ các phòng ban, đơn vị sản xuất đến các thành viên trong công ty. Lắng nghe ý kiến phát biểu của người lao động, tiếp nhận những kiến nghị mới có hướng tốt cho công ty. - Tiến hành lập kế hoạch sau khi đã có đầy đủ các thông tin cần thiết. - Tăng cường tạo mối liên kết giữa bộ phận làm kế hoạch với các bộ phận chức năng khác, tạo lên sự tương hỗ bổ sung cho nhau, chỉ ra những giải pháp có tính thuyết phục nhất. - Công ty tiến hành xây dựng các kế hoạch theo tình hình sản xuất kinh doanh cụ thể sau đó trình lên cấp Tổng công ty xin ý kiến sửa đổi hoặc bổ sung. - Kế hoạch hoá những lĩnh vực có tính chất ổn định, có khả năng thực hiện trong thời gian dài. Còn những lĩnh vực thường xuyên biến đổi chẳng hạn nhu cầu vận chuyển thì nên linh động các chỉ tiêu tùy theo tình hình thực tế, không tạo nên sự gò bó, căng thẳng đối với đội ngũ thực hiện. III-/ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH TIÊU THỤ: Thực hiện kế hoạch là công việc còn lại sau khi đã lập xong kế hoạch. Ngoại trừ kế hoạch được lập chưa chính xác, còn nhiều chỉ tiêu xa rời thực tế thì việc hoàn thành kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sẽ phụ thuộc rất nhiều vào khâu tổ chức thực hiện kế hoạch. Nếu khâu này được thực hiện tốt sẽ đem lại những nhân tố tích cực sau: + Các đơn vị thành viên trong công ty sẽ nắm bắt được phần công việc của mình và họ sẽ định hướng biện pháp thực hiện nó có hiệu quả nhất. + Công ty sẽ kiểm soát thị trường tiêu thụ, hiện tại và xu thế vận động của nó, và có phương hướng giải pháp tốt để thích ứng với thị trường. + Toàn bộ công ty sẽ đi vào tổ chức sản xuất đến triển khai cung ứng ra thị trường, và các hoạt động thúc đẩy tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Tất cả các giai đoạn này đã được kế hoạch hướng dẫn. Như vậy các đơn vị thực hiện sẽ có biện pháp tốt cho những phương hướng mục tiêu đạt được, tức là đơn vị làm việc có hướng đi cụ thể. + Ngay trong những thành viên sẽ có điều kiện thử thách mình, trình độ, năng lực, và tính sáng tạo sẽ biểu hiện rất tốt trong quá trình thực hiện. Luôn có điều kiện để kiểm tra, đánh giá lại mình đã hoàn thành kế hoạch được giao chưa, nếu chưa thì tại sao. Lúc đó họ luôn có xu hướng hoàn thiện mình. Điều này rất có lợi cho công ty. Như vậy công ty phải thúc đẩy tổ chức tốt các điều kiện cần thiết để thực hiện kế hoạch tiêu thụ. Công ty có thể sử dụng các biện pháp sau: 1-/ Quán triệt kế hoạch cho các bộ phận: Trong giải pháp này công ty cần tiến hành một số công việc sau: - Tổ chức một hội nghị báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh năm trước và phổ biến kế hoạch tiêu thụ trong năm nay. Giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị. Các đơn vị này phải chịu trách nhiệm thực hiện và báo cáo lại với ban lãnh đạo công ty diễn biến trong quá trình thực hiện và kết quả cuối cùng có thể dùng hình thức khoán đối với các đơn vị, thúc đẩy các đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. - Các đơn vị sau khi nhận được bản kế hoạch chính thức, triển khai phổ biến và phân công công việc cho các thành viên. - Áp dụng các hình thức bắt buộc, khuyến khích các thành viên trong mỗi đơn vị, mỗi đơn vị trực thuộc Công ty luôn chú ý đến mục tiêu mà kế hoạch đã đề ra và có trách nhiệm góp phần vào hoàn thành các mục tiêu đó. - Tùy theo tầm quan trọng và mối liên quan đến kết quả của quá trình tiêu thụ của mỗi đơn vị mà nhấn mạnh những nội dung mà mỗi đơn vị cần phải hoàn thành. 