Đôn đốc, kiểm tra các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong việc chuẩn
bị nguồn lao động. Các doanh nghiệp phải lập kế hoạch xuất khẩu lao động
hàng năm và dài hạn, phối hợp với các địa phương để chuẩn bị nguồn lao
động đưa vào đào tạo chuyên môn, ngoại ngữ phù hợp với yêu cầu thị
trường, tập trung đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn, kỹ thuật
và ngoại ngữ cho người lao động xuất khẩu ở hệ thống các trường công nhân
kỹ thuật và dạy nghề.
65 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2437 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu tại trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các lớp
giảng chuyên môn và định hướng giáo dục cho người lao động đã tạo được
cơ sở để dạy các ngành nghề kỹ thuật cao. Đây là một biện pháp mang tính
lâu dài, xây dựng cho người lao động nền tảng tiếp thu những kỹ thuật cao
và hiện đại. Bên cạnh đó, trong quá trình đào tạo người lao động được quản
lý rất chặt chẽ trong khuôn khổ để đảm bảo chất lượng giảng dạy và giáo
dục. Việc Thái Lan gia tăng dạy cac nghề kỹ thuật cao cũng là biện pháp tiếp
cận đến thị trường khó tính của các nước tiếp nhận lao động.
3. Công tác quản lý lao động và giải quyết tranh chấp phát sinh.
Hiện nay, Thái Lan đang trở thành một trong những nước xuất khẩu lao
động đạt hiệu quả cao trong khu vực. Không phải vì họ có nguồn lao động
dồi dào, học vấn cao, mà Thái Lan có hệ thống quản lý lao động bên nước
ngoài là rất tốt. Các chế tài xử phạt đối với các lao động vi phạm hợp đồng
đều được xử lý một cách nghiêm khắc. Điều mà tại Việt Nam còn thiếu. Các
lao động làm việc tại nước ngoài được hưởng nhiều ưu đãi của Chính phủ
Thái. Thái Lan rất bênh lao động trong các trường hợp xảy ra tranh chấp, tạo
được niềm tin cho người lao động khi làm việc tại nước ngoài.
Chương II: Thực trạng chất lượng lao động xuất khẩu và các hoạt động
nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu tại SELAC.
I. Phân tích chất lượng lao động xuất khẩu tại Trung tâm dịch vụ và xuất
khẩu lao động SELAC.
1. Tổng quan về trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC.
Tên đơn vị : Trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động.
Tên giao dịch : SERVICE AND LABOUR EXPORT CENTER.
Địa chỉ : Tầng 3, Trung tâm dạy nghề Mỹ Đình, Xã Mỹ Đình,
Huyện Từ Liêm, Hà Nội.
Điện thoại : 04.7684145
Fax : 04.7682544
Email : selac@fpt.vn
1.1. Chức năng và nhiệm vụ.
Trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động được thành lập với các nhiệm
vụ chủ yếu sau:
1. Xuất khẩu lao động.
2. Tổ chức đào tạo ngoại ngữ, dạy nghề và giáo dục định hướng cho người
lao động trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
3. Dịch vụ vận tải đường sông.
Trong các nhiệm vụ trên thì nhiệm vụ xuất khẩu lao động được coi là
nhiệm vụ quan trọng và chủ yếu nhất của trung tâm. Có thể nói đây là nhiệm
vụ nuôi sống trung tâm. Bên cạnh đó thì tổ chức đào tạo ngoại ngữ và giáo
dục định hướng cho người lao động cũng rất được chú trọng. Đây là nhiệm
chỉ được phát sinh khi hoạt động xuất khẩu tiến triển tốt và đang gặp nhiều
thuận lợi. Nhưng nó lại là khâu trực tiếp tạo nên kết quả cho xuất khẩu lao
động. Nếu đào tạo ngoại ngữ, dạy nghề và giáo dục định hướng cho người
lao động mà tốt thì xuất khẩu lao động mới có được hiệu quả cao. Ngoài hai
nhiệm vụ đó thì trung tâm sẽ phải đảm nhiệm thêm nhiệm vụ là dịch vụ vận
tải đường sông. Đây là nhiệm vụ mới được bổ xung để mở rộng thêm ngành
nghề, dịch vụ cho trung tâm. Tuy vậy đây là nhiệm vụ cũng rất khó khăn vì
địa điểm đang không thuận lợi cho trung tâm, nhưng với sự phát triển của
các dịch vụ khác hiện nay thì trung tâm vẫn tin tưởng sẽ vượt qua được khó
khăn này. Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu lao động đạt được nhiều kết
quả sẽ là cơ sở để dịch vụ vận tải đường sông phát triển và đạt được nhiều
thành công.
1.2. Quyền hạn và trách nhiệm.
1.2.1. Quyền hạn:
- Được thu các khoản tiền theo quy định của Bộ lao động – Thương binh
và Xã hội sau khi đã thoả thuận, thống nhất với người lao động bằng văn bản
cam kết và xác nhận.
- Có quyền khấu trừ 1 phần hay toàn bộ tiền lương người lao động gửi tại
nước lao động, khởi kiện người lao động và gia đình người lao động trước
Toà án dân sự trong trường hợp người lao động gây thiệt hại về kinh tế cho
Trung tâm, thông báo về địa phương (cơ quan) nơi người lao động cư trú và
làm việc trước khi đi về vi phạm và chấm dứt hợp đồng.
1.2.2. Trách nhiệm:
- Trực tiếp tổ chức tuyển chọn, hướng dẫn chương trình tập huấn bắt buộc
cho người lao động, hoàn thành mọi thủ tục xuất cảnh cho người lao động,
tổ chức cho lao động đi lao động nước ngoài và phối hợp với công ty môi
giới nước ngoài quản lý người lao động trong suốt thời hạn hợp đồng.
- Trả lại lao động giấy tờ về nơi trước khi đi đảm bảo chính sách Việt
Nam.
- Trong vòng một tháng kể từ khi về nước, lao động phải đến trung tâm để
xuất trình hồ sơ hợp lệ đã hoàn thành hợp đồng gồm:
Giấy chứng nhận đã hoàn thành hợp đồng của công ty môi giới nước
ngoài.
Hộ chiếu (hoặc giấy thu hồi hộ chiếu).
Hợp đồng lao động có thời hạn tại nước ngoài ký giữa trung tâm với
người lao động.
- Thu và đóng bảo hiểm xã hội cho lao động tại Việt Nam, lập sổ lao động
cho người lao động.
- Trực tiếp xử lý các vấn đề phát sinh từ khi lao động rời Việt Nam đến
nước ngoài cho đến khi kết thúc hợp đồng và chuyển lao động về nơi trước
khi đi.
1.3. Cơ cấu tổ chức.
Trung tâm được thành lập với mục đích đưa người lao động ngoài miền
Bắc có nhu cầu đi lao động ở nước ngoài. Đây là đơn vị nhỏ và do tính chất
công việc nên cơ cấu tổ chức của trung tâm cũng rất đơn giản. Dưới đây là
sơ đồ cơ cấu:
1.3.1. Ban giám đốc.
Do trung tâm còn nhỏ và do tính chất công việc nên Ban giám đốc chỉ
gồm một giám đốc duy nhất. Đây chính là người đứng đầu của trung tâm là
đại diện của Tổng công ty Đường sông miền Nam ngoài miền Bắc. Giám
đốc có quyền chỉ đạo, quyết định tất cả các vấn đề liên quan trực tiếp đến
trung tâm mà thuộc phạm vi quản lý của mình. Ngoài ra giám đốc cũng là
người đại diện cho trung tâm trong việc tìm kiếm các thị trường và ký kết
các hợp đồng lao động. Là người đứng đầu nên giám đốc cũng phải chịu
trách nhiệm đầu tiên trong việc trung tâm hoạt động không hiệu quả hay làm
ăn thua lỗ. Vì là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty nên trung tâm cũng
thường xuyên phải báo cáo về cho Tổng công ty mà người phải làm việc này
chính là giám đốc đại diện cho trung tâm và vì vậy cũng chịu một phần quản
lý của Tổng công ty. Hiện nay tại trung tâm, do còn phải đi thuê văn phòng
làm việc nên phòng giám đốc và các phòng ban khác tại trung tâm phải
chung một không gian. Đây cũng là một thuận lợi nhưng nó cũng đem lại
không ít bất tiện trong công việc. Dùng chung một không gian thì sẽ tiết
kiệm được khoảng không và làm cho mọi người làm việc gần nhau hơn, thân
mật hơn và giải quyết công việc tập thể hơn. Tuy vậy thì nó sẽ làm cho công
Ban giám
đốc
Phòng
kinh
doanh
ị ụ
Phòng kế
toán tài
chính
Phòng tổ
chức
hành
Phòng
xuất khẩu
lao động
việc sẽ nhiều khi không giữ được bí mật, không phân biệt được các cấp
trong trung tâm đối với người đầu tiên vào trung tâm. Hiện nay trung tâm
cũng đang dần khắc phục khó khăn và tìm hướng đi riêng cho mình. Với sự
lãnh đạo đúng đắn của giám đốc, trong những năm qua trung tâm đã đạt
được những thành tích rất đáng khích lệ và hứa hẹn một tương lai tươi sáng
hơn. Đây là động lực cho mọi người trong trung tâm, tạo niềm tin cho đối
tác.
1.3.2. Phòng tổ chức hành chính.
Phòng tổ chức hành chính của trung tâm có tổng số là 2 người. Phòng
này có nhiệm vụ quản ly mọi vấn đề liên quan đến nhân sự, tiền lương, tiền
thưởng, tiền phạt… và các hoạt động vui chơi giải trí cho mọi người trong
trung tâm. Với số lượng nhân sự không phải là lớn thì trên lý thuyết công
việc của phòng là không quá vất vả. Nhưng trên thực tế, thì nhân sự của
trung tâm phải đảm nhiệm nhiều mảng khác nhau như: bên người lao động
đi Đài Loan khác với người lao động đi Malaysia và khi đó sẽ có hai bộ
phận nhân viên làm việc ở hai bộ phận này. Đây là cái khó cho trung tâm vì
phải tìm được nhân viên biết các loại tiếng Đài Loan, Malaysia hay cả Arập.
Điều này phòng tổ chức phải đảm nhiệm, tuy vậy không thật sự dễ dàng.
Cùng với sự ổn định của trung tâm, hiện nay phòng tổ chức cũng đang đi
vào nề nếp. Phòng cũng đã đóng góp không nhỏ vào những thành công của
trung tâm. Ngoài ra phòng cũng đã tổ chức cho nhân viên trong trung tâm
các hoạt động thể thao giải trí như các giải bóng bàn, đi tham quan du
lịch…Đây là hoạt động không thể thiếu tạo thêm sự thoải mái cho nhân viên
sau những giờ lao động căng thẳng, nó góp phần không nhỏ tạo nên thành
công.
1.3.3. Phòng kế toán tài chính.
Phòng này có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra, giám sát và phản ánh các
nghiệp vụ tài chính phát sinh đồng thời có chức năng tư vấn giúp Ban lãnh
đạo Trung tâm có các quyết định đúng đắn liên quan đến vấn đề tài chính.
1.3.4. Phòng xuất khẩu lao động.
Phòng xuất khẩu lao động là phòng trung tâm nhất tại SELAC. Nhiệm vụ
chính của phòng là hoạt động xuất khẩu lao động. Hoạt động này gồm các
nội dung sau:
* Tìm kiếm thị trường xuất khẩu lao động ngoài nước.
* Ký kết và thực hiện hợp đồng.
* Hoạt động tuyển sinh, tạo nguồn phục vụ cho hợp đồng đã ký với đối
tác nước ngoài.
* Hoạt động đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng.
* Thủ tục xuất nhập cảnh.
* Quản lý lao động đang làm việc tại nước ngoài và giải quyết các vấn
đề phát sinh.
* Thanh lý hợp đồng, quyết toán tài chính và các chế độ khác với
những người lao động về nước.
2. Tình hình xuất khẩu lao động và chất lượng lao động xuất khẩu tại trung
tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC.
Nhìn chung trong những năm qua SELAC luôn luôn hoàn thành tốt
nhiệm vụ của Tổng công ty giao cho và tạo được uy tín rất lớn với phía đối
tác. Hàng năm SELAC xuất khẩu được khoảng 500-600 lao động sang chủ
yếu các thị trường quen thuộc như: Đài Loan, Malaysia, ArâpXêut. Tháng
11 năm 2000, trung tâm mới được thành lập và khi đó chỉ mới xuất khẩu
được số lao động rất ít. Nhưng các năm sau đó, số lao động đã tăng lên đáng
kể. Năm 2001 số lao động được đưa đi xuất khẩu là 342 người, năm 2002 số
lao động là 453 người và đến năm 2003 số lao động xuất khẩu đã lên đến
745 lao động, một năm không chỉ là của xuất khẩu lao động của riêng
SELAC mà là của cả nước. Năm 2004 số lao động là 487 người, và các
tháng đầu năm 2005 do nhiều yếu tố khách quan mà số lao động được đưa đi
là không lớn.
Trong các thị trường đã nói thì số lao động trong các năm là: Đài Loan
1000 lao động, Malaysia là 1200 lao động và ArâpXêut là 50 người. Một số
lượng lao động không lớn lắm so với các doanh nghiệp hay các công ty
chuyên xuất khẩu lao động. Nhưng nếu biết rằng đây là số lao động này chủ
yếu làm việc nhà, chăm sóc bệnh nhân hay những công việc nhẹ nhàng, thì
là không nhỏ chút nào và thị trường Đài Loan là thị trường cần nhiều lao
động như vậy.
Cũng như xuất khẩu lao động của cả nước, tại SELAC biểu đồ sự thay
đổi xuất khẩu lao động cũng có kiểu thay đổi như vậy. Năm 2003 cũng là
năm thành công của SELAC, nhưng ngay sau đó năm 2004 thì số lao động
lại giảm, đây cũng là năm chất lượng lao động của Việt Nam nói chung và
của SELAC nói riêng không còn tạo được niềm tin đáng kể của phía nước
bạn. Vì sao? Có lẽ vì số nhỏ các lao động của Việt Nam và của SELAC
không còn đủ điều kiện làm việc khi công nghệ sản xuất thay đổi theo chiều
Sè lao ®éng cña SELAC trong c¸ c n¨ m
342
453
745
487
0
100
200
300
400
500
600
700
800
2001 2002 2003 2004
N¨m
Ngêi
hướng hiện đại, cũng như sự mong muốn của nhà sử dụng lao động cần
nhiều lao động có trình độ kỹ thuật cao. Khi đó các lao động không đáp ứng
được và số lượng lao động giảm là điều dễ thấy. Nói tóm lại, chất lượng
đang cần nâng lên để làm cho nước bạn tiếp tục có niềm tin thu nhận lao
động của SELAC.
Khi đề cập đến chất lượng lao động của SELAC cần nói đến vấn đề đầu
vào tức là công tác tuyển sinh. Lao động mà trung tâm SELAC thường tuyển
sinh có trình độ là không cao, thường chỉ là tốt nghiệp hết cấp II. Nguyên
nhân là do đây là nhu cầu tuyển của Đài Loan, nước này chỉ tiếp nhận lao
động giúp việc hay các công việc gia đình. Mặt khác, lao động này thường
dễ bảo, giá cả lại phù hợp nên trung tâm đã tuyển. Đây là nguyên nhân
không nhỏ làm ảnh hưởng đến chất lượng lao động của SELAC, với chỉ tốt
nghiệp hết cấp II, trình độ nhận thức còn rất hạn chế do đó không thể được
tuyển vào những chỗ làm yêu cầu được đào tạo nghề có trình độ cao. Đây
cũng là nguyên nhân làm cho số lượng lao động xuất khẩu của SELAC
chiếm đa phần là người còn trẻ, chủ yếu là người lao động không đào tạo
nghề và vì thế đã làm cho tổng số lao động tại SELAC còn rất khiêm tốn.
Ngoài ra, số lao động này khi tuyển vào các vị trí làm công việc cần có trình
độ, cần qua đào tạo nghề thường lại không đảm nhiệm được và hay bị đuổi
về nước. Trung tâm SELAC có tổng số 15 người bị các thị trường đuổi về
nước. Đây cũng là bài học không chỉ riêng của SELAC mà còn là của cả
nước về vấn đề chất lượng lao động. Yêu cầu ngày càng cao của phía các thị
trường, làm cho các trung tâm, các doanh nghiệp cũng cần tự thay đổi chất
lượng lao động để đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu lao động cái mà họ vẫn
còn thiếu.
Trung tâm chỉ tuyển lao động có độ tuổi tối đa là 30 tuổi. Đây là độ tuổi
lao động rất tốt để tuyển dụng, với độ tuổi này cũng sẽ đáp ứng được cho
Tû lÖ lao ®éng nam n÷ t¹ i SELAC
phía nước tiếp nhận. Nhưng có lẽ, đây cũng là yếu tố có thể xét để phân tích
chất lượng lao động khi mới tuyển dụng. Với độ tuổi này khi có ý định xuất
khẩu lao động thường là những người thất nghiệp trong nước, không được
đào tạo nghề, không có học vấn. Vì vậy tìm đến trung tâm bằng nhiều con
đường để được xuất khẩu lao động. Nên công tác đào tạo những đối tượng
này gặp nhiều khó khăn, vì vậy chất lượng của các lao động này thường
không cao.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh và cạnh tranh thắng lợi của SELAC
trên thị trường xuất khẩu lao động quốc tế, trung tâm cần nâng cao chất
lượng nguồn lao động xuất khẩu. Tuy vậy, cũng cần phải thừa nhận rằng đây
là điều còn nhiều khó khăn. Một yếu tố nữa cần kể đến là trung tâm chỉ
tuyển lao động nữ là nhiều. Trong những năm qua số lượng lao động nữ
được tuyển là khoảng 1.988 lao động, còn lại là lao động nam. Số lao động
nữ chiếm khoảng 95%, một số lượng lớn là nữ. Một yếu tố nữa ảnh hưởng
đến chất lượng lao động của SELAC. Khi mà số lượng lao động nữ lại
chiếm đa số, thì công tác đào tạo lao động có nghề, lao động trình độ cao
gặp khó khăn không nhỏ. Nguyên nhân là do, lao động nữ chỉ phù hợp với
các công việc có tính đơn giản, tiếp thu công nghệ chậm hơn nam giới. Tuy
tại trung tâm xuất khẩu lao động sang các nước còn khó khăn về kinh tế
nhưng trung tâm cũng phải xác định rằng đào tạo lao động có trình độ cao để
cạnh tranh, để mở rộng thị trường, đồng thời nâng cao lên một bước về chất
lượng lao động tại trung tâm, vì vậy cần có nhiều lao động nam để đạt được
điều đó. Số lượng lao động hiện nay còn quá ít nam nên trong thời gian tới
trung tâm cần tuyển nhiều nam hơn và cần có định hướng lâu dài để cân
bằng tỷ lệ nam nữ lao động.
Trong các lao động mà trung tâm tuyển thì đa phần là lao động nông
thôn, ngoại ngữ của đa số lao động này là rất kém. Vì vậy trung tâm lại mất
thời gian đào tạo thêm ngoại ngữ và nó ảnh hưởng đến công tác đào tạo. Tuy
vậy không có nhiều sự lựa chọn cho trung tâm trong thời điểm hiện tại do
mặt bằng chung của lao động cả nước là như vậy. Vì vậy chất lượng lao
động của SELAC vẫn còn chưa cao là điều có thể nhận thấy, nhưng hy vọng
rằng với các biện pháp mang tính chiến lược và rất chặt chẽ hy vọng SELAC
sẽ đưa chất lượng lao động của mình lên tầm quốc tế để sánh được với lao
động của các doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực xuất khẩu lao động.
Có một yếu tố cần phân tích vì nó liên quan đến chất lượng lao động của
trung tâm đó là trình độ, lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên giảng dạy. Đội
ngũ giáo viên giảng dạy của trung tâm nói chung là rất nhiệt tình và có tuổi
đời tương đối trẻ. Ngoài ra, hầu như họ đều có trình độ là đại học và trên đại
học. Một tín hiệu đáng mừng cho SELAC trong tương lai, bởi một đội ngũ
giáo viên rất triển vọng. Đầu tiên phải nói đến độ tuổi của họ, đa phần độ
tuổi của giáo viên chỉ khoảng 25-30 tuổi, một độ tuổi còn rất trẻ, vì thế tinh
thần làm việc rất hăng hái, nhiệt tình, có tinh thần cầu tiến cao. Thứ hai, phải
nói đến trình độ đội ngũ giáo viên. Trong tổng số 9 giáo viên dạy thì có 1
giáo viên trên trình độ đại học và có đến 8 giáo viên có trình độ đại học. Phải
nói trình độ đội ngũ giáo viên là rất tốt. Nhưng phải thừa nhận chất lượng
lao động tại SELAC vẫn còn chưa cao, nguyên nhân là do: chương trình học
chưa sát thực tế, khi mà tổng số lao động lên cao thì đội ngũ giáo viên là còn
quá ít để đáp ứng, do yêu cầu tuyển dụng của phía đối tác. Đây là các
nguyên nhân liên quan đến đội ngũ giáo viên giảng dạy tại SELAC làm cho
chất lượng lao động bị ảnh hưởng một phần. Nếu trung tâm có những thay
đổi về mặt nhân sự trong thời gian tới cùng với đội ngũ hiện tại, chắc chắn
SELAC sẽ thành công về nâng cao chất lượng lao động của mình.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị trung tâm đang có cũng sẽ ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng đào tạo của SELAC. Hiện nay, trung tâm là đại diện của
Tổng công ty Đường sông miền Nam ngoài miền Bắc, do đó cơ sở vẫn còn
phải đi thuê, đây là một khó khăn không nhỏ cho SELAC trên thị trường
xuất khẩu lao động. Ngoài ra các trang thiết bị cũng thật chưa đủ, chưa thật
hiện đại như bên các nước tiếp nhận lao động để cho người lao động thực
hành, vì vậy chất lượng lao động không thể một sớm một chiều thay đổi
được. Một số lao động sang nước bạn còn bỡ ngỡ về các thao tác, cách sử
dụng các loại máy móc để làm việc, vì tại SELAC không có loại máy móc
như vậy. Ngoài ra, chỗ cho lao động ăn ở cũng phải đi thuê nên rất tốn kém.
Vì vậy có thể nói, cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị phục vụ cho lao động thực
hành là vô cùng quan trọng và SELAC còn cần nhiều của cải và sức người
để làm được điều này, nhưng không phải là không làm được.
