Trước hết phải nhận thức và xác định rõ ràng rằng muốn phát triển
công nghiệp Hóa dược Việt Nam thì phải nhanh chóng chuyển ngành
này từ sự quản lý của Bộ Y tế sang Bộ Công nghiệp vì chỉ có khi sang
Bộ Công nghiệp thì ngành Công nghiệp Hóa dược mới có cơ hội phát
triển để hòa nhập và song song tiến lên với các ngành hóa chất, dầu khí,
cơ khí v.v. Từ nhiều năm nay vì ngành Dược thuộc sự quản lý của Bộ
Y tế, là một Bộ hành chính sự nghiệp nên ngành Dược ít được đầu tư
phát triển. Cũng cần nhắc lại rằng ở hầu hết các nước tiên tiến phát
triển ngành công nghiệp Dược không chịu sự quản lý hành chính hay
phụ thuộc vào Bộ Y tế mà BộY tế chỉ là khách hàng của ngành công
nghiệp Dược mà thôi.
47 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2857 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số ý kiến về phát triển công nghiệp hóa dược ở Việt Nam từ nay đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ
PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP HÓA DƯỢC Ở
VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN
NĂM 2010
Chủ biên
TS. PHAN QUỐC KINH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................. 3
1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, TIÊU THỤ DƯỢC PHẨM TRÊN
THẾ GIỚI........................................................................................... 4
2. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HÓA DƯỢC HIỆN NAY Ở VIỆT
NAM.................................................................................................. 15
3. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT HÓA DƯỢC TỪ 2003
- 2010 Ở VIỆT NAM ........................................................................ 28
4. CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC, ĐẦU TƯ VÀ NGHIÊN CỨU
TRIỂN KHAI ĐÀO TẠO NHÂN LỰC PHỤC VỤ CHO VIỆC
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ HÓA DƯỢC TỪ NAY ĐẾN 2010 . 45
MỞ ĐẦU
Công nghiệp dược là ngành công nghiệp sản xuất thuốc hay còn gọi là
công nghiệp sản xuất dược phẩm. Ngành công nghiệp Dược có hai lĩnh
vực sản xuất công nghiệp chính là: "Công nghiệp Hóa dược" và "Công
nghiệp bào chế". "Công nghiệp Hóa dược" sản xuất ra tất cả các loại
nguyên liệu hóa học để làm thuốc như: các hóa dược (các chất có tác
dụng phòng và điều trị bệnh), các tá dược.
Tất cả các loại nguyên liệu hóa dược đều phải là những hóa chất tinh
khiết, phải là những hợp chất có cấu trúc hóa học xác định đạt tiêu
chuẩn quy định của Dược điển Quốc gia hay Quốc tế mới có thể được
sử dụng để bào chế sản xuất thuốc thành phẩm. Các chất hóa dược này
thường được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu khác nhau: từ các
khoáng chất vô cơ, từ cây cỏ, từ các phủ tạng, cơ thể động vật, từ các
chất hữu cơ (than đá, dầu mỏ, khí); từ các hóa chất khác, bằng con
đường chiết xuất, phân lập, bằng tổng hợp hóa học (tổng hợp toàn phần,
bán tổng hợp), bằng con đường công nghệ sinh học bao gồm: sinh học
công nghệ lên men và công nghệ gen.
Công nghiệp bào chế là công nghệ sản xuất các loại thuốc thành phẩm
dưới dạng thuốc viên, thuốc tiêm, thuốc xịt, thuốc mỡ v.v... từ các hóa
dược. Ngành công nghệ bào chế có lợi nhuận rất cao mà đầu tư lại
tương đối đơn giản.
Điều đáng chú ý là: ở những nước có nền kinh tế phát triển, có ngành
Công nghiệp Dược phát triển cân đối, có chính sách an ninh quốc gia
về thuốc thì hai lĩnh vực nêu trên của Công nghiệp Dược luôn luôn gắn
bó với nhau thành một khối thống nhất không tách rời nhau vì Công
nghiệp Hóa dược là xương sống đảm bảo cho sự ổn định phát triển và
uy tín của một công ty, an ninh thuốc cho một quốc gia, còn Công
nghiệp Bào chế thì góp phần vào nhiệm vụ cung cấp thuốc, kinh doanh
lưu thông, đóng góp tài chính.
Hóa Dược có tốc độ phát triển rất nhanh từ sau phát minh ra mocphin
và sau khi tổng hợp được aspirin. Người ta ước tính hiện nay có khoảng
10.000 loại hóa chất được dùng trong y học hiện đại. Ngành công
nghiệp Hóa dược có bước phát triển rất mạnh từ sau chiến tranh Thế
giới thứ hai mà chủ yếu là sản xuất các chất kháng sinh và các chất
corticosturid và các steroid chống thụ thai. Nhiều kháng sinh đạt mức
tiêu thụ hàng chục ngàn tấn/ năm. Ngành công nghiệp dược phẩm là
một trong những ngành công nghiệp chủ đạo của Thế giới.
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HÓA
DƯỢC Ở VIỆT NAM TỪ NAY TỚI NĂM 2010
1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, TIÊU THỤ DƯỢC PHẨM TRÊN
THẾ GIỚI
Ngành công nghiệp dược là một ngành kinh tế mũi nhọn của thế giới.
Ngành này được xếp hạng thứ tư chỉ đứng sau các ngành:
- Máy tính
- Ngân hàng
- Thông tin
Trong 500 tập đoàn kinh tế lớn nhất thế giới thì có tới 30 tập đoàn dược
phẩm (xem bảng 1).
Bảng 1: Các tập đoàn dược phẩm trong số 500 tập đoàn
kinh tế lớn nhất thế giới
(tính theo triệu USD Mỹ)
Xếp thứ tự Xếp thứ tự
2000 1999
Tập đoàn Vốn
2000 1999
Tập đoàn Vốn
4
13
19
24
26
37
20
-
34
47
Pfizer
Marck & Co
GSK
JBJ
Novartis
263,996
195,743
160,406
135,008
123,429
93
125
134
147
188
149
213
181
175
187
Takeda
S-Synthélabo
Genentech
Bayer
BASF
53,462
42,703
38,848
35,467
27,785
27
42
48
52
58
63
65
72
73
86
38
69
46
63
93
103
-
99
84
124
BMS
Lilly
Roche
AstraZeneca
S-Plough
AHP
Pharmacia
Abbott Labs
Amgen
Aventis
123,311
91,450
87,013
82,736
76,340
73,497
72,896
66,117
65,292
57,147
214
241
355
359
369
376
427
477
496
500
321
378
479
384
386
-
-
-
-
-
Baxter Intl
Immunex
Yamanouchi
Japan Tobacco
Akzo Nobel
Elan
Millennium
Novo Nordisk
Medimmune
Sankyo
24,064
22,031
15,031
14,941
14,467
13,994
12,327
10,957
10,443
10,416
Trong 500 tập đoàn kinh tế lớn nhất của Mỹ thì có 28 tập đoàn Dược
phẩm (xem bảng 2).
