Luận văn Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long

Việc khảo sát, nghiên cứu đề tài này là một đòi hỏi bức xúc của thực tiễn hoạt động phát thanh trong khu vực. Tuy nhiên, do năng lực còn hạn chế và do những giới hạn của một đề tài nghiên cứu cấp độ luận văn thạc sĩ nên tác giả chưa thể khái quát được toàn bộ sự vận động và phát triển của báo phát thanh các tỉnh BSH, ĐBSCL cùng những dự báo và giải pháp đẩy mạnh sự phát nghiệp phát thanh của khu vực này.

pdf91 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3470 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồng thời còn góp phần bảo vệ tài nguyên, môi trường, đặc biệt là bảo vệ nguồn lợi thuỷ hải sản, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng của khu vực và cả nước. 3.1.2. Những yêu cầu của thực tiễn đối với phát thanh các đài tỉnh Bắc sông Hậu 3.1.2.1. Thách thức đối với phát thanh các đài tỉnh Bắc sông Hậu Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển vượt bậc kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của báo chí truyền thông nói chung. Và hệ quả của nó là sự bùng nổ thông tin cùng với sự cạnh tranh quyết liệt giữa các loại hình báo chí truyền thông. Phát thanh hiện đại cũng không nằm ngoài sự tác động này. Cùng với hệ thống phát thanh cả nước, phát thanh các đài tỉnh BSH đang đứng trước nhiều thách thức trong quá trình tồn tại và phát triển. Thứ nhất là những thách thức từ phía thính giả: Trước đây, khi đất nước chưa đổi mới, chúng ta có rất ít thông tin, cũng như các vấn đề xã hội để tiếp cận. Các cơ quan báo chí dường như không quan tâm đến nhu cầu của công chúng. Công chúng sẵn sàng nghe chương trình một cách bị động, có gì nghe nấy không yêu cầu đòi hỏi gì đối với nhà sản xuất. Ngày nay, công chúng đã thay đổi. Nếu chương trình không hay họ sẵn sàng loại bỏ để lựa chọn một kênh thông tin khác phù hợp vì họ có rất nhiều kênh để chọn lựa. Đối với thính giả đài phát thanh cũng vậy. Giờ đây, người nghe có những cách thức tiếp cận khác nhau và họ muốn có những chương trình ngắn gọn với những chi tiết chân thực, những người thật, việc thật cùng với tiếng nói giản dị của họ. Thính giả ngày nay không chỉ nghe đài mà họ còn có ý thức tham gia các chương trình phát thanh. Họ muốn được tham gia trực tiếp vào chương trình, được trao đổi, được phát biểu, muốn được bày tỏ quan điểm để mọi người cùng nghe trong các chương trình giao lưu, toạ đàm, phỏng vấn trực tiếp... Mặt khác, theo xu thế phát triển, một mặt các phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó có radio phải không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của công chúng, đồng thời công chúng cũng liên tục đặt ra những yêu cầu mới đối với hoạt động của hệ thống này. Đó chính là những đòi hỏi của bạn nghe đài trước cuộc sống và những nhu cầu tinh thần ngày một đa dạng phong phú. Truyền thông đại chúng ngày nay phải đa dạng hoá thông tin. Thông tin nhiều chiều, thông tin sâu cho từng đối tượng, cho từng nhóm nhỏ càng phát triển. Mỗi nhóm công chúng và mỗi người có quyền tự lựa chọn cho mình một hình thức tiếp nhận thông tin phù hợp. Công chúng hiện nay có nhiều kênh để tiếp nhận thông tin. Họ đòi hỏi khả năng giao lưu, trò chuyện, trao đổi thông tin giữa PTV, PV, BTV. Mặt khác, thính giả hiện nay đòi hỏi thông tin phải nhanh và mới. Nhu cầu thưởng thức âm nhạc của họ cũng ngày càng khắt khe hơn. Tính đối tượng, thời gian và cập nhật thông tin trở thành thách thức lớn từ phía thính giả, đòi hỏi cả chất lượng nội dung, hình thức thể hiện chương trình và chất lượng phát sóng. Thứ hai là những thách thức từ các chương trình phát thanh tiếng Việt từ bên ngoài. Ngày 7.9.1945, Đài TNVN ra đời và là đài phát thanh đầu tiên phát bằng tiếng Việt. "Mãi đến những năm 50 mới xuất hiện những đài phát thanh khác trên thế giới phát chương trình tiếng Việt như: Đài Phát thanh Pháp Á, Kinh Bắc, Matxcơva, BBC, sau đó mới tới đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA)" [31, tr.7]. Những năm vừa qua và ngay cả tại thời điểm này đang có không ít trong số 40 đài phát thanh tiếng Việt trên thế giới đã phản ánh sai, bóp méo sự thật về Việt Nam với dụng ý xấu. Các thế lực thù địch lợi dụng triệt để các vấn đề nhạy cảm như sắc tộc, tôn giáo, nhân quyền để bôi nhọ Việt Nam. Các lực lượng thù địch hiện nay vẫn ráo riết tiến hành "diễn biến hòa bình" thông qua các kênh này. Chính vì thế, trong bài phát biểu tại Đài TNVN, ngày 26.12.1996, ông Nguyễn Đức Bình khi đó đã nhấn mạnh: "Hệ thống phát thanh quốc gia phải mạnh, phải tốt, tạo sức đề kháng từ bên trong chống trả mọi độc tố từ bên ngoài tràn vào" [11, tr.49]. ĐBSCL, trong đó có các tỉnh BSH được xem là một trong ba "điểm nóng" về tình hình tôn giáo, sắc tộc trong cả nước. Do đó, cùng với truyền hình và các loại hình báo chí khác, phát thanh với thế mạnh của mình, cần mở rộng hơn nữa việc tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước các cấp, tăng cường các diễn đàn của nhân dân góp ý xây dựng đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh. Kịp thời nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, các phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Thông tin khoa học và đời sống, tăng cường các chương trình giải trí bổ ích trên sóng phát thanh. Thứ ba là những thách thức đặt ra từ sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình báo chí truyền thông. Do đó, xu hướng lựa chọn báo chí để đọc, chọn chương trình phát thanh, truyền hình để theo dõi ngày càng phổ biến. Ngày nay công chúng đòi hỏi báo chí phải thông tin nhanh, mới, ngắn và sinh động nhất. Trong phát thanh xuất hiện khái niệm thông tin tức thì, chớp thời gian để đưa tin. Các chương trình PTTT mở ra ngày càng nhiều với thời lượng 30 phút, 05 phút để thông tin nhanh nhất đã đặt ra yêu cầu phát thanh phải thay đổi phương thức sản xuất cũng như hình thức và cách thức chuyển tải thông tin. Thứ tư là những thách thức do sự phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Sự phát triển này vừa tạo điều kiện vừa đòi hỏi phát thanh phải tiến thật nhanh lên hiện đại, hòa nhập vào xã hội thông tin. Với phát thanh số độ nét âm thanh cao, chất lượng âm thanh không kém đĩa CD. Khi chất lượng âm thanh, chất lượng làn sóng cao thì chất lượng nội dung và hình thức thể hiện chương trình phải tương xứng. Sự phát triển của kỹ thuật trở thành thách thức lớn đối với nội dung trong sự phát triển của ngành phát thanh. Đài TNVN đã chuyển từ kỹ thuật analog sang digital đồng thời cũng đặt ra kế hoạch sản xuất radio cho người nghe theo công nghệ số. Theo quy hoạch của Chính phủ, quá trình chuyển đổi từ kỹ thuật phát sóng analog sang digital theo lộ trình từ nay đến năm 2020: “Khuyến khích chuyển đổi hoàn toàn truyền dẫn, phát sóng phát thanh từ công nghệ tương tự sang công nghệ số trước năm 2020” [6, tr. 4]. 