Trong tổng số lao động đi sang nước ngoài làm việc của trung tâm thì có
một số lao động đã đơn phương phá bỏ hợp đồng, hay bị các nước tiếp nhận
cho về nước sớm. Nguyên nhân ở đây cũng gồm cả nguyên nhân chủ quan
và cả nguyên nhân khách quan. Đối với những lao động đơn phương phá bỏ
hợp đồng thì do công việc của chủ sử dụng không đáp ứng được mong muốn
về nhiều mặt cho họ, hay do họ không kham nổi công việc quá vất vả và
công việc bên ngoài kiếm được nhiều tiền hơn. Rất nhiều vấn đề liên quan
khi nói đến các lao động đơn phương phá bỏ hợp đồng như hiện nay. Nó
đang là nỗi nhức nhối của xuất khẩu lao động Việt Nam nói chung và của
SELAC nói riêng. Nhưng chất lượng lao động cũng có thể ảnh hưởng đến
vấn đề này, khi mà chất lượng lao động đi làm việc không đáp ứng được yêu
cầu của chủ sử dụng thì cũng là nguyên nhân khiến cho quan hệ chủ thợ
không còn như khi mới làm việc, rồi nảy sinh các tranh chấp và người lao
động thấy chán nản với công việc rồi từ đó có ý định ra ngoài làm việc, hay
tự ý phá bỏ hợp đồng. Còn đối với các trường hợp bị nước bạn trả về thì
nguyên nhân chủ yếu là không đáp ứng được yêu cầu của họ. Khi mà công
việc ngày càng đòi hỏi cần trình độ cao, nhận thức nhanh nhạy thì lao động
SELAC vẫn còn chưa đáp ứng được. Ngoài ra cũng phải kể đến sự yếu kém
về kinh tế dẫn đến thiếu vốn của nước tiếp nhận đối với các ngành như xây
dựng nên không thể tiếp tục tồn tại được và các lao động SELAC sang đó sẽ
bị trả về. Một trường hợp cũng không thật ró để có thể nói rằng chất lượng
lao động của SELAC còn thấp, song nếu như chất lượng lao động có thể đáp
ứng được so với yêu cầu thì có thể lao động SELAC vẫn tồn tại được bên
nước ngoài với nhiều công việc khác nhau.
Nói tóm lại, trong những năm gần đây chất lượng lao động của SELAC
là ổn định, đáp ứng được yêu cầu khá khắt khe của phía đối tác Đài Loan,
Malaysia, ArâpXêut và các chủ thuê lao động trực tiếp. Trình độ ngoại ngữ
là nắm được các quy tắc về giao tiếp, ứng xử, thu lượm được đầy đủ vốn từ
khi chuẩn bị và đang làm việc tại nước ngoài. Nhưng thật sự trình độ của lao
động SELAC vẫn còn trong chất lượng trung bình khá. Khi mà trình độ lao
động quốc đang dần được nâng lên và các công nghệ kỹ thuật mới được ra
đời thì lực lượng lao động này gặp nhiều khó khăn trong khi hội nhập. Với
nhiều biện pháp đang và sẽ được triển khai trong thời gian tới, hy vọng rằng
chất lượng lao động SELAC sẽ vượt ra khỏi tầm trong nước đáp ứng được
ngày càng nhiều theo yêu cầu của chủ sử dụng lao động.
III. Thực trạng các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu
tại SELAC.
1. Công tác tuyển dụng lao động.
Tại trung tâm SELAC, công tác tuyển dụng được coi là rất ổn định và có
định hướng lâu dài. Trung tâm đã được chỉ định tuyển dụng tại các tỉnh là:
Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh…bằng các biện pháp tuyển khác nhau, với
các nội dung tuyển dụng cụ thể sau:
Về nguồn tuyển, hiện nay trung tâm đang áp dụng phương pháp tuyển
dụng là: Thứ nhất tuyển trực tiếp qua các trung tâm dịch vụ việc làm; thứ hai
là tuyển thông qua chính quyền các cấp xã, phường; thứ ba trung tâm tuyển
trực tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua giới thiệu của
những người đã đi xuất khẩu lao động…Đây được coi là những nguồn tuyển
dụng rất đáng tin cậy của trung tâm. Với biện pháp tuyển dụng qua các trung
tâm dịch vụ việc làm thì SELAC đã tận dụng được nhiều ưu điểm như: có
thể tuyển dụng được nhiều lao động một lúc, tuyển được lao động có trình
độ cao…trong khi đó với biện pháp tuyển thông qua chính quyền các cấp thì
trung tâm đã tuyển được những lao động có lý lịch rõ ràng, đảm bảo chất
lượng nguồn lao động. Với các biện pháp tuyển sinh hiện nay, nói chung
trung tâm cũng tạo được một nguồn lao động ổn định và rất đáng tin cậy.
Tuy nhiên mỗi biện pháp lại có những nhược điểm của nó. Đối với phương
pháp tuyển qua các trung tâm dịch vụ việc làm thì SELAC thường bị động
và phụ thuộc vào nguồn của các trung tâm, nguồn gốc của lao động thì
SELAC cũng không nắm rõ, có thể để lọt một số đối tượng không tốt, dẫn
đến phát sinh phức tạp trong quá trình đào tạo, hoặc thời gian làm việc tại
nước ngoài. Với phương pháp làm việc với các địa phương thì SELAC lại
gặp khó khăn là chỉ tuyển được đa số là lao động phổ thông, số lượng từng
nơi cũng hạn chế. Một số địa phương không có cán bộ chuyên trách nên việc
hướng dẫn các thủ tục không thành thạo, một số thông tin đưa đến người lao
động không chính xác. Một số nơi còn phải thông qua cấp huyện mới lấy
được nguồn, gặp khó khăn trong việc đào tạo và thủ tục vay vốn ngân hàng,
chi phí đi lại và thông tin liên lạc của SELAC cũng lớn hơn các hình thức
khác.
Về tiêu chuẩn tuyển dụng.
Trung tâm hiện nay cũng đang cố gắng tạo ra những tiêu chuẩn tuyển
dụng chặt chẽ, phù hợp với điều kiện và môi trường lao động của Việt Nam.
Và hiện nay SELAC cũng đang áp dụng các tiêu chuẩn như: phải tốt nghiệp
hết cấp II, chưa ra nước ngoài làm việc bằng bất cứ doanh nghiệp xuất khẩu
lao động nào khác, hay phải là lao động nữ đối với công việc gia đình và
chăm sóc bệnh nhân…Càng nhiều tiêu chuẩn tuyển dụng thì càng nâng cao
được chất lượng lao động xuất khẩu nhưng mặt khác nó làm cho số lượng
lao động đạt tiêu chuẩn rất ít do hiện nay mặt bằng chung của lao động Việt
Nam vẫn còn rất thấp. Vì vậy ngoài các tiêu chuẩn bắt buộc thì trung tâm
nên loại bỏ bớt các tiêu chuẩn không quan trọng để đạt được đủ số lượng lao
động đi xuất khẩu.
Quy trình tuyển dụng.
Đối với mỗi biện pháp tuyển dụng khác nhau thì lại có một quy trình
tuyển dụng khác nhau. Nhưng nói chung nó có một số bước sau:
- Đưa các thông tin về tuyển dụng cho người lao động biết qua các trung
tâm dịch vụ việc làm hay qua các cấp chính quyền…như: các điều kiện,
quyền lợi và nghĩa vụ người lao động , đặc biệt là tiền lương, các khoản tài
chính phải nộp trước khi đi, các tiêu chuẩn tuyển dụng…
- Sau khi có được đủ số lượng lao động đạt tiêu chuẩn cần tuyển thì trung
tâm tiến hành cho người lao động làm thủ tục tuyển dụng và ký kết hợp
đồng lao động.
- Sau đó người lao động được đưa nên trung tâm để đào tạo nghề và học
ngoại ngữ trước khi đi.
Đây là các bước thô của quá trình tuyển dụng lao động tại trung tâm.
Trước đây các bước này không được tiến hành đúng tiến trình do đó ảnh
hưởng không nhỏ tới chất lượng lao động tại SELAC, nhưng hiện nay trung
tâm đã thấy được tác dụng của quá trình đến chất lượng lao động và ngày
càng hoàn thiện nó để có được công tác tuyển dụng tốt nhất phục vụ cho
hoạt động xuất khẩu lao động.
