Chính quyền cấp xã và đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã là trung tâm của hệ
thống chính trị cấp xã, là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước để thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong tiến trình CNH, HĐH đất nước,
đưa đất nước ta vững bước vào thế kỷ XXI trong xu thế hòa nhập chung với thế giới.
Thực tế cho thấy, trong mọi điều kiện và hoàn cảnh của đất nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn chú trọng tới cấp xã, từng bước quan tâm xây dựng, đổi mới chế độ,
chính sách đối với đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã theo hướng không ngừng nâng cao
vị thế, cũng như chính sách đãi ngộ, cải thiện đời sống của đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã để đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã yên tâm công tác, có điều kiện hoàn thành
nhiệm vụ. Đảng và Nhà nước coi công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng và
củng cố chính quyền nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
93 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4124 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiệm vụ của chính quyền cấp xã trên cơ sở
đó có nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
phù hợp
Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền cuối cùng, trực tiếp với dân. Là nơi thực
hiện mọi chủ trương, đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, nơi nhân
dân thực hiện quyền làm chủ một cách trực tiếp và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Quán triệt quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã theo tinh thần
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX; xuất phát từ
yêu cầu nhiệm vụ mới của tỉnh Phú Thọ, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phải đủ sức
đảm đương các nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Xây
dựng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã có đủ phẩm chất, năng lực, bản lĩnh chính trị
vững vàng trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân, trong đó dặc biệt quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít người, cán bộ trẻ (dưới 40 tuổi), đảm bảo sự
chuyển tiếp giữa các thế hệ và nguồn cán bộ bổ sung, thay thế khi cần thiết.
Từ trước đến nay, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
chưa được coi trọng đúng mức. Nó biểu hiện ở chỗ: Cán bộ chính quyền cấp xã chỉ được
cử đi đào tạo, bồi dưỡng sau khi đã trúng cử, được bầu vào các chức danh, hoặc sau khi
đã công tác một thời gian. Việc đào tạo, bồi dưỡng lại không gắn với quy hoạch cán bộ.
Có khá nhiều cán bộ sau khi được cử đi đào tạo, khi học xong trở về cũng đồng thời nghỉ
việc hoặc chuyển công tác khác.
Chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã hầu như chỉ
quan tâm nhiều về bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị. Chương trình trung cấp lý luận
chính trị lại quá dài, nặng về phần lý luận chung, chưa đi sâu vào nghiệp vụ lãnh đạo điều
hành, kỹ năng quản lý nhà nước và kỹ năng xử lý các tình huống cụ thể trong quản lý nhà
nước. Trong chương trình bồi dưỡng, do thời gian quá ngắn (đối với cán bộ chủ chốt
chính quyền cấp xã từ 20-22 ngày; cán bộ làm chuyên môn từ 7-10 ngày) cho nên hầu
như thời gian thảo luận xê-mi-na đối với các lớp này chỉ có từ 1 đến 2 buổi. Dẫn đến học
viên luôn nằm trong tình trạng thụ động- đi bồi dưỡng nghiệp vụ chỉ biết ngồi nghe, ít có
ý kiến phản hồi. Qua kiểm tra cuối khóa và viết thu hoạch cho thấy: Ngay cả đội ngũ cán
bộ chủ chốt chính quyền cấp xã cũng còn hạn chế, ít am hiểu về hoạt động quản lý nhà
nước. Trong khi đó, học viên cũng không thiết tha với việc học tập, nâng cao trình độ. Rất
nhiều học viên đã nói: "Chúng tôi có học tốt, thầy, cô giáo có cho điểm 9, điểm 10 nhưng
dân không bầu thì chúng tôi vẫn nghỉ. Chúng tôi học kém, nhưng dân bầu chúng tôi vẫn
làm".
Tâm trạng "nay làm, mai nghỉ" cùng với những suy nghĩ hạn hẹp đã làm cho đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã không tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trình
độ hiểu biết về quản lý kinh tế hầu như không được đào tạo, bồi dưỡng. Ngay trong các
bài kiểm tra xử lý các tình huống đơn giản, thường gặp trong quản lý nhà nước, hoặc viết
một chỉ thị, quyết định quản lý nhà nước... thì có rất nhiều bài làm chưa đạt yêu cầu, chưa
viết nổi một quyết định, chỉ thị cho đúng với yêu cầu về thể thức, nội dung. Đó là chưa kể
đến ngay trong đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã một bộ phận không nhỏ (trong đó có
cả cán bộ chủ chốt và cán bộ văn phòng) còn viết chưa đúng chính tả, viết sai ngữ pháp.
Việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã hầu như trông chờ
vào Trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện. Nhưng cho đến thời
điểm này, chỉ có một số trung tâm ổn định về cơ sở vật chất. Đội ngũ giáo viên trong các
trung tâm nằm trong tình trạng vừa thiếu, vừa yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn. Riêng đối
với Trường chính trị tỉnh, là một trung tâm bồi dưỡng cán bộ chính trị lớn nhất trong tỉnh
hiện nay, mặc dù đã có sự quan tâm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh nhưng hiện nay còn gặp rất
nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên đa số tuổi đời cao, trình độ, năng lực
còn nhiều hạn chế, trong đó điểm yếu nhất phải kể đến đó là sự hạn chế về kinh nghiệm
hoạt động thực tiễn của đội ngũ giáo viên trẻ. Trong khi đó, các giáo viên trẻ lại ít được
đi thâm nhập thực tiễn, việc đi thăm quan thực tế, đi đào tạo, bồi dưỡng lại chỉ tập trung
vào đội ngũ giáo viên là trưởng, phó khoa, phòng cán bộ lãnh đạo hoặc các giảng viên đã
cao tuổi sắp về nghỉ chế độ.
