Thực hiện tốt hoạt động marketing quốc tế bao gồm rất nhiều khâu nhỏ,trong
đó việc hình thành và đa dạng các kênh phân phối tiếp cận thịtrường là quan trọng
nhất. Doanh nghiệp dệt may có thể thực hiện tốt hoạt động marketing quốc tế thì
trước hết cần có và đào tạo một đội ngũ cán bộ marketing quốc tế chuyên nghiệp, có
trình độ tay nghề cao, đặc biệt trong quá trình hình thành và đa dạng hóa các kênh
phân phối bán hàng, tiếp cận thịtrường đòi hỏi các doanh nghiệp cần có một kế
hoạch triển khai rõ ràng, khảthi do đó các doanh nghiệp có thể liên kết để cùng
thực hiện việc thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp
nên đầu tư vào hình thành nên các phòng giao dịch, đại lý bán buôn, lẻ, để có thể
giới thiệu và đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng một cách nhanh nhất. Ngoài ra,
doanh nghiệp Việt Nam còn có thể tận dụng kênh phân phối sản phẩm của người
Việt Nam sống xa quê hương để quảng bá cho sản phẩm mình
95 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một sốquy định vềrào cản kỹ thuật của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may nhập khẩu và giải pháp vượt rào của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính thức trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức thương mại Thế giới WTO, sự kiện này đã đánh một mốc quan trọng
đối với nền kinh tế Việt Nam. Việc Việt Nam gia nhập vào tổ chức này đã có ảnh
hưởng mạnh mẽ tới hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng cũng như đối với hoạt động
xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam ra thị trường Thế giới. Nó đã đặt ra cho
hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Nam những cơ hội và thách thức lớn.
3.1.1. Cơ hội
Khi là một thành viên của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng các quyền lợi
riêng có mà chỉ có thành viên WTO mới có được. Đó là:
Thứ nhất, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang ra thị trường thế giới
sẽ được xóa bỏ việc áp dụng mức thuế nhập khẩu vào thị trường những nước này.
Ta có thể thấy, việc xóa bỏ hàng rào thuế quan cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam sẽ góp phần làm nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng Việt Nam.
Do đó mà mặt hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ không còn bị
áp đặt mức thuế nhập khẩu, từ đó mặt hàng Việt Nam sẽ nâng cao được sức hấp dẫn
về giá, phát huy được khả năng cạnh tranh của mình.
Thứ hai, bên cạnh việc xóa bỏ những hàng rào thuế quan thì việc áp đặt hạn
ngạch cho các mặt hàng xuất khẩu sẽ bị xóa bỏ. Đây cũng là một trong những quy
định của WTO cho các thành viên của mình. Từ đó, mặt hàng dệt may của Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ sẽ không bị áp đặt số lượng xuất khẩu, có thể tạo động
lực cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam có thể sản xuất và
xuất khẩu mặt hàng này theo đúng năng lực của mình. Bên cạnh đó, sản phẩm dệt
may của Trung Quốc đang bị Hoa Kỳ áp đặt hạn ngạch đây cũng là một cơ hội cho
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
73
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể tận dụng cạnh tranh mở rộng thị phần
sang thị trường này
Thứ ba, khi là thành viên của WTO Việt Nam cũng phải tuân thủ theo những
quy định của tổ chức này, do vậy mà Việt Nam sẽ xóa bỏ hết thuế nhập khẩu đối
với mọi mặt hàng khi thâm nhập vào Việt Nam, do đó các sản phẩm phụ kiện,
nguyên vật liệu dệt may khi nhập khẩu vào Việt Nam sẽ không phải chịu mức thuế
nhập khẩu. Từ đó, sản phẩm dệt may của Việt Nam sẽ giảm giá thành sản phẩm.
Thứ tư, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể có điều kiện tiếp cận
nhiều với công nghệ nguồn hiện đại qua đó cũng góp phần nâng cao khả năng sản
xuất trong nước. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ học hỏi được kĩ năng sản
xuất, quản lý … của nước ngoài
Thứ năm, các hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ ngày càng gia
tăng, do đó ngành dệt may của Việt Nam sẽ có những đầu tư đúng đắn nhằm phát
triển nội lực của ngành. Về phía doanh nghiệp, khi có thêm những nguồn vốn
đầu tư nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp cải thiện và phát triển được dây chuyền
sản xuất,nâng cao năng suất lao động, thực hiện hoạt động marketing quốc tế có
hiệu quả hơn…
Bên cạnh đó, dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang
thị trường Hoa Kỳ trong năm 2008 có thể đạt đến 6,1 tỉ USD, tăng 33,8% so với
năm 2007. Trong khi xuất khẩu của Mêhicô tiếp tục giảm và xuất khẩu của Ấn Độ
tăng chậm. Việt Nam sẽ vượt qua Mêhicô và Ấn Độ để trở thành nước cung cấp lớn
thứ 2 trên thị trường Mỹ sau Trung Quốc.
Việc thị trường Mỹ giảm nhập khẩu từ Trung Quốc trong khi các nhà xuất
khẩu Trung Quốc lại chủ động chuyển hướng sang thị trường EU, dự báo xuất khẩu
hàng may mặc của Việt Nam vào Mỹ trong năm 2008 sẽ tăng mạnh do chi phí và
giá cả của hàng dệt may Việt Nam hầu hết là thấp hơn so với sản phẩm cùng loại
của Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan và Indonesia. Việc một số nhà đầu tư nước ngoài
chuyển cơ sở sản xuất hàng dệt may từ Trung Quốc sang Việt Nam cũng giải thích
cho xu hướng này. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý có một số sản phẩm giá trung bình
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
74
của Việt Nam đang cao hơn so với các nước nêu trên, đồng thời cao hơn khá nhiều
so với sản phẩm của Mêhicô và Bangladesh, có thể sẽ làm mất ưu thế cạnh tranh
của sản phẩm. Do vậy, các doanh nghiệp cần tập trung khai thác để tăng mạnh xuất
khẩu những sản phẩm đang có lợi thế về giá, nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường khi
các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển hướng sang EU.
Cho dù có thuận lợi khi các doanh nghiệp Trung Quốc đang chuyển hướng từ
thị trường Mỹ sang thị trường EU, thì xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường Mỹ
vẫn tiềm ẩn những rủi ro. Chương trình giám sát chống bán phá giá của Mỹ vẫn
được áp dụng đối với hàng dệt may của Việt Nam (với năm nhóm hàng dệt may của
Việt Nam gồm quần, áo sơ mi, đồ lót, đồ bơi và áo len) và có khả năng phía Mỹ sẽ
duy trì cơ chế giám sát đặc biệt cho đến hết năm 2008. Để khắc phục trở ngại trên
các doanh nghiệp dệt may cần hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu lớn của Mỹ,
tránh nhận những đơn hàng đơn giản giá trị thấp làm ảnh hưởng đến mức giá bình
quân của cả nước để phía Mỹ không khởi kiện chống bán phá giá.