Trong quá trình tuyển chọn, kinh nghiệm được trung tâm rút ra là phải
tuyển trực tiếp, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, công khai về các điều
kiện, quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động. Không được chung chung, đại
khái, hoặc sai với nội dung hợp đồng, đặc biệt là tiền lương, các khoản tài
chính nộp trước khi đi phải rất rõ ràng. Nên kết hợp nhiều hình thức tuyển
chọn để đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Mặt khác công tác tuyển sinh cần được thay đổi cho phù hợp với những
thay đổi của thị trường xuất khẩu lao động. Ví như: việc thay đổi độ tuổi
tuyển sinh, thay đổi tỷ lệ nam nữ tuyển sinh, hay nên đa dạng các ngành
nghề tuyển sinh… để đáp ứng được yêu cầu của thị trường và nhu cầu của
người lao động.
2. Công tác đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động.
Hiện nay tại trung tâm, đào tạo và giáo dục định hướng là một trong
những công tác vô cùng quan trọng. Để có thể nâng cao được chất lượng lao
động trong thời gian tới thì trung tâm đã coi đào tạo là công tác được ưu tiên
hàng đầu. Những đối tượng sau khi được xét tuyển kỹ về sức khoẻ tay nghề
đều được SELAC đào tạo về ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ, phổ biến
phong tục tập quán, giáo dục định hướng rất kỹ lưỡng.
Về chuyên môn nghiệp vụ. Trung tâm đào tạo người lao động trong
khoảng 1 tháng cho mỗi nghề. Nhưng do hiện nay tại trung tâm thì giúp vịêc
gia đình và chăm sóc bệnh nhân là những ngành nghề chủ yếu để xuất khẩu
nên công tác đào tạo nghề không gặp nhiều khó khăn. Ngoài học lý thuyết,
người lao động còn được thực hành thêm để có thể làm tốt công việc và khỏi
bỡ ngỡ khi làm việc trực tiếp tại nước ngoài.
Dạy ngoại ngữ. Người lao động thường được dạy ngoại ngữ trước khi
sang nước bạn làm việc. Tại trung tâm thời gian dạy là khoảng 2 tháng, mỗi
lao động được dạy ngoại ngữ mà họ cần để có đủ kiến thức cần thiết trong
giao tiếp và làm việc. Người lao động đi làm việc tại nước có sử dụng ngoại
ngữ nào thì họ được trung tâm trang bị cho ngoại ngữ đó. Ngoài học trên
lớp, người lao động còn được tham gia các cuộc thi ngoại ngữ có phần
thưởng để tăng thêm phần tự tin và hưng phấn cho người lao động.
Phổ biến phong tục tập quán, giáo dục định hướng cho người lao động.
Đây là các chương trình giáo dục không thể thiếu tại trung tâm. Ngoài
các chương trình đào tạo trên thì trung tâm vẫn dành thời gian cho người lao
động được học phong tục tập quán nước đến làm việc và giáo dục cho người
lao động biết được hậu quả của việc phá bỏ hợp đồng, tự ý trốn về nước. Các
chương trình này thường được phổ biến xen kẽ các tiết học ngoại ngữ và học
nghề. Tuy có được chương trình và cũng đã đưa vào dạy và phổ biến nhưng
trung tâm vẫn còn có nhiều lao động phá bỏ hợp đồng, bị đuổi về nước do
các nguyên nhân mà có liên quan đến công tác giáo dục này. Vì vậy trung
tâm cần có những thay đổi tích cực hơn để hạn chế và tiến tới xoá bỏ được
vấn nạn này.
Tính đến nay trung tâm đã đầu tư nhiều tỷ đồng vào mua sắm các trang
thiết bị hiện đại, phục vụ công tác đào tạo. Với khoảng thời gian đào tạo 3
tháng đối với tất cả các lao động, với khoảng 450 tiết học, bao gồm ngoại
ngữ 300 tiết, thực hành sử dụng các thiết bị gia đình và chăm sóc bệnh nhân
là 135 tiết; giáo dục pháp luật, phong tục tập quán là 15 tiết. Tuy được dạy
rất cơ bản với đủ các loại chương trình, song có lẽ thời gian là chưa thật đủ
nhiều để đảm bảo chất lượng của lao động tại SELAC. Thời gian tới trung
tâm đang có các biện pháp thay đổi như: biên soạn giáo trình sát với thực tế,
tích cực sửa đổi lại nội dung của giáo trình và chương trình học đối với yêu
cầu của đối tác và chủ sử dụng, nên có thể thời gian đào tạo sẽ được nâng
lên để đảm bảo chất lượng lao động, đồng thời phân bổ thời gian giữa dạy lý
thuyết và thực hành thật hợp lý để cho lao động thật tự tin khi tiếp xúc với
công việc. Bên cạnh đó, trung tâm còn đưa giáo viên và cán bộ quản lý ra
nước tiếp nhận để có thực tế, đồng thời cử giáo viên giảng dạy làm công tác
quản lý lao động tại nước ngoài, đây là một biện pháp hay để có thể hiểu
thêm về công việc mà lao động phải làm từ đó có những thay đổi hợp lý áp
dụng vào điều kiện cụ thể tại trung tâm.
Biết rằng những người lao động đi xuất khẩu đều có cảm giác buồn, cô
đơn khi xa gia đình để đến trung tâm. Bằng nhiều biện pháp như: tổ chức
cho mọi lao động được thi đua học tập tốt bằng các cuộc thi có phần thưởng;
liên hệ với gia đình các lao động để họ động viên cho người lao động an
tâm, tự tin trong chuyến xuất khẩu lao động sắp tới, trung tâm cũng đã phần
nào giúp người lao động cảm thấy họ rất được quan tâm, rất thoải mái khi
đang ở trung tâm nên đã tạo được động lực cho người lao động phấn đấu
hoàn thành được công việc và sẵn sàng sang nước ngoài làm việc. Bên cạnh
việc tổ chức cho người lao động thì trung tâm còn chú trọng vào đảm bảo về
mặt tinh thần cho cán bộ nhân viên tại trung tâm. Ngoài các giờ làm việc
trung tâm có tổ chức cho các lao động tham gia các hoạt động ngoại khoá,
tham gia các giải thể thao do trung tâm tổ chức như: đi du lịch các địa
phương, hay tổ chức các giải bóng bàn…Một trong các hoạt động rất quan
trọng này đã phần nào giúp cho chất lượng lao động được cải thiện dù không
lớn nhưng vẫn rất cần thiết đối với các trung tâm xuất khẩu lao động như
SELAC.
II. Những thuận lợi và khó khăn của Trung tâm SELAC trong việc nâng cao
chất lượng lao động xuất khẩu.
1. Thuận lợi.
Tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng cũng phải nói rằng trung tâm SELAC
cũng có những thuận lợi của riêng mình. Đó là:
- Do lao động của trung tâm xuất phát chủ yếu từ nông thôn nên đa số lao
động này rất cần cù, khoé léo và cũng rất dễ bảo phù hợp với công việc gia
đình mà phía Đài Loan hay tuyển.
- Bên cạnh những lao động còn yếu về nhiều mặt thì cũng có các lao động
khá thông minh, cần cù. Nhiều lao động còn chủ động đầu tư học ngoại ngữ,
học nghề và tìm hiểu pháp luật những nước họ tới…Chuẩn bị đầy đủ các
điều kiện cần và đủ, để đáp ứng các yêu cầu đi làm việc ở nước ngoài.
- Ngoài ra, hiện nay công tác đào tạo đã được chú ý rất nhiều. Đây là thuân
lợi rất lớn cho trung tâm nhằm từng bước nâng cao chất lượng lao động của
mình.