Muốn Trường chính trị làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã, trước hết Trường chính trị tỉnh cần phải có một đội ngũ giáo viên gồm
những người có kiến thức tương đối toàn diện cả về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, có
hiểu biết nhất định về kiến thức pháp luật, am hiểu hoạt động thực tế địa phương, có năng
khiếu sư phạm phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của công tác giảng dạy. Đây có thể ví như
những chiếc máy cái trong công nghiệp. Cần tăng cường xây dựng đội ngũ giảng viên,
không ngừng nâng cao trình độ, tư tưởng chính trị, nghiệp vụ, trên cơ sở đó nâng cao chất
lượng dạy và học của cả giáo viên và học viên. Để thực hiện tốt được nhiệm vụ đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, cần nâng cao vị thế của người thầy và sự
đãi ngộ đối với nhà giáo, từng bước cải thiện điều kiện làm việc, điều kiện sống của nhà
giáo, nâng mức đãi ngộ về tiền lương, bổ sung đội ngũ giáo viên (mức phụ cấp giảng dạy
của giáo viên trường chính trị tỉnh hiện nay là 30%, thấp hơn nhiều so với giáo viên phổ
thông).
Đồng thời, có kế hoạch đưa đi đào tạo, bồi dưỡng giáo viên để nâng cao hơn nữa
trình độ năng lực của đội ngũ giáo viên hiện có. Hàng năm Trường cần xây dựng kế
hoạch cho các khoa, phòng phải đảm bảo cho mỗi giáo viên có một số thời gian nhất định
đi thực tế cơ sở trong và ngoài tỉnh.
Trên cơ sở kế hoạch của tỉnh giao, Trường chính trị tỉnh thực hiện công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy
(trong đó có cả chất lượng dạy và học). Để đáp ứng được nhu cầu học tập của đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã nhất là trong tình hình hiện nay, khi đưa Pháp lệnh sửa đổi một số điều
của Pháp lệnh cán bộ, công chức vào thực hiện, nhu cầu học tập, nâng cao trình độ của đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã càng trở nên cấp thiết. Trường chính trị tỉnh phải có kế hoạch
mở các lớp trung cấp, các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và tiến tới xây dựng
chương trình đào tạo trình độ đại học cho cán bộ chính quyền cấp xã. Muốn vậy, Trường
chính trị cần phải có đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới. Về phương
thức đào tạo, bồi dưỡng cần kết hợp đào tạo tập trung, tại chức. Ngoài các lớp trung cấp
lý luận chính trị, trung cấp hành chính văn phòng, sơ cấp lý luận chính trị, cần có thêm
các lớp trung cấp phục vụ trực tiếp cho công tác của chính quyền cấp xã như trung cấp
luật, quản lý kinh tế... Đối với chương trình bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
cũng cần đưa thêm vào những kiến thức cần thiết về chuyên môn nghiệp vụ, về kỹ năng
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế. Song điều cốt yếu hiện nay là phải gắn được đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ với quy hoạch cán bộ. Cán bộ có yên tâm học tập chỉ khi nào họ biết
chắc rằng có học tập mới hoàn thành được nhiệm vụ, có học tập mới là điều kiện cần phải
có để họ được công tác ổn định, lâu dài. Muốn vậy phải gắn việc học tập với quy hoạch cán
bộ, với bố trí, sử dụng cán bộ sau đào tạo, với việc sát hạch, đánh giá cán bộ. Hàng năm,
Trường chính trị tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện mở các lớp bồi dưỡng, cập
nhật thông tin về chính trị, pháp luật và nghiệp vụ quản lý hành chính nhà nước.
3.2.4. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc bầu và giám sát hoạt
động của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
Cán bộ chính quyền là phải ít nói xuông, làm nhiều việc thực tế, tôn trọng quần
chúng nhân dân, từng giờ, từng phút quan tâm tới lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
Công tác cán bộ cần phải được pháp luật hóa, dân chủ hóa, cần tiếp nhận tối đa sự giám
sát của quần chúng nhân dân, thu hút quần chúng nhân dân tham gia hoạt động quản lý
nhà nước. Phải công khai hóa công tác quy hoạch cán bộ để nhân dân cùng có trách
nhiệm giúp đỡ. Trong tác phẩm Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết,
Lênin đã chỉ rõ: "Làm thế nào cho thực sự toàn thể nhân dân đều học tập được công tác
quản lý và bắt đầu đảm nhận công tác quản lý" [31, tr. 250].
Phải thực hiện chặt chẽ, đảm bảo dân chủ, công khai trong tất cả các bước về tổ
chức tuyển chọn cán bộ, từ tạo nguồn đến xác minh hồ sơ, lý lịch và trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt danh sách cán bộ. Chú trọng lựa chọn những cán bộ có đủ tiêu chuẩn
phù hợp với các chức danh, tâm huyết với công việc, tận tụy với phong trào, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nhưng đồng thời cũng phát hiện kịp thời, đưa ra khỏi
danh sách cán bộ những kẻ vụ lợi; những kẻ luôn tìm cách lợi dụng mưu cầu lợi ích cá
nhân, an phận thủ thường, không dám làm, dám chịu; những kẻ luôn cản trở, níu áo đồng
chí không muốn cho ai tiến bộ hơn mình.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở sẽ tạo điều kiện để các tổ chức Đảng, đoàn
thể và quần chúng nhân dân giới thiệu được những người có đủ đức và tài tham gia ứng cử,
hoặc được bầu cử vào các chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở cấp xã. Đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã sẽ thực sự mạnh, có sự ủng hộ, tín nhiệm của quần chúng nhân dân và chắc
chắn hoạt động có hiệu quả hơn.
Về bầu cử: Đây là một công việc rất quan trọng trong công tác cán bộ, nó quyết
định đến chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của bộ máy chính quyền cấp xã. Bởi vì bầu đúng
cán bộ có phẩm chất, có năng lực, có uy tín vào các cương vị lãnh đạo chủ chốt thì chính
quyền cấp xã sẽ mạnh, phong trào của cơ sở đi lên, sẽ tạo được uy tín trong nhân dân.
Ngược lại, nếu bầu không đúng người, bầu cán bộ không có đủ năng lực, uy tín, không có
đủ đức, đủ tài làm công tác chính quyền thì sẽ là một trong những nguyên nhân là cho
cấp xã không ổn định, phong trào của địa phương sẽ giậm chân tại chỗ hoặc tụt lùi, gây
mất lòng tin trong nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII "Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước cộng hòa
XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh", Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 30/CT-TW ngày
18/02/1998 và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998:
"Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ", nhằm phát huy quyền làm chủ và
động viên sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn của nhân dân trong việc phát triển kinh tế -
xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ và chính quyền cấp xã
trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu tham
nhũng của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
Để nhân dân tham gia xây dựng và kiểm tra, giám sát hoạt động của đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã có hiệu quả. Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở đã quy định 14
việc chủ yếu chính quyền cấp xã phải có trách nhiệm thông báo để nhân dân biết; 7 việc
để nhân dân bàn và quyết định trực tiếp;
7 việc phải đưa nhân dân bàn trước khi HĐND và UBND cấp xã quyết định (hoặc trình cấp
có thẩm quyền quyết định) và 10 việc nhân dân giám sát, kiểm tra.