Bảng 2. Các tập đoàn Dược phẩm Mỹ trong 500 tập đoàn
kinh tế hàng đầu của Mỹ
Xếp thứ tự Tập đoàn Vốn Xếp thứ tự Tập đoàn Vốn
2000 1999 2000 1999
4
10
17
18
27
37
39
41
45
46
72
115
122
210
23
13
21
24
37
50
56
-
53
46
85
146
172
421
Pfizer
Merck &
Co
JBJ
BMS
Lilly
S-Plough
AHP
Pharmacia
Abbott
Labs
Amgen
Genentech
Baxter Intl
Immunex
263,996
195,743
135,008
123,311
91,450
76,340
73,497
71,896
66,117
65,292
38,848
24,064
22,031
12,327
224
238
247
273
284
285
295
306
310
322
387
397
438
483
362
268
450
-
228
335
-
-
-
-
-
-
-
-
Allergan
Medimmune
Forest Labs
Alza
Biogen
Chiron
HGS
King
Pharma
Idec Pharma
Genzyme
Gen
Sepracor
vax
LabCorp
11,269
10,443
10,046
8,698
8,336
8,307
8,057
7,755
7,502
7,212
5,686
5,463
4,833
4,187
Millennium Andrx
Trong 500 tập đoàn kinh tế hàng đầu của châu âu có 24 tập đoàn Dược
(xem bảng 3).
Bảng 3
Xếp thứ tự Xếp thứ tự
2000 1999
Tập đoàn Vốn
2000 1999
Tập đoàn Vốn
5
7
12
15
30
45
52
-
12
11
19
41
66
56
GSK
Novartis
Roche
AstraZeneca
Aventis
S-
Synthélabo
160,406
123,429
87,013
82,736
57,147
42,703
35,467
165
218
270
274
277
284
290
280
305
483
499
275
274
360
Serono
Merck
KGaA
Altana
Lundbeck
UCB
Degussa-
9,836
7,319
5,436
5,353
5,263
5,116
4,985
62
110
113
146
159
60
120
230
206
226
Bayer
BASF
Alzo Nobel
Elan
Novo
Nordisk
Schering
AG
27,785
14,467
13,994
10,957
10,244
325
337
443
444
488
-
451
476
428
-
Huls
Nyc.
Amersham
Celltech
Shire
Gahe
Gambro
Givaudan
4,255
3,960
2,514
2,506
2,214
Trong 500 tập đoàn kinh tế hàng đầu của Nhật Bản có 24 tập đoàn
Dược phẩm (xem bảng 4).
Bảng 4
Xếp thứ tự Xếp thứ tự
2000 1999
Tập đoàn Vốn
2000 1999
Tập đoàn Vốn
6
40
21
76
Takeda
Yamanouchi
53,462
15,031
206
253
-
217
Dainippon
Welfide
2,790
2,193
41
64
65
68
78
88
99
114
138
151
62
96
101
155
89
219
183
188
227
255
Japan
Tobacco
Sankyo
Fujisawa
Eisal
Taisho
Daiichi
Shionogi
Banyu
Ono
Chugai
14,941
10,416
10,391
9,992
8,930
8,280
7,276
5,952
4,744
4,253
259
260
270
281
309
395
413
415
445
472
288
373
301
365
-
-
-
-
-
-
Suzuken
Tanabe
Seiyaku
Kyorin
Santen
Hisamitsu
Kissei
Kuraya
Sanseido
Nippon
Kayaku
SSP
Mochida
2,115
2,109
2,048
1,054
1,665
1,157
1,093
1,088
983
896
Trong năm 1991, thị phần dược phẩm của 10 thị trường lớn nhất thế
giới là:
Bảng 5
Thứ tự Nước Thị phần (tỷ
USD)
Phần trăm thị
phần quốc tế
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Mỹ
Nhật
Đức
Pháp
Ý
Anh
Tây Ban Nha
Braxin
Trung Quốc
Canađa
130,1
53,5
18,5
17,8
11,3
11,0
6,6
6,3
6,2
5,5
39
16
5
5
3
3
2
2
2
2
Tổng cộng 266,8 79
Còn lại là của tất cả các nước khác 21% thị phần.
Do xu hướng tập trung hóa các tập đoàn dược phẩm siêu quốc gia để
chiếm thị trường nên càng ngày càng có nhiều tập đoàn lớn hợp nhất
cùng nhau để trở thành các tập đoàn khổng lồ như Pfizer, Merek (Mỹ)
GSK (Anh).
Các nhóm thuốc được tiêu thụ mạnh nhất trên thế giới hiện tại gồm có
(bảng 6).
Bảng 6
Thứ tự Nhóm thuốc Doanh thu 1999
(tỷ USD)
1
2
3
4
5
6
Các thuốc chống loét
Các thuốc hạ cholesterol và
triglycerid
Chống trầm uất
Kháng canxi
Chống viêm không có cấu trúc
steroid
15,8
13,4
11,7
9,9
7,7
7,4
7
8
9
10
Các chất ức chế ACE
Các Cephalosporin
Các thuốc giảm đau không gây
nghiện
Chống động kinh
Chống đái tháo
7,3
6,2
5,1
4,8
Trong đó có 10 loại thuốc được sản xuất độc quyền có doanh số lớn
nhất trong năm 1999 (bảng 7).
Bảng 7
Sản phẩm Doanh số (tỷ USD)
1. Losec
2. Zocor
3. Lipitor
4. Norvasc
5. Prozac
5.7
3.9
3.8
3.0
2.9
6. Ogastro
7. Seroxat
8. Zolot
9. Claritin
10. Zyprexa
2.3
2.1
2.0
2.0
1.9
Để phát triển sản xuất các loại thuốc mới, các tập đoàn dược phẩm
thường để lại 5% tổng số lợi nhuận đầu tư vào nghiên cứu phát triển.
Chi phí cho nghiên cứu phát minh để sản xuất một loại thuốc mới
thường có con số một vài trăm triệu USD Mỹ. Các thuốc tân dược trên
thế giới được sản xuất bằng các con đường khác nhau như sau:
Tổng hợp toàn phần như: Aspirin, Paracetanol.
Bán tổng hợp như các thuốc chống thụ thai, các Corticosteroit.
Bằng công nghệ sinh học như: Penicillin G,Insulin, Hoocmon tăng
trưởng.
Chiết suất từ cây cỏ, động vật như: Quinin, Morphin, Vitamin A,
Vitamin D3.
Các chất vô cơ
Tổng hợp gen.
Nhưng hiện nay nhiều loại thuốc quan trọng lại đang được sản xuất
bằng cả công nghệ sinh học, chiết suất thiên nhiên kết hợp với bán tổng
hợp hóa học thông thường, đây là các nhóm thuốc có vai trò quan trọng
hàng đầu như các kháng sinh Betalactam (nhất là các Cephaloporin) và
các thuốc chống thụ thai, các thuốc Corticosteroid.