- Đây là đại diện của Tổng công ty Đường sông miền Nam ngoài miền
Bắc, do đó có nhiều thuận lợi của việc hưởng danh của Tổng công ty và khi
gặp khó khăn còn được sự trợ giúp. Đây cũng là thuận lợi trong việc làm an
tâm các cán bộ quản lý, các giáo viên giảng dạy và các nhân viên trong việc
dốc sức vì công việc đồng thời đào tạo ra được nhiều lao động có chất lượng
đủ tiêu chuẩn theo yêu cầu của phía đối tác.
2. Khó khăn.
Nâng cao chất lượng lao động là công việc rất quan trọng, nhưng để làm
được điều đó thì trung tâm SELAC sẽ gặp những khó khăn nhất định. Đây
không chỉ là khó khăn của riêng SELAC và các doanh nghiệp hay các công
ty xuất khẩu lao động đều chưa có được biện pháp hữu hiệu nhất để phần
nào giải quyết khó khăn. Những khó khăn này bao gồm:
- Nhà nước chưa có chính sách tích cực đầu tư tạo nguồn lao động phục vụ
xuất khẩu. Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề mới chỉ giữ vai trò đào tạo nghề
để người lao động có cơ hội tự tìm việc làm, chưa thực sự gắn dạy nghề với
giải quyết việc làm, trong đó xuất khẩu lao động lao động là một hướng
quan trọng.
- Cái rõ nhất là hiện nay trung tâm đang thiếu lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật, thiếu công nhân lành nghề.
- Cơ cấu ngành nghề đào tạo chủ yếu tập trung vào những nghề đã đào tạo
từ trước, chưa kịp mở rộng ngành nghề mới, đào tạo trình độ bậc cao còn ít
chưa phù hợp và đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động quốc tế. Giáo dục
phổ thông chưa tạo dựng được nền tảng về ngoại ngữ cho người lao động để
tham gia xuất khẩu.
- Luôn luôn phụ thuộc vào đầu ra của lao động, ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng lao động. Ví dụ bên Đài Loan: chính sách về xuất khẩu lao động
hay thay đổi không nhất quán, còn bên Malaysia thì còn khó khăn về kinh tế
nên các lao động của trung tâm còn gặp nhiều khó khăn về tiền lương và các
khoản chi khác.
- Việc tổ chức bồi dưỡng tay nghề cho lao động trước khi xuất khẩu lao
động còn nhiều hạn chế, do thời gian tập trung đào tạo ngắn, lại hướng chủ
yếu vào khâu ngoại ngữ, giáo dục định hướng và hiểu biết về phong tục tập
quán…nên vấn đề tay nghề của người lao động chưa thực sự đáp ứng được
mong đợi của các nước tiếp nhận. Điều này đã làm hạn chế đến khả năng
cạnh tranh và mở rộng ngành nghề cho người lao động và người lao động
Việt Nam ít được làm ở các vị trí trọng yếu trong dây chuyền sản xuất.
- Hạn chế lớn nhất của người lao động là ngoại ngữ và ý thức lao động, sự
tuân thủ các nguyên tắc cộng đồng yếu kém. Đây là nguyên nhân chính gây
ra các tranh chấp lao động. Một bộ phận lao động không nhỏ đơn phương
phá bỏ hợp đồng để ra ngoài làm việc, một số vi phạm pháp luật của nước sở
tại, ảnh hưởng tới việc giữ vững và phát triển thị trường.
- Đa phần lao động của trung tâm đi xuất khẩu lao động là lao động không
nghề. Số lao động đi nhiều tại Malaysia, Đài Loan chiếm đa số là lao động
phổ thông.
- Lao động của trung tâm xuất thân chủ yếu từ nông thôn nên trình độ nhận
thức, trình độ giao tiếp là rất thấp. Khả năng tiếp thu kém là điều mà cán bộ
giảng dạy rất khó khăn trong việc nâng cao trình độ cho họ. Ngoài ra, số lao
động này còn có tác phong làm việc rất nông dân nên không đáp ứng được
yêu cầu của nước sở tại.
- Hiện tại trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC là đơn vị trực
thuộc, là đại diện ngoài miền Bắc của Tổng công ty đường sông miền Nam
do đó về cơ sở vật chất vẫn còn phải đi thuê nên gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra chỗ ở cho lao động là không có và cũng phải đi thuê nên vấn đề
nâng cao chất lượng lao động của SELAC vẫn còn phải có thời gian và đầu
tư nhiều tiền của.
- Về phía Nhà nước, chính phủ không có chính sách xử lý các lao động bỏ
trốn hay đơn phương phá bỏ hợp đồng, do đó số lượng lao động này ngày
càng nhiều và rất khó giải quyết. Nó ảnh hưởng đến tâm lý của các lao động
mới có ý định hay đang chuẩn bị xuất khẩu lao động, nên công tác đào tạo
hay dạy nghề gặp nhiều khó khăn và nó ảnh hưởng đến chất lượng lao động
SELAC.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động
xuất khẩu tại trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC.
I. Phương hướng hoạt động nhằm nâng cao chất lượng lao động tại trung
tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC.
Chất lượng nguồn lao động là yếu tố quyết định thành công hay thất bại
của doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Sự cạnh tranh thị trường xuất khẩu lao
động hiện nay chính là sự cạnh tranh về nguồn lao động tham gia xuất khẩu.
Vì vậy các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động đều xây dựng cho
mình các biện pháp và chiến lược nhằm nâng cao chất lượng lao động lâu
dài. Và tại trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC cũng có
phương hướng riêng để nâng cao chất lượng lao động của mình.
1. Nâng cao công tác tuyển dụng lao động xuất khẩu.
Trung tâm SELAC cũng giống như các doanh nghiệp, công ty xuất khẩu
lao động khác đều rất chú trọng vào công tác tuyển dụng lao động cho riêng
mình. Việc đòi hỏi ngày càng cao của phía đối tác đáp ứng công việc kỹ
thuật cao, càng làm cho trung tâm phải có những biện pháp tuyển dụng lao
động chặt chẽ, hiện đại và chất lượng. Và trung tâm đang dần dần hoàn thiện
các biện pháp sau:
- Tuyển trực tiếp qua các trung tâm dịch vụ việc làm. Đây là một trong
những biện pháp mang tính linh hoạt, khi mà lao động xuất khẩu không đủ
đáp ứng với nhu cầu tuyển của phía đối tác. ở đây các trung tâm dịch vụ việc
làm đều có cán bộ giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, am
hiểu chuyên môn do đó rất thuận lợi trong việc làm hồ sơ, thủ tục, tránh
được các khoản chi phí không cần thiết.
- Công tác tuyển chọn lao động được SELAC quan tâm nhiều hơn bằng
việc gắn kết chặt chẽ với chính quyền địa phương ở cả cấp tỉnh, huyện, xã và
các trường dạy nghề, nhằm giảm thiểu tối đa chi phí đóng góp của người lao
động. Hình thức tuyển chọn này đảm bảo chất lượng nguồn, nắm được lý
lịch của người lao động, tránh được các phát sinh phức tạp, người lao động
cũng không phải qua khâu trung gian, được tạo mọi đièu kiện thuận lợi trong
khâu giải quyết các thủ tục hồ sơ tại địa phương.
- Trung tâm đã xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn chọn lao động dựa
trên nhứng yêu cầu chung nhất về hoạ vấn, sức khoẻ, trình độ tay nghề, đạo
đức và ý thức tổ chức kỷ luật. Đồng thời tuỳ thuộc từng ngành nghề, từng
nước và từng chủ sử dụng khác nhau mà đặt ra những tiêu chuẩn riêng phù
hợp.
- Kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động tuyển chọn. Khi xảy ra sai sót,
hoặc cố tình làm sai thì phải bị xử lý theo quy định của trung tâm.