3.1.2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội đến với nền kinh tế Việt Nam nói chung và đến với
hoạt động xuất khẩu hàng dệt may nói riêng thì còn có rất nhiều các thách thức đặt
ra không chỉ cho Việt Nam mà còn đặt ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt
may nội địa. Ta có thể điểm qua một số thách thức sau:
Thứ nhất, cùng với việc xóa bỏ những hàng rào thuế quan và hạn ngạch thì
hàng rào phi thuế lại đang được áp đặt chặt chẽ cho các mặt hàng nhập khẩu nói
chung cũng như mặt hàng dệt may. Đó là những quy định về: hệ thống tiêu chuẩn
về chất lượng, về bảo vệ môi trường, về trách nhiệm với xã hội... tuy nhiên việc đáp
ứng các tiêu chuẩn này ở các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn đang yếu kém. Do đó
đã đặt ra cho doanh nghiệp dệt may của Việt Nam cần phải đẩy mạnh các hoạt động
quản lý, nâng cao trình độ quản lý của lao động,bên cạnh đó cũng cần hoàn thiện hệ
thống cơ sơ hạ tầng và trang thiết bị để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm,
đáp ứng được những quy định mà các thị trường nhập khẩu đề ra.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
75
Thứ hai, một thách thức lớn đặt ra là hình thức trợ cấp của Chính phủ cho
ngành dệt may sẽ bi xóa bỏ theo đúng quy định của WTO. Các doanh nghiệp Việt
Nam sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm nguồn vốn để đầu tư phát triển sản
xuất, cải tiến công nghệ sản xuất.. khi không có trợ cấp của Chính Phủ.
Thứ ba, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đặc biệt là mặt
hàng dệt may sẽ chịu cơ chế giám sát của Hoa Kỳ. Trong thời hạn 12 tháng sau khi
Việt Nam gia nhập WTO, nếu Hoa Kỳ thấy rằng Việt Nam xuất khẩu không đúng
theo các cam kết của WTO thì Hoa Kỳ sẽ sẵng sàng áp đặt hạn ngạch với các chủng
loại mặt hàng dệt may của Việt Nam. Bên cạnh đó, nguy cơ bị kiện bán phá giá của
các mặt hàng dệt may của Việt Nam là rất lớn.
Thứ tư, mặc dù Trung Quốc đang bị Hoa Kỳ áp đặt hạn ngạch nhưng đến
cuối năm 2008, hàng dệt may của Trung Quốc sẽ được xóa bỏ hạn ngạch. Đây
cũng là thách thức lớn cho Ngành dệt may Việt Nam nói chung cũng như cho các
doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nói riêng. Do đó, trong thời gian này Việt Nam
nên tranh thủ chiếm lĩnh thị trường, xây dựng lòng tin của khách hàng vào sản
phẩm của mình…
Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn quá yếu, lệ
thuộc lớn vào nhập khẩu. Theo số liệu thống kể của Hiệp hội Dệt may Việt Nam
(VITAS), ngành dệt may hiện nay phải nhập khẩu hầu hết nguyên phụ liệu cho sản
xuất: bông nhập 90%, xơ sợi tổng hợp gần 100%, xơ sợi ngắn nhập 60%, vải nhập
70%, phụ liệu may khoảng 50%, hóa chất nhuộm và máy móc thiết bị gần 100%, trong
đó tỉ lệ nhập khẩu từ Hoa Kỳ là đáng kể. Ngoài ra doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ khả
năng xây dựng các thương hiệu mạnh, hiện nay cá doanh nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu
là gia công cho các nhà nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ…
3.1.3. Dự báo về triển vọng xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ
Theo Thứ trưởng Bộ Công thương đưa ra bức tranh phát triển của ngành dệt
may trong những năm tới là: phải đưa ngành dệt may đạt mức tăng trưởng sản xuất
hàng năm từ 16%-18%, trong đó xuất khẩu đạt 20%. Theo đó, đến năm 2020, tăng
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
76
trưởng sản xuất hàng năm từ 12%-14%, xuất khẩu đạt 15%; doanh thu toàn ngành
đến 2010 đạt 14,8 tỷ USD, tăng lên 22,5 tỷ USD vào năm 2015 và 31 tỷ USD, trong
đó xuất khẩu đạt 25 tỷ USD vào năm 2020.
Có thể thấy trong vòng 10 năm tới, Hoa Kỳ vẫn là thị trường số một trong
việc tiêu thụ mặt hàng dệt may của Thế giới. Do đó, đây vẫn là một thị trường tiềm
năng cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khai thác và chiếm lĩnh thị trường.
Do đây là thị trường không khó tính, có sở thích đa dạng với nhiều chủng loại, mẫu
mã… nên rất thích hợp cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Tuy nhiên, đến cuối năm 2008 Trung Quốc sẽ được xóa bỏ hạn ngạch dệt
may tại thị trường Hoa Kỳ, đây là một đối thủ đáng gờm của Việt Nam. Do vậy, sự
kiện này sẽ ảnh hưởng lớn tới hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Nam, kim
ngạch dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ có thể sẽ bị giảm cả kim ngạch cũng như
giá trị, thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này có thể sẽ giảm mạnh
trong giai đoạn đầu. Các doanh nghiệp Việt Nam so với Trung Quốc còn yếu kém
nhiều mặt, sản phẩm dệt may của Việt Nam so với Trung Quốc có sức cạnh tranh
kém… do vậy muốn trong thời gian tới để có đủ sức cạnh tranh với Trung Quốc
cũng như với các đối thủ khác các doanh nghiệp Việt Nam nên chú trọng đến đề cao
mẫu mã sản phẩm, chất lượng của sản phẩm, giảm giá thành sản phẩm, thực hiện
hiệu quả hoạt động marketing quốc tế .
Bên cạnh đó, tâm lý người tiêu dùng Hoa Kỳ sẽ có ảnh hưởng lớn tới hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam. Theo xu hướng, người tiêu dùng Hoa Kỳ sẽ ngày
càng chú trọng đến chất lượng sản phẩm, chú trọng đến khả năng đáp ứng các tiêu
chuẩn kỹ thuật của các sản phẩm dệt may hơn là việc chú trọng đến mẫu mã như
trước đây. Do vậy, nếu các doanh nghiệp dệt may Việt Nam không có những chú ý
đúng mức đáp ứng được nhu cầu về chất lượng sản phẩm cũng như phải đáp ứng
được các yêu cầu về hàng rào kỹ thuật(theo quy định WTO)… thì sẽ rất khó có thể
tiếp cận với thị trường này.
Từ trên, ta có thể dự đoán trong thời gian tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt
may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn.Vì vậy, việc đẩy
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
77
mạnh hoạt động xuất khẩu dệt may sang thị trường Hoa Kỳ trong giai đoạn này là
rất cần thiết nhằm chiếm lĩnh được thị trường, tạo chỗ đứng trong thị hiếu người
tiêu dùng Hoa Kỳ.
3.2. Phương hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Có thể nói, dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam trong thời gian qua và cũng sẽ là một mặt hàng chủ đạo cho hoạt động xuất
khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
Đối với hoạt động sản xuất – xuất khẩu mặt hàng dệt may này, Việt Nam có
lợi thế lớn về nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ…đây sẽ là những yếu tố
thúc đẩy cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam phát triển và có triển
vọng mở rộng thị trường xuất khẩu ra toàn thế giới.