3.1.2.2. Cải tiến, nâng cao chất lượng chương trình là nhu cầu tự thân của các đài tỉnh Bắc sông Hậu Việc cải tiến nâng cao chất lượng chương trình phát thanh phải xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của cơ quan phát thanh, đồng thời cần khai thác thế mạnh, hạn chế và đặc trưng của loại hình để lựa chọn hình thức sáng tạo phù hợp. Trong xu thế phát triển hiện nay của các phương tiện thông tin đại chúng, phát thanh cấp tỉnh có thuận lợi về kinh nghiệm, đội ngũ có phẩm chất chính trị. Tuy nhiên ngành phát thanh đứng trước những khó khăn không nhỏ. Đó là tình trạng thiếu đồng bộ của các phương tiện kỹ thuật, thiếu đội ngũ làm công tác phát thanh... Mặt khác, các địa phương lại chỉ chú ý tập trung đầu tư cho truyền hình, coi nhẹ hoặc lơi lỏng công tác phát thanh. Đây là những nguyên nhân đưa phát thanh đi đến chỗ mất dần công chúng. Mặt khác, kinh tế các vùng miền đã có bước phát triển vượt bậc, đời sống người dân có được cải thiện nhưng vẫn còn bộ phận đông đảo người dân ở vùng sâu đời sống xã hội còn thấp thì chiếc radio vẫn là sự lựa chọn thích hợp. Cải tiến nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh là tiếp tục khẳng định ưu thế của phát thanh về tính nhanh nhạy, diện phủ sóng rộng, đối tượng nghe phổ cập và phương tiện nghe rẻ… Đồng thời còn góp phần khắc phục nhược điểm của báo in và truyền hình. Việc cải tiến, nâng cao chất lượng chương trình phát thanh là việc làm thường xuyên của các đài PT&TH nói chung. Khi đã lấy công chúng là đối tượng tác động thì công việc này chính là nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của công chúng. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, có 261 ý kiến của công chúng đóng góp cho chương trình phát thanh của địa phương mình. Trong đó có 57 ý kiến của thính giả ở Đồng Tháp, 52 ý kiến của Tiền Giang, 48 ý kiến của Trà Vinh, 44 ý kiến từ Bến Tre, 39 ý kiến từ Long An và 21 ý kiến từ thính giả tỉnh Vĩnh Long. Trong đó, chủ yếu là các ý kiến đóng góp về cách thức thông tin và nội dung thông tin của các đài địa phương cần nhanh nhạy, kịp thời và mở rộng diện thông tin, sát hợp với đời sống của người dân từ thành thị đến nông thôn. Có 47 ý kiến về việc tăng cường các chương trình giải trí, các chương trình giao lưu và sân chơi trên sóng phát thanh. Thính giả ở Đồng Tháp, Trà Vinh yêu cầu tăng thời lượng phát sóng ở đài địa phương của mình. Về chất lượng sóng phát thanh cần nâng chất để khắc phục tình trạng một số vùng nông thôn nghe đài chưa được rõ. Có 33 ý kiến về việc đào tạo PTV, NDCT chuyên nghiệp. Ngoài ra còn nhiều ý kiến đóng góp về việc bố trí lịch phát sóng các chương trình giải trí, mở thêm các chương trình gần gũi với đời sống hàng ngày… Bảng 3.1: Ý kiến công chúng Bắc sông Hậu góp ý xây dựng chương trình phát thanh đài địa phương của mình TT Nội dung đóng góp Số ý kiến Tỷ lệ 1 Cách thức thông tin và nội dung thông tin của các đài địa phương cần nhanh nhạy, kịp thời và mở rộng diện thông tin, sát 66 25.28 hợp với đời sống của người dân từ thành thị đến nông thôn. Thường xuyên cập nhật các thông tin về kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng… Tăng cường thông tin về nông nghiệp, nông thôn chính sách, pháp luật… 2 Tăng cường các chương trình giải trí, các chương trình giao lưu và sân chơi trên sóng phát thanh. Mở thêm các chương trình phục vụ cho đời sống, như học đường, hướng nghiệp, chăm sóc sức khỏe… 47 18.00 3 Cần có những tin, bài phân tích, bình luận về những vấn đề bức xúc của người dân, xã hội ở địa phương cũng như cần có những bài viết về giáo dục đạo đức lối sống của người dân để giúp cho công cuộc đổi mới hiện nay được hiệu quả hơn. 29 11.11 4 Thính giả Trà Vinh và Đồng Tháp yêu cầu tăng thời lượng phát sóng ở các đài địa phương của mình 34 13.02 5 Cần sắp xếp lịch phát sóng cho phù hợp với từng đối tượng 23 8.81 6 Khắc phục tình trạng chất lượng sóng chưa tốt ở một số vùng nông thôn. 21 8.04 7 Cần đào tạo phát thanh viên và người dẫn chương trình chuyên nghiệp 33 12.64 8 Các ý kiến khác 11 4.21 Cộng 261 100.00 Trong số 42 phiếu xin ý kiến PV, BTV, có 20 ý kiến đánh giá chương trình phát thanh đài mình đang công tác thuộc loại khá, 15 ý kiến xếp loại trung bình, 6 ý kiến xếp loại tốt. Bảng 3.2: Phóng viên, biên tập viên đài tỉnh Bắc sông Hậu đánh giá chất lượng phát thanh đài mình đang công tác TT Loại Đài Tổng cộng Bến Tre Đồng Tháp Long An Tiền Giang Trà Vinh Vĩnh Long 1 Tốt 6 6 2 Khá 5 3 9 1 1 1 20 3 Trung bình 1 3 1 7 3 15 4 Kém 1 1 Tổng cộng 7 6 10 8 4 7 42 Trong 151 lượt ý kiến của PV, BTV đóng góp cho việc cải tiến, nâng cao chất lượng chương trình phát thanh, có 18 lượt ý kiến xoay quanh việc cải tiến, nâng cao chất lượng nội dung chương trình phát thanh. 24 ý kiến đề xuất về kỹ thuật, 21 ý kiến đề nghị đào tạo đội ngũ làm công tác phát thanh và 24 ý kiến xoay quanh việc thay đổi hình thức thể hiện trên sóng phát thanh, như: tăng cường giao lưu, tọa đàm, sân chơi, giảm bớt hình thức độc thoại. Đồng thời đề nghị tăng cường phương thức PTTT, trước hết là thời sự, các bản tin chuyên đề và các cuộc tọa đàm, giao lưu… 41 lượt ý kiến đề xuất nâng cao chế độ nhuận bút cho PV, BTV cùng một số chính sách về đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ làm công tác phát thanh. Ngoài ra có 17 ý kiến đề nghị thay đổi cơ cấu tổ chức của đài mình đang công tác, tổ chức theo chuyên môn, như: phát thanh, truyền hình, kỹ thuật… nhằm đi vào chuyên môn hóa các loại hình phát thanh, truyền hình. Như thế các đài mới có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ chuyên môn về phát thanh, được tổ chức theo đúng qui trình sản xuất phát thanh hiện đại. Bảng 3.3: Ý kiến phóng viên đài tỉnh Bắc sông Hậu góp ý cho phát thanh đài mình đang công tác TT Nội dung Số ý kiến Tỷlệ % 1 Cải tiến, nâng cao chất lượng nội dung chương trình phát 18 11.92 thanh. 