Luận văn Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong các đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp của thành phố Hà Nội

Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước, mảnh đất ngàn năm văn hiến, trung tâm kinh tế, chính trị, hành chính và văn hóa của cả nước, nơi tập trung các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu, các bệnh viện. trọng điểm của cả nước. Các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp của Thành phố Hà Nội có vai trò rất quan trọng trong việc tham mưu, hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là lực lượng chủ đạo trong việc thực hiện chiến lược phát triển con người về thể chất, tinh thần và nguồn lực trí tuệ, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

pdf118 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 8697 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong các đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp của thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bản phải được lưu giữ trong sổ ghi biên bản theo qui định chung. Biên bản sẽ là cơ sở để kiểm tra, đánh giá việc chấp hành chế độ sinh hoạt, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách. Đồng thời, việc ghi biên bản đầy đủ về nội dung, diễn biến buổi sinh hoạt còn là cơ sở để đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ của cấp ủy cấp trên. Mỗi buổi sinh hoạt chi bộ phải thực hiện đúng các thủ tục qui định như: điểm danh con số đảng viên dự sinh hoạt, số vắng mặt và lý do vắng mặt, số đại biểu đến dự nếu có; cử chủ tọa và thư ký; đồng chí chủ tọa cần nói rõ mục đích, yêu cầu cuộc sinh hoạt, thông qua nội dung sinh hoạt rõ ràng, ngắn gọn để dành thời gian cho chi bộ thảo luận. Trong sinh hoạt phải phát huy dân chủ, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; tự phê bình và phê bình; giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Chi bộ cần dành nhiều thời gian thỏa đáng để đảng viên trong chi bộ phát biểu và thể hiện chính kiến của mình. Phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình, người chủ trì cần khéo léo gợi mở những vấn đề thiết thực để đảng viên thảo luận, tranh luận, tế nhị, động viên khích lệ đảng viên nói thẳng, nói thật chính kiến của mình, trình bày tâm tư nguyện vọng, những 97 khó khăn, vướng mắc của bản thân và gia đình. Người chủ trì cũng cần phải thật sự công tâm, khách quan, lắng nghe ý kiến đảng viên, bình tĩnh, cầu thị khi có những ý kiến phê phán có chiều hướng nặng nề, căng thẳng. Phải tôn trọng ý kiến của đảng viên, tôn trọng đối thoại, cởi mở, chân thành, trên tình đồng chí, tránh gò ép, gia trưởng, áp đặt chủ quan, mất dân chủ hay dân chủ hình thức. Với những đồng chí có sai lầm khuyết điểm, cần góp ý chân thành, thân ái giúp đỡ trên tình đồng chí để cùng tiến bộ. Những vấn đề cần biểu quyết nhưng còn có ý kiến khác nhau thì phải trao đổi, thảo luận kỹ trước khi biểu quyết. Trong khi thảo luận mọi đảng viên có quyền phát biểu và thể hiện chính kiến của mình, nhưng khi chi bộ ra nghị quyết thì phải chấp hành nghiêm chỉnh, nói và làm theo nghị quyết. Theo qui định của Điều lệ Đảng, ý kiến thiểu số của đảng viên được bảo lưu, có thể đề đạt lên cấp trên nếu thấy cần thiết. 3.2.4. Thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng theo đúng qui định của Điều lệ Đảng Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) của Đảng đã chỉ rõ, một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho tính lãnh đạo chưa mạnh, tính giáo dục chưa cao, tính chiến đấu giảm sút trong một số tổ chức cơ sở đảng hiện nay, là chưa thực hiện nghiêm túc, đầy đủ yêu cầu của các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng; nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được cụ thể hóa và thực hiện đầy đủ; tự phê bình và phê bình yếu, đoàn kết thống nhất chưa cao... Vì vậy, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phải thực hiện tốt các nguyên tắc trên bằng những giải pháp chủ yếu sau đây: Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt chi bộ theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật, khắc phục bệnh hình