Nắm bắt được những yếu tố phát triển của ngành dệt may, Đảng và Nhà
nước ta cũng đã xây dựng chiến lược từ năm 2010 đến 2020 phát triển ngành dệt
may, tận dụng lợi thế để mở rộng phát triển sản xuất trong nước đồng thời thúc đẩy
xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu cho mặt hàng dệt may Việt Nam. Bên cạnh
đó, không những tăng sản lượng xuất khẩu mà còn nâng cao được chất lượng sản
phẩm, đa dạng hóa các mặt hàng dệt may để đáp ứng được nhu cầu thị hiếu thế giới.
Xây dựng ngành dệt may là một ngành mũi nhọn trong hoạt động xuất khẩu của
Việt Nam trong thời gian tới.
Bên cạnh mục tiêu về sản phẩm thì mục tiêu thị trường cũng luôn luôn phải
được đề cao quan tâm chú ý. Mặt hàng dệt may của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết
các quốc gia trên thế giới, trong đó Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu mặt hàng dệt
may lớn nhất cho Việt Nam, đây là một thị trường đầy tiềm năng cho Việt Nam vì
dung lượng thị trường Hoa Kỳ lớn, dễ tính, và nhu cầu thị hiếu không cao mà các
doanh nghiệp Việt Nam có thể đáp ứng được. Chính vì thế, thị trường Hoa Kỳ trong
tương lai vẫn được xác định là thị trường trọng yếu và đầy tiềm năng của ngành dệt
may Việt Nam. Tuy nhiên, không chỉ chú trọng đến một thị trường tiềm năng mà
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
78
hơn hết cần phải chú trọng mở rộng thị trường, đa dạng hóa thị trường. Đây là một
mục tiêu hết sức cần thiết cho hoạt động xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam.
Để có thể đạt được những mục tiêu đề ra, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra
những định hướng hết sức cụ thể trong việc phát triển hoạt động sản xuất – xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam như sau:
Thứ nhất, chú trọng đầu tư cải thiện, phát triển dây chuyền sản xuất hiện đại.
Cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị sản xuất tốt sẽ là nhân tố ảnh hưởng quyết
định tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm, từ
đó giúp đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Thứ hai, cần đặc biệt chú trọng tới các khu nguyên nhiên liệu cho ngành dệt
và may mặc. Hiện nay, Việt Nam vẫn thường xuyên phải nhập nguyên nhiên vật
liệu về sản xuất,do đó làm cho giá thành sản phẩm cao không tạo được sức cạnh
tranh với các sản phẩm cùng loại. Đặc biệt cần chú trọng phát triển công nghiệp sợi,
dệt, in nhuộm hoàn tất. Do đó, cần có sự đầu tư hợp lý vào những vùng trồng dâu,
vùng cung cấp nguyên vật liệu cho hoạt động sản xuất.
Thứ ba, các doanh nghiệp dệt may cần chú trọng xây dựng hệ thống quản lý
chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh, bảo vệ môi trường, đáp ứng được theo đúng
tiêu chuẩn quốc tế, chính điều này sẽ tạo sức cạnh tranh cho mặt hàng dệt may của
Việt Nam, đáp ứng được trước những rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu đề
ra, tạo nên lòng tin của người tiêu dùng đối với mặt hàng dệt may của Việt Nam.
Thứ tư, cần phải chú trọng đến công tác thiết kế thời trang.
Trong một tương lai không xa, mặt hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sẽ
lớn mạnh, tạo dựng được chỗ đứng trên trường quốc tế, do vậy cần phải chú trọng
phát triển và thúc đẩy ngành sản xuất dệt may trong nước lớn mạnh.
3.3. Giải pháp phía Nhà nước
Để giúp hàng dệt may có thể vượt rào thành công qua những rào cản kỹ thuật
đang được dựng lên đầy tinh xảo thì vai trò của Nhà nước đóng một vai trò hết sức
quan trọng. Nhà nước với vai trò điều tiết kinh tế bằng các chính sách kinh tế vĩ mô
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
79
sẽ có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt
may Việt Nam có thêm sức mạnh để tham gia vào sân chơi quốc tế, bao gồm:
3.3.1. Cần đặt ra cơ chế giám sát đối với mặt hàng dệt may và xây dựng tốt các hệ
thống tiêu chuẩn chất lượng
Nhà nước cần đặt ra cơ chế giám sát và thúc đẩy mặt hàng dệt may ra thị
trường thế giới trong đó có thị trường Hoa Kỳ - là một trong những thị trường chủ
lực của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Mặt hàng dệt may của Việt Nam
xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đang phải chịu một cơ chế giám sát hết sức ngặt
nghèo và luôn thường trực bị Hoa Kỳ kiện bán phá giá, do đó việc xây dựng cơ chế
giám sát và thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may là rất cần thiết. Qua cơ chế giám sát
này, Hiệp hội dệt may Việt Nam có thể kiểm sát được hoạt động xuất khẩu mặt
hàng dệt may của các doanh nghiệp trong nước vào gồm các yếu tố về chi phí sản
xuất, thị trường xuất khẩu, doanh thu, kênh phân phối,…qua đó có thể kiểm soát
được hoạt động sản xuất, xuất khẩu của các doanh nghiệp này , tránh trường hợp
các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may với giá thấp, có thể bị kiện bán phá giá.
Bên cạnh đó cần xây dựng và theo dõi cơ chế giám sát tự động các vụ kiện
điều tra chống bán phá giá đối với hàng dệt may Việt Nam để có thể nắm bắt được
tình hình xuất khẩu mặt hàng dệt may của các nước khác sang Hoa Kỳ .
Để có thể thực hiện tốt cơ chế giám sát mặt hàng dệt may khi xuất khẩu sang
thị trường thế giới nói chung, và sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng thì công tác xây
dựng và cải tiến các hệ thống tiêu chuẩn về chất lượng cho mặt hàng này cần phải
được chú trọng. Hiện nay, hệ thống tiêu chuẩn chất lượng áp dụng cho mặt hàng dệt
may của Việt Nam còn kém, chỉ có khoảng dưới 30% phù hợp với các tiêu chuẩn
quốc tế. Do đó, để xây dựng và nâng cao hiệu quả của các hệ thống tiêu chuẩn chất
lượng cần:
Thứ nhất, Nhà nước cần chú trọng đến việc xây dựng và hoàn thiện các tiêu
chuẩn đã áp dụng trong nước cho phù hợp với yêu cầu của quốc tế, thông qua việc
đầu tư cho công tác nghiên cứu, đào tạo cán bộ - chuyên gia nghiên cứu, tìm hiểu
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
80
những quy định quốc tế để từ đó dựa trên những tiêu chuẩn chất lượng quốc tể có
thể xây dựng một hệ thống quy định chất lượng đối với mặt hàng dệt may vừa phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế vừa thích nghi và phù hợp với nền sản xuất trong nước.
Thứ hai, những biện pháp tài trợ, khuyến khích các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam xây dựng và áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn kĩ thuật đã đề ra như:
thường xuyên cung cấp và cập nhật thông tin cho các doanh nghiệp sản xuất – xuất
khẩu hàng dệt may về nội dung của hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật mới được các nước
áp dụng, có những giải pháp trước mắt giúp các doanh nghiệp đáp ứng được các
tiêu chuẩn đó, đào tạo cán bộ Nhà nước cũng như cán bộ doanh nghiệp trong việc
nâng cao hiệu quả sản xuất, đáp ứng được yêu cầu của các quy định trên.