Việc quy định những nội dung phải thông báo để nhân dân biết, những nội dung
để nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp, những nội dung nhân dân được tham gia ý
kiến trước khi HĐND, UBND hoặc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và
những nội dung nhân dân giám sát, kiểm tra có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nhân dân
biết để không chỉ làm tròn nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, mà còn để thực hiện quyền
kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật. Trong số bốn nhóm quyền nêu trên, có
những vụ việc liên quan đến cả bốn nhóm, song cũng có những việc chỉ liên quan đến
một trong bốn nhóm. Quá trình thực hiện các quyền đó có tính chất, mức độ khác nhau,
phương pháp thực hiện khác nhau, nên khi tuyên truyền, giải thích cũng cần chỉ rõ mối
quan hệ hữu cơ giữa các nhóm quyền và nghĩa vụ để từ đó có gắn trách nhiệm của người
dân đối với hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời để phát huy cao độ quyền làm chủ của
nhân dân. Qua đó, từng bước nhân dân đã nâng cao nhận thức về quyền làm chủ, tích cực
tham gia quản lý nhà nước, giám sát hoạt động của chính quyền, góp phần tích cực khắc
phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên
Thành tựu rõ nét nhất của việc phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân là
việc quy định nhân dân được bàn bạc và trực tiếp quyết định những vấn đề quan trọng
thiết thực gắn liền với lợi ích của mình. Tuy nhiên, quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở cũng còn những hạn chế cần khắc phục. Đó là:
Dân chủ ở nhiều cơ sở còn mang nặng tính hình thức, mang tính phô trương theo
kiểu phong trào. Dẫn đến tình trạng, lúc đầu nhân dân còn nhiệt tình ủng hộ, nhưng sau
đó nhân dân thờ ơ với chính quyền, cho đó là công việc của mấy ông chính quyền.
Một số phần tử còn lợi dụng dân chủ để lôi kéo, kích động gây khó khăn cho
chính quyền trong việc thực thi các hoạt động, nhất là các hoạt động có liên quan đến đất
đai. Tình trạng khiếu kiện đông người nhiều khi cũng bắt nguồn từ việc lúng túng trong
việc giải quyết của các cấp chính quyền, nhất là chính quyền cấp xã.
Thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở, cán bộ tự phê bình trước dân. Từ
trưởng xóm đến Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn cần có bản tự
kiểm điểm đưa xuống để nhân dân đóng góp ý kiến, nhận xét đánh giá, cuối năm có phát
phiếu thăm dò tín nhiệm. Cũng có thể nghiên cứu để đưa các chức danh như Chủ tịch
HĐND, Chủ tịch UBND cấp xã cho nhân dân trực tiếp bầu.
Qua thực tế triển khai quy chế dân chủ ở cơ sở cho thấy: Những xã, phường, thị
trấn biết vận dụng nội dung quy chế dân chủ để xây dựng chương trình hành động, nhằm
tạo ý thức làm chủ của nhân dân ngay trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ để phát
huy nội lực trong nhân dân, thực hiện tốt việc thông báo để dân biết, tạo điều kiện để
nhân dân được trực tiếp bàn, trực tiếp làm và trực tiếp giám sát kiểm tra đã phát huy tốt
chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND, UBND.
Thì ở đó đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã vững mạnh, đời sống nhân dân được nâng
lên, các phong trào hoạt động mạnh mẽ, có chất lượng, hạn chế đến mức thấp nhất tính
hình thức trong hoạt động của HĐND.
3.2.5. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp xã
Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố chính
quyền cấp xã vững mạnh. Đồng thời muốn xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững
mạnh thì phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Đảm bảo xây
dựng một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện sự nghiệp đổi mới mà
Đảng ta đã khởi xướng.
Thực tế cho thấy, ở những địa phương có chính quyền cấp xã vững mạnh là do
có đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã mạnh. Và những địa phương có điểm nóng về
chính trị, đơn thư khiếu nại, tố cáo nhiều thì nguyên nhân đầu tiên bắt đầu yếu kém từ
khâu cán bộ. Đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã của tỉnh Phú Thọ tuy đã được củng cố,
chọn lọc qua cuộc bầu cử HĐND nhiệm kỳ 1999-2000. Song hiện nay so với yêu cầu
nhiệm vụ mới của cả nước, của địa phương thì chất lượng vẫn chưa đồng đều. Ngay cả
đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã vẫn còn nhiều hạn chế, nên việc đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao chất lượng của cả đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã trong toàn tỉnh
hiện nay là rất cấp bách.
Xã, phường, thị trấn là nơi tổ chức thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng,
và pháp luật của Nhà nước thành hiện thực. Mọi hoạt động của cán bộ chính quyền cấp
xã có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Uy tín của Đảng, Nhà nước được
xây dựng và củng cố hay không tùy thuộc vào phẩm chất, năng lực, trình độ của đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã. Chính vì vậy, đối với những cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức, yếu
kém về năng lực trình độ mà không thể khắc phục sửa chữa được thì không bố trí đi học, đi
đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Trước mắt phải sử dụng thật tốt số cán bộ hiện có,
đồng thời tích cực chuẩn bị lớp cán bộ kế cận. Vì cán bộ có phẩm chất, năng lực cao
không phải là sản phẩm tự nhiên mà là sản phẩm của quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn
luyện cán bộ của Đảng, Nhà nước và của cả cá nhân người cán bộ đó. Người cán bộ đó
phải có quá trình tự tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phải gắn chặt với
quy hoạch cán bộ. Mỗi chức danh cán bộ chủ chốt phải có sự chuẩn bị từ 2 đến 3 người,
có kế hoạch cho đi đào tạo. Đồng thời phải xây dựng tiêu chuẩn cán bộ phù hợp đối với
từng chức danh, trên cơ sở đó người cán bộ có hướng phấn đấu.
Trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở cấp xã cũng phải tính đến một yếu tố, đó là:
Cấp xã trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay chủ yếu là ở địa bàn nông thôn, cho nên đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã hầu hết xuất thân từ nông dân. Do đó, đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã có những đặc thù riêng, khi đưa ra các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cũng
cần có sự quan tâm thích đáng.
Trên cơ sở tiêu chuẩn cụ thể, các xã, phường, thị trấn xây dựng quy hoạch cán bộ
để đưa đi đào tạo chứ không chỉ hạn chế công tác đào tạo, bồi dưỡng sau khi đã trúng cử
như hiện nay. Cần xây dựng các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về phẩm
chất đạo đức cần phải có khi muốn ứng cử, đề cử vào các chức danh lãnh đạo chủ chốt ở
cấp xã. Không bố trí cán bộ tuổi đời đã quá cao (trên 50) hoặc cán bộ không có trình độ -
năng lực, cũng như cán bộ không có bằng cấp chuyên môn vào đảm nhiệm các chức danh
cán bộ chủ chốt cũng như các chức danh cán bộ chuyên môn nghiệp vụ ở cấp xã.
Xây dựng đề án quy hoạch cán bộ có gắn liền với kế hoạch đào tạo cán bộ để
tránh tình trạng thiếu cán bộ, phải sử dụng cả cán bộ chưa qua đào tạo như hiện nay.
Song cũng phải tính đến cả tình trạng, nếu đưa cán bộ đi đào tạo mà không có kế hoạch
thì sẽ rơi vào tình trạng thừa cán bộ có bằng cấp mà thiếu cán bộ có năng lực hoạt động
thực tiễn ở cấp xã, thiếu cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với nhu cầu của cấp
xã.
Việt Nam đang đứng trước nhu cầu bức xúc của quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường, hội nhập khu vực và toàn cầu hóa- là xu thế tất yếu không thể cưỡng
lại được. Để chủ động hòa nhập vào xu thế ấy một cách có hiệu quả nhất, nhanh nhất,
sớm thoát ra khỏi thực trạng chậm phát triển, tụt hậu, cần phải có một đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã có trình độ chuyên môn, năng động, sáng tạo trong hoạt động quản
lý, điều hành để tác động trực tiếp quá trình chuyển đổi này, nhằm khai thác triệt để các
yếu tố tiềm năng tàng ẩn ở cơ sở.
Do đó, phải tạo môi trường thuận lợi để đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã nâng
cao trình độ. Cần có sự hỗ trợ về mặt vật chất và sự yên tâm về mặt tinh thần. Trên cơ sở
đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, phải từng bước nâng cao mặt bằng dân trí. Thực
tiễn cho thấy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có được
thực hiện nghiêm chỉnh, đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc không chỉ vào chất lượng
cao hay thấp của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã mà còn phụ thuộc rất nhiều vào trình
độ dân trí.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ còn nhiều khó khăn, trình độ
của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã còn thấp, trình độ dân trí của đa số dân cư không
cao. Vấn đề cơ bản hiện nay là phải tiếp tục phát triển kinh tế, trên cơ sở đó nâng cao đời
sống của nhân dân, của đội ngũ cán bộ nói chung và đặc biệt là của đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước, xây dựng nông thôn mới. Kinh tế phát triển, đặt ra cho đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã phải không ngừng nâng cao trình độ năng lực về lý luận chính trị, về
chuyên môn nghiệp vụ, về phẩm chất đạo đức... để đáp ứng được đòi hỏi của công tác
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng đặt ra.
3.2.6. Đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ chính quyền cấp xã
Hệ thống chính sách, chế độ đối với đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã gồm có:
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chính sách sử dụng và quản lý cán bộ; chính sách
bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần đối với cán bộ... Đó là những mục tiêu
quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. ở
các phần trên đã đề cập đến chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý cán bộ...
Trong phần này chỉ bàn đến chính sách đảm bảo lợi ích vật chất và động viên tinh thần
đối với đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
Đổi mới hệ thống chính sách, đặc biệt là chính sách đãi ngộ, đảm bảo lợi ích vật
chất và động viên tinh thần đối với đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã là một đòi hỏi cấp
bách nhằm thu hút nhân tài và ổn định lâu dài đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Chế độ
phụ cấp, sinh hoạt phí và bảo hiểm xã hội đối với cán bộ chính quyền cấp xã có ý nghĩa
quyết định đến tinh thần và chất lượng công tác của cán bộ. Thực hiện Nghị định số
09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 và Nghị định số 175/1999/NĐ-CP ngày 15/12/1999 của
Chính phủ, sinh hoạt phí của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã đã có bước cải thiện đáng
kể. Nhưng vẫn còn nhiều bất hợp lý cần phải được tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung.
Thực tế cho thấy, cán bộ chính quyền cấp xã vẫn chưa được coi là một nghề,
trong khi đó Hiến pháp, luật đều coi cấp xã là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp
của nhà nước (Trung ương, tỉnh, huyện, xã). Cán bộ chính quyền cấp xã không được
hưởng lương mà chỉ được hưởng "sinh hoạt phí". Chính do hệ thống chế độ, chính sách
của chúng ta còn chưa đồng bộ và thiếu tính thống nhất nên còn gây thắc mắc trong đội ngũ
cán bộ chính quyền cấp xã.
Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ quy định cán bộ
thuộc 4 chức danh chuyên môn ở cấp xã đã được đào tạo, có bằng cấp chuyên môn
nghiệp vụ, công tác ổn định, lâu dài ở xã thì được vận dụng xếp mức sinh hoạt phí theo
hệ số ngạch, bậc công chức quy định tại Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính
phủ, nhưng phải sau 5 năm công tác nếu đủ tiêu chuẩn thì mới được nâng mức sinh hoạt
phí (trong khi đó cán bộ y tế xã có trình độ đại học là 3 năm, trung cấp trở xuống thì 2
năm được nâng một bậc) cũng gây nên những bất hợp lý và thắc mắc trong đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã.