thức. Một là, xây dựng và thực hiện tốt qui chế làm việc của cấp ủy hoặc chi bộ. Điểm 12, Qui định số 23-QĐ/TW ngày 31/10/2007 của Bộ Chính trị về “Thi hành Điều lệ Đảng” có một số qui định về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đó nêu rõ các cấp ủy đảng, tổ chức đảng đều phải xây dựng qui chế làm việc bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện đúng trách nhiệm, quyền hạn được giao. Theo Qui định của Bộ Chính trị, nơi có chi ủy cần thiết phải xây dựng qui chế làm việc của chi ủy, nơi chưa có chi ủy thì xây dựng qui chế làm việc của chi bộ để cụ thể hóa Điều lệ Đảng, các qui định, hướng dẫn của Trung ương đối với hoạt động của chi ủy, chi bộ (hoặc bí thư, phó bí thư), đảng viên. Trong đó phải qui định cụ thể chế độ sinh hoạt định kỳ, trách nhiệm của cấp ủy, trách nhiệm của đảng viên, việc bảo đảm các quyền của đảng viên, chế độ báo 98 cáo, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát các mối liên hệ… Đảng viên dù ở cương vị nào cũng phải tham gia đầy đủ các kỳ sinh hoạt của chi bộ theo qui định của Điều lệ Đảng, kể cả các chi bộ có đảng viên là cán bộ cấp cao sinh hoạt. Hai là, vừa nâng cao trình độ, vừa nâng cao tinh thần trách nhiệm của của cấp ủy viên, trước hết là bí thư trong việc chuẩn bị nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ. Nội dung sinh hoạt phải thiết thực, cụ thể, tránh hình thức. Những nơi có chi ủy cần phải duy trì chế độ hội ý cấp ủy và phân công cấp ủy viên chuẩn bị kỹ nội dung sinh hoạt chi bộ. Nơi chưa có cấp ủy, bí thư chi bộ phải trực tiếp chuẩn bị kỹ nội dung sinh hoạt chi bộ theo hướng dẫn của cấp trên và tình hình thực tế của chi bộ. Cần đổi mới và nâng cao chất lượng điều hành sinh hoạt để các kỳ sinh hoạt chi bộ không khô khan, cứng nhắc, công thức. Tăng cường sinh hoạt theo chuyên đề để đảng viên có điều kiện thảo luận nghiên cứu sâu những vấn đề đặt ra trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của chi bộ. Nâng cao chất lượng ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của chi bộ, đảm bảo tính lãnh đạo của tổ chức đảng. Ba là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ được giao và tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên, nắm đầy đủ những thông tin cần thiết về đảng viên để phục vụ cho sinh hoạt chi bộ. Đây là nội dung rất quan trọng đối với chi bộ, vì chi bộ trực tiếp quản lý đảng viên, giao nhiệm vụ cho đảng viên và sát với đảng viên nhất. Kinh nghiệm nhiều nơi, xảy ra tình trạng đảng viên thoái hóa, biến chất, tham nhũng, vi phạm tư cách, phẩm chất của người đảng viên là do tổ chức đảng và cấp ủy hữu khuynh, buông lỏng quản lý, thiếu biện pháp kiểm tra, giám sát cụ thể để đấu tranh ngăn ngừa có hiệu quả từ khi sai phạm mới manh nha. Chính vì thế, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đảng viên chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để phòng ngừa vi phạm; tăng cường kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ được giao, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên, thường xuyên đưa những nội dung này vào sinh hoạt chi bộ. Thứ tư là, tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy cấp trên trực tiếp đối với tổ chức cơ sở đảng và vai trò của đảng ủy cơ sở đối với chi bộ trực thuộc. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong các cơ quan hành chính. Cấp ủy cấp trên vừa lãnh đạo, vừa định hướng nội dung sinh hoạt của chi bộ theo yêu cầu chung, vừa kiểm tra giám sát chi bộ thực hiện chế độ sinh hoạt theo định kỳ, thực hiện các nội dung, nguyên tắc sinh hoạt. Chỉ thông qua việc tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, giám sát của cấp 99 ủy cấp trên mới nắm bắt được tình hình thực chất của chi bộ, uốn nắn kịp thời những hạn chế tiêu cực, giúp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Năm là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt chi bộ. Đây là hạn chế phổ biến của nhiều chi bộ trong cơ quan hành chính, sự nghiệp bởi tâm lý né tránh, ngại va cham, e dè, nể nang. Điều đó dẫn đến tình trạng trong sinh hoạt chi bộ thì không dám nói thẳng, nói thật trên tinh thần đồng chí, đến