Hiện nay có hàng nghìn hóa dược được sử dụng trong y học và việc sản
xuất chúng rất đa dạng và phức tạp nên chưa có một quốc gia nào lại tự
sản xuất được đủ hết các loại thuốc, nên tạo nên việc sản xuất độc
quyền từng nhóm thuốc của từng nước để sau đó buôn bán trao đổi cho
nhau.
2. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HÓA DƯỢC HIỆN NAY Ở VIỆT
NAM
Năm 2002, cả nước tiêu thụ hơn 500 triệu USD tiền thuốc, tính bình
quân đầu người là 6,7 USD/năm (trong khi đó cũng thời điểm này ở
Thái Lan bình quân hơn 17 USD và ở Philippin cũng tương tự, còn ở
Nhật và ở Mỹ là hơn 400 USD/người/năm).
Cũng trong năm này, các Xí nghiệp Công ty trong nước (bao gồm các
Xí nghiệp nhà nước, các xí nghiệp cổ phẩn, các xí nghiệp tư nhân và
các xí nghiệp nước ngoài ở Việt Nam) sản xuất và kinh doanh được
hơn 3.000 tỷ đồng, chiếm gần 40% tổng số thuốc tiêu dùng trong nước
với hơn 6000 mặt hàng chứa 384 hoạt chất hóa dưọc kháng sinh và các
sản phẩm từ cây cỏ, động vật.
Hầu hết 384 hoạt chất này đang phải nhập khẩu, chiếm tới 70-80% giá
thành các loại thuốc.
Mặc dù lượng tiêu thụ thuốc tính theo đầu người ở Việt Nam tăng dần
nhưng vẫn còn ở mức khá thấp. Lượng thuốc tiêu thụ của người Việt
Nam tính theo đầu người được trình bày ở hình 1 dưới đây.
Dự báo: - 2005: Tiền thuốc bình quân đầu người/ năm là: 8 - 10 USD
- 2010: Tiền thuốc bình quân đầu người/ năm là: 12 - 15 USD
Có thể thấy cho đến năm 2010 lượng thuốc tiêu thụ ở Việt Nam cũng
chưa bằng mức trung bình của thế giới vào giai đoạn hiện nay.
Tiền thuốc sử dụng năm 2002 của cả nước là hơn 500 triệu USD, trong
đó gần 40% các loại thuốc được sản xuất bào chế trong nước mà phần
lớn là bằng các nguyên liệu nhập khẩu (tính ra giá trị thuốc thì nguyên
liệu nhập khẩu chiếm 70 - 80% giá trị) phần còn lại 60% phải nhập
khẩu hoàn toàn từ các thị trường nước ngoài. Hầu hết số thuốc nhập
khẩu được sử dụng ở các đô thị và các vùng nông thôn có mức sống
cao, còn đa số người nghèo ở miền núi, vùng xa, vùng sâu thì chưa đủ
tiền để mua các loại thuốc đắt tiền.
Các loại thuốc được sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam gồm có các thuốc
kháng sinh, thuốc trị cảm cúm, các Vitamin, các thuốc phòng và điều
trị các bệnh dịch và các bệnh xã hội.
2.1. Nhu cầu về thuốc kháng sinh:
Nước ta là một nước có khí hậu khắc nghiệt, mức sống còn thấp nên có
nhiều bệnh nhiễm trùng phải sử dụng các loại kháng sinh. Hơn nữa dân
ta lại tự động sử dụng kháng sinh không cần có đơn thuốc của thầy
thuốc nên hiện đã xảy ra tình trạng lạm dụng kháng sinh rất phổ biến.
Theo thống kê, lượng thuốc kháng sinh sử dụng ở nước ta hiện chiếm
hơn 35% tổng lượng thuốc và như vậy trong năm 2002, nước ta sử
dụng lượng kháng sinh trị giá khoảng 175 triệu USD.
Trong các loại kháng sinh, thì các kháng sinh nhóm Betalactam được
sử dụng nhiều nhất. Nhóm kháng sinh này gồm các loại penixilin bán
tổng hợp như Ampixilin, Amoxixilin... và các Cephalosponin bán tổng
hợp như Cefalexin, Cefadroxil, Cefotaxim, Cefuroxim... các nhóm
thuốc này chiếm hơn 60% các loại thuốc kháng sinh.
Tất cả kháng sinh này hiện đang phải nhập khẩu, chỉ trong vài năm gần
đây, Công ty Cổ phần Hóa dược Mecophar Thành phố Hồ Chí Minh
mới nhập được 6-APA (chất trung gian) để sản xuất Ampixilin,
Amoxixilin với năng suất 170 tấn/ năm.
Tuy nhiều công ty xí nghiệp dược Việt Nam đã có các dây chuyền bào
chế thuốc uống, thuốc tiêm, các kháng sinh Betalactam đạt tiêu chuẩn
GMP Asian nhưng hiện tại giá thuốc của Việt Nam mới chỉ bằng 1/5 -
1/10 giá các loại thuốc cùng loại nhập khẩu từ âu, Mỹ, Nhật.
Có thể nói, các kháng sinh là nhóm thuốc quan trọng nhất và được
dùng nhiều nhất ở Việt Nam. Trong tương lai (vài chục năm nữa) các
thuốc này sẽ vẫn giữ vị trí đầu bảng ở nước ta.
2.2. Nhu cầu về các Vitamin:
Là loại thuốc được dùng rộng rãi trong y tế và cả trong chăn nuôi thú y.
Các Vitamin C, E lại còn được dùng nhiều trong thực phẩm, mỹ phẩm.
Vì vậy nhu cầu sử dụng về Vitamin ở nước ta rất lớn.
Các Vitamin B1, Vitamin C là những loại được sử dụng rộng rãi nhất
và nhiều nhất, Vitamin A đang được dùng cho tất cả trẻ em nhỏ tuổi (2
lần năm).
Vitamin D dùng phòng và điều trị còi xương.
Vitamin K dùng để cầm máu nhất là cầm máu sau khi sinh nở, sau phẫu
thuật, sau các chấn thương.
Tất cả các loại này đều phải nhập khẩu, nước ta chưa sản xuất được bất
kỳ loại Vitamin nào.
2.3. Nhu cầu về các Sunfamit:
Bao gồm các Sulfamit kháng khuẩn mà vị trí hàng đầu là
Sunfamethoxazol và Trimethoprim và một số Sunfamit chống đái tháo
được dùng nhiều ở nước ta. Tất cả các loại thuốc này cũng đang phải
nhập khẩu
2.4. Nhu cầu về các thuốc hạ nhiệt, giảm đau:
Là loại thuốc thông thường được dùng rộng rãi và phổ biến nhất để
giảm sốt, giảm đau, để điều trị hắt hơi, sổ mũi, cảm lạnh, cảm nóng do
thời tiết khắc nghiệt và phức tạp ở nước ta. Paracetamol hiện có mặt
trong hơn 300 loại thuốc được phép sử dụng ở Việt Nam. Hàng năm
nước ta tiêu thụ tới hàng trăm tấn Paracetamol dưới dạng hàng nhập
khẩu.