Trong Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức,
cán bộ chính quyền cấp xã được gọi là công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách
nhà nước. Song trong Điều 5a Pháp lệnh ghi rõ: "Chính phủ quy định chức danh, tiêu
chuẩn, nghĩa vụ, quyền lợi, những việc không được làm và chế độ, chính sách khác đối
với cán bộ, công chức cấp xã quy định tại điểm g và điểm h khoản 1, Điều 1 của Pháp
lệnh này." Mặc dù Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công
chức có hiệu lực từ 01/7/2003, nhưng cho đến thời điểm hiện nay, Chính phủ vẫn chưa có
một văn bản nào quy định, hướng dẫn thi hành pháp lệnh này. Đồng thời, trong Pháp lệnh
cũng chỉ quy định điều kiện tuyển dụng, chế độ thôi việc, chế độ khen thưởng, kỷ luật cho
đối tượng tại điểm h là: "Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên
môn nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã". Còn đối với điểm g: "Những người do bầu cử để
đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực HĐND, UBND; Bí thư, Phó bí thư
Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung
là cấp xã)" thì trong khoản 2 Điều 39 quy định: "Việc bãi nhiệm, kỷ luật đối với cán bộ quy
định tại điểm a và điểm g khoản 1 Điều 1 của Pháp lệnh này được thực hiện theo quy
định của pháp luật và điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội".
Đổi mới chế độ chính sách đối với cán bộ chính quyền cấp xã, trong quá trình
thực hiện Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ công chức cần:
Một là: Xác định lại biên chế cán bộ xã, phường, thị trấn cho phù hợp với từng
địa phương, tránh tình trạng cào bằng biên chế như hiện nay.
Hai là: Chính phủ cần sớm ban hành quy định các chế độ, chính sách có liên
quan đến đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã theo quy định của Pháp lệnh. Đồng thời
cũng có các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, chỉ rõ các đối tượng nào là cán bộ,
công chức nhà nước, các tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ mà đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã cần phải có khi đảm nhiệm các chức vụ được giao.
Ba là: Đối với đội ngũ trưởng thôn, trưởng bản... cũng cần có sự bổ sung về chế
độ chính sách cho phù hợp với vị trí, vai trò và mức độ đóng góp của họ trong công tác.
Để đổi mới chính sách đãi ngộ đối với cán bộ chính quyền cấp xã, đề nghị chính
phủ nên áp dụng chính sách tiền lương; chính sách tuyển dụng; bổ nhiệm; chế độ đào tạo,
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; chế độ khen thưởng, kỷ luật như đối với cán bộ công
chức nhà nước. Ngoài ra, cũng cần có chế độ khuyến khích, khen thưởng cho những cán
bộ chính quyền cấp xã có tâm huyết phục vụ nhân dân, hết lòng vì công việc sau khi nghỉ
hưu đời sống gặp khó khăn.
Cán bộ chính quyền cấp xã là những người trực tiếp triển khai tổ chức thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế - xã hội an ninh
quốc phòng ở cơ sở; thực hiện việc quản lý nhà nước trên địa bàn theo thẩm quyền được
giao; hướng dẫn và giám sát các hoạt động tự quản của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi
cho nhân dân và các doanh nghiệp trên địa bàn hoạt động đúng pháp luật. Việc thực hiện
chính sách đãi ngộ về lợi ích vật chất một cách thỏa đáng, công bằng, hợp lý đối với họ
sẽ góp phần làm tăng thêm lòng nhiệt tình, sức sáng tạo trong công việc, tinh thần học tập
nâng cao trình độ kiến thức... và đồng thời đây cũng sẽ là những rào cản, hạn chế tình
trạng quan liêu, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
Thực hiện đồng bộ các chính sách, chế độ để đảm bảo lợi ích vật chất và động
viên tinh thần đối với đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, tạo cho họ có cuộc sống tinh
thần và vật chất tương xứng với mặt bằng chung. Đây sẽ là những yếu tố góp phần làm
cho cán bộ yên tâm công tác, hết lòng với công việc, hạn chế được những tiêu cực dễ
phát sinh ở cơ sở, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã thực sự là những
"công bộc" của dân.
3.2.7. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã gắn với
quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền cấp xã
Khác với huyện, tỉnh và Trung ương, chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức
cho nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và nhiệm vụ cấp trên giao; trực tiếp lo giải quyết công ăn, việc làm, đời sống của
nhân dân; trực tiếp giải quyết mối quan hệ trong nội bộ nhân dân và mối quan hệ giữa
dân với Đảng và Nhà nước. Cấp xã ổn định thì huyện, tỉnh, Trung ương ổn định. Cấp xã
mạnh thì huyện, tỉnh, trung ương mạnh.
Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo kiện toàn và củng cố cấp
xã trong đó quan tâm nhiều tới chính quyền cấp xã. Nhưng từ khi chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường, tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã chậm được đổi mới,
công tác cán bộ và chế độ, chính sách đối với cán bộ cấp xã chưa được chú ý đúng mức
nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã
và hiệu lực quản lý nhà nước ở cấp xã. Tổ chức bộ máy cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ
hoạt động chồng chéo nhau.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã chỉ rõ:
"Phải tập trung sức kiện toàn chính quyền cơ sở"; trong Thông báo số 304/TB-TW ngày
22/6/2000, Bộ Chính trị đã giao nhiệm vụ cho "Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ chủ trì
phối hợp với một số Ban của Đảng sớm tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện về cấp
xã".
So với giai đoạn trước, khung pháp lý quy định tổ chức, hoạt động của HĐND
đầy đủ hơn, cụ thể hơn. Đã có sự phân định rõ ràng, rành mạch về thẩm quyền, nhiệm vụ
của HĐND. Hoạt động giữa hai cơ quan HĐND và UBND không bị chồng chéo như
trước. Hiệu quả hoạt động của HĐND đã có những chuyển biến tốt. Tuy vậy tổ chức và
hoạt động của HĐND còn bộc lộ khá rõ những mặt hạn chế sau:
Một là, chất lượng hoạt động của HĐND chưa cao, còn mang nặng tính hình thức
và chưa thực quyền so với quy định của luật, nhất là hoạt động của HĐND phường. Thể
hiện: Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội do Đảng ủy quyết định; kế hoạch tài chính và
chi tiêu ngân sách hàng năm do cấp trên phân bổ và phê duyệt. Do đó, nghị quyết của
HĐND chỉ mang tính hình thức, chỉ là sự thể hiện những vấn đề cấp ủy và cấp trên đã
quyết định.