2. Quản lý và giám sát thực hiện kế hoạch: Trong quá trình thực hiện kế hoạch tiêu thụ không tránh khỏi những khó khăn trở ngại gây ảnh hưởng đến mức độ hoàn thành. Những nhân tố phát sinh tiêu cực có thể là chủ quan hay do khách quan đem lại. Những nhân tố thuộc về chủ quan như: năng lực sản xuất của máy móc, thiết bị, những sai hỏng về mặt kỹ thuật dẫn đến sự giảm sút về chất lượng sản phẩm, không đảm bảo yêu cầu đặt ra. Cường độ làm việc của các thành viên chưa cao, hờ hững với công việc, hoặc những yếu kém về chuyên môn, nghiệp vụ. Những nhân tố thuộc về khách quan như: sự lớn mạnh của đối thủ cạnh tranh, sản phẩm có sức tiêu thụ lớn treen thị trường có thể là do cải tiến chất lượng, quy cách mẫu mã có thể chất lượng giữ nguyên nhưng giảm giá dột ngột. Những biến đổi trên thị trường tiêu thụ, sự phát triển của khoa học công nghệ cho ra đời những vật liệu xây dựng có khả năng thay thế vật liệu thông thường. Những biến đổi bất ngờ về môi trường kinh tế, chính trị: khủng hoảng tiền tệ, lạm phát tăng cao, sự bất ổn môi trường chính trị xảy ra bạo loạn hoặc chiến tranh. Những thay đổi về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước hình thành những luật lệ mới bất lợi cho Công ty. Để các chỉ tiêu kế hoạch được hoàn thành ở mức hợp lý nhất Công ty cần tiến hành quản lý và giám sát quá trình thực hiện kế hoạch. - Quản lí, đôn đốc nhân viên tích cực lao động có sáng tạo, vừa thực hiện công việc được giao vừa tìm kiếm thông tin phản hồi đưa ra các giải pháp tốt để khắc phục những ảnh hưởng bất lợi trong quá trình làm việc. - Tiến hành khoán công việc cho mỗi đơn vị, công nhân và họ được hưởng theo kết quả mà họ làm được theo quy định của Nhà nước, Tổng Công ty. - Nêu rõ quan điểm, chính sách của Công ty về chế độ thưởng, phạt và yêu cầu các thành viên phải thực hiện. - Thường xuyên theo dõi, kiểm tra tình trạng làm việc của các đơn vị và cụ thể của các công nhân và có biện pháp xử lý ngay nếu có hành vi trái với lợi ích của Công ty. - Khuyến khích các đơn vị, thành viên trong quá trình sản xuất và tiêu thụ thu nhập các thông tin phản hồi từ môi trường bên ngoài để tổ chức nắm bắt và lắng nghe những thông tin đó. - Thường xuyên nghiên cứu những diễn biến của thị trường tiêu thụ, xây dựng kỹ thuật dự báo, đảm bảo tính chính xác trong những quyết định cho những sản phẩm của Công ty trên thị trường. 3. Đánh giá và điều chỉnh kế hoạch: Trong quá trình quản lý và giám sát thực hiện kế hoạch Công ty có điều kiện nắm bắt được các thông tin, kịp thời phân tích và so sánh với các chỉ tiêu kế hoạch. Công ty phải tiến hành các công việc đánh giá giữa kế hoạch và thực tế thực hiện để có những điều chỉnh cho phù hợp hơn. Nhiệm vụ đặt ra Công ty phải đánh giá đúng tính hình tiêu thụ về mặt số lượng, chất lượng và mặt hàng, đánh giá tính kịp thời của tiêu thụ. Tìm những nguyên nhân và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ. Sau đó đề ra các biện pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ thực hiện kế hoạch hoặc có những điều chỉnh cần thiết cho phù hợp với điều kiện thực tế. Bằng phương pháp so sánh, sử dụng thước đo hiện vật hay giá trị tính ra chỉ tiêu tỉ lệ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ chung hay đối với từng mặt hàng. công thức So sánh khối lượng sản phẩm tiêu thụ thực tế với kế hoạch và năm trước của từng loại sản phẩm, đồng thời so sánh tỉ lệ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ với tỉ lệ hoàn thành kế hoạch sản xuất sản phẩm hàng hóa và tỉ lệ hoàn thành dự trữ của từng loại sản phẩm. Phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình thực hiện kế hoạch. Những nguyên nhân này có thể là: bản thân doanh nghiệp khách hàng và nhu cầu của họ, Nhà nước với những chính sách kinh tế,... Ngoài ra Công ty có thể phân tích ảnh hưởng của cơ cấu sản phẩm, chất lượng sản phẩm đến doanh thu tiêu thụ, phân tích tính đồng bộ của thực hiện kế hoạch các loại sản phẩm. Để thực hiện được công việc phân tích đánh giá tốt Công ty phải thành lập riêng biệt một bộ phận chuyên thu thập những số liệu, thông tin, tính ra các chỉ tiêu và dựa vào các phương pháp phân tích thích hợp so sánh, liên hệ loại trừ, hồi quy tương quan,... để rút ra những nhận xét chính xác. Sau khi tiến hành đánh giá rút ra các nhận xét, dự báo