Aspirin là loại thuốc cảm thứ hai được dùng phổ biến ở nước ta. Tuy
công thức của nó đơn giản nhưng chúng ta cũng đang phải nhập khẩu
toàn bộ nguyên liệu.
2.5. Nhu cầu về các hocmon steroit:
Đây là các loại thuốc cao cấp vì chỉ cần sử dụng dưới dạng vi lượng và
số lượng nguyên liệu chỉ tính hàng kg. Ví dụ 1kg Ethirylestradiol có thể
sản xuất 1 triệu 200 ngàn viên thuốc (0,75mg) và 33 triệu viên loại
0,03mg để chống thụ thai, hay các Corticosteroit thế hệ mới như
Betnesol cũng chỉ cần 0,1 - 0,2mg là cắt được các cơn hen nguy kịch và
1kg Dexamethason cũng sản xuất được 10 triệu viên thuốc chống viêm,
dị ứng.
Nói chung các loại thuốc này có tác dụng đề phòng và điều trị các bệnh
về sinh sản, các bệnh viêm, dị ứng, mẫn cảm đặc biệt là các thuốc tránh
thụ thai dưới dạng viên uống, dạng tiêm hiện đang được hàng triệu phụ
nữ nước ta sử dụng. Các loại thuốc này sẽ ngày càng được sử dụng
nhiều hơn, rộng rãi hơn.
2.6. Nhu cầu về các hợp chất thiên nhiên dùng làm thuốc:
Là một thế mạnh của công nghệ hóa dược Việt Nam vì nguồn tài
nguyên thiên nhiên của nước ta rất phong phú và đa dạng. Từ mấy chục
năm nay, ngành Dược Việt Nam đã khai thác được một số tài nguyên
này.
Ví dụ:
Sản xuất để tiêu dùng và xuất khẩu quy mô lớn Menthol (từ bạc hà)
Becberin (từ Hoàng liên, Vàng đắng) Artemisinin và các dẫn chất (từ
thanh hao hoa vàng) Rutin (từ hoa hòe) Tetrahydrofalmatin (từ củ Bình
vôi).
Trong tương lai, ngành Hóa dược cần mở rộng phát triển sản xuất các
hợp chất thiên nhiên quý giá ở nước ta như:
Vinblastin từ dừa cạn
Taxol từ thông đỏ
Betacaroten, lycopen từ quả gấc
Asiaticosid từ rau má
Curcumin từ nghệ... để đáp ứng tiêu dùng trong nước và để xuất khẩu.
2.7. Nhu cầu về các thuốc cai nghiện:
Nghiện ma túy là vấn đề xã hội nhức nhối hàng chục năm nay ở nước
ta. Hiện có hàng trăm ngàn người nghiện. Một thời rộ lên các thuốc hỗ
trợ cai nghiện từ cây cỏ nhưng đến nay Bộ Y tế đã ban hành chỉ cho
phép sử dụng 2 loại thuốc có tác dụng cắt cơn nghiền (không phải là
thuốc cai nghiện). Từ nhiều năm nay, một số cơ sở y tế Trung ương ở
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã bước đầu nhập khẩu và cho sử
dụng các loại thuốc:
Methadon - liệu pháp thay thế
Naltrexon - liệu pháp đối kháng để cai nghiện
nhằm điều trị cho các con nghiện Morphin, Heroin và các chất cùng
loại. Kết quả thu được là khả quan tương tự như các kết quả mà hầu hết
các nước trên thế giới đã sử dụng thành công từ nhiều năm nay.
Vì vậy việc nghiên cứu sản xuất Methadon và Naltrexon ở nước ta là
một nhu cầu cấp bách cần thiết.
Hầu hết các loại thuốc khác (ngoài những loại đã nêu trên) Việt Nam
cũng đang phải nhập khẩu hoàn toàn nguyên liệu ban đầu và chỉ gia
công bào chế đóng gói khâu cuối, cho nên rất phụ thuộc vào các tập
đoàn dược phẩm bên ngoài. Thực tế giá thuốc trong thời gian qua xáo
trộn là do Hãng Zurich đã tăng giá hơn 300 mặt hàng trong tổng số hơn
500 mặt hàng thuốc do họ đặc quyền kinh doanh. Đây là một bài học
thấm thía mà chúng ta rút ra được và trên cơ sở đó phải tìm cách tháo
gỡ dần mà biện pháp hàng đầu là phải sản xuất tự túc một phần nguyên
liệu dược phẩm trong nước.
Dưới đây là một số sản phẩm hóa dược đã được nghiên cứu và tổng
hợp trong nước, việc chia thành các nhóm sản phẩm mang ý nghĩa
tương đối:
Các sản phẩm chiết xuất
Thứ tự Sản phẩm Nguồn
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Artemisinin
Solasodin
Ajmalicin
Vindolin
Catharathin
Vinblastin
Vincristin
Steviosit
Papain
Thanh hao
Cà úc
Dừa cạn
Dừa cạn
Dừa cạn
Dừa cạn
Dừa cạn
Cỏ ngọt
Đu đủ
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
Menthol, campho, cineol,...
Diosgenin
Berberin
Phytin
Rutin
Palmatin
Codein
Narcotin
Morphin
Beta caroten
Strychnin
Củ Dioscorea sp
Vàng đắng
Cám
Hoa hòe
Hoàng đằng
Thuốc phiện
Thuốc phiện
Thuốc phiện
Gấc
Mã tiền
Các sản phẩm kháng sinh tổng hợp (nghiên cứu quy mô phòng thí
nghiệm)
Thứ tự Sản phẩm Nguồn
1
2
3
Vitamin B12
Tetracyclin
Beta Caroten
Vi sinh vật
Vi sinh vật
Vi tảo
Các sản phẩm tổng hợp hữu cơ (nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
(A) và sản xuất ở quy mô nhỏ (B))