Hàng năm, HĐND phường vẫn ra nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội và xây
dựng cơ sở hạ tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của phường do cấp trên và các cơ quan chức
năng xây dựng và quản lý trực tiếp; Cải tạo ngõ, hẻm thì dân bàn, dân quyết định, dân
góp tiền để làm nên nghị quyết của HĐND về những vấn đề này trở nên rất hình thức. Về
việc giải quyết công ăn, việc làm cho nhân dân, chính quyền phường chỉ đóng vai trò như
cơ quan trung gian, như trung tâm giới thiệu việc làm chứ không có khả năng tổ chức
công ăn, việc làm cho nhân dân.
Hai là, hiệu lực, hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã cũng còn rất hạn chế. Việc
giám sát của HĐND mới chỉ được thực hiện thông qua các kỳ họp. Có thể có nhiều vấn
đề được chất vấn tại kỳ họp, nhưng giải quyết, xử lý như thế nào thì vấn đề không thuộc
thẩm quyền của HĐND cấp xã. Đại biểu HĐND còn ngại tiếp xúc với dân, chưa thể hiện
được vai trò của mình trong đời sống hàng ngày, chưa được nhân dân tin cậy. Khi có thắc
mắc, kiến nghị dân không tìm đến đại biểu HĐND. Hoạt động của đại biểu HĐND chỉ bó
hẹp trong các cuộc tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp HĐND.
Ba là, hoạt động của UBND còn mang nặng tính hành chính, quan liêu, không
sát thực tế, không gần dân, không nghe ý kiến của dân, ngại tiếp dân. Công tác tiếp dân
còn mang nặng tính hình thức, kém hiệu quả. Lãnh đạo còn né tránh, đùn đẩy khi tiếp xúc
với những vụ khiếu kiện phức tạp. Một bộ phận cán bộ vi phạm pháp luật, làm trái các
quy định, chính sách, pháp luật của nhà nước. Tình trạng cấp đất, bán đất trái pháp luật,
không đúng thẩm quyền xảy ra phổ biến.
Bốn là, quản lý kinh tế, tài chính còn nhiều yếu kém, tùy tiện, không tuân thủ
đúng các quy định của Nhà nước. Tình trạng thu để ngoài sổ sách, thu sai quy định của
nhà nước, xâm tiêu công quỹ, tham ô các khoản đóng góp của nhân dân xảy ra ở nhiều
xã, phường, thị trấn.
Để hoạt động của HĐND cấp xã thực sự có hiệu lực, hiệu quả, không mang tính
hình thức. Cần phải xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng và nhiệm vụ, thẩm quyền của
HĐND cấp xã. Phân biệt sự khác nhau giữa HĐND xã, thị trấn và phường. Trên cơ sở
đó, xây dựng tổ chức HĐND phù hợp, đồng thời xác định tiêu chuẩn cụ thể của đại biểu
HĐND và hình thức, biện pháp hoạt động của HĐND cấp xã.
Do điều kiện lịch sử để lại, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã hiện nay phần
đông là những người đã từng tham gia trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
chuyển qua làm công tác quản lý. Đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phần lớn được hình
thành thông qua chế độ dân cử. Việc thực hiện chế độ bầu cử đối với đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã là sự biểu hiện nền dân chủ XHCN và nguyên tắc tập trung dân chủ
về tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước ta. Phần đông đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã chưa qua đào tạo, những kết quả công tác mà họ đạt được là sản phẩm của
sự kết hợp giữa lòng nhiệt tình và kinh nghiệm. Họ có khả năng nhìn nhận, nắm bắt và
giải quyết công việc một cách rất nhanh chóng, cụ thể, phù hợp với địa phương; họ có uy
tín trong nhân dân. Nhưng đi vào các nghiệp vụ chuyên môn cụ thể thì họ lúng túng.
Đứng trước những đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới họ cảm thấy sự bất cập. Đồng thời,
cũng do chế độ Đảng cử, dân bầu và những điều kiện lịch sử, văn hóa, chính trị và dân trí
mà đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã luôn thay đổi. Nhiều khi có những cán bộ được
đào tạo, có chuyên môn nghiệp vụ, nhưng chỉ vì những lý do cục bộ địa phương, dòng
họ, do ý ăn, ý ở... Khi bầu không trúng cử buộc phải nghỉ, thay vào đó là những người
hoàn toàn mới. Chính từ sự không ổn định này mà cán bộ cấp xã không quan tâm đến học
tập, nâng cao kiến thức. Đi học đối với họ là một sự bắt buộc của tổ chức, của cấp trên.
Học hay không học, có năng lực hay không có năng lực đối với cán bộ chính quyền cấp
xã không quan trọng lắm. Đối với họ, miễn là Đảng cử, dân bầu, trúng cử là được. Chính
vì điều đó, cần thực hiện chế độ "có lên, có xuống", "có vào, có ra", bảo đảm cho bộ máy
chính quyền xã phát triển lành mạnh, tạo điều kiện cho các nhân tài, nhân tố mới có cơ
hội được cống hiến cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Kiên quyết bãi
nhiệm và đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo những cán bộ kém phẩm chất, yếu về năng lực,
không đảm đương được nhiệm vụ. Bố trí lại những cán bộ phân công chưa hợp lý. Cần
xóa bỏ quan niệm hễ là cấp ủy viên, đã được HĐND bầu giữ các chức vụ lãnh đạo chủ
chốt thì cứ thế làm việc cho hết nhiệm kỳ mặc dù năng lực yếu.
3.2.8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng đội ngũ
cán bộ chính quyền cấp xã
Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Chính quyền cấp xã không chỉ có nhiệm vụ
thực hiện tốt Hiến pháp, luật, các chỉ thị, nghị quyết của cơ quan nhà nước cấp trên mà
còn phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện các chủ trương, chính sách của của
Đảng, các nghị quyết của cấp ủy Đảng.
Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 khóa VIII, Đảng ta đã khẳng định: "Tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của
nhà nước, đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa" [17, tr. 59].
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, thực chất là giải quyết
đúng đắn mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Vấn đề đặt
ra là làm thế nào để phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời vẫn phát huy
được vai trò quản lý nhà nước của chính quyền. Đảng lãnh đạo chính quyền thông qua
công tác cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng đảng viên để giới thiệu, ứng cử vào các cơ quan
trong bộ máy chính quyền các cấp. Đảng thường xuyên kiểm tra hoạt động của chính
quyền, kịp thời phát hiện và uốn nắn những lệch lạc trong công tác quản lý nhà nước,
trong công tác cán bộ và nhất là đưa ra những định hướng trong công tác quy hoạch cán
bộ.