2. Chú trọng nâng cao công tác đào tạo lao động xuất khẩu.
Đào tạo lao động ở đây phải đảm bảo cả về chất và lượng. Vì vậy công
tác đào tạo lao động xuất khẩu có ảnh hưởng lớn đến chất lượng lao động
đưa đi xuất khẩu. Nâng cao công tác đào tạo không chỉ rất cần thiết để góp
phần thay đổi theo những thay đổi của lao động quốc tế mà nó còn ảnh
hưởng trực tiếp đến sự sống còn của cả trung tâm nên rất nhiều biện pháp
được SELAC xây dựng và thực hiện trong thời gian tới:
- Trung tâm đã xây dựng cho mình chương trình đào tạo phù hợp với điều
kiện và đủ tiêu chuẩn tạo ra những lao động có đủ trình độ đáp ứng được yêu
cầu của phía đối tác.
- Trung tâm đã chú trọng đến cơ sở đào tạo-giáo dục định hướng cho
người lao động. Vì trước đây công tác đào tạo, giáo dục định hướng cho
người lao động trước khi đi của trung tâm SELAC không được quan tâm
đúng mức. Xuất hiện nhiều lao động thiếu hiểu biết về phong tục nơi làm
việc, ý thức chấp hành kỷ luật kém, vi phạm hợp đồng, chưa có tác phong
làm việc công nghiệp. Việc làm này sẽ nâng cao trách nhiệm của trung tâm
trong việc tổ chức đào tạo, giáo dục định hướng người lao động trước khi đi,
nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu, hạn chế được các phát sinh
do đó giảm thiệt hại khi xảy ra, đồng thời tăng uy tín của lao động trung tâm.
- Hoàn chỉnh, sửa đổi, bổ sung các chương trình dạy, đào tạo để có thể áp
dụng sát thực tế hơn phù hợp với điều kiện và khả năng của trung tâm.
3. Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy.
Khi mà yêu cầu về chất lượng lao động đang được đòi hỏi rất cấp bách,
thì trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy được SELAC rất quan tâm. Tuy còn
gặp nhiều khó khăn trong công tác này, nhưng trung tâm cũng đã cố gắng để
có thể phần nào nâng cao trình độ của đội ngũ này. Bằng các phương hướng
hoạt động sau:
- Liên tục mở lớp tập huấn và bồi dưỡng kiến thức cho giáo viên.
- Cho đội ngũ giáo viên tham gia trực tiếp các lớp dạy của các phía nước
có xuất khẩu lao động tiên tiến, hay đưa giáo viên ra các nước tiếp nhận để
có thực tế.
- Cử giáo viên giảng dạy làm công tác quản lý lao động tại nước ngoài để
giáo viên có thể hiểu thêm về các lĩnh vực rồi từ đó áp dụng vào các bài
giảng cho lao động của mình chuẩn bị xuất khẩu.
- Liên tục tuyển các giáo viên, cán bộ có trình độ cao hơn để thay các giáo
viên không đủ trình độ và thiếu nhiệt tình.
4. Dạy nghề thích ứng với xuất khẩu lao động.
Thời gian qua lao động có nghề, đã qua đào tạo phần lớn được cung ứng
từ trong các nhà máy, xí nghiệp. Sự gia tăng quy mô lao động xuất khẩu làm
cho các doanh nghiệp cung ứng lao động gặp khó khăn trong việc tạo nguồn
lao động có kỹ thuật. Do đó SELAC cũng cần có giải pháp để khắc phục khó
khăn đó, khó khăn không chỉ của riêng SELAC. Vì vậy trung tâm đã xây
dựng chiến lược “dạy nghề thích ứng với xuất khẩu lao động”. Trung tâm
đã:
- Xây dựng lâu dài một hệ thống các chương trình đào tạo mang tính chiều
sâu để đưa vào chương trình dạy nghề đào tạo lao động xuất khẩu.
- Chủ động đào tạo, bồi dưỡng lao động có nghề trong các ngành hiện là
chủ lực có tỷ trọng lớn thường xuyên làm việc tại nước ngoài như: xây dựng,
cơ khí, điện, điện tử, dệt, may mặc…
- Hiện nay và các năm tới nghiên cứu kỹ thị trường lao động ngoài nước,
đặc biệt là những nước mà trung tâm có lao động đến làm việc, đưa ra những
dự báo để làm căn cứ xây dựng kế hoạch đào tạo phục vụ xuất khẩu lao
động.
5. Định hướng lâu dài tạo nguồn lao động kỹ thuật cao.
Không là ngoại lệ, trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC cũng
đang gặp phải bài toán là làm sao tạo được nguồn lao động kỹ thuật cao, làm
tăng tính cạnh tranh với các doanh nghiệp, công ty khác trong lĩnh vực hoạt
động của mình, đảm bảo chất lượng lao động khi tham gia làm việc tại nước
ngoài. Đây là vấn đề không đơn giản chút nào khi mà lao động của Việt
Nam còn yếu kém về nhiều mặt. Vì vậy cần có một định hướng cụ thể và lâu
dài cho bài toán này và SELAC cũng đã có lời giải cho bài toán:
- Từ thực trạng lao động của Việt Nam nói chung và của SELAC nói riêng,
qua tham khảo kinh nghiệm các nước trong khu vực, chúng ta cần có những
giải pháp hữu hiệu, nhằm chủ động hoàn toàn về nguồn và chất lượng trước
khi đưa đi làm việc ở nước ngoài.
- Trên cơ sở các thông tin thu nhận được từ các nước đối tác tiếp nhận lao
động của SELAC về mức lương, điều kiện sống, điều kiện làm việc, số
lượng cần tiếp nhận, cơ cấu ngành nghề, chất lượng lao động cũng như
những yếu tố cạnh tranh giữa các nước, các doanh nghiệp tại từng thị
trường, SELAC đã nghiên cứu xem xét kỹ làm căn cứ quan trọng trong việc
xây dựng kế hoạch đào tạo.
- Kế hoạch đào tạo nghề được SELAC gắn kết chặt chẽ với chương trình
đào tạo nghề của quốc gia tham gia đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động, có
vậy mới tận dụng được lợi thế về nguồn, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên
dạy nghề.
- Sớm điều chỉnh, bổ sung chương trình đào tạo. Xây dựng chương trình
đào tạo, nâng cao tay nghề phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động
quốc tế và các hợp đồng lao động.
II. Một số kiến nghị.
1. Kiến nghị đối với trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC.
Các kiến nghị lập kế hoạch.
- Xây dựng và hoàn thiện các chương trình và giáo trình dạy nghề. Xây
dựng quy mô đào tạo liên thông giữa trung tâm và các trường dạy nghề.
- Đa dạng hoá các đối tượng và hình thức thực hiện để tăng tối đa số lượng
lao động xuất khẩu. Đồng thời mở rộng phạm vi ngành nghề cho các đối
tượng xuất khẩu lao động với phương châm sẵn sàng đáp ứng những nghề
phía nước ngoài cần và phù hợp với điều kiện cũng như khả năng của trung
tâm, trong đó tập trung vào các ngành nghề truyền thống có nhiều lợi thế
như: thợ cơ khí, sửa chữa máy móc, xây dựng, công nghiệp nhẹ, vận hành
máy móc, dịch vụ…
- Cần tích cực đào tạo nguồn lao động mang tính đón đầu và dự trữ để xuất
khẩu. Phải trang bị cho người lao động vững vàng về kiến thức, về chuyên
môn, ngoại ngữ, hiểu biết quan hệ chủ thợ trong nền kinh tế thị trường đồng
thời có biện pháp để nâng cao trình độ văn hoá.
- Có các chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu lâu dài để tăng thêm số
lương lao động có thể xuất khẩu.
Kiến nghị về tổ chức và điều hành.
- Tăng cường các công tác tuyên truyền thông tin về những mặt tích cực
của việc xuất khẩu lao động, hạn chế đưa những thông tin thiếu xác thực,
tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự nghiệp xuất khẩu lao động cũng như tâm lý
gia đình, xã hội và bản thân người lao động.