Thứ tự Sản phẩm Nguồn
1
2
3
4
5
Axit salixylic
Rimifon
Canxi glycero photphat
Chloroform
Axit benzoic
A
A
B
B
B
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
Camphorn
Izobocnyl acetat
Paracetamol
16 - DPA
Canxi gluconat
Diethylphthalat
Ete ethylic
Tecpin hydrat
Phtalyl sunfathiazol
Codein
Methyl salixylat
Aspirin
Artexunat
Phenitoin
Sunfagnanidin
Sunfadimidin
B
B
A
B
B
B
B
B
B
B
B
A
B
A
A
A
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
Tolbutamit
Clopropamit
Mebendazol
Niclosamit
Methyl testosteron
Methylandrogtendiol
Proges teron
DHEA
Prognenolon
17 hydroxy progesteron
Medroxy progesteron acetat
Megestrol
A
A
A
A
B
B
B
B
B
A
A
A
Các sản phẩm vô cơ, tá dược
1. Amoni clorua
2. Cloral hyđrat
3. Silicagen
4. Bismuth subnitrat
5. Natri hyđro cacbonat
6. Bột talk
7. Bột bó
8. Tricanxi photphat
9. Vôi sô đa
10. Axit clohyđric (tinh khiết)
11. Axit campho sunphonic
12. Natri sunfat khan
13. Tinh bột
14. Kaolin
15. Canxi clorua tiêm
16. Magiê sunfat tiêm, uống
17. Magiê cacbonat
18. Magiê stearat
19. Magiê trisilicat
20. Natri clorua tiêm, tinh khiết
21. Kali clorua tiêm, uống
22. Sắt II oxalat
23. Canxi sunfat
24. Sắt II sunfat khan
25. Natri citrat
26. Bari sunfat
27. Canxi cacbonat v.v...
3. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT HÓA DƯỢC TỪ 2003
- 2010 Ở VIỆT NAM
3.1. Các thuốc kháng sinh nhóm Betalactam
Tổng Công ty Dược Việt Nam đã trình Chính phủ đề án xây dựng nhà
máy kháng sinh Betalactam, mỗi năm sản xuất: 1000 tấn penicilin G
300 tấn 6.APA
200 tấn 7.ADCA
300 tấn Cephalosporin bán tổng hợp thế hệ 1 và thế hệ 3.
Về nguyên tắc, Chính phủ đã đồng ý cần sớm súc tiến xây dựng nhà
máy sản xuất kháng sinh ở Việt Nam.
Theo ý kiến của chúng tôi thì Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam nên tập
trung vào sản xuất các thuốc hóa dược có nhu cầu lớn như:
Vitamin B1
Vitamin C
Các thuốc hạ nhiệt
Paracetamol
Aspirin
Các Sunfamit
Các Hocmon steroit
Các thuốc cai nghiện ma túy như:
Methador
Naltrexon
Sau đây là một số đề xuất về khả năng sản xuất các chất hóa dược ở
nước ta.
3.2. Các Vitamin
Sau kháng sinh và các thuốc trị cảm cúm, hạ nhiệt thì các Vitamin là
nhóm thuốc được sử dụng rất rộng rãi ở nước ta cả trong dược phẩm,
thực phẩm, mỹ phẩm và chăn nuôi thú y.
Các Vitamin cần thiết nhất gồm:
Vitamin A:
Hàng năm phải nhập một lượng lớn để phòng chống mù lòa cho trẻ em
và phụ nữ. Vitamin A được bán tổng hợp từ Citral. Nước ta lại là nước
có nhiều cây có chứa Citral để bán tổng hợp Vitamin A. Chúng ta cũng
có khả năng sản xuất quy mô lớn betacaroten (tiền chất của Vitamin A)
từ quả gấc và vi tảo. Trên thế giới cả hai chất này đang được dùng rất
rộng rãi trong các sản phẩm Antioxidant để chống lão hóa và nâng cao
sức khỏe con người.
Vitamin D2:
Là một chất chống còi xương, suy dinh dưỡng có thể sản xuất dễ dàng
bằng cách bán tổng hợp (quang hóa) từ Ergosterol, chất này có nhiều
trong men bia, một nguyên liệu có sẵn ở nước ta hiện nay.
Vitamin K:
Là thuốc cầm máu rất cần cho sản phụ sau khi đẻ, cầm máu các vết
thương, vết mổ mà việc tổng hợp lại tương đối dễ dàng và nhu cầu
hàng năm cho cả nước cũng chỉ ở số lượng hàng trăm kilogam.
Nhưng quan trọng nhất trong nhóm vitamin là các Vitamin B1 và
Vitamin C.
Vitamin B1 được sản xuất bằng tổng hợp hóa học từ các nguyên liệu
dẫn chất Pyrimidin và Thiazol. Nhu cầu hàng năm khoảng vài tấn.
Vitamin C:
Là một vitamin được sử dụng nhiều nhất trong ngành dược và ngành
thực phẩm. Vitamin C được sản xuất từ glucose. Hiện nay nước ta đã
có nhà máy sản xuất glucose do Trung Quốc xây dựng. Nhà máy này là
cơ sở cung cấp nguyên liệu cho việc sản xuất vitamin C ở nước ta.
Nhu cầu toàn thế giới vì Vitamin C hàng năm là 80 nghìn tấn. Theo
chúng tôi nhu cầu hàng năm về Vitamin C của Việt Nam là 500 tấn.
Như vậy, việc xây dựng một nhà máy sản xuất các vitamin với sản
lượng hàng năm như sau:
Vitamin C 500 tấn
Vitamin B1 20 tấn
Vitamin A 100 kg
Vitamin D2 100 kg
Vitamin K 200 kg
Kèm theo cả dây chuyền bào chế thuốc uống và thuốc tiêm từ các
vitamin nói trên là điều cần thiết.
3.3. Các sunfamit:
Nhu cầu chính về sulfamit ở nước ta hiện nay là các Sunfamit thế hệ
mới, bao gồm:
Sunfamethoxazol 5 tấn năm
Trimethoprim 1,2 tấn năm
Đây là những loại sunfamit có tác dụng kháng sinh mạnh lại ít độc và là
các Sunfamit có tác dụng nhất hiện đang được sử dụng rất rộng rãi trên
thế giới.
3.4. Các thuốc hạ nhiệt, giảm đau
Paracetamol:
Là thuốc được dùng rất rộng rãi hiện nay ở nước ta. Có khoảng hơn
300 loại thuốc được sử dụng ở nước ta có chứa paracetamol. Cấu tạo
hóa học của chất này rất đơn giản và dễ tổng hợp. Nhu cầu hàng năm
của nước ta khoảng vài trăm tấn.
Aspirin là thuốc cổ điển nhưng vẫn được sản xuất rất phổ biến và sử
dụng rộng rãi nhất là dưới dạng aspirin trung tính. Nó được sản xuất từ
axit salixylic - một nguyên liệu có khả năng sản xuất lớn ở nước ta.
Nhu cầu hàng năm của nước ta khoảng 50 tấn.
Theo các chuyên gia ngành dược phẩm thì nên xây dựng một nhà máy
sản xuất hóa dược với các sản phẩm hàng năm là:
Paracetamol 100 tấn
Aspirin 50 tấn
Sunfamethoxazol 5 tấn
Trimethoprin 1,2 tấn
Với dây chuyền bào chế sản xuất các thuốc thành phẩm từ các nguyên
liệu này là điều cần thiết.
3.5. Các hocmon steroit:
Bao gồm các hocmon sinh dục nam, nữ, các thuốc chống thụ thai và
các thuốc chống viêm Corticosteroit. Các thuốc này được bán tổng hợp
từ Diosgenin (có trong một số củ mài) và sterol của đậu tương. Các
nguyên liệu đầu vào này có khả năng sản xuất trên quy mô lớn của
nước ta.