2 Đầu tư chuyển đổi sang công nghệ phát thanh hiện đại 24 15.89 3 Đào tạo đội ngũ làm công tác phát thanh 21 13.90 4 Thay đổi hình thức thể hiện trên sóng phát thanh, như giao lưu, tọa đàm, sân chơi, giảm bớt hình thức độc thoại. Tăng cường phương thức PTTT, trước hết là Thời sự, các bản tin chuyên đề và các cuộc tọa đàm, giao lưu… 24 15.89 5 Nâng cao chế độ nhuận bút cho PV, BTV. Có chế độ khen thưởng phù hợp 41 27.15 6 Thay đổi cơ cấu tổ chức của đài mình đang công tác. Tổ chức các bộ phận chuyên môn theo loại hình phát thanh, truyền hình, kỹ thuật… 17 11.25 7 Các ý kiến khác 6 3.97 Tổng cộng 151 100.00 Nói tóm lại, đây là những yêu cầu nội tại của phát thanh đài tỉnh BSH. Đặt trong tình hình phát triển của ngành phát thanh ngày nay cũng như tình hình trong khu vực thì đây là những đòi hỏi bức thiết từ hai phía, buộc ngành phát thanh các tỉnh phải có sự lựa chọn, tồn tại phải phát triển hay bị loại trừ. 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH CẤP TỈNH KHU VỰC BẮC SÔNG HẬU 3.2.1. Nhóm các giải pháp chung 3.2.1.1. Nâng cao chất lượng nội dung Ngày nay, công chúng phát thanh có điều kiện để lựa chọn chương trình. Ngay cả những gia đình ở các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh, cũng có thể có hai phương tiện nghe và nhìn. Do đó, thông tin trên phát thanh không những phải phong phú, nhiều chiều mà còn phải nhanh, mới và thiết thực. Bên cạnh đó, chương trình giải trí phải đa dạng và hấp dẫn. Có như thế, radio mới thu hút được công chúng và làm bạn với mọi người, mọi gia đình. Trong việc xây dựng chương trình phát thanh một số vấn đề cần được tiếp tục quan tâm, như: "Cần khai thác thêm những thông tin của đời sống thường nhật - chính những thông tin này có ý nghĩa sát sườn với đông đảo thính giả và họ tiếp nhận chương trình cũng vì thế mà dễ dàng hơn" [10, tr. 222]. Đây là vấn đề sống còn của các đài trong xu thế phát thanh bị người anh em truyền hình lấn át. Xác định mục tiêu này, ông Huỳnh Văn Sáu, Phó Giám đốc Đài PT&TH Long An khẳng định: Để đáp ứng nhu cầu của thính giả trong thời gian tới, chương trình Phát thanh của Đài Phát thanh và Truyền hình Long An cần phải có những bước tiến mới để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay đó là phải bám sát nhiệm vụ tuyên truyền của Đảng, thông tin nhanh hơn, kịp thời hơn, các chương trình đi vào chiều sâu, sát thực với cuộc sống, chương trình đáp ứng nhu cầu thưởng thức ở người dân (Phụ lục 4). Mặt khác, thông tin và giải trí trên sóng phát thanh cũng phải có định hướng. "Việc đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng không có nghĩa là đáp ứng nhu cầu sẵn có mà còn bao gồm cả việc dần dần hình thành những nhu cầu mới" [33, tr.29]. Nói tóm lại, "nội dung chương trình phát thanh phải đảm bảo tính nhanh nhạy và có tác động tích cực trong đời sống xã hội. Không những thế chương trình còn phải mang tính định hướng, hướng dẫn dư luận" [12, tr.2]. Các chương trình còn phải có tính đối tượng cao để thu hút thính giả nhằm góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. 3.2.1.2. Chuyển sang phương thức sản xuất chương trình hiện đại Nâng cao chất lượng nội dung cũng có nghĩa là mở rộng phạm vi thông tin, cung cấp được nhiều lượng thông tin cho công chúng. Đồng thời cũng có nghĩa là thông tin phải được chuyển đến công chúng một cách nhanh chóng nhất, ngắn gọn nhất, kịp thời nhất. Do đó, phương thức PTTT, đọc thẳng, cầu truyền thanh phải được thay thế dần cho cách làm phát thanh truyền thống. Chúng ta biết rằng, với phương thức sản xuất chương trình phát thanh theo công nghệ truyền thống, các PV, BTV, KTV làm việc hầu như độc lập với nhau. PV viết tin bài chỉ cần nộp văn bản và băng ghi âm là cơ bản hoàn thành nhiệm vụ. Biên tập chương trình cắt gọt, sửa chữa, dựng chương trình cho PTV đọc, thu băng hoàn chỉnh và tới giờ đem phát sóng. Với cách làm này, kết cấu và nội dung chương trình khá chặt chẽ do có nhiều thời gian để chọn lọc, sửa chữa. Đó là những ưu điểm chủ yếu. Song, thông tin qua nhiều khâu xử lý, mất nhiều thời gian nên khi đến được với công chúng đã mất tính nóng hổi vốn được coi là ưu thế của thông tin trên phát thanh. Mặt khác, chương trình được cắt gọt sửa chữa quá nhiều lại làm mất đi sự sinh động, khiến người nghe có cảm giác thiếu chân thực… Trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, phương thức sản xuất các chương trình PTTT là giải pháp tối ưu cho phát thanh hiện đại. Có thể nói, phương thức làm PTTT đã thực sự giúp những người làm phát thanh thay đối nếp suy nghĩ về lề lối làm việc đã quá cũ kỹ trước đây. Khi thực hiện PTTT, do cùng làm việc, cùng chịu trách nhiệm với sản phẩm nên mối quan hệ giữa PV, BTV, KTV có tính tập thể rất cao, giúp cho mỗi thành viên tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình. Do yêu cầu phải đổi mới nội dung các chương trình cho sinh động, sát hợp với thực tế, các phóng viên phải năng động hơn, làm việc có hiệu quả hơn và chương trình của đài địa phương sẽ thu hút thính giả nhiều hơn. Như vậy: Mặc dù phát thanh trực tiếp không phải là giải pháp có thể giải quyết được mọi vấn đề đặt ra đối với hệ thống phát thanh ở nước ta, nhưng chắc chắn đây là một trong những phương thức sản xuất chương trình phát thanh hiện đại có khả năng nâng cao chất lượng các chương trình, là bí quyết làm cho chương trình phát thanh trở nên sống động, phát huy tối đa hiệu quả, góp phần đắc lực vào công cuộc đổi mới đất nước [21, tr.55]. Tình hình kinh phí của các đài tỉnh hiện nay chưa đủ sức để chuyển toàn bộ chương trình sang phương thức trực tiếp. Việc kết hợp giữa phương thức truyền thống và phương thức hiện đại vẫn còn phù hợp trong sản xuất chương trình phát thanh đài tỉnh hiện nay. Song, chuyển dần sang phương thức PTTT vừa là yêu cầu đồng thời vừa là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và thắng thế của phát thanh trong cuộc đua với người anh em truyền hình trong khu vực cũng như giữa các đài phát thanh địa phương với nhau. Mặc dù không phải đài địa phương nào cũng thành thạo trong việc sản xuất PTTT nhưng vẫn có thể khẳng định rằng: Đối với phát thanh địa phương nước ta, phát thanh trực tiếp đang tạo ra sức mạnh của làn sóng phát thanh, đưa thính giả quay lại với đài. Có thể thấy việc áp dụng phương thức tiên tiến này vào quá trình sản xuất các chương trình là xu hướng phát triển có tính qui luật đối với các đài phát thanh địa phương ở nước ta trong thời gian tới [21, tr.53]. 