Thứ ba, cần tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng mặt hàng dệt may xuất
khẩu do đó cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp từ Nhà nước – Hiệp hội dệt
may – doanh nghiệp.
3.3.2. Nhà nước cần tổ chức thường xuyên hoạt động xúc tiến thương mại
Thông qua hoạt động xúc tiến thương mại, Việt Nam sẽ xây dựng và quảng
bá được hình ảnh, thương hiệu của mặt hàng dệt may Việt Nam. Từ đó giúp các
sản phẩm dệt may Việt Nam có cơ hội phát triển ra nhiều thị trường lớn, nền sản
xuất nói chung và bản thân của các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu mặt hàng này
sẽ thu được nhiều doanh thu, do đó sẽ có những bước đầu tư và quan tâm hơn đến
việc xây dựng các hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật đang áp dụng từ đó nâng cao chất
lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, với những chính sách điều tiết vĩ mô
Nhà nước cần:
Thứ nhất, Việt Nam cần tăng cường mối quan hệ thương mại hữu nghị với
các quốc gia khác trên thế giới, tăng cường ký kết các hiệp định dệt may với các
nước khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu
sang các thị trường này.
Thứ hai, nâng cao vai trò của các Thương vụ, Đại sứ quán của Việt Nam ở
nước ngoài. Đây là những cơ quan có một vai trò rất quan trọng trong việc tìm
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
81
hiểu, cung cấp thông tin thị trường nước ngoài, cung cấp những thông tin cập nhật
về việc thay đổi các chính sách quản lý nhập khẩu tại nước đó, bên cạnh đó đây
còn là những cơ quan giải quyết các tranh chấp của doanh nghiệp Việt Nam tại thị
trường nước ngoài.
Thứ ba, Nhà nước cần chú trọng công tác thành lập và tổ chức hoạt động của
các tổ chức cung cấp thông tin về thị trường, sản phẩm, đầu tư, sản xuất, về hoạt
động xuất khẩu – nhập khẩu mặt hàng dệt may trên các trang website và các bản tin.
Việc xây dựng các trang web thông tin về mặt hàng dệt may đang được Chính phủ
hết sức chú trọng, việc thành lập các tổ chức cung cấp thông tin về thị trường, sản
phẩm, …giúp các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thể nắm bắt nhanh nhậy về
nhu cầu thị trường, rào cản kỹ thuật của từng thị trường riêng biệt, qua đó các doanh
nghiệp sẽ có được những biện pháp để vượt rào thành công. Bên cạnh đó, Chính
phủ cũng cần xây dựng các website quảng cáo cho mặt hàng dệt may của Việt Nam
đến người tiêu dùng nước ngoài để lấy có thể thu hút được thị hiếu của người tiêu
dùng nước ngoài, tạo cho họ sự tin tưởng về mặt hàng này.
3.3.3. Chú trọng phát triển hoạt động cung cấp yếu tố đầu vào cho ngành dệt may
Yếu tố đầu vào là yếu tố quan trọng hàng đầu có ảnh hưởng quyết định đến
nền sản xuất nói chung cũng như đến ngành dệt may nói riêng. Yếu tố đầu vào đảm
bảo về chất lượng, số lượng thì sản phẩm đầu ra mới có chất lượng cao, đáp ứng
được các yêu cầu của các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đang được áp dụng hiện
nay. Do đó Nhà nước cần có những biện pháp, chính sách chú trọng phát triển hoạt
động cung cấp yếu tố đầu vào cho ngành dệt may của Việt Nam, bao gồm:
Thứ nhất, chú trọng phát triển vùng nguyên phụ liệu sản xuất dệt may. Trên
thực tế, ở Việt Nam những vùng cung cấp nguyên phụ liệu còn kém phát triển và
chưa được đầu tư hợp lý, ngành dệt may Việt Nam vẫn phải nhập khẩu từ 70% -
80% nguyên phụ liệu từ nước ngoài, chính điểm này đã làm cho các sản phẩm dệt
may của Việt Nam phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài, giảm sự cạnh tranh về giá thành
do việc nhập khẩu các nguyên phụ liêu này có giá cao. Vì vậy, phát triển vùng
nguyên phụ liệu nội địa là hết sức cấp bách. Giải pháp từ phía Nhà nước là cần phải
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
82
có những chính sách quy hoạch tổng thể cũng như chi tiết qua các giai đoạn phát
triển đặc biệt nên chú trọng phát triển những vùng trồng bông nuôi tằm giảm thiểu
hoạt động nhập khẩu yếu tố đầu vào. Do vậy việc cấp bách hiện nay là cần phải xây
dựng 2 trung tâm sản xuất kinh doanh nguyên phụ liệu, 1 tại Hà Nội và 1 tại thành
phố Hồ Chí Minh. Cần có kế hoạch kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài như Trung
Quốc, Hong Kong, Đài Loan, Nhật Bản tham gia triển khai 02 trung tâm nguyên
phụ liệu này và cao hơn nữa, hợp tác đầu tư máy móc thiết bị sản xuất nguyên phụ
liệu tại Việt Nam, nhằm ổn định thị trường.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có chính sách miễn giảm thuế cho những
mặt hàng là yếu tố đầu vào cho ngành sản xuất dệt may Việt Nam để từ đó sản
phẩm Việt Nam tiết kiệm được chi phí sản xuất, nâng cao được khả năng cạnh tranh
trên trường quốc tế.
Thành lập các trung tâm giao dịch tư vấn hỗ trợ dịch vụ, trung tâm giao dịch
nguyên phụ liệu, trung tâm thương mại, nhằm giới thiệu sản phẩm,…Có một điểm
đáng chú ý đối với ngành dệt may của Việt Nam là phần lớn chúng ta mới đang là
gia công mặt hàng dệt may, nguyên vật liệu cho mặt hàng này chủ yếu phải nhập
khẩu, việc xây dựng các trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu sẽ giúp cho các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam không phải khó khăn trong quá trình thu mua nguyên vật
liệu tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
Mặt khác, để giảm thiểu được rủi ro bị kiện bán phá giá khi hàng dệt may
Việt Nam xuất khẩu vào các thị trường khác đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ thì cần
phải tăng tỷ lệ nội địa hóa bằng cách đầu tư sản xuất vải và nguyên - phụ liệu tại
Việt Nam. Hiện, Chính phủ đã thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may,
trong đó có ba chương trình, đặc biệt là chương trình sản xuất bông vải tại Việt
Nam và chương trình sản xuất 1 tỷ mét vải phục vụ cho may mặc xuất khẩu.
Những chương trình này sẽ được tăng tốc trong thời gian tới nhằm tăng tỷ lệ nội
địa hóa từ 55 - 55% vào năm 2010. Bên cạnh đó cần làm tốt những biện pháp nâng
cao tỷ lệ giá trị gia tăng. Theo đó, ngành dệt may sẽ giảm dần việc sản xuất những
mặt hàng có hàm lượng giá trị gia tăng thấp, ưu tiên mặt hàng có đẳng cấp, có tính
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
83
thời trang hơn. Để làm được việc này, toàn ngành đang có chương trình tập trung
vào khâu thiết kế để có thể chào bán được giá trị thiết kế, đồng thời xây dựng giá
trị thương hiệu cho ngành dệt may Việt Nam cũng như hệ thống phân phối tại thị
trường nội địa. Tất cả những giải pháp đó sẽ là cơ sở để chúng ta từng bước khẳng
định vị thế của ngành may mặc cũng như phòng tránh, giảm thiểu những thiệt hại
từ các hàng rào kỹ thuật liên quan.