trong thời gian tới, có kế hoạch điều chỉnh các chỉ tiêu cần thực hiện như thế nào cho phù hợp, đồng thời phải đưa ra các giải pháp cụ thể để thực hiện. Nói chung ở nước ta thị trường vật liệu xây dựng là tương đối ổn định, hàng năm nhu cầu về xây dựng có tăng nhưng chậm. Tuy nhiên nếu có biến động xảy ra thì lại rất lớn. Chẳng hạn cơn sốt xia măng cách đây vào khoảng 4 năm (1998) đã làm đầy túi tiền những nhà sản xuất và những nhà kinh doanh lớn, nhưng lại đem lại hậu quả dư thừa cho các năm sau đó. Các nhà máy sản xuất liên tục mọc lên với công suất lớn hàng năm cho ra lò hàng triệu tấn xi măng với chất lượng tương đối cao. Cùng với nó là xuất hiện các nhà kinh doanh tiêu thụ sản phẩm đảm nhận các công việc từ thu nhận sản phẩm đến khâu vận chuyển tận nơi tiêu dùng, thỏa mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Điều này phản ánh phần nào tốc độ phát triển nền kinh tế xã hội của nước ta. Nhưng hiện nay tình trạng dư thừa, sản xuất ra không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ rất chậm gây ùn tắc ở kênh tiêu thụ, tăng chi phí và kìm hãm vòng quay của vốn, thất thoát và khó bảo toàn bổ sung cho phát triển. Những năm tới sản phẩm công nghiệp của Công ty xây lắp vận tải vật tư sông Đà 12 tiếp tục phải đối đầu với những khó khăn về thị trường đầu ra. Nhưng với năng lực tiềm tàng: vốn, kỹ thuật và nguồn nhân lực với những nhân viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, bầu không khí làm việc vui vẻ và đoàn kết. Đội ngũ lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Tổng Công ty xây dựng sông Đà, Bộ xây dựng, Công ty vẫn giữ nguyên quyết định tăng sản xuất qua các năm, tin rằng sản phẩm của Công ty sẽ đứng vững trên thị trường truyền thống và phát triển mở rộng chiếm lĩnh sang các thị trường mới. Lĩnh vực sản xuất công nghiệp sẽ tiếp tục phát triển và giữ vai trò, vị trí quan trong trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường, lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm ngày càng trở nên quan trọng đối với công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất. Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm gắn liền với việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở lý luận khoa học, kết hợp với thực tiễn, đề tài được trình bày theo một logic nhất định. Mọi vấn đề đưa ra xem xét nghiên cứu và phân tích đều nhằm đến mục đích cuối cùng là làm rõ công tác lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất nói chung và của Công ty xây lắp vật tư vận tải sông Đà 12 nói riêng. Trong sso bao hàm những lý luận cơ bản về lập và thực hiện kế hoạch tiêu thụ nói chung, thực trạng xây dựng và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty: căn cứ, các chỉ tiêu, nội dung và qui trình xây dựng kế hoạch tiêu thụ, các hoạt động tổ chức thực hiện kế hoạch. Trong phần thực trạng đã chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế trong quá trình thực hiện công tác này của Công ty xây lắp vật tư vận tải sông Đà 12. Tăng cường mặt tích cực, giảm bớt mặt hạn chế để tiến tới hoàn thiện lập và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm công nghiệp là vấn đề luôn đặt ra đối với Công ty. Tài liệu tham khảo. 1. Giáo trình kinh tế thương mại. Đại học Kinh tế quốc dân. 2. Quản trị hoạt động thương mại của doanh nghiệp công nghiệp Giáo trình - Đại học kinh tế quốc dân. 3. Marketing căn bản Philipkotler 4. Kinh tế thương mại dịch vụ tổ chức và quản lý kinh doanh. Giáo trình - Đại học Kinh tế quốc dân. 5. Cẩm nang thương mại dịch vụ - kinh tế, tổ chức và nghiệp vụ kinh doanh. Giáo trình Đại học Kinh tế quốc dân. 6. Một số tạp chí: - Tạp chí công nghiệp: số 13, 22,23/2000; 4,14/2001. - Tạp chí thương mại: Số 15/2000; 1,7/ 2001. - Tạp chí Kinh tế và phát triển: số 21/2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của công ty xây lắp- Vật tư- Vận tải sông Đà 12.pdf