Dưới đây là sơ đồ sản xuất các hocmon steroit ở nước ta, bao gồm các
nguyên liệu thành phần như sau:
Pregnenolon, DHEA: các sản phẩm chống lão hóa
Ethinlestradiol: thuốc chống thụ thai khẩn cấp (nhu cầu rất lớn)
Testosteron, Methyl Tetosteron: hocmon sinh dục nam
Nerobol: thuốc tăng dưỡng
Progesteron: thuốc bảo vệ thai nghén và cầm máu cho phụ nữ
Medroxy progesteron acetat, Megestrol: thuốc chống thụ thai và thuốc
điều trị ung thư cơ quan sinh dục nữ.
Riêng các loại thuốc Corticosteroit nên đặt kế hoạch sản xuất sau năm
2010.
Tại Việt Nam, các quy trình này đã được thực hiện ở quy mô phòng thí
nghiệm và có khả năng sẽ sớm đưa ra sản xuất (đã có 4 chất được sản
xuất thử là DHEA, Pregnenolon, Methyl testosteron và Progesteron).
Để sản xuất nhóm các chất Hocmon steroit thì nước ta có cái lợi thế là:
Nguyên liệu Diosgenin, sterol dồi dào, dễ khai thác trong nhiều loại
thực vật ở Việt Nam.
Sử dụng với liều vi lượng (như Ethinyl estradiol chỉ dùng với liều
lượng 0,03mg - 0,1mg) trong khi lãi suất lại rất cao. Ví dụ 1 kg
Ethinylestradiol có thể dập được 33.000.000 viên 0,03mg (ba mươi ba
triệu viên).
Ý kiến của chúng tôi là việc sản xuất các thuốc Hocmon steroit rất có
triển vọng ở Việt Nam vì các nguyên nhân sau:
- Ta có sẵn nguồn nguyên liệu Diosgenin trong các loại củ mài và các
sterol có trong đậu tương, một loại cây trồng rất phổ biến ở Việt Nam.
- Liều lượng sử dụng cho viên thuốc rất nhỏ.
- Giá thành sản phẩm thuốc lại rất cao.
- Làm ra các thuốc thiết yếu cho y học hiện đại.
- Các thiết bị sản xuất tương đối đơn giản, nhỏ nhẹ.
Trong giai đoạn từ 2002 - 2010 nước ta chỉ nên sản xuất các chất trên.
Đến giai đoạn 2011 - 2020, nên bắt tay vào sản xuất hydrocortison,
Prednisolon, Dexamethason là những thuốc thiết yếu dùng trong y học
hiện đại, với liều dùng nhỏ, giá thành rất cao. Các chất này cũng được
bán tổng hợp từ diosgenin và các sterol của đậu tương.
Ngoài ra còn có thể sản xuất các Phytoestrogen - các estrogen thực vật
từ đậu tương, sắn dây (đó là Genistein, Daidzein và các glycosit của
chúng) để làm thuốc chống lão hóa cho nữ giới. Các chất này chỉ cần
chiết xuất, tinh chế và là một mặt hàng chống lão hóa đang được ưa
chuộng và sử dụng rộng rãi ở châu âu, Mỹ và Nhật. Nguồn nguyên liệu
để sản xuất các chất này là hạt đậu tương đã nảy mầm và sắn dây - đó
là những nguyên liệu có sẵn ở nước ta.
Các Saponin steroid của cây Tật Lê (Tribulus terrestris L.) mọc hoang
ở bờ biển Nam Trung bộ là thuốc chống lão hóa, tăng thể lực đang
được dùng rộng rãi ở Bắc Mỹ, châu âu. Loại thuốc này dùng được cho
cả nam và nữ vận động viên nhằm tăng thành tích thi đấu. Đối với
người cao tuổi (cả nam và nữ) đều có tác dụng kéo dài tuổi thanh xuân.
Sản phẩm Tribelus này có nguồn nguyên liệu phong phú ở bờ biển
Ninh Thuận, Bình Thuận và có thể trồng đại trà ở vùng bờ biển cát
Nam Trung bộ, sản phẩm này đang được sử dụng rất thịnh hành ở Bắc
Mỹ, châu âu.
Thực tế hiện nay ở Việt Nam đã sản xuất được loại thuốc Tribelus từ
cây Tật lê mọc hoang ở Ninh Thuận, Bình Thuận và có khả năng phát
triển trồng trọt ở quy mô lớn ở ven biển Nam Trung bộ.
3.6. Sản xuất các hợp chất thiên nhiên dùng làm thuốc
Do nguồn tài nguyên thực vật và động vật ở nước ta rất đa dạng và
phong phú nên chúng ta có thể sản xuất nhiều loại thuốc phục vụ cho
nhu cầu tiêu dùng trong nước và một số sản phẩm có thể xuất khẩu.
Nhóm dược liệu được phát triển từ lâu là Menthol từ tinh dầu bạc hà,
Engenol từ cây hương nhu, Campho từ cây long não, Tecpin từ tinh dầu
thông.
Nước ta có nhiều cây cỏ có chứa các nguyên liệu này và nếu tổ chức
sản xuất tốt thì không những đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong
nước mà còn có khả năng xuất khẩu với khối lượng lớn.
Nhóm quan trọng thứ hai là các alcaloit:
- Quinin và Quinidin từ cây Canhkina đã được trồng ở Đà Lạt, Ba Vì.
Quinin là thuốc trị sốt rét rất có hiệu quả, còn Quinidin là thuốc điều trị
bệnh loạn nhịp rung tim.
- Vinblastin và Vincristin là 2 alcaloit điều trị ung thư máu được sử
dụng rộng rãi ở nhiều nước. Nước ta hiện xuất khẩu lá Dừa cạn
(Catharanthus roseus) trồng ở Phú Yên cho Pháp để họ sản xuất 2 thuốc
trên. Chúng ta có khả năng để tự sản xuất Vinblastin và Vincristin từ lá
Dừa cạn và cả bán tổng hợp chúng đi từ Vindolin và Catharanthin là 2
Alcaloit monoindol có nhiều trong lá Dừa cạn.
Từ rễ dừa cạn có thể sản xuất được thuốc hạ huyết áp Ajmalixin.
Việt Nam có khả năng lớn sản xuất Berberin từ cây vàng đắng, hoàng
liên chân gà, hoàng liên gai; vàng đắng để làm thuốc phòng chống dịch
lỵ; làm thuốc chống viêm gan, ỉa chảy. Từ Berberin có thể sản xuất
thuốc an thần gây ngủ Tetrahydrobecberin (Canadin).
Củ Bình vôi - Stephania glabra là nguyên liệu rất dồi dào ở Việt Nam
để sản xuất thuốc an thần gây ngủ l.tetrahydropalmatin. Đồng phân
raxemic của chất này còn có thể sản xuất ở quy mô lớn bằng cách
hydrogen hóa Palmatin - một alcaloit isoquinolin có trong cây Hoàng
đằng.