Thứ hai, bên cạnh chú trọng phát triển những vùng nguyên phụ liệu thì Nhà
nước cũng cần chú trọng các ngành công nghiệp phụ trợ cho mặt hàng dệt may như:
công nghiệp dệt, nhuộm, sợi hóa học, công nghiệp hóa chất…để nâng cao chất
lượng yếu tố đầu vào cho mặt hàng dệt may.
Thứ ba, yếu tố con người luôn được coi là một yếu tố đầu vào quan trọng
trong nền sản xuất, do đó Nhà nước cần có những chính sách hợp lý trong đào tạo
nguồn nhân lực. Chính phủ cần xây dựng một chương trình đào tạo nguồn nhân
lực tổng hợp và phù hợp với đặc điểm lao động Việt Nam cũng như đối với ngành
sản xuất dệt may, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và các doanh nghiệp để
từ đó Chính phủ sẽ thấy và đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, chú trọng đầu
tư phát triển các trường dạy nghề - khắc phục tình trạng thiếu công nhân lành
nghề, kỹ sư dệt…và đặc biệt là chú trọng đến đào tạo các chuyên gia về tạo mẫu
thời trang. Nhà nước cần tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn cũng như dài hạn đào
tạo lao động theo yêu cầu của doanh nghiệp, bên cạnh đó thường xuyên nâng cao
kiến thức của các nhà quản lý, cán bộ kỹ thuật về cả lý thuyết lẫn thực tế thông
qua các chương trình đào tạo chuyên sâu, các chuyến công tác thực tế sang các quốc
gia có nền sản xuất tiên tiến…
Thứ tư, yếu tố khoa học công nghệ cũng cần được đầu tư, chú trọng phát
triển mạnh mẽ hơn nữa. Hiện nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, và nó có
những tác động lớn đến nền sản xuất của một quốc gia, một quốc gia có nền khoa
học công nghệ tiên tiến sẽ nâng cao được năng suất lao động, sản xuất phát triển
một cách bền vững, sản phẩm được sản xuất với chất lượng đảm bảo. Tuy nhiên, cơ
sở vật chất, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng … của ngành dệt may nước ta còn yếu kém
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
84
do đó cần có sự quan tâm đúng đắn của Nhà nước cần có những chính sách phát
triển khoa học – công nghệ cho ngành sản xuất xuất khẩu hàng dệt may nói riêng
mà còn cho cả nền sản xuất nói chung. Biện pháp trước mắt cần làm là :
Nhà nước ta cần có những chính sách ưu đãi thu hút vốn đầu tư vào các
ngành công nghiệp dệt, may, công nghiệp hóa chất, vào cải tạo cơ sở hạ tầng, đặc
biệt là các nước có nền công nghệ nguồn, các nước phát triển ngành công nghiệp
may trên thế giới...Cần có những chính sách đầu tư vào phát triển các hoàn chỉnh
vào các cụm Công nghiệp Dệt may theo hướng tập trung vào lĩnh vực dệt - nhuộm,
đầu tư hoàn tất khâu vải và phụ liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho may xuất
khẩu nhằm tiến tới tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc xuất khẩu từ 30%
lên 60%, giảm dần tỷ lệ hàng gia công. Bên cạnh đó, đầu tư mở rộng sản xuất tại
các địa phương có tiềm năng, có nguồn nhân lực dồi dào; phối hợp liên doanh - liên
kết và giúp đỡ các địa phương phát triển ngành dệt may và cùng thực hiện các đơn
hàng lớn; hỗ trợ các doanh nghiệp may địa phương đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị
trường có tiềm năng khác.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tăng chi phí đầu tư để nghiên cứu công
nghệ, đặc biệt là những công nghệ hiện đại, phù hợp với tình hình sản xuất hàng dệt
may của Việt Nam. Việc phát triển nghiên cứu công nghệ giúp cho Việt Nam giảm
thiểu việc nhập khẩu máy móc từ nước ngoài do đó sẽ tránh được sự lệ thuộc về
công nghệ vào đối tác nước ngoài.
Ngoài ra, Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất dệt may
trong nước liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài đặc biệt là các
doanh nghiệp lớn, các công ty xuyên quốc gia…để từ đó có thể tiếp thu được
khoa học công nghệ, trình độ chuyên môn..nhằm nâng cao được năng lực sản
xuất trong nước.
Tiếp đến là nâng cấp các trường đào tạo và thiết kế mẫu mốt, trường đào
tạo nghề để có lực lượng lao động tốt, có đội ngũ thiết kế theo kịp thị hiếu người
tiêu dùng. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xây nhà cho công
nhân thuê với giá ưu đãi, thực hiện tốt các chính sách tiền lương, tiền thưởng,
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
85
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân, tạo sự gắn kết giữa công
nhân và doanh nghiệp
3.3.4. Nâng cao hoạt động của Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS)
Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) có vai trò quan trọng trong việc tổ chức
cung cấp thông tin kịp thời về tình hình thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp, tổ
chức các các hội chợ quốc tế, làm cầu nối giữa doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam với các thị trường quốc tế. Thông qua hoạt động của Hiệp
hội,các doanh nghiệp có thể nắm bắt kịp thời những thông tin cần thiết về : nhu cầu
của thị trường, các rào cản,…bên cạnh đó Hiệp hội cũng đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động tài trợ, cung cấp cơ sở khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất tiên
tiến cho doanh nghiệp đồng thời đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam. Qua thời gian qua, Hiệp hội dệt may Việt Nam đã có những đóng
góp đáng kể trong hoạt động thúc đẩy phát triển nội lực ngành dệt may trong nước
và giải quyết những khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam như: khó khăn về
nguồn nguyên liệu, về vốn, lao động…
Do đó, trong thời gian tới Nhà nước cần đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa vai
trò của Hiệp hội Ngành hàng dệt may, đây cũng là một trong những biện phát nhằm
giúp cho nền sản xuất dệt may của Việt Nam có thể vững chắc vượt rào thành công
của các thị trường xuất khẩu lớn.
3.3.5. Hoàn thiện môi trường pháp lý theo chuẩn quốc tế
Một trong những yếu tố có ảnh hưởng tới động thái đầu tư của các nhà đầu tư
nước ngoài là môi trường pháp lý ở quốc gia được đầu tư có ổn định không, có phù
hợp không. Nhà nước Việt Nam muốn thu hút càng nhiều vốn đầu tư của các nhà
đầu tư nước ngoài thì lại càng cần hoàn thiện môi trường pháp lý tại Việt Nam
thông thoáng, theo tiêu chuẩn quốc tế đã đề ra tạo cho nhà đầu tư một sân chơi bình
đẳng, bên cạnh đó cần cải cách lại các thủ tục hành chính.