3.2.1.3. Hiện đại hóa thiết bị kỹ thuật Đổi mới và nâng cao chất lượng nội dung các chương trình trên sóng cùng với việc đổi mới mạnh mẽ về công nghệ chính là trục xoay cho toàn bộ hoạt động của các đài. Do đó, hiện đại hóa thiết bị kỹ thuật chính là đòi hỏi bức xúc để hiện đại hóa ngành phát thanh nói chung và phát thanh đài tỉnh BSH nói riêng. Bởi phát thanh hiện đại là nói tới tính chất nhanh nhạy, kịp thời, liên tục, sống động và hiệu quả. Chất lượng sóng phải liên tục, mạnh và rõ… Hiện đại hóa thiết bị kỹ thuật đối với phát thanh đài tỉnh BSH là chuyển từ kỹ thuật truyền thống sang kỹ thuật số. Song, việc chuyển đổi phái mang tính chất đồng bộ, thiết thực và hiệu quả. Phải có chiến lược phát triển kỹ thuật và theo lộ trình qui hoạch của Chính phủ về sóng phát thanh. Chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để đến năm 2010 chuyển một phần hoặc toàn bộ sang phát sóng kỹ thuật số. 3.2.2. Một số giải pháp cụ thể 3.2.2.1. Đa dạng hóa các dạng chương trình phát thanh và thay đổi hình thức thể hiện Đa dạng các chương trình phát thanh là yêu cầu đầu tiên của việc cải tiến nâng cao chất lượng chương trình. Các nhà sản xuất chương trình phát thanh phải tính toán từng phút, từng giờ phát sóng với loại chương trình nào, phù hợp với đối tượng nào. Thông tin và giải trí phải hài hòa, đồng bộ giữa lời và nhạc, lời nói và tiếng động. Hiện nay, nội dung chương trình phát thanh của các đài tỉnh khá đa dạng nhưng chưa đủ sức thu hút công chúng đến với phát thanh. Việc chuyển từ hình thức độc thoại sang đối thoại trong các chương trình diễn đàn, giao lưu và sân chơi trực tiếp là rất cần thiết để tạo ra sự sinh động, thân mật gần gũi của chương trình đối với người nghe đài. Cương trình Bạn hãy nói với tôi (phát vào các ngày thứ ba, sáu và chủ nhật, từ 22g30 - 23g trên hệ VOV1 của Đài TNVN) sử dụng phương thức đối thoại trực tiếp với các bạn trẻ về các vấn đề xã hội đang được quan tâm, tạo nên tính tương tác, mang ý nghĩa giáo dục ý xã hội rất cao. Các chương trình này tạo sức hút đặc biệt với giới trẻ, không chỉ giáo dục giới tính mà còn tạo mối quan tâm và bày tỏ quan điểm của giới trẻ đối với các vấn đề xã hội. Chương trình thường bắt đầu bằng một số vấn đề nóng của xã hội và mời mọi người cùng chia sẻ quan điểm. Phần còn lại của chương trình là đề tài hôn nhân, tình yêu vốn được nhiều người quan tâm… Các đài BSH đã xây dựng được một số chương trình mang tính chất giao lưu cùng các sân chơi trực tiếp. Đây được xem là các chương trình thu hút nhiều thính giả. Qua đó phải thấy rằng, một trong những yếu tố quan trọng giúp tạo mối liên hệ gắn bó giữa thính giả và làn sóng của một đài phát thanh là mối quan hệ giao lưu trên sóng phát thanh do chính đài đó tạo ra và duy trì. Thực tế đã chứng minh: "Số lượng người nghe một chương trình phát thanh tỷ lệ thuận với mức độ được tham gia của họ vào nội dung chương trình. Chương trình phát thanh mang tính giao lưu càng cao thì cơ hội tồn tại lâu dài của chương trình này càng lớn" [24, tr.227]. Do đó, cần tăng cường các chương trình giao lưu trên sóng phát thanh. Nhu cầu giao lưu của công chúng phát thanh là vô hạn. Từ nhu cầu giải bày, chia sẻ đến tư vấn trên mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh của đời sống. Từ tình yêu, lối sống, hôn nhân gia đình, sức khỏe, luật pháp, thời trang, làm đẹp, tiêu dùng, học tập, việc làm, kỹ thuật sản xuất chăn nuôi, nghệ thuật nấu ăn, chăm sóc nhà cửa… đến các chương trình giao lưu nghệ thuật, ca nhạc theo yêu cầu. Do đó, các chương trình giao lưu phải hết sức thiết thực và đa dạng cho từng đối tượng, từng lĩnh vực đời sống. Thay đổi hình thức thể hiện bao gồm cả việc khai thác, sử dụng âm thanh, tiếng động hiện trường; sử dụng thể loại, cách thức chuyển tải thông tin và việc trình bày chương trình. - Cách thức thông tin vòng tròn 1 giờ của Đài TNVN phát huy hiệu quả thông tin nhanh, mới và nóng hổi. Cứ đầu giờ có bản tin thời sự, phần còn lại là các trang tin chuyên đề, các bài viết sâu và chương trình âm nhạc. Cách thông tin này vừa kịp thời, hấp dẫn, không bỏ sót thông tin thời sự, vừa mang lại hiệu quả cao. Hiện nay một số đài như Long An, Tiền Giang đang thực hiện mô hình này, nhưng chưa phát trực tiếp, do đó tính tức thời vẫn chưa được thể hiện. Chính vì thế, vận dụng cách thức thông tin này cùng với phương thức trực tiếp sẽ giúp cho thông tin chuyển tải nhanh và kịp thời hơn. - Các thể chính luận (bình luận, xã luận, chuyên luận...) cần được sử dụng nhiều hơn cho các chương trình thời sự và chuyên đề. Ngày nay với sự phức tạp của diễn biến thời cuộc chứa đựng những vận động bất trắc khôn lường thì những bài bình luận lại trở nên có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc khơi nguồn và định hướng dư luận xã hội.“Sức thu hút của một đài phát thanh không chỉ dừng lại ở thông tin và mô tả đầy đủ các khía cạnh của sự kiện, mà cao hơn cần rọi vào sự kiện ấy ánh sáng của sự phân tích, giúp thính giả hình dung ra dòng vận động bí ẩn và những mối liên hệ nội tại của các sự kiện” [10, tr.223]. - Do đặc thù của báo phát thanh là tờ báo âm thanh tổng hợp nên cần khai thác và sử dụng tiếng động. Đây là yếu tố cơ bản quyết định việc khai thác thế mạnh của báo phát thanh đồng thời nó cũng là khâu khó nhất. Khai thác tiếng động thực chất là sử dụng một phần âm thanh gốc, tạo độ tin cậy cao và góp phần làm đa dạng âm thanh trên sóng, tạo cho chương trình gần gũi và thiết thực hơn. Đó là âm thanh của ngày khai giảng năm học mới trong ghi nhanh thu thanh ngày khai giảng ở một trường tiểu học hay âm thanh của tiếng máy chạy trong bài phản ánh khí thế ra quân đầu năm của một công ty chế biến thủy sản xuất khẩu,… Cùng với tiếng nói của người trong cuộc, tất cả những âm thanh trên sẽ làm cho bài phát thanh trở nên sinh động, gần gũi với cuộc sống và có sức thuyết phục cao hơn đối với bạn nghe đài. - Để nâng cao chất lượng cần chú ý khâu trình bày. Kinh nghiệm của đài ABC (Autralia) là người ta không những cần các PTV chuyên nghiệp đọc tin mà còn muốn PV, BTV thể hiện trên sóng. Hiện nay, các chương trình trực tiếp của các đài tỉnh BSH đã huy động cả lực