- Cần gắn trách nhiệm giữa trung tâm với các chính quyền địa phương các
cấp trong việc tạo nguồn, tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng, huy
động vốn cho người lao động vay, để chất lượng lao động được nâng cao,
hạn chế các tiêu cực, cò mồi, lừa đảo.
- Huy động các nguồn vốn, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề
và năng lực cũng như quy mô đào tạo.
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ giáo viên giảng dạy, cán bộ quản lý. Đa
dạng hoá các hình thức dạy nghề để đáp ứng nhu cầu tuyển lao động của các
thành phần kinh tế.
- Chủ động chuẩn bị đủ nguồn lao động phù hợp với yêu cầu của thị
trường. Đối với lao động giản đơn không nghề thì tập trung tuyển từ các
vùng nông thôn, đối với lao động có nghề thì tập trung tuyển trong các xí
nghiệp và các cơ sở đào tạo.
Công tác kiểm tra.
- Cần tăng cường công tác quản lý lao động tại nước ngoài để có các giải
pháp kịp thời khi xảy ra tranh chấp phát sinh.
- Giám sát chặt chẽ công tác đào tạo, giáo dục định hướng…để các chương
trình đạt được kết quả tốt nhất.
2. Kiến nghị đối với Nhà nước.
- Nghiên cứu ban hành và hoàn thiện các chính sách, cơ chế phù hợp
khuyến khích các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và người lao động cùng đầu
tư, chuẩn bị nguồn lực phục vụ cho xuất khẩu lao động.
- Hoàn chỉnh sớm về pháp chế để hạn chế tối đa các tiêu cực phát sinh làm
ảnh hưởng đến Việt Nam.
- Cần sớm hình thành Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động và nhanh chóng
thành lập Hiệp hội xuất khẩu lao động để tạo ra mặt bằng bình đẳng, hỗ trợ
lẫn nhau giữa các doanh nghiệp.
- Nhà nước cần nghiêm túc phối hợp ban hành các biện pháp đồng bộ để
ngăn ngừa và xử lý nghiêm khắc những công dân Việt Nam đi xuất khẩu lao
động coi thường kỷ cương phép nước, tuỳ tiện phá bỏ hợp đồng, bỏ trốn làm
ăn phi pháp, phải có biện pháp chế tài về dân sự và kinh tế đối với số công
dân này kể cả sau khi họ bị trục xuất về nước hoặc về nước sau khi đã kiếm
đủ tiền.
- Đẩy mạnh các mô hình đào tạo cho thanh niên dân tộc nội trú, cho lao
động nông thôn, cho bộ đội xuất ngũ…để tăng thêm lao động có điều kiện
phục vụ sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu lao động.
- Cần chấn chỉnh các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và làm nghiêm hơn
đối với các doanh nghiệp vi phạm, cố gắng xây dựng một số doanh nghiệp
tầm cỡ quốc tế về xuất khẩu lao động trong thời gian tới.
- Nhân rộng các mô hình trong thời gian tới như: mô hình liên kết doanh
nghiệp-địa phương, mô hình các địa phương chỉ đạo xuất khẩu lao động như
thế nào, có vấn đề gì cần điều chỉnh.
- Đôn đốc, kiểm tra các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong việc chuẩn
bị nguồn lao động. Các doanh nghiệp phải lập kế hoạch xuất khẩu lao động
hàng năm và dài hạn, phối hợp với các địa phương để chuẩn bị nguồn lao
động đưa vào đào tạo chuyên môn, ngoại ngữ phù hợp với yêu cầu thị
trường, tập trung đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn, kỹ thuật
và ngoại ngữ cho người lao động xuất khẩu ở hệ thống các trường công nhân
kỹ thuật và dạy nghề.
- Các ngân hàng cần tiếp tục có chính sách cởi mở và tạo điều kiện cho
người lao động vay vốn thuận lợi hơn.
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo cho người lao động,
đẩy nhanh việc cấp hộ chiếu, cần có những chế tài mạnh với lao động vi
phạm hợp đồng. Từ trước đến nay, chính sách ban hành có rất nhiều chế tài
đối với doanh nghiệp xuất khẩu lao động nhưng còn rất ít chế tài đối với lao
động vi phạm như bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp. Đồng thời
cũng cần định hướng công tác thông tin, tuyên truyền, đặc biệt là cần đưa
những điển hình về cách làm hay và hạn chế những thông tin một chiều,
những mặt tiêu cực của xuất khẩu lao động.
KẾT LUẬN
Cùng sự phát triển chung của thế giới và khu vực, Việt Nam đã và đang
đạt được những thành tựu đáng tự hào về các lĩnh vực của cuộc sống. Trong
đó xuất khẩu lao động được coi là một lĩnh vực đầy mới mẻ nhưng cũng đã
đạt được những thành công không nhỏ. Đây là một ngành hứa hẹn một
tương lai tươi sáng cho kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Trung tâm
xuất khẩu lao động SELAC được thành lập với mục tiêu giúp người lao
động sang nước ngoài làm việc. Tuy chất lượng lao động trong những năm
qua là chưa cao, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng trung tâm đang có
những chiến lược phát triển rất hợp lý và lâu dài, hy vọng rằng với sự lãnh
đạo đúng đắn của giám đốc trung tâm, với sự nhiệt tình của đội ngũ nhân
viên trung tâm SELAC sẽ có được những kết quả khích lệ hơn.
MỤC LỤC
1. Giáo trình Khoa học quản lý- PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, PGS. TS
Nguyễn Thị Ngọc Huyền-Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật-Hà Nội,
2001.
2. Giáo trình Quản lý học kinh tế quốc dân- GS. TS Đỗ Hoàng Toàn, PGS.
TS Mai Văn Bưu-Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật-Hà Nội, 2001
3. Tạp chí: Lao động và xã hội-số 230+231+232, từ 1/1-15/1/2004- Bước
tiến mới trong sự nghiệp xuất khẩu lao động-Đức Tùng.
4. Tạp chí: Bản tin thị trường lao động- số 6/2000- Những nhân tố ảnh
hưởng đến xuất khẩu lao động- TS. Cao Văn Sâm.
5. Tạp chí: Lao động và xã hội- số 228+229, tháng 12/2003- Phấn đấu đưa
xuất khẩu lao động trở thành ngành kinh tế mũi nhọn- Lược ghi phát biểu
của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm tại hội nghị.
6. Tạp chí: Lao động và xã hội- số 206+207+208, tháng 2/2003- Xuất khẩu
lao động cơ hội và thách thức.- TS. Trần Văn Hằng.
7. Tạp chí: Lao động và xã hội-số 197, tháng 8/2002- Để đạt được mục tiêu
đưa 4 vạn lao động đi làm việc tại nước ngoài- TS. Trần Văn Hằng.
8. Tạp chí: Lao động và xã hội- số 197, tháng 8/2002- Nghị định về xuất
khẩu lao động trong thời gian tới- Hiền Lương.
9. Tạp chí: Lao động và xã hội- số 188, tháng 4/2002- Về xuất khẩu lao
động và chuyên gia- Trả lời bạn đọc.
10. Tạp chí: Kinh tế và phát triển-số 51, năm 2001- Đào tạo nguồn lao động
xuất khẩu- TS. Cao Văn Sâm.
11. Tạp chí: kinh tế Châu á Thái Bình Dương, số 2, tháng 4/2001- Một số
giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần tăng tích luỹ vốn ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
12. Tạp chí: Lao động và xã hội, số 4/01- Làm gì để đẩy mạnh xuất khẩu lao
động trong thời gian tới- Phí Thanh Bình.
13. Tạp chí: Kinh tế và phát triển, số 50/01- Mâý vấn đề về xuất khẩu lao
động- TS. Nguyễn Trịnh Kiểm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu tại trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC.pdf