Ngoài ra, Việt Nam cũng nên xây dựng một hệ thống các quy định có liên
quan đến ngành sản xuất dệt may theo chuẩn quốc tế, qua đó các doanh nghiệp sản
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
86
xuất dệt may có thể nắm chắc, tiếp cận và kinh doanh trong một môi trường pháp lý
tương tự như ở các thị trường khác. Chính vì vậy sẽ giúp các doanh nghiệp không
ngỡ ngàng khi tiếp xúc với các quy định, luật lệ ở quốc gia mà mình xuất khẩu hàng
dệt may, trên thực tế khi doanh nghiệp không nắm được những quy định, luật lệ tại
các quốc gia mình xuất khẩu nên khi xuất khẩu sang thị trường này đã vi phạm và bị
kiện. Điều này đã ảnh hưởng lớn tới hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp và doanh
nghiệp còn phải bỏ ra một khoảng chi phí để tìm hiểu luật của những thị trường này,
đã làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, tốn thời gian…
3.4. Giải pháp của Hiệp hội Dệt may (VITAS)
Với vai trò là cầu nối giữa doanh nghiệp sản xuất trong nước với thị trường
nước ngoài, Hiệp hội có vai trò rất quan trọng trong hoạt động xuất khẩu – nhập
khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đối với các ngành sản xuất nói chung cũng
như ngành sản xuất dệt may nói riêng. Hiệp hội dệt may trong thời gian qua đã giúp
các doanh nghiệp sản xuất dệt may Việt Nam trong việc tìm hiểu và cung cấp thông
tin về thị trường, tìm kiếm nguồn nguyên phụ liệu, đứng ra ký kết các đơn đặt hàng
lớn, hay giải quyết những tranh chấp trong việc xuất khẩu hàng dệt may. Và trong
thời gian tới thì vai trò Hiệp hội phải ngày càng được củng cố hơn nữa nhằm giúp
các doanh nghiệp dự báo và phòng ngừa được những nguy cơ tiềm tàng khi xuất
khẩu mặt hàng dệt may sang các thị trường, đặc biệt là cần sự tiên liệu và chủ động
tìm phải pháp phòng ngừa từ trước nhằm loại trừ nguy cơ bị kiện bán phá giá.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan cần có sự phối hợp
chặt chẽ với Hiệp hội trong việc thực hiện chính sách chung nhằm hạn chế tối đa
thiệt hại từ các rủi ro pháp lý liên quan đến thương mại dệt may. Cụ thể cần tiếp
tục chủ trương đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa chủng loại mặt hàng
xuất khẩu.
Hiệp hội dệt may cần tiếp tục đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền, phổ biến
cho cộng đồng doanh nghiệp kiến thức pháp lý liên quan đến xuất khẩu của các đối
tác nhập khẩu lớn, các thông tin giá cả thị trường, đối thủ cạnh cạnh…có cơ chế
theo dõi xuất khẩu, khuyến khích doanh nghiệp tiếp nhận các đơn hàng có đơn giá
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
87
xuất khẩu cao, giá trị gia tăng, hạn chế các đơn hàng có giá trị xuất khẩu thấp. Do
đó, việc xây dựng cơ chế cảnh báo sớm và phối hợp xử lý các rủi ro pháp lý về
tranh chấp thương mại quốc tế là rất cần thiết.
Hiệp hội cũng cần ứng dụng mạnh mẽ thương mại điện tử vào hoạt động
quản lý các doanh nghiệp, có thể hình thành lên sàn giao dịch riêng cho mặt hàng
dệt may Việt Nam cả yếu tố đầu vào cũng như yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất,
từ đó có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam yên tâm hơn trong việc tìm mua
nguyên phụ liệu và tiêu thụ sản phẩm của mình.
Kể từ năm 2007, khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, ngành dệt may
không bị áp dụng cơ chế hạn ngạch thì lập tức gặp rào cản giám sát chống bán phá
giá. Để đối phó với cơ chế này, một mặt, Vitas chủ động giám sát tại Việt Nam,
lành mạnh hóa danh sách chứng từ để chứng minh chúng ta sản xuất và bán hàng
trên giá thành của chúng ta và không nhận bất cứ trợ cấp nào từ phía Chính phủ.
Đồng thời, Vitas đã xác định một hướng đi mới là kiên trì tiếp cận với chính quyền
và Hiệp hội Dệt may Mỹ, vận động, giải thích để họ hiểu thực chất vấn đề.
Để làm được điều này, dứt khoát phải có kinh phí. Trong năm 2007, Vitas đã tổ
chức nhiều cuộc họp với các doanh nghiệp thành viên và đi đến thống nhất, mỗi
doanh nghiệp tự nguyện đóng góp 0,01% kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ
để lấy kinh phí trang trải cho hoạt động vận động, giải thích với phía Mỹ.
3.5. Giải pháp phía Doanh nghiệp
Bên cạnh những công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước và của Hiệp hội dệt
may thì vai trò của các doanh nghiệp đóng một ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao
được sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam để qua đó có thể vượt rào thành
công trước những rào cản kỹ thuật ngày càng được dựng lên tinh vi của các nước
phát triển.
3.5.1. Doanh nghiệp luôn chú trọng tới công tác nghiên cứu thị trường
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần luôn luôn chú trọng
công tác nghiên cứu thị trường. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ cung cấp cho các
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
88
doanh nghiệp của Việt Nam những thông tin có hệ thống về thị trường xuất khẩu
bao gồm các thông tin về: các rào cản đang được áp dụng, dung lượng thị trường,
các đối thủ cạnh tranh, …qua đó doanh nghiệp có thể chủ động ứng phó được trước
những rào cản kỹ thuật mà thị trường này dựng lên, tạo ra thế chủ động cho các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi thâm nhập thị trường này.
Doanh nghiệp nên thường xuyên tiến hành các cuộc điều tra về nhu cầu thị
trường qua các chương trình thăm dò nhu cầu của thị trường, hoặc tiến hành các
chương trình giới thiệu sản phẩm, qua đó thăm dò ý kiến của người tiêu dùng để từ
đó có thể cải tiến sản phẩm của mình theo thị hiếu của khách hàng ở từng thị trường
quốc tế. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần phải tìm hiểu sâu về các đặc điểm văn hóa
riêng biệt của từng thị trường, cần phải tránh sản phẩm không phù hợp với văn hóa
của từng thị trường.
Chính hoạt động nghiên cứu thị trường giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu
dệt may Việt Nam chủ động ứng phó với những sự biến động của thị trường nhập
khẩu, từ đó hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam mới có thể đứng vững trên thị trường
Hoa Kỳ nói riêng cũng như các thị trường khác trên Thế giới.
3.5.2. Doanh nghiệp cần xây dựng và kiện toàn sử dụng các hệ thống tiêu chuẩn kỹ
thuật theo đúng tiêu chuẩn quốc tế
Các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng kiện toàn các hệ thống tiêu chuẩn
theo đúng quy định quốc tế, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường quốc tế –
đây là một trong những nhiệm vụ hàng đầu mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
cần quan tâm bởi vì chính doanh nghiệp mới là đối tượng tham gia trực tiếp vào
quan hệ mua bán với các quốc gia và phải đối mặt với rất nhiều những quy định, rào
cản liên quan đến hàng hóa mình muốn xuất khẩu. Do vậy, muốn vượt rào thành
công thì hơn hết là các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện hóa được tiêu chuẩn kỹ
thuật mà doanh nghiệp đang áp dụng trong sản xuất.