Codein là alcaloit bán tổng hợp từ morphin có ở trong nhựa thuốc phiện
cũng là thế mạnh sản xuất thuốc trị ho, an thần ở nước ta.
Cafein từ phế phẩm sản xuất chè là một nguyên liệu dùng nhiều trong
thực phẩm và dược phẩm.
Một nhóm các hợp chất tự nhiên quan trọng khác là Artemisinin và các
dẫn chất trị sốt rét bán tổng hợp từ chất này có trong cây Thanh Hao
hoa vàng -Artemisin annua.
Hiện nay các dẫn suất Artenisinin đang được sử dụng rộng rãi trên thế
giới để điều trị bệnh sốt rét nhất là sốt rét nhiệt đới ác tính.
Chúng ta có khả năng cung cấp đủ nhu cầu loại thuốc này cho việc sử
dụng trong nước và còn có khả năng xuất khẩu với số lượng lớn.
Nước ta có cây Thông đỏ mọc hoang ở Đà Lạt cũng là nguồn nguyên
liệu để sản xuất thuốc điều trị ung thư là Taxol và Taxođifel.
Rutin là sản phẩm chống oxy hóa, chống tác hại của tia tử ngoại có thể
sản xuất với số lượng lớn ở nước ta để phục vụ tiêu dùng trong nưóc và
để xuất khẩu từ nguyên liệu có sẵn là Hoa hòe. Từ Rutin, có thể thủy
phân để tạo thành Querxetin - một chất chống oxy hóa đang được sử
dụng rộng rãi ở Bắc Mỹ và Tây âu.
Silymorin - là hoạt chất của cây cúc gai - một dược liệu được di thực
vào nước ta là thuốc điều trị các bệnh về gan mật được sử dụng rộng rãi
ở Bắc Mỹ cũng có khả năng sản xuất được ở nước ta.
Ramasol hoạt chất từ rau má, cureumin hoạt chất từ củ nghệ cũng là
những thuốc điều trị các bệnh gan, mật, làm lành vết thương và cũng là
những chất có sẵn nguồn nguyên liệu tự nhiên ở nước ta.
Betacaroten - một chất chống oxy hóa hàng đầu có nhiều trong quả Gấc,
quả Mướp đắng chín vàng và Lycopen - có tác dụng phòng và điều trị
một số bệnh ung thư có nhiều trong quả Cà chua và quả Gấc - cũng là
những hợp chất thiên nhiên có thể sản xuất ở nước ta.
Từ nguyên liệu thu được từ lông, móng vuốt súc vật và tóc của người
có thể sản xuất thuốc long đờm Acetyl Cystein và thuốc bảo vệ da
Cystin. Hiện nay các chế phẩm này chúng ta vẫn phải nhập khẩu trong
khi đó nguyên liệu để sản xuất chúng lại có rất dồi dào ở trong nước.
Sản lượng một số hợp chất thiên nhiên có thể sản xuất ở nước ta
TT Tên thuốc Sản lượng năm (tấn)
1
2
Menthol
Eugenol
50
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
Campho
Terpin
Quinin
Quinidin
Viblastin
Vineristin
Vindolin
Catharanthin
Ajmalixin
Becberin
Tetrahydro becberin
Tetrahydropalmatin
Codein
Cafein
Artemisinin và các dẫn chất
Rutin
2
10
1
0,3
0,01
0,002
0,1
0,1
0,05
5
0,2
5
0,5
10
5
10
19
20
21
22
23
24
25
26
27
Quesxetin
Silymorin
Ramasol
Curcumin
Betacaroten
Lycopen
Acetyl cystein
Cystin
Đios genin
0,1
0,1
0,1
1,0
0,5
0,1
0,2
0,2
2,0
3.7. Các thuốc cai nghiện ma túy
Cai nghiện là một việc làm rất phức tạp và tốn kém nhưng có ý nghĩa
xã hội rất to lớn trong hoàn cảnh hiện nay của nước ta.
Xu hướng cai nghiệp trên thế giới chủ yếu tập trung vào sử dụng 2 chất
sau:
3.7.1. Methadon: Liệu pháp thay thế bằng một thuốc có hiệu lực gây
nghiện, giảm đau yếu hơn, ít nguy hiểm hơn (vì dùng uống, tránh được
nguy cơ lây nhiễm HIV). Biện pháp này đã và đang được sử dụng rộng
rãi trên thế giới.
3.7.2. Naltrexon: Thuốc đối kháng với Heroin Morphin, nó tranh chấp
mạnh thụ thể opioid trong cơ thể. Đây là thuốc cai nghiện theo đúng
nghĩa của nó.
Vì vậy để góp phần tích cực vào công tác phòng chống ma túy và việc
cai nghiện ở nước ta thì nên ưu tiên cho sản xuất cả 2 loại này với sản
lượng Methadon: 1 tấn năm; Naltrexon: 100kg năm để cung cấp cho
nhu cầu tiêu dùng rất cấp thiết ở trong nước ta.
Cũng cần chú ý sản xuất một số thuốc điều trị các bệnh tim mạch và
các thuốc chống viêm phisteroid vì các thuốc này đang được sử dụng
nhiều ở nước ta.
3.8. Công nghiệp bào chế
Nếu chỉ sản xuất các nguyên liệu hóa dược đạt tiêu chuẩn quốc gia hay
quốc tế rồi bán cho các công ty, xí nghiệp khác thì lãi suất sẽ rất ít, việc
sản xuất hóa dược phải luôn luôn được tiếp nối bằng các phân xưởng
bào chế thuốc viên, thuốc nang, thuốc mỡ, thuốc tiêm... thì mới mang
lại lợi nhuận cao và từ nguồn lợi to lớn này lại trích được một số tiền
đáng giá để đầu tư cho nghiên cứu phát triển.
Do vậy ngành công nghiệp hóa dược cần xây dựng các dây chuyền bào
chế song song với các xí nghiệp sản xuất hóa dược.
Tóm lại, ngành Công nghiệp Dược nên đầu tư sản xuất vào các khâu
sau:
1- Nhà máy sản xuất nguyên liệu Vitamin và các thành phẩm bào chế.
2- Nhà máy sản xuất thuốc hạ nhiệt giảm đau và các Sunfamit cùng các
thành phẩm bào chế.
3- Nhà máy sản xuất các Hocmon steroid và các thành phẩm bào chế.
4- Nhà máy sản xuất các hợp chất thiên nhiên và các thành phẩm bào
chế.
5- Nhà máy sản xuất các thuốc cai nghiện ma túy và các thành phẩm
bào chế.
Nên thành lập hai tập đoàn Dược phẩm (công ty mẹ và các công ty con)
thuộc hệ công nghiệp (chứ không phải ở Bộ Y tế, thuộc khối khoa giáo)
để phát triển công nghiệp hóa dược và công nghiệp bào chế ở nước ta
(một ở Hà Nội và một ở TP Hồ Chí Minh).