lượng PV, BTV thể hiện trước máy. Song chỉ giới hạn ở vài chương trình. Đài Tiền Giang có 04 bản tin đầu giờ và 01 chuyên đề thể thao hàng ngày do BTV và PV tự thể hiện. Con số này còn quá khiêm tốn so với số đầu chương trình, chuyên mục và bản tin trong ngày. Do đó, cần tăng cường cho PV, BTV tự thể hiện tin bài và chương trình của mình, tạo màu sắc âm thanh phong phú đa, dạng trên sóng và đồng thời tăng tính sinh động, xác thực đối với thông tin qua cách thể hiện của chính tác giả, người chứng kiến sự việc. Ở nước ta, các chương trình phát thanh gắn liền với tin tức thời sự được phát trực tiếp nhiều hơn với sự tham gia của một đội ngũ đạo diễn, dẫn chương trình ngày càng chuyên nghiệp hơn. Trong tương lai sẽ hình thành các cụm chương trình với tính chuyên môn hóa, đối tượng hóa cao và gắn liền với các gương mặt dẫn chương trình có bản sắc độc đáo. Do đó, việc thể hiện tin, bài trên sóng không còn giới hạn cho PTV chuyên nghiệp mà phải tính đến những nghề mới, đó là NDCT trên sóng phát thanh và người chuyên bình luận các vấn đề trên sóng hàng ngày. Trong bối cảnh hiện nay, có thể thấy phương thức sản xuất các chương trình PTTT đang phát triển ngày càng mạnh mẽ. Theo dự báo, bên cạnh việc tương tác với thính giả, trong tương lai gần các chương trình PTTT sẽ gắn chặt với báo mạng điện tử, với mobile phone theo hình thức thông tin đa phương tiện. Thính giả sẽ có thể gửi thư điện tử, tin nhắn qua mạng internet, mobile phone để yêu cầu bài hát, đặt câu hỏi cho các chương trình tọa đàm, giao lưu trực tiếp, bình chọn bài hát hay bỏ phiếu cho các cuộc thi tổ chức trực tiếp trên sóng phát thanh… Do đó, các đài cần phát triển thêm loại hình phát thanh trực tuyến hay phát thanh trên internet. Đài Vĩnh Long là đơn vị đi đầu trong việc xây dựng mô hình truyền thông đa phương tiện. Phát thanh trực tuyến bắt đầu đưa vào hoạt động từ tháng 4/2009, giúp cho tiếng nói của Đài đi xa hơn, ngoài vùng phủ sóng phát thanh. Đài Tiền Giang bắt đầu thử nghiệm phát thanh trên internet từ tháng 6/2009. Đài Long An đang xúc tiến dự án đưa kênh truyền hình LA 34 và sóng FM lên internet. Nói tóm lại, phát thanh hiện đại không những phải đa dạng hóa thông tin mà phải tính đến đa dạng loại hình, cách thức chuyển tải thông tin. Có như thế mới phát huy hiệu quả thông tin trên sóng phát thanh và thu hút công chúng. 3.2.2.2. Bồi dưỡng đội ngũ làm phát thanh "Trong sự nghiệp hiện đại hóa ngành phát thanh cũng như mọi ngành khác, nhân tố quyết định là con người" [11, tr.49]. Nếu không xây dựng được đội ngũ những người làm công tác phát thanh chuyên nghiệp và yêu nghề thì không thể phát triển sự nghiệp phát thanh. Thế nhưng đội ngũ PV, BTV và PTV ở các đài khu vực BSH hiện nay chưa được chuyên môn hóa. Đa số họ vẫn phải hoạt động cho cả hai loại hình phát thanh và truyền hình. Đó là chưa kể đến quan niệm của họ về phát thanh còn thiên lệch, chú trọng đến truyền hình nhiều hơn. Khi được hỏi về chất lượng đội ngũ những người làm công tác phát thanh của đài mình đang công tác, có đến 27/42 ý kiến xếp loại khá và 5/42 ý kiến xếp loại trung bình. Trong khi đó, ý kiến xếp loại tốt chỉ có 10/42. Bảng 3.4: Ý kiến PV, BTV xếp loại chất lượng đội ngũ làm công tác phát thanh của đài mình đang công tác TT Xếp loại Số ý kiến PV, BTV các đài tỉnh BSH Tổng cộng Bến Tre Đồng Tháp Long An Tiền Giang Trà Vinh Vĩnh Long 1 Khá 5 4 8 5 4 1 27 2 Tốt 2 1 1 6 10 3 Trung bình 1 1 3 5 Tổng cộng 7 6 10 8 4 7 42 Qua khảo sát các đài cho thấy, PV, BTV, đạo diễn và PTV của các đài PT&TH được đào tạo từ nhiều ngành nghề khác nhau. Cho nên công tác đào tạo lại, đào tạo tại chỗ sẽ là biện pháp thích hợp nhằm đáp ứng nhu cầu về đội ngũ của các đài. Hiện nay ở các đài, trừ các chương trình trực tiếp, các chương trình khác sau khi đã chuẩn bị nội dung, phần còn lại giao thẳng cho PTV và KTV thu âm. Trong khi người đạo diễn có vai trò hết sức quan trọng, người chịu trách nhiệm toàn bộ sản phẩm phát thanh trên sóng. Lý luận báo phát thanh hiện đại đã lưu ý rằng, một người thực hiện chương trình chỉ có một thính giả đang nói cho anh ta nghe. "Mối quan hệ cá nhân theo kiểu một - một này là một trong những đặc điểm tạo ra thế mạnh của đài phát thanh” [21, tr.170]. Trong đó, NDCT hay người thể hiện văn bản trước máy có vai trò hết sức quan trọng. Trước hết anh ta là nhân tố kết nối các thông tin có trong chương trình, đồng thời thể hiện chương trình trên sóng phát thanh. Tác giả Nguyễn Lương Phán trong cuốn Báo phát thanh đã nhấn mạnh: Cùng với đạo diễn, người dẫn chương trình là người có tính quyết định sự thành bại của chương trình. Vì phát thanh trực tiếp luôn xảy ra những bất ngờ mà bản thân những người thực hiện không thể lường trươc được. Do đó người quyết định xử lý tình huống cụ thể trước hết là người dẫn chương trình…[30, tr. 395]. Mặt khác, thính giả tiếp nhận và hiểu văn bản nhiều khi phụ thuộc vào phương thức cung cấp tư liệu. "Ở các phương tiện điện tử, giọng nói đóng vai trò quan trọng giúp đạt hiệu quả tốt. Nhờ giọng và ngữ điệu mà phóng viên có thể truyền đạt tình cảm và làm nổi bật phần quan trọng nhất trong văn bản" [23, tr.169]. Do đó, việc đào tạo không chỉ dành riêng cho PTV, BTV, đạo diễn mà cả PV chương trình. Đào tạo PV, BTV, PTV và đạo diễn chương trình cần tập trung các kỹ năng sau: quy trình kỹ thuật sản xuất chương trình; kỹ thuật trình bày trước máy; kỹ năng phỏng vấn trực tiếp tại studio; kỹ năng khai thác phối hợp các thông tin trực tiếp, tiếng động, âm nhạc; kiến thức về thính giả… Tuy nhiên, đào tạo chỉ có hiệu quả khi các đài có mô hình tổ chức sản xuất theo đúng chức năng nghề nghiệp. Đào tạo đơn thuần không thể thay đổi được hoàn toàn hệ thống. Chiến lược phát triển lâu dài là phải tác động đến toàn bộ cơ cấu tổ chức nhằm xây dựng được một nhận thức là toàn bộ hệ thống phải tham gia vào quá trình học tập để nâng cao nghiệp vụ. 3.2.2.3. Khuyến khích bằng cơ chế nhuận bút và thu nhập Các đài hiện nay vẫn còn hưởng ngân sách, cho nên tùy thuộc vào khả năng ngân sách cấp mà phân bổ ra cho quỹ nhuận bút, dẫn đến chế độ chi trả nhuận bút có giới hạn ở một số đài. Muốn tuyển dụng tay nghề cao rất khó khăn. Đó là chưa kể đền sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các đài tỉnh với nhau và đài tỉnh với đài khu vực. Trên thực tế đã có tình trạng một số PV, BTV