Muốn vậy, trước tiên các doanh nghiệp sản xuất – xuất khẩu hàng dệt may
cần phải có sự đầu tư đúng mức cho hoạt động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ lưỡng đến
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
89
những hệ thống quy định về tiêu chuẩn chất lượng – kỹ thuật đang được các quốc
gia phát triển áp dụng. Sự đầu tư đó bao gồm: đầu tư vào con người cụ thể là chú
trọng đến phát triển những cán bộ chuyên nghiên cứu và ứng dụng những quy định
về tiêu chuẩn chất lượng – kỹ thuật đối với mặt hàng dệt may, ngoài ra phải thường
xuyên cử cán bộ của doanh nghiệp đi khảo sát, điều tra thông tin ở thị trường nước
ngoài. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần phải đầu tư xây dựng được hệ thống
tiêu chuẩn chất lượng sau khi đã nghiên cứu sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế
và phù hợp với năng lực của doanh nghiệp mình như: cải tiến, hiện đại hóa trang
thiết bị, xây dựng hệ thống bảo vệ môi trường – đáp ứng theo tiêu chuẩn môi trường
đã được đề ra hay xây dựng một hệ thống những quy định về lao động áp dụng cho
doanh nghiệp mình sao cho không vi phạm những quy định của SA 8000.
3.5.3. Đẩy nhanh công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp dệt may
Đẩy nhanh công tác cổ phần hóa doanh nghiệp, thành lập ra những tập đoàn
dệt may lớn sẽ loại bỏ những doanh nghiệp dệt may yếu kém, không có khả năng
cạnh tranh bên cạnh đó khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào liên kết
chuỗi, thành lập ra những tập đoàn dệt may lớn mạnh có đủ sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới.
Ngoài ra, cần đẩy nhanh lộ trình hội nhập ngành dệt may trong khu vực để
có thể tăng cường được sức cạnh tranh. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam có
thể xúc tiến hoạt động liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may không
những là với các doanh nghiệp trong nước mà còn với cả các doanh nghiệp nước
ngoài để trở thành những doanh nghiệp lớn, đáp ứng được những hợp đồng lớn, đáp
ứng được các rào cản kỹ thuật, mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa sản
phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm
Bên cạnh đó, cùng với việc đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, các doanh
nghiệp dệt may cần minh bạch hóa hệ thống tài chính doanh nghiệp, kết hợp chặt
chẽ với Nhà nước và Hiệp hội Dệt may để có thể chủ động đối phó trước những vụ
kiện bán phá giá của nước nhập khẩu. Ngoài ra, việc chú trọng xây dựng và phát
triển thương hiệu doanh nghiệp là một việc làm vô cùng quan trọng. Thương hiệu là
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
90
linh hồn của sản phẩm cũng như của doanh nghiệp, do đó việc xây dựng thương
hiệu cho doanh nghiệp nói riêng và cho hình ảnh mặt hàng dệt may nói chung là
một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của doanh nghiệp.
3.5.4. Doanh nghiệp luôn đặt phương châm nâng cao chất lượng lên hàng đầu
Chất lượng của mặt hàng dệt may được đánh giá qua hai chỉ tiêu: chỉ tiêu kỹ
thuật đó là những thông số kỹ thuật và chỉ tiêu phi kỹ thuật bao gồm các yếu tố về
mẫu mã, thẩm mỹ, hợp mốt…hai chỉ tiêu này có tầm quan trọng như nhau nên đòi
hỏi các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu hàng dệt may luôn phải chú ý đến thỏa
mãn cả hai chỉ tiêu này, đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật của các nước phát triển.
Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, các doanh nghiệp sản xuất
dệt may cần:
Thứ nhất, doanh nghiệp cần chủ động trong quá trình tìm kiếm yếu tố đầu
vào cho hoạt động sản xuất của mình. Như đã biết, mặt hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam sử dụng nguồn nguyên liệu đầu vào chủ yếu là từ việc nhập khẩu từ
nước ngoài. Chính điều này đã tạo ra sự bị động trong hoạt động sản xuất của
doanh nghiệp ngoài ra làm giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp do giá nhập
khẩu nguyên phụ liệu cao. Để khắc phục được tình trạng trên, trong thời gian tới
các doanh nghiệp dệt may nên chủ động đầu tư, phát triển các vùng nguyên liệu
phục vụ cho sản xuất, có thể kết hợp các doanh nghiệp với nhau để có thể phát
triển những vùng nguyên liệu lớn hoặc doanh nghiệp phối hợp cùng Hiệp hội dệt
may phát triển vùng nguyên liệu qua đó làm tăng tỷ lệ nội địa hóa cho sản phẩm
dệt may Việt Nam.
Thứ hai, cần đổi mới trang thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại. Các doanh
nghiệp dệt may cần tập trung đầu tư vào các thiết bị chuyên dùng nhằm nâng cao
chất lượng cũng như hình thức, mẫu mã sản phẩm, đưa thương mại điện tử vào
trong sản xuất. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần thu hút sự đầu tư của những công
ty xuyên quốc gia, tự có những dự án, quy hoạch để kêu gọi nhà đầu tư, doanh
nghiệp dệt may nên chú trọng đề cao thu hút đầu tư và nhập khẩu nguồn công
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
91
nghệ ở những nước có nền kinh tế phát triển, những nước có công nghệ nguồn.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp cũng cần phải có sự cân nhắc đúng
đắn, tránh hiện tượng đầu tư ồ ạt gây lãng phí và giảm hiệu suất sử dụng vốn, tài
sản để đầu tư. Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp hài hòa trong việc sử dụng công
nghệ tiên tiến và những công nghệ đang sử dụng để có thể sản xuất sản phẩm tận
dụng được mọi ưu thế mà doanh nghiệp đang có. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng nên
chủ động trong việc tìm tòi và thiết kế, sáng tạo các thiết bị khoa học công nghệ
phù hợp với thực trạng của doanh nghiệp mình, tránh việc thụ động hoàn toàn vào
các nước có công nghiệp nguồn.
Thứ ba, doanh nghiệp cần chú ý đến đào tạo nguồn nhân lực của doanh
nghiệp mình bao gồm cả lao động phổ thông, cán bộ kỹ thuật tay nghề cao và cán
bộ quản lý. Doanh nghiệp cần thường xuyên đào tạo cho người lao động nhằm:
nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao sự hiểu biết và ý thức được về rào cản kỹ thuật
đang được áp dụng, đào tạo cho người lao động về những dây truyền công nghệ tiên
tiến để người lao động sử dụng với năng suất tốt nhất. Bên cạnh đó, cần thường
xuyên đưa cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật tham gia các buổi diễn đàn, các buổi tọa
đàm, các chuyến đi thực tế sang các quốc gia khác nhằm nâng cao trình độ quản lý,
trình độ về khoa học – kỹ thuật.