Xuất phát từ thực trạng chất lượng của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã tỉnh
Phú Thọ, cùng với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước cũng như xu hướng nâng
cao vị thế của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số
điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức. Đưa đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã trở thành
cán bộ, công chức nhà nước. Đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa chất lượng của đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã.
Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ,
bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng nhiệm vụ
trước mắt và lâu dài. Tỉnh Phú Thọ đã có Kế hoạch số 04/KH-TU ngày 03/4/1998 "Quy
hoạch cán bộ năm 2000 đến năm 2005 và 2010"; yêu cầu quy hoạch cán bộ phải bảo đảm có
đủ nguồn để mỗi nhiệm kỳ có thể đổi mới, trẻ hóa khoảng 30-40% đội ngũ cán bộ lãnh
đạo. Ban thường vụ các huyện, thành, thị ủy có trách nhiệm trực tiếp xây dựng quy hoạch
cán bộ dự nguồn các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt chính quyền xã; Ban thường vụ
Đảng ủy xã xây dựng quy hoạch cán bộ đối với các chức danh còn lại của xã.
Thông qua việc xây dựng quy hoạch cán bộ, cấp ủy các cấp tiến hành tổ chức
điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; dự báo nhu cầu
cán bộ, lựa chọn nguồn cán bộ. Đặc biệt chú trọng đào tạo cán bộ trẻ, đưa họ thử thách ở
nhiều công tác khác nhau để nắm bắt được khả năng, sở trường, sở đoản của họ.
Phải xuất phát từ xây dựng quy hoạch cán bộ để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng,
bố trí sử dụng cán bộ đúng người, đúng việc. Để công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã
đi vào nề nếp, Ban thường vụ các huyện, thành, thị ủy: Ban thường vụ các Đảng ủy xã
hàng năm phải tiến hành kiểm điểm tiến độ thực hiện quy hoạch về tạo nguồn, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ cho phù hợp với quy hoạch. Để đảm bảo nguyên tắc Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, tập thể Ban thường vụ
huyện, thành, thị ủy phải có Nghị quyết về việc giới thiệu những người tham gia ứng cử
để bầu vào các chức danh trong đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
3.2.9. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ chính
quyền cấp xã
Chính quyền cấp xã tồn tại ngay tại cơ sở, nơi diễn ra cuộc sống và mọi hoạt động
của dân, nơi cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ thường xuyên cùng sinh sống với dân
nhưng lại nhiễm phải thói quan liêu, hành chính hóa, không nắm được dân, không hiểu
dân. Những yếu kém bất cập của cán bộ chính quyền cấp xã trước những đòi hỏi của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, của sự chuyển đổi cơ chế kinh tế, của tiến trình xây dựng
nhà nước pháp quyền. Đội ngũ cán bộ cấp xã đông nhưng không mạnh. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh:
Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã
làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi. Thế mà vì hẹp hòi, bao biện,
không biết phân công. Vì dân chưa biết lựa chọn để cử những người có năng
lực. Vì cấp trên không biết cân nhắc, giúp đỡ, đốc thúc, kiểm tra, huấn luyện.
Thành thử phần nhiều cấp xã là uể oải, thiếu năng lực, kém tinh thần [39, tr.
371].
Thực tiễn những năm qua cho thấy, những sai phạm của cán bộ chính quyền cấp
xã nếu không được kiểm tra, uốn nắn kịp thời sẽ tạo cơ hội cho cán bộ sai lầm lớn hơn
dẫn đến mất lòng tin trong nhân dân, Đảng mất cán bộ, uy tín của Đảng, của Nhà nước
đối với nhân dân bị giảm sút. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ
chính quyền cấp xã phải được tiến hành thường xuyên, không chờ khi cán bộ vi phạm
nghiêm trọng mới kiểm tra xử lý kỷ luật. Thực hiện chế độ nhân dân tham gia xây dựng
và giám sát, kiểm tra hoạt động của cán bộ chính quyền cấp xã theo tinh thần của quy chế
thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành
công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán
bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích" [39,
tr. 520].
Cán bộ là nhân tố quyết định, là khâu then chốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH đất nước đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới công tác cán bộ,
nhất là cách thức quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ chính quyền cấp xã.
Nhằm xây một đội ngũ cán bộ ngang tầm, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng,
năng lực và trí tuệ, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
Kết luận
Chính quyền cấp xã và đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã là trung tâm của hệ
thống chính trị cấp xã, là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước để thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong tiến trình CNH, HĐH đất nước,
đưa đất nước ta vững bước vào thế kỷ XXI trong xu thế hòa nhập chung với thế giới.
Thực tế cho thấy, trong mọi điều kiện và hoàn cảnh của đất nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn chú trọng tới cấp xã, từng bước quan tâm xây dựng, đổi mới chế độ,
chính sách đối với đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã theo hướng không ngừng nâng cao
vị thế, cũng như chính sách đãi ngộ, cải thiện đời sống của đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã để đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã yên tâm công tác, có điều kiện hoàn thành
nhiệm vụ. Đảng và Nhà nước coi công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng và
củng cố chính quyền nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Chính quyền cấp xã trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào cũng có vị trí hết sức quan
trọng. Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố chính quyền
cấp xã vững mạnh. Cán bộ và công tác cán bộ luôn là "khâu then chốt trong vấn đề then
chốt " của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung và đặc
biệt là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, nhằm xây dựng một đội
ngũ cán bộ có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, năng lực và trí tuệ, đủ sức
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
Ngoài những kiến nghị cụ thể trên về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã. Xuất phát từ thực tiễn của quá trình đổi mới đất nước, trong bối cảnh Pháp
lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ công chức vừa được ban hành và
đã có hiệu lực, đã đưa đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã trở thành cán bộ, công chức
nhà nước. Luận văn có một số kiến nghị nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã, đảm bảo xây dựng một đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã vừa có
đức, vừa có tài, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
1- Cần có sự nghiên cứu, sửa đổi những hạn chế của Luật tổ chức và hoạt động
của HĐND và UBND (Sửa đổi). Quy định rõ hơn, cụ thể hơn quyền hạn, nhiệm vụ của
HĐND và UBND cũng như cơ chế để thực hiện các quyền đó. Trong đó cũng cần có các
quy định để đảm bảo cho hoạt động của HĐND có hiệu lực, hiệu quả hơn.