giỏi nghề bị hút về các đài trên. Điều này khiến cho một số đài tỉnh vừa chịu áp lực vừa rơi vào thế bất lợi trong mục tiêu thu hút nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, công nghệ quảng cáo phát triển dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các đài. Một số đài tuân thủ đúng tôn chỉ mục đích của cơ quan ngôn luận thì nguồn thu ít, nhuận bút thấp. Trong khi đó một số đài thiên về giải trí, thu hút tài trợ và tăng doanh thu quảng cáo thì thu nhập cao hơn. Rõ ràng xu thế này khiến cho các đài tỉnh cùng lúc cầm trên tay con dao hai lưỡi. Phải sử dụng như thế nào đây? Do đó, đài tỉnh phải được đặt trên cái kiềng ba chân: nhân lực đủ mạnh; nội dung phong phú, hình thức thể hiện hấp dẫn; có chiến lược thu hút quảng cáo ổn định. Chính vì vậy, điều quan trọng đặt ra cho đài tỉnh là phải thiết kế trên cái kiềng ba chân ấy, phải có tư duy quan điểm thật vững vàng, phải có tầm chiến lược về nội dung và hình thức thể hiện. Trong đó, phải xây dựng đội ngũ làm phát thanh giỏi, có tâm và có tài. Để có được một đội ngũ như thế, bên cạnh việc đào tạo và đào tạo lại, phải có chế độ thù lao nhuận bút hợp lý. Từ đó mới đủ sức khuyến khích người làm công tác phát thanh gắn bó với nghề, sáng tạo ra những sản phẩm phát thanh có chất lượng. Kết quả điều tra đối với các PV, BTV của 6 đài trong khu vực BSH, có 41 ý kiến về chế độ thù lao nhuận bút. Bên cạnh việc xây dựng khung nhuận bút với việc tăng giá trị tin bài phải có chế độ khen thưởng phù hợp. 3.2.3. Một vài khuyến nghị 3.2.3.1. Đối với lãnh đạo các tỉnh khu vực Bắc sông Hậu Trong kết quả điều tra của chúng tôi, có tới 17 ý kiến của PV, BTV về việc tổ chức lại bộ máy tổ chức của đài, đề nghị tách phát thanh ra khỏi truyền hình. Nếu không tách thành hai đài độc lập thì phải có bộ phận chuyên môn về phát thanh, độc lập với bộ phận truyền hình. Việc tách phát thanh và truyền hình cho phép phát thanh có bộ máy quản lý riêng, có mục tiêu phát triển đúng đắn, có sự đầu tư tài chính hợp lý, có chính sách quản lý rõ ràng. Quan hệ giữa phát thanh và truyền hình là quan hệ phối hợp, không nên nhập chung vào một ban biên tập như hiện nay. Để làm được điều này cần có mô hình thống nhất về tổ chức các đài PT&TH địa phương trong cả nước. Chú trọng phát thanh thể hiện trên nhiều mặt, về quản lý, chỉ đạo, tăng cường ngân sách, đầu tư trang thiết bị, ứng dụng kịp thời công nghệ hiện đại. Kêu gọi xã hội hóa phát thanh, cấp radio cho các hộ dân ở vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh, cho hộ nghèo. Tăng cường thiết bị truyền dẫn cho các đài truyền thanh cơ sở để tiếng nói phát thanh lan tỏa trong cộng đồng dân cư. 3.2.3.2. Đối với lãnh đạo các đài Phát thanh và Truyền hình Trước hết, các đài nên tiến hành việc tổ chức lấy ý kiến thính giả để sáng tạo ra các chuyên mục, tiết mục mới, thiết thực với nhu cầu của thính giả. Một nguyên tắc đặt lên hàng đầu đối với người sản xuất chương trình phát thanh là phải xác định chương trình dành cho đối tượng nào? Từ đối tượng đó đòi hỏi người sản xuất phải cân nhắc, lựa chọn bộ phận người nghe mà chương trình tác động đến, dựa trên sở thích, nhu cầu, trình độ… Bên cạnh đó cần nắm các thông tin có liên quan đến thính giả, như: phương tiện nghe, bao nhiêu người nghe, độ tuổi, nơi sinh sống, làn sóng thường tiếp cận, vấn đề họ quan tâm… Với mục đích chương trình sản xuất ra để phục vụ người nghe nên phối hợp chặt chẽ với các đài truyền thanh cơ sở để kịp thời nắm bắt thông tin về thính giả. Cần phải tăng kinh phí cho chương trình phát thanh. Khi kinh phí đủ cân đối để sản xuất chương trình sẽ đủ khối lượng thông tin cũng như nội dung cho chương trình giải trí, văn nghệ. Từ đó khắc phục tình trạng phát lại, tình trạng vay mượn, sao chép từ băng đĩa nhạc hay từ thông tin trên các trang báo điện tử. Kết hợp phát thanh với các ứng dụng đa phương tiện khác. Bởi xu hướng phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông là kết hợp nhiều loại hình với nhau. Theo TS. Đinh Thuý Hằng: "Đây chính là sự hội tụ truyền thông do thành quả của công nghệ thông tin" [20, tr.153]. Do đó, việc mở thêm phát thanh trực tuyến là cần thiết nếu tính đến việc chuyển phát thanh theo phương thức hiện đại. 3.2.3.3.Đối với những người trực tiếp tham gia sản xuất các chương trình phát thanh Chúng ta cần thay đổi cách nghĩ và cách làm báo phát thanh. Trước hết là thay đổi cách nhìn về phát thanh. Nghệ sĩ ưu tú Vũ Hà (Đài TNVN) gọi dẫn chương trình là"Người thổi hồn vào con chữ”. Là người phải "Đắm say mê mãi với nghề, luôn luôn tìm tòi, sáng tạo bản sắc cho từng tính cách, làm hết lòng hết dạ vì thính giả thân yêu, chắc chắn chúng ta sẽ có những người dẫn chương trình danh tiếng..." [19, tr.27]. Không chỉ có PTV, NDCT trực tiếp trình bày tác phẩm phát thanh trước máy, mà tất cả những người đang làm việc trong các khâu sản xuất, truyền dẫn, phát sóng đều phải có lòng yêu nghề, đắm say với nghề. Từ đó mới nhiệt tình lao động, sáng tạo ra những tác phẩm phát thanh hay, thiết thực và hấp dẫn công chúng. Như cách nói của nhà báo Hữu Thọ: "Mắt sáng, lòng trong, bút sắc", nhưng phải cộng với yêu nghề và giỏi nghề. Đó là những tố chất người làm báo nói chung, trong đó có người làm công tác phát thanh cần phải rèn luyện. KẾT LUẬN Sau hơn 20 năm đổi mới, kinh tế các tỉnh ĐBSCL trong đó có các tỉnh BSH đã có bước phát triển rõ rệt, đời sống người dân không ngừng được nâng lên. Nhưng hiện nay vẫn còn bộ phận đông đảo người dân ở vùng sâu đời sống xã hội còn thấp, do đó chiếc radio vẫn là sự lựa chọn thích hợp. Mặt khác, việc cải tiến nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh là tiếp tục khẳng định ưu thế của phát thanh đồng thời còn góp phần khắc phục nhược điểm của báo in và truyền hình và ngược lại. Luận văn "Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long" đã khảo sát sáu đài PT&TH cấp tỉnh thuộc khu vực BSH. Công việc khảo sát đã được thực hiện một cách toàn diện - từ quá trình phát triển đến những ưu điểm, nhược điểm về nội dung và hình thức, về qui trình sản xuất, truyền dẫn phát sóng chương trình phát thanh v.v. Trong quá trình khảo sát, tác giả luận văn còn tham khảo ý kiến một số thính giả và ý kiến của các PV, BTV, KTV; đã thăm dò ý kiến công chúng phát thanh về chất lượng các chương trình phát thanh của các đài tỉnh khu vực này. Trên cơ sở lý luận báo phát thanh và qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động sản xuất chương trình phát thanh của sáu đài PT&TH khu vực BSH, tác giả đã khái quát một số đặc điểm phát thanh đài tỉnh, đồng thời đã xác định nguyên nhân dẫn đến nhưng ưu điểm và hạn chế của các chương trình cùng với các yếu tố có thể chi phối đến chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực BSH. Qua luận văn, chúng ta có thể thấy rõ sự phát triển của các đài tỉnh BSH ở các mặt như: Chương trình được cải tiến theo hướng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thính giả, đầu tư trang thiết bị cải tiến qui trình sản xuất chương trình theo hướng phát thanh hiện đại… Thông qua các chương trình có ý nghĩa thiết thực, sát thực với đời sống xã hội, chương trình phát thanh của một số đài tỉnh đã thực sự trở thành người bạn đồng hành của công chúng ở khu vực này. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những thành công của các chương trình phát thanh đài tỉnh khu vực BSH. Trong đó, có thể thấy nguyên nhân bao trùm là: Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu thông tin và giải trí của công chúng, phát thanh các tỉnh trong khu vực còn cải tiến qui trình sản xuất phát thanh theo hướng mở rộng giao lưu, tăng cường trực tiếp, phát huy thế mạnh của loại hình báo nói… Bên cạnh những ưu điểm, các chương trình phát thanh của đài tỉnh khu vực BSH còn bộc lộ những hạn chế về nội dung lẫn hình thức thể hiện và phương thức sản xuất. Về cơ cấu chương trình vẫn còn thiếu tính đồng bộ, hài hòa giữa thông tin và giải trí, giữa lời và nhạc, Nội dung thông tin, giải trí chưa thật sự hấp dẫn, hình thức thể hiện vẫn chưa thực sự thu hút thính giả. Bên cạnh đó việc đầu tư cho phát thanh chưa đáp ứng nhu cầu phát triển theo hướng hiện đại… Do quan niệm coi trọng truyền hình và xem nhẹ vai trò của phát thanh nên dẫn đến tình trạng thiếu quan tâm đầu tư đúng mức cho phát thanh. Từ đó chất lượng chương trình của một số đài tỉnh không thu hút thính giả, làm cho thính giả ngày càng rời xa chiếc radio, vốn là người bạn gần gũi với mọi gia đình từ nhiều năm trước. Từ chỗ chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến thành công và hạn chế của chương trình phát thanh đài tỉnh BSH, tác giả luận văn đề xuất những giải pháp để cải tiến và nâng chất lượng chương trình phát thanh theo hướng kết hợp giữa đặc điểm riêng của từng địa phương với phương thức sản xuất chương trình phát thanh hiện đại. Đó là các giải pháp như: Đa dạng hóa các loại chương trình phát thanh và thay đổi hình thức thể hiện; bồi dưỡng đội ngũ làm phát thanh; khuyến khích bằng cơ chế nhuận bút và thu nhập… Cũng trong luận văn này, chúng tôi đã nêu lên một số khuyến nghị đối với lãnh đạo các địa phương khu vực BSH, ĐBSCL và lãnh đạo các đài PT&TH tỉnh cùng với những người trực tiếp làm công tác phát thanh. Yêu cầu của việc cải tiến phải được thể hiện qua việc nhận thức đúng về vai trò của báo phát thanh trong hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng và không ngừng nâng cao chất lượng các chương trình để các chương trình thực sự bổ ích và hấp dẫn. Là một người đang trực tiếp làm công tác PT-TH tại một đài tỉnh thuộc BSH, qua quá trình nghiên cứu, tác giả cố gắng nêu ra nhiều giải pháp cụ thể với mong muốn được góp phần vào việc hiện đại hóa phát thanh của tỉnh nhà cũng như ngành phát thanh nói chung, từ đó, phát huy thế mạnh của tờ báo nói, phục vụ ngày càng tốt hơn nhiệm vụ chính trị cũng như đáp ứng tốt nhu cầu thông tin và giải trí của các tầng lớp nhân dân. Việc khảo sát, nghiên cứu đề tài này là một đòi hỏi bức xúc của thực tiễn hoạt động phát thanh trong khu vực. Tuy nhiên, do năng lực còn hạn chế và do những giới hạn của một đề tài nghiên cứu cấp độ luận văn thạc sĩ nên tác giả chưa thể khái quát được toàn bộ sự vận động và phát triển của báo phát thanh các tỉnh BSH, ĐBSCL cùng những dự báo và giải pháp đẩy mạnh sự phát nghiệp phát thanh của khu vực này. Nếu có điều kiện quay lại với đề tài này trong một công trình nghiên cứu khác, chúng tôi sẽ đề cập đến việc phát triển của phát thanh địa phương trong xu hướng tích hợp truyền thông đa phương tiện. Liệu phát thanh trên Internet (Webcasting) có phải là xu thế tất yếu của phát thanh cả nước nói chung, trong đó có phát thanh đài tỉnh khu vực ĐBSCL? Đồng thời, chúng tôi sẽ đi sâu hơn vào một số vấn đề cụ thể như: Liệu việc tách phát thanh và truyền hình thành hai bộ phận chuyên môn trong cùng một cơ quan báo chí có phù hợp với tình hình hiện nay cũng như xu thế phát triển của truyền thông đa phương tiện? Liệu PTTT có phải là xu thế tất yếu của việc sản xuất các chương trình phát thanh hay sự kết hợp giữa phương thức truyền thống và phương thức hiện đại sẽ phù hợp với phát thanh địa phương? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lois Baird (2000), Hướng dẫn sản xuất chương trình phát thanh, Trường Phát thanh Truyền hình và Điện ảnh Ôxtrâylia, Đài Tiếng nói Việt Nam giới thiệu. 2. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (2008), Báo cáo tình hình năm 2008 và chương trình công tác năm 2009, Cần Thơ. 3. Nguyễn Văn Bảy (2009), Chương trình thời sự phát thanh, Đài phát thanh truyền hình Bến Tre, Khóa luận cử nhân Báo chí, Học viện Báo chí và tuyên truyền. 4. Bộ Thông tin và Truyền thông ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ (2009), Quyết định số 253/2009/QĐ-TT&TT ngày 26/2 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông về việc giao nhiệm vụ Cụm trưởng Cụm thi đua khối các Đài phát thanh, Đài truyền hình, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2009, Hà Nội. 5. Bộ Văn hóa - Thông tin (2005), Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, Hà Nội. 6. Chính phủ (2009), Phê duyệt qui hoạch truyền dẫn, phát sóng phát thanh, truyền hình đến năm 2020, Hà Nội. 7. Đức Dũng (2002), Sáng tạo tác phẩm báo chí, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 8. Đức Dũng (2003), Lý luận báo phát thanh, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 9. Nguyễn Văn Dững (Chủ biên) (2000), Báo chí - Những điểm nhìn từ thực tiễn, tập 1, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 10. Nguyễn Văn Dững (Chủ biên) (2001), Báo chí - Những điểm nhìn từ thực tiễn, tập 2, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 11. Đài Tiếng nói Việt Nam, (2000), Đài Tiếng nói Việt Nam - cầu nối Đảng với dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đài Tiếng nói Việt Nam (2004), "Một số định hướng phát thanh Việt Nam đến năm 2010", Nghiệp vụ phát thanh, (1), Nội san lưu hành nội bộ. 13. Đài Tiếng nói Việt Nam (2005), Cẩm nang phát thanh trực tiếp, Tài liệu lưu hành nội bộ. 14. Đài Tiếng nói Việt Nam (2005), Hướng dẫn nghiệp vụ Phát thanh - Truyền thanh địa phương nông thôn, Tài liệu lưu hành nội bộ. 15. Đài Tiếng nói Việt Nam - SIDA Thụy Điển - Bộ Văn hóa Thông tin (2005), 261 phương pháp đào tạo phát thanh viên và người dẫn chương trình, Nxb Lao động, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Trần Bạch Đằng (1986) Đồng bằng sông Cửu Long 40 năm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 19. Vũ Hà (2004), "Dẫn chương trình, người thổi hồn vào con chữ", Tiếng nói Việt Nam, (7). 