Theo ý kiến các chuyên gia dược phẩm đến năm 2010, dân số nước ta
sẽ có gần 100 triệu người thì Việt Nam cần nên có 3 - 4 tập đoàn dược
phẩm mạnh do chính người Việt Nam điều hành (không kể các tập
đoàn dược phẩm nước ngoài) ở 3 miền Trung, Nam, Bắc thì mới có khả
năng cung cấp được phần lớn thuốc men cho nhu cầu sử dụng trong
nước và 2 tập đoàn dược phẩm khối công nghiệp nói trên sẽ nên phấn
đấu trở thành những tập đoàn mạnh hoạt động trong cả phạm vi sản
xuất hóa dược và bào chế, phân phối.
3.9. Kế hoạch nghiên cứu sản xuất hóa dược từ nay tới năm 2010 nên
được ưu tiên xếp theo thứ tự như sau:
- Nhà máy sản xuất kháng sinh Penixillin, 6 APA, 7.ADCA.
- Nhà máy sản xuất các Cephalosporin thế hệ 1 và 3.
- Nhà máy chiết suất và bán tổng hợp các hợp chất thiên nhiên bao
gồm: chiết suất và bán tổng hợp menthol, Artemisinin, Diosgenin,
Berberin, Rutin, Tetrahyđropalmatin v.v...
- Các nhà máy sản xuất hóa dược bao gồm các thuốc hạ sốt, giảm đau,
các vitamin, các sunfamit, các chất steroid và chú ý đến các thuốc điều
trị các bệnh tim mạch và các thuốc chống viêm phisteroid.
Tóm lại từ nay đến năm 2010 (theo chiến lược phát triển ngành Dược
Việt Nam đến năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành năm
2002) thì ngành Dược Việt Nam phải sản xuất tự túc được 60% tổng số
thuốc tiêu dùng trong nước. Ý nghĩa là sản xuất ở đây là bào chế sản
xuất các thành phẩm từ các nguyên liệu trong nước và các nguyên liệu
hóa dược nhập khẩu trong đó ngành công nghiệp hóa dược Việt Nam
phải nỗ lực sản xuất được một số nguyên liệu hóa dược chủ yếu như
một số kháng sinh, các thuốc hạ nhiệt, cảm cúm, các vitamin v.v... và
nếu phấn đấu thực hiện được những đề xuất ở trên thì đế năm 2010,
nước ta cũng chỉ có thể tự sản xuất được từ 30 - 35% nguyên liệu hóa
dược sử dụng trong nước. Đó cũng là một chỉ tiêu đáng phấn khởi,
nhưng để thực hiện được chỉ tiêu đó thì cần phải nỗ lực huy động mọi
tiềm năng của các ngành, công nghiệp hóa dược, hóa chất, dầu khí, cơ
khí... của cả nước ta cùng phấn đấu thực hiện.
4. CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC, ĐẦU TƯ VÀ NGHIÊN CỨU
TRIỂN KHAI ĐÀO TẠO NHÂN LỰC PHỤC VỤ CHO VIỆC
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ HÓA DƯỢC TỪ NAY ĐẾN 2010
Trước hết phải nhận thức và xác định rõ ràng rằng muốn phát triển
công nghiệp Hóa dược Việt Nam thì phải nhanh chóng chuyển ngành
này từ sự quản lý của Bộ Y tế sang Bộ Công nghiệp vì chỉ có khi sang
Bộ Công nghiệp thì ngành Công nghiệp Hóa dược mới có cơ hội phát
triển để hòa nhập và song song tiến lên với các ngành hóa chất, dầu khí,
cơ khí v.v... Từ nhiều năm nay vì ngành Dược thuộc sự quản lý của Bộ
Y tế, là một Bộ hành chính sự nghiệp nên ngành Dược ít được đầu tư
phát triển. Cũng cần nhắc lại rằng ở hầu hết các nước tiên tiến phát
triển ngành công nghiệp Dược không chịu sự quản lý hành chính hay
phụ thuộc vào Bộ Y tế mà Bộ Y tế chỉ là khách hàng của ngành công
nghiệp Dược mà thôi.
Để phát triển Hóa dược thì phải xây dựng đồng thời các dây chuyền
bào chế hiện đại tương ứng vì như vậy mới có thể thu được lợi nhuận
tối ưu. Phần lợi nhuận này chủ yếu thu được từ các dây chuyền bào chế.
Theo ý kiến riêng của chúng tôi, khi đã được chuyển về khối công
nghiệp thì nên tổ chức 2 Tổng Công ty Dược do Nhà nước quản lý theo
mô hình công ty mẹ, công ty con, 1 đặt ở Hà Nội, 1 đặt ở Thành phố
Hồ Chí Minh và doanh số sản xuất thuốc của 2 Tổng Công ty này phải
đạt được hơn 40% tổng số thuốc sản xuất trong nước (còn 60% là do
các xí nghiệp cổ phần, tư nhân, liên doanh và 100% vốn nước ngoài sản
xuất). Hai Tổng Công ty này sẽ chọn cho mình những thế mạnh riêng
trong sản xuất và Nhà nước sẽ hỗ trợ vốn đầu tư ưu đãi cho việc xây
dựng các nhà máy Hóa Dược lớn.
Cần nhanh chóng hoàn thiện tổ chức một trung tâm nghiên cứu Hóa
dược có trụ sở chính ở Hà Nội và có 1 chi nhánh ở Thành phố Hồ Chí
Minh. Trung tâm này chịu trách nhiệm nghiên cứu cơ bản và nghiên
cứu pilot một số mặt hàng thuốc chủ yếu thuộc danh mục các thuốc
định sản xuất theo kế hoạch trên. Xin Nhà nước một đề tài trọng điểm
quốc gia về nghiên cứu sản xuất thuốc hóa dược.
Xây dựng và phát triển một phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về
kháng sinh và đặt tại Hà Nội. Phòng thí nghiệm này sẽ nghiên cứu
trong lĩnh vực sản xuất các kháng sinh và một số vấn đề cơ bản về công
nghệ sinh học phục vụ cho ngành Dược. Tiếp tục xin tiếp một đề tài
nghiên cứu Nhà nước trong nhiệm kỳ tới về sản xuất kháng sinh.
Về cán bộ khoa học cần xin Nhà nước chỉ tiêu đào tạo để đến năm 2010
có thêm 5 tiến sĩ hay tương đương về tổng hợp hóa dược tinh vi, 2 tiến
sĩ hay tương đương về chế tạo cơ khí công nghệ hóa dược. 4 tiến sĩ hay
tương đương về công nghệ kháng sinh; 2 tiến sĩ hay tương đương về
công nghệ sinh học, ưu tiên công nghệ gen.
Nên đào tạo các cán bộ này ở Anh, Pháp, Mỹ hoặc Đức là những nước
có nền công nghiệp Hóa Dược tiên tiến nhất.
Chủ biên
TS. PHAN QUỐC KINH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_7__8324.pdf