Thứ tư, doanh nghiệp cần tích cực đổi mới cơ cấu, mẫu mã sản phẩm hợp
thời trang, tập trung vào các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao, mở rộng
thị trường xuất khẩu, tránh tập trung quá lớn vào một vài thị trường chính. Phối hợp
chặt chẽ với Hiệp hội Dệt May và Bộ Công Thương theo dõi sát diễn biến cũng như
chấp hành nghiêm túc các yêu cầu của phía Hoa Kỳ để tránh tình hình bất lợi đối
với hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Muốn vậy, các doanh nghiệp luôn chú
trọng đến nghiên cứu nhu cầu thị trường, nghiên cứu nhu cầu của người tiêu dùng
tại Hoa Kỳ nói riêng cũng như các quốc gia khác. Đặc biệt, doanh nghiệp cần chú
trọng phát triển phòng ban chuyên ngành thiết kế thời trang, các chuyên gia thiết kế
thời trang…Các doanh nghiệp trong lĩnh vực thời trang cần liên kết, phối hợp với
nhau để hình thành ra những trung tâm thời trang lớn, hiện đại, đáp ứng được nhu
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
92
cầu trong và ngoài nước, đáp ứng được những quy định về tiêu chuẩn quốc tế. Bên
cạnh đó, doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam cũng cần thường xuyên thuê
các chuyên gia nước ngoài, những nhà thiết kế chuyên nghiệp tầm cỡ quốc tế để
tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã hình thức model, hợp mốt và
mang phong cách nổi tiếng….
Thứ năm, để chiếm lĩnh thị trường, doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt
Nam cũng cần đa dạng hóa sản phẩm. Theo thực trạng chung của các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam hiện nay quy mô vẫn còn nhỏ lẻ thì các doanh nghiệp này nên
vẫn tiếp tục phát triển sản xuất những sản phẩm có thế mạnh như các mặt hàng : áo
sơ mi, áo cotton, quần áo lót, áo len… thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần đầu
tư vào các sản phẩm cao cấp, dần dần khẳng định vị thế và chiếm lĩnh thị trường
Hoa Kỳ cũng như ở những quốc gia nhập khẩu hàng dệt may khác của Việt Nam.
3.5.5. Tăng cường hoạt động Marketing và xây dựng thương hiệu
Xây dựng thương hiệu là một yếu tố quyết định tới sự thành bại của một
doanh nghiệp, bởi vì một sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường nhưng nó không có
thương hiệu thì doanh nghiệp đó cũng không được công nhận. Vấn đề xây dựng
thương hiệu ở Việt Nam còn mới mẻ, và mang lại nhiều bỡ ngỡ cho các doanh nghiệp
Việt Nam, do vậy lại càng cần phải xây dựng thương hiệu. Đặc biệt, đến năm 2007
Việt Nam đã trở thành thành viên 150 của WTO thì thương hiệu, bảo vệ thương hiệu
lại càng được đề cao. Muốn vậy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần:
Thứ nhất, cần xây dựng nhãn hiệu cho doanh nghiệp mình và phải đăng ký
với các cơ quan có thẩm quyền ở thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế, có
như vậy hình ảnh của doanh nghiệp mới được quảng bá.
Thứ hai, doanh nghiệp cần phải luôn luôn củng cố, phát triển thương hiệu
của doanh nghiệp mình thông qua các hoạt động: marketing quốc tế, đa dạng hóa
sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm để từ đó sản phẩm của doanh nghiệp đi
sâu vào thị hiếu người tiêu dùng, qua đó hình ảnh hay chính là thương hiệu của
doanh nghiệp được củng cố và phát triển.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
93
Thực hiện tốt hoạt động marketing quốc tế bao gồm rất nhiều khâu nhỏ,trong
đó việc hình thành và đa dạng các kênh phân phối tiếp cận thị trường là quan trọng
nhất. Doanh nghiệp dệt may có thể thực hiện tốt hoạt động marketing quốc tế thì
trước hết cần có và đào tạo một đội ngũ cán bộ marketing quốc tế chuyên nghiệp, có
trình độ tay nghề cao, đặc biệt trong quá trình hình thành và đa dạng hóa các kênh
phân phối bán hàng, tiếp cận thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp cần có một kế
hoạch triển khai rõ ràng, khả thi…do đó các doanh nghiệp có thể liên kết để cùng
thực hiện việc thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp
nên đầu tư vào hình thành nên các phòng giao dịch, đại lý bán buôn, lẻ, …để có thể
giới thiệu và đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng một cách nhanh nhất. Ngoài ra,
doanh nghiệp Việt Nam còn có thể tận dụng kênh phân phối sản phẩm của người
Việt Nam sống xa quê hương để quảng bá cho sản phẩm mình
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
94
KẾT LUẬN
Tóm lại, trong thời gian sắp tới Hoa Kỳ vẫn là thị trường hàng đầu, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam ra thị
trường Thế giới. Tuy nhiên, những rào cản kỹ thuật mà thị trường đang áp dụng
cũng đã có những ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sản xuất và xuất khẩu mặt
hàng dệt may Việt Nam sang thị trường này.
Hàng dệt may Việt Nam sang thị trường này vẫn tăng nhanh qua các thời kỳ
sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết và đến giai đoạn
này Việt Nam đã trở thành một trong 150 thành viên của tổ chức WTO. Là thành
viên của WTO, Việt Nam cũng cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của
WTO đối với các vấn đề về kinh tế – xã hội…và hoạt động dệt may Việt Nam cũng
không nằm ngoài những yêu cầu đó.
Hoa Kỳ là một trong những đối tác quan trọng nhập khẩu hàng dệt may Việt
Nam lớn, thị trường này cũng có một hệ thống rào cản kỹ thuật phức tạp. Điều này
đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn chiếm lĩnh thị trường tiềm năng
này thì hơn hết cần phải vượt rào bằng sức mạnh nội lực của doanh nghiệp mình.
Những năm qua, Nhà nước, Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng như toàn thể doanh
nghiệp xuất khẩu hàng dệt may đều cố gắng hết sức và có những động thái, biện
pháp vượt rào, tuy nhiên còn bộc lộ nhiều yếu kém. Do vây, trong thời gian tới,
“vượt rào” những rào cản kỹ thuật Hoa Kỳ sẽ vẫn được Đảng, Nhà nước, Hiệp hội
Dệt may Việt Nam, cũng như toàn thể dệt may quan tâm và chú trọng.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Sinh viên: Hoàng Thị Thùy Dung Kinh tế Quốc tế 46
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách:
1. Lê Quốc Ân (8/2002) Làm thế nào để xuất khẩu thành công hàng dệt may
vào thị trường Hoa Kỳ, Hiệp Hội dệt may Việt Nam, Hà Nội.
2. Bộ Thương Mại (9/2000), chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ
2001 – 2010
3. Nguyễn Văn Cao – Marketing quốc tế
4. GS.TS. Trần Minh Đạo, PGS.TS. Vũ Trí Dũng – Giáo trình Marketing
quốc tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân
5. Thời báo Kinh tế - Việt Nam
6. Tạp chí dệt may Việt Nam
7. Tạp chí Doanh nghiệp
8. Tạp chí Thương Mại
9. Tạp chí Kinh tế và phát triển
Trang Website:
1.
2.
3.
4.
5. http:// www.wto.dddn.com.vn
6. http:// www.mofa.gov.vn
7. http:// www.vst.vista.gov.vn
8. http:// www.vbf.org.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10364_401.pdf