20. Đinh Thuý Hằng (2008), Báo chí thế giới và xu hướng phát triển, Nxb Thông tấn, Hà Nội. 21. Vũ Hiền - Đức Dũng (2007), Phát thanh trực tiếp, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 22. Lâm Thiện Khanh (2003), Nâng cao chất lượng tin tức sản xuất tại Đài truyền hình Cần Thơ, Luận văn Thạc sĩ truyền thông đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 23. Khoa Báo chí, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (2002), 10 bí quyết kỹ năng nghề báo, Nxb Lao động, Hà Nội. 24. Khoa Báo chí, Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 25. Đinh Trọng Lạc (Chủ biên) (2001), Phong cách học Tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 26. Nguyễn Đình Lương (1993), Nghề báo nói, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 27. Sơn Nam (2004), Đồng bằng sông Cửu Long - nét sinh hoạt xưa và văn minh miệt vườn, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 28. Nguyễn Cẩm Nam (2007), Tác động của văn hóa bản địa Nam Bộ trong công tác tổ chức và tiếp nhận chương trình thời sự, văn hóa - xã hội trên các Đài truyền hình Đông Nam Bộ (2001-2006), Luận văn Thạc sĩ báo chí, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội. 29. Nhiều tác giả (1995), Nửa thế kỷ Tiếng nói Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 30. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền - Đài Tiếng nói Việt Nam (2002), Báo Phát thanh, Nxb Văn hóa -Thông tin, Hà Nội. 31. Lý Văn Sáu (1995), Tạp chí Phát thanh, (8+9). 32. Dương Xuân Sơn - Đinh Văn Hường - Trần Quang (2005), Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 33. Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên) (1999), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 34. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. The Missouri Group (2007), Nhà báo hiện đại, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh 36. Hữu Thọ (1997), Nghĩ về nghề báo, Nxb Giáo dục, Hà Nội 37. Mai Thanh Thụ (2008), "Hệ thống phát thanh địa phương", Tạp chí điện tử ngày nay, (175), tháng 9. 38. Dương Thị Thanh Thủy (2005), Tổ chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình ở Đài phát thanh - truyền hình Đồng Tháp, Luận văn Thạc sĩ truyền thông đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 39. Vĩnh Tịnh (2006), Tự điển tiếng Việt, Nxb Lao động, Thành phố Hồ Chí Minh. 40. Lê Thanh Trung (2004), Tính thuyết phục và hiệu quả của truyền hình trực tiếp ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Luận văn Thạc sĩ truyền thông đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 41. Trung tâm từ điển học, Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 42. Viện ngôn ngữ học (2008), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb Phương Đông, Thành phố Hồ Chí Minh. 43. V.V. Xmirnop (2004), Các thể loại báo chí phát thanh, Nxb Thông Tấn, Hà Nội. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT THANH CẤP TỈNH KHU VỰC BẮC SÔNG HẬU, ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 10 1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ được sử dụng trong luận văn 10 1.2. Về diện mạo phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu 24 Chương 2: VỀ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH Ở CÁC ĐÀI TỈNH BẮC SÔNG HẬU 37 2.1. Khái quát về chất lượng phát thanh ở các đài tỉnh Bắc sông Hậu 37 2.2. Những ưu điểm và hạn chế của chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu 50 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÁT THANH CẤP TỈNH KHU VỰC BẮC SÔNG HẬU 68 3.1. Những vấn đề đang đặt ra đối với phát thanh cấp tỉnh Bắc sông Hậu trong bối cảnh hiện nay 68 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu 76 KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 PHỤ LỤC 97 CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN AM : Amplitude Modulation (kỹ thuật điều biên) BSH : Bắc sông Hậu BTV : Biên tập viên DAB : Digital audio broadcasting (kỹ thuật số phát sóng) ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long FM : Frequency Modulation (Kỹ thuật điều tần) KTV : Kỹ thuật viên NDCT : Người dẫn chương trình PTV : Phát thanh viên PT&TH : Phát thanh và Truyền hình PT-TH : Phát thanh - Truyền hình PTTT : Phát thanh trực tiếp PV : Phóng viên TNVN : Tiếng nói Việt Nam UBND : Ủy ban nhân dân Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu b¶ng Tªn b¶ng Trang 2.1 Đánh giá của công chúng các tỉnh BSH về tính hợp lý của lịch phát sóng chương trình phát thanh đài địa phương 43 2.2 Ý kiến công chúng đánh giá tốt, khá cho chương trình phát thanh đài địa phương của mình 53 2.3 Ý kiến công chúng xếp loại chương trình Phát thanh của đài địa phương mình là trung bình hoặc yếu 59 3.1 Nội dung ý kiến công chúng 6 tỉnh BSH góp ý xây dựng chương trình phát thanh đài địa phương của mình 74 3.2 Phóng viên 6 đài tỉnh BSH tự đánh giá xếp loại chất lượng phát thanh đài mình đang công tác 75 3.3 Nội dung ý kiến phóng viên đài tỉnh BSH góp ý cho phát thanh đài mình đang công tác 76 3.4 Ý kiến PV, BTV xếp loại chất lượng đội ngũ làm công tác phát thanh của đài mình đang công tác 84 Danh môc c¸c bIÓU §å Sè hiÖu biÓu Tªn biÓu ®å Trang ®å 2.1 Ý kiến công chúng các tỉnh BSH chọn loại thể chương trình phát thanh 47 2.2 Tỷ lệ đài phát thanh được công chúng các tỉnh BSH theo dõi 52

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long.pdf
Luận văn liên quan