2- Chính phủ cần sớm đưa ra những quy định cụ thể hơn về chế độ chính sách đãi
ngộ cũng như các tiêu chuẩn cần phải có về trình độ năng lực đối với đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã. Quy định cụ thể những đối tượng nào ở cấp xã được tính là cán bộ,
công chức nhà nước cũng như số lượng biên chế của từng loại xã, phường, thị trấn. Trên
cơ sở đó để các cấp chính quyền xây dựng quy hoạch cán bộ khoa học, hợp lý. Đồng thời
cũng tạo sự an tâm, cũng như ý thức phấn đấu vươn lên của cán bộ cấp xã.
3- Đối với các chức danh cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã phải qua bầu cử
như Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND; Chủ tịch UBND có một số kiến nghị như sau: Đối với
chức danh Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND có thể sử dụng cơ chế dân bầu trực tiếp; đối
với chức danh chủ tịch UBND trong những trường hợp cần thiết mà chưa đến thời điểm
bầu cử mà cần bố trí một đồng chí không phải là thành viên HĐND làm Chủ tịch UBND
cùng cấp thì đưa ra HĐND bầu để đồng chí đó làm Chủ tịch UBND. Điều này cần được
bổ sung vào Luật tổ chức và hoạt động HĐND và UBND chứ không nên chỉ thể hiện
trong văn kiện.
4- Cần thực hiện nhất quán chiến lược cán bộ, sử dụng cán bộ, đào tạo cán bộ
theo đúng quy hoạch. Tránh tình trạng cán bộ trong diện quy hoạch được cử đi đào tạo
tập trung, dài hạn, sau khi học xong về địa phương thì bị "hết ghế ", không được bố trí vào
các chức danh chủ chốt như dự kiến quy hoạch.
5- Tổ chức các cuộc thi kiểm tra trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã, trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thích hợp. Có chế
độ kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý nghiêm minh những cán bộ chính quyền cấp xã vi
phạm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (1995), Hội thảo bàn về cải cách hành chính địa
phương, vụ chính quyền địa phương, Kỷ yếu đề tài khoa học, Hà Nội.
2. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ, Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước (2000), Chính
quyền cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (12/2000), Khuyến nghị về chính sách đối với cán
bộ xã, phường, thị trấn.
4. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (2001), Công văn số 151 ngày 8/5 Về việc góp ý đề án
kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở, Hà Nội.
5. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (1993), Sổ tay công tác chính quyền, Hà Nội.
6. Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phan Văn Khải trình bày trong kỳ họp Quốc
hội lần thứ 10 khóa X về thúc đẩy tăng cường và nâng cao chất lượng phát
triển, tạo chuyển biến mới về kinh tế - xã hội trong 5 năm đầu thế kỷ (19-12-
2001), Hà Nội.
7. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 1994-9999 của HĐND và UBND tỉnh Phú Thọ khóa
XIV.
8. Chính phủ (1993), Nghị định 46/CP ngày 23/6 Về chế độ sinh hoạt phí đối với cán
bộ xã, phường, thị trấn.
9. Chính phủ (1995), Nghị định 50/CP ngày 26/7 Về chế độ sinh hoạt phí đối với cán
bộ xã, phường, thị trấn.
10. Chính phủ (1995), Quyết định 97/QĐ-UB ngày 15/10 Về củng cố tổ chức bộ máy
làm việc của cấp xã, phường, thị trấn.
11. Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc (1994), Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông
thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Nghị quyết trung ương 2, Ban chấp hành Trung
ương Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành
Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Tài liệu học tập Nghị quyết hội nghị lần thứ 3
Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành
Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. HĐND tỉnh Phú Thọ, Nghị quyết số 09/NQ khóa XIV, kỳ họp thứ 3 Về tiêu chuẩn
chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh.
23. HĐND tỉnh Phú Thọ (1997), Nghị quyết 09 ngày 14/8, Phú Thọ.
24. HĐND tỉnh Phú Thọ (2002), Kỷ yếu kỳ họp thứ sáu, thứ bẩy, Phú Thọ.
25. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995.
26. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1997), Lịch sử nhà nước và pháp luật
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Học viện Hành chính Quốc gia (11-1996), Những vấn đề cơ bản về nhà nước, quản
lý hành chính nhà nước và phương pháp sư phạm hành chính, Hà Nội.
28. Học viện Hành chính Quốc gia (2000), Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính
ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Học viện Hành chính Quốc gia (2000), Tạp chí quản lý Nhà nước, 3(50).
30. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Maxcơva.
31. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Maxcơva.
32. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Maxcơva.
33. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Maxcơva.
34. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tâp 45, Nxb Tiến bộ, Maxcơva.
35. Luật tổ chức HĐND và UBND (Sửa đổi) (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Luật bầu cử đại biểu HĐND (Sửa đổi) (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. C. Mác và Ph. Ăngghen (1971), Toàn tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (1974), Bàn về vấn đề cán bộ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Mạnh (2001), 55 năm xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
44. Hà Quang Ngọc (2000), Góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Niên giám thống kê năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 tỉnh Phú Thọ.
46. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
47. Bùi Tiến Quý (2000), Một số vấn đề tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2001), Cộng đồng làng xã Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (đồng chủ biên) (2003), Thực hiện quy chế dân
chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
50. Hồ Văn Thông (1991), Kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay, tập 2, Nxb
Tư tưởng văn hóa, Hà Nội.
51. Tỉnh ủy Phú Thọ (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh khóa XIV, Phú
Thọ.
52. Tỉnh ủy Phú Thọ (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ khóa XV,
Phú Thọ.
53. Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ, Nội san năm 2000, 2001, 2002.
54. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. UBND tỉnh Phú Thọ (2002), Đề án bố trí công tác đối với sinh viên tốt nghiệp đại
học, cao đẳng về làm việc tại xã, phường thị trấn, Ban hành kèm theo Quyết
định số 2870/2002/QĐ-UB ngày 05-9, Phú Thọ.
56. UBND tỉnh Phú Thọ (6/2003), Báo cáo khảo sát thực trạng cán bộ HĐND các cấp
và đội ngũ cán bộ chuyên trách cơ sở, Phú Thọ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 102_5748.pdf