khi phát sinh mâu thuẫn thì thường là trầm trọng, khó điều hòa. Cần tạo ra bầu không khí dân chủ thảo luận, tranh luận, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, coi đó là chế độ thường xuyên. Cấp ủy, bí thư chi bộ, thủ trưởng cơ quan tôn trọng trí tuệ tập thể, lắng nghe, chắt lọc thông tin từ những ý kiến khác nhau để có kết luận đúng, phục vụ có hiệu quả cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành chung. Trong tự phê bình và phê bình nghiêm túc phải hướng vào trọng tâm là công tác xây dựng nội bộ đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, những vấn đề liên quan đến việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tình hình tư tưởng, công tác lý luận, đạo đức, lối sống của đảng viên. Để thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ, các cấp ủy đảng cần tập trung chỉ đạo các mặt sau đây: - Các chi bộ và cán bộ, đảng viên trước hết phải xuất phát từ tình hình và nhiệm vụ chính trị của Đảng, của cơ quan, đơn vị, từ việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi cá nhân đảng viên để xem xét ưu, khuyết điểm trong việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Trong các cơ quan nhà nước, cần căn cứ vào kết quả lãnh đạo việc chấp hành pháp luật, quản lý và điều hành các hoạt động của các cơ quan công quyền, đẩy mạnh cải cách nền hành chính theo hướng phục vụ dân, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, vi phạm dân chủ… để kiểm điểm. Đối với các đơn vị sự nghiệp cần phải căn cứ vào kết quả thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; trách nhiệm và lương tâm nhà giáo trong giáo dục, đào tạo con người, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với các cơ sở bệnh viện cần phải căn cứ vào kết quả lãnh đạo công tác khám chữa bệnh cho dân, tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân, giữ gìn y đức của đội ngũ bác sĩ và cán bộ, nhân viên để kiểm điểm. Đối với các cơ sở nghiên cứu khoa học, dịch vụ kinh tế - khoa học, kỹ thuật, cần dựa trên kết quả lãnh đạo công tác nghiên cứu đáp ứng mục tiêu phục vụ sản xuất và đời sống xã hội, lòng say mê, tận tụy nghiên cứu khoa học của cán bộ, nhân viên để kiểm điểm và đánh giá. 100 - Tự phê bình và phê bình phải nhằm giúp cho cán bộ, đảng viên thấy rõ ưu điểm để phát huy, khuyết điểm để khắc phục, sửa chữa với thái độ nghiêm túc, thực sự cầu thị; không ngừng nâng cao phẩm chất cách mạng, đạo đức, lối sống, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu trong công tác và đời sống xã hội. - Tự phê bình và phê bình và phê bình phải nhằm tăng cường đoàn kết, nhất trí trong Đảng. Phải luôn ghi nhớ lời dạy của Bác “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quí báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn là cơ sở để đảm bảo đoàn kết nhất trí trong Đảng. Cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc sinh hoạt Đảng; trung thành với Đảng và nhân dân; thực hiện đúng đắn và có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. - Tự phê bình và phê bình phải phải nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Mọi hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên đều vì lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân. Cho nên, phải lấy tinh thần và thái độ trách nhiệm đối với nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên mà phê bình. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu nêu cao phẩm chất cách mạng của mình trước quần chúng, kiên quyết chống quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, hách dịch, lợi dụng chức quyền xâm phạm lợi ích của quần chúng. Mặt khác, Đảng ta là của nhân dân, Đảng phải phát động quần chúng tích cực tham gia xây dựng Đảng, vì vậy phải có chủ trương, có cơ chế hữu hiệu để quần chúng nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát, phê bình tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước. - Để thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình đúng đắn và có chất lượng tốt, yêu cầu các cấp ủy tiếp tục chỉ đạo các chi bộ trong các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt phương châm, phương pháp và thái độ đúng đắn trong tự phê bình và phê bình. Trước hết tự phê bình và phê bình phải xuất phát từ lợi ích của Đảng và nhân dân, từ tình đồng chí thân ái; phải quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ, tránh lợi dụng dân chủ để phê bình, đả kích cá nhân và tổ chức, vô chính phủ hoặc lợi dụng phê bình để trù dập người khác… Tự phê bình, phê bình phải khách quan, đúng sự thật, không cường điệu ưu điểm cũng như khuyết điểm; phải có thái độ chân thành, cầu thị, có ý thức trách nhiệm và tinh thần xây dựng; không thành kiến cá nhân, bè phái, phê bình mang động cơ xấu, gây mất đoàn kết. Phê bình và tự phê bình phải khách quan, toàn diện, nói đúng, nói hết ưu điểm, khuyết điểm; nói rõ nguyên nhân để có biện pháp sửa chữa kịp thời. Nêu được ưu điểm, 101 khuyết điểm mới là bước đầu quan trọng, vấn đề phải chỉ rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan, vì đâu mà có ưu điểm, vì đâu mà mắc sai lầm và phải có biện pháp tổ chức sửa chữa cụ thể, thiết thực những sai lầm khuyết điểm. Tránh việc che dấu khuyết điểm, nhận khuyết điểm để đấy hoặc giả vờ sửa chữa để che mắt tổ chức, còn thì “đâu vẫn còn đấy”. Để khắc phục tình trạng trên, mọi đảng viên phải nâng cao ý thức tự giác để sửa chữa khuyết điểm; tổ chức đảng cần phải giúp đỡ, giám sát và tạo điều kiện cho đảng viên sửa chữa khuyết điểm tốt hơn. - Các cấp ủy phải chỉ đạo sinh hoạt chi bộ trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thực hiện tự phê bình và phê bình thành nền nếp, thường xuyên, định kỳ tổ chức cho quần chúng, các đoàn thể phê bình cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí cán bộ chủ chốt trong các cơ quan, đơn vị. Các cấp ủy đảng phải gương mẫu, nghiêm túc tự phê bình, tiếp thu ý kiến của đảng viên và quần chúng, Thực hiện tự phê bình và phê bình theo khẩu hiệu “trên trước, dưới sau, trong trước, ngoài sau”. Đồng thời phải chăm lo nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực cho cán bộ, đảng viên, để họ tự chủ, tự giác trong tự phê bình và phê bình. 3.2.5. Chăm lo bồi dưỡng phẩm chất và năng lực cho đội ngũ cấp ủy; kiện toàn và đổi mới mô hình tổ chức chi bộ, đảng bộ cơ sở Chất lượng cấp ủy phụ thuộc vào chất lượng của từng cấp ủy viên, đặc biệt là đồng chí bí thư chi bộ. Để chọn được cấp ủy có chất lượng, vấn đề quan trọng là bảo đảm quyền dân chủ thực sự để đảng viên lựa chọn và bầu được những đồng chí tiêu biểu có phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực tổ chức thực tiễn; có đạo đức, lối sống lành mạnh, được đảng viên và quần chúng tín nhiệm. Thông qua đại hội cần lựa chọn cho được đội ngũ cấp ủy viên, đặc biệt là đồng chí bí thư chi bộ có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ lãnh đạo, phù hợp với môi trường từng loại cơ quan, đơn vị, nhất là môi trường sư phạm, môi trường học thuật. Bí thư chi bộ phải là đảng viên có trình độ chuyên môn và phải có các phẩm chất ngang tầm với thủ trưởng đơn vị, có như vậy, công tác lãnh đạo của chi bộ đối với đơn vị, mới đạt được hiệu quả, chất lượng hoạt động của chi bộ mới được nâng cao. Những nơi có điều kiện cần để đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Mặc dù, đội ngũ trưởng phó đơn vị bận công tác chuyên môn, nhưng nhờ có uy tín chuyên môn và có vị thế là người quản lý mà việc xây dựng và triển khai nhiệm vụ của chi bộ kịp thời, hiệu quả hơn. Đội ngũ cấp ủy viên phải tiêu biểu cho phẩm chất, trí tuệ của đảng viên trong chi bộ, nên phải lựa chọn những đồng chí có năng lực, có trình độ, 102 trẻ tuổi, nhiệt tình công tác, có triển vọng phát triển để chuẩn bị đội ngũ kế cận. Cần lựa chọn đội ngũ cấp ủy, trước hết là người bí thư chi bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có đủ trình độ, năng lực, nhất là có tinh thần trách nhiệm cao, giàu nhiệt tình. Phẩm chất, năng lực, trình độ của đội ngũ cấp ủy, đặc biệt là bí thư chi bộ quyết định chất lượng sinh hoạt Đảng và hoạt động của chi bộ. Họ là những người tiếp thu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, truyền đạt đến mọi đảng viên trong chi bộ, đồng thời vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cơ sở. Đây cũng là những người có trách nhiệm xây dựng nội dung, lựa chọn hình thức, tổ chức, điều khiển sinh hoạt chi bộ. Đồng thời chính họ tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết của chi bộ. Vì vậy, lựa chọn đúng những đồng chí có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, có trình độ, năng lực tốt, có sức khỏe, được cán bộ, đảng viên và quần chúng tín nhiệm, đồng thời thường xuyên được rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực công tác đảng là cực kỳ quan trọng. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy còn phải thường xuyên chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng, kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức mới cho đội ngũ chi ủy viên, trước hết là bí thư chi bộ. Mặc dù đảng viên và các cấp ủy viên trong các chi bộ cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Hà Nội, hầu hết đều có trình độ lý luận, trình độ kiến thức khoa học, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ tương đối cao, nhưng nghiệp vụ, năng lực công tác đảng, công tác đoàn thể nếu không được chăm lo bồi dưỡng thì vẫn gặp khó khăn trong công tác. Nhiều trường hợp khi tiến hành các hoạt động và sinh hoạt đảng, có cấp ủy tỏ ra lúng túng trong chỉ đạo thực hiện chủ trương, nhiệm vụ chính trị, các qui định, nguyên tắc sinh hoạt đảng, thường vấp phải những khuyết điểm, thiếu sót không đáng có. Vì thế phải coi trọng việc bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao nhận thức, năng lực vận dụng, cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên cho cấp ủy viên cơ sở và bí thư chi bộ. Hằng năm, cấp ủy các cấp cần phải có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, về kỹ năng tổ chức và điều hành chi bộ cho cấp ủy các cấp, nhất là chức danh bí thư, phó bí thư chi bộ; trước và sau đại hội chi bộ phải có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ để họ sẵn sàng và làm tốt công tác được giao. Thường xuyên tổ chức các cuộc thi bí thư chi bộ giỏi; tổ chức giao lưu, tọa đàm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm giữa các bí thư chi bộ trong và ngoài cơ quan, đơn vị. Mặt khác, cần phải có chế độ, chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho bí thư chi bộ. Đội ngũ chi ủy, bí thư chi bộ làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, làm vì trách nhiệm, do tập thể 103 tin cậy, chi bộ giao phải làm, nhưng thực tế nhiều đồng chí bận việc chuyên môn nên mặc dù rất nhiệt tình, có trách nhiệm cao vẫn khó đảm bảo chất lượng công tác Đảng. Chất lượng sinh hoạt chi bộ cũng phụ thuộc nhiều vào mô hình tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan, đơn vị. Do vậy, cần hoàn thiện mô hình tổ chức và phương thức tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng gắn tổ chức cơ sở đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, chăm lo xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh. Các cấp ủy cần rà soát, kiện toàn và sắp xếp tổ chức đảng ở cơ sở một cách đồng bộ, thống nhất với hệ thống chính trị và các đơn vị sự nghiệp theo hướng: - Đối với các tổ chức đảng trong các cơ quan hành chính, tập trung củng cố các chi bộ cơ quan ở các xã, phường, thị trấn theo Hướng dẫn số 10-HD/TCTW về thành lập cơ quan, xã, phường, thị trấn. Để nâng cao chất lượng hoạt động của các loại hình chi bộ này, trong khi Trung ương chưa có qui định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ chi bộ cơ quan hành chính ở xã, phường, thị trấn, cần vận dụng Qui định 98-QĐ/TW ngày 22-3- 2004 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các cơ quan để xây dựng qui chế công tác. Về tổ chức, chi bộ cơ quan hành chính ở xã, phường, thị trấn có nơi đông đảng viên (từ 50 đảng viên trở lên) thường tổ chức chi bộ ghép nhiều bộ phận của hệ thống chính trị ở cơ sở, có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, cho nên cũng gặp không ít khó khăn trong sinh hoạt. Vì vậy, nếu nơi nào có đông đảng viên (50 đảng viên trở lên), nên xin ý kiến cấp trên thành lập đảng bộ bộ phận có các chi bộ trực thuộc. Những chi bộ ghép sinh hoạt chung giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể thì có thể thành lập các tổ đảng và tăng cường thêm sinh hoạt tổ đảng để nội dung sinh hoạt sát với nhiệm vụ chuyên môn hơn. Đối với các tổ chức đảng trong các cơ quan hành chính cấp quận, huyện, thị xã và cơ quan Ủy ban Nhân dân Thành phố, các sở, ban, ngành của Thành phố cũng cần phải sắp xếp lại cho phù hợp với cải cách hành chính nhà nước, đảm bảo chi bộ lãnh đạo sát nhiệm vụ chuyên môn, thuận tiện cho sinh hoạt Đảng. - Trong tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị sự nghiệp như trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu... các chi bộ độc lập trong một đơn vị cũng có nhiệm vụ chuyên môn riêng nên giữ gìn nền nếp, đổi mới nội dung sinh hoạt thuận lợi hơn. Trong những chi bộ độc lập có đông đảng viên, sinh hoạt thường sôi nổi, nhưng với chi bộ ít đảng viên thì sinh hoạt kém khí thế nên dễ diễn ra tình trạng sinh hoạt qua loa và thường kết hợp với sinh hoạt chuyên môn, các cơ sở đảng nên tổ chức mô hình chi bộ ghép. So với các chi bộ độc lập, chi bộ ghép ở các khoa, tổ bộ môn, các phòng, ban gặp khó khăn hơn trong việc duy trì nền nếp sinh hoạt. Với các chi bộ ghép từ những đảng viên chuyên môn khác nhau, 104 đảng viên rất khó tham gia ý kiến, chất lượng lãnh đạo không cao. Giải pháp tốt nhất cho những chi bộ ghép đông đảng viên là nên tổ chức các tổ đảng trong mỗi đơn vị, để dễ bố trí sinh hoạt và gắn với nhiệm vụ chuyên môn hơn. Trong sinh hoạt chi bộ ghép có sự phối hợp công tác của nhiều mảng chuyên môn khác nhau, nên trước khi sinh hoạt, chi ủy cần tham khảo ý kiến các bộ phận chuyên môn để lựa chọn nội dung phù hợp, thiết thực. Trong các tổ chức cơ sở đảng ở các trường đại học, cao đẳng...có một vấn đề khó là đảng viên trong sinh viên thường được ghép sinh hoạt với chi bộ khoa, ban, phòng, cho nên có tình trạng đảng viên “trò” rất khó tham gia ý kiến và thể hiện vai trò bình đẳng đối với đảng viên “thầy”. Cho nên ở đây cần tổ chức mô hình đảng bộ bộ phận để các chi bộ sinh viên sinh hoạt độc lập thông qua sự chỉ đạo trực tiếp là đảng ủy bộ phận. 3.2.6. Thực hiện tốt công tác đảng viên nhằm bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống và nâng cao trình độ mọi mặt cho đảng viên Chất lượng sinh hoạt chi bộ phụ thuộc vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ đảng viên, vì vậy để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phải tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên; thực hiện tốt việc phân công và quản lý đảng viên. Thường xuyên giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống tốt đẹp cho đảng viên. Tăng cường công tác tư tưởng, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 06-CT/TW ngày 7-11-2006 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực hiện lời dạy của Bác Hồ thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Muốn vậy phải xây dựng nội qui, qui chế, qui định đầy đủ, đúng đắn để cán bộ, đảng viên thực hành dân chủ. Tất cả mọi cán bộ, đảng viên phải tập trung mọi nỗ lực nâng cao ý thức dân chủ, ra sức bồi đắp năng lực thực hành dân chủ một cách thiết thực, nói ít làm nhiều, nói đi đôi với làm. Không chỉ chú trọng nhận thức đúng tấm gương đạo đức mà còn chú trọng làm theo tấm gương của Người, hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đối với đảng viên trong các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp phải nâng cao ý thức phục vụ nhân dân, khắc phục bệnh hành chính, cửa quyền; nâng cao chất lượng công tác và phục vụ, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Phải xây dựng những qui định, cụ thể hoá những tiêu chuẩn thế nào là học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để cán bộ đảng viên tự nguyên, tự giác phấn đấu, đồng thời căn cứ vào đó để đảng viên tự xem xét, đánh giá về mức độ rèn luyện phấn đấu của mình. Nội dung phấn đấu rèn luyện của đảng viên phải theo những yêu cầu sau đây: 105 - Thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, nghị quyết của Đảng, Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước, lấy đó làm cơ sở để tăng cường sức mạnh của tổ chức đảng, củng cố kỷ luật, kỷ cương của Nhà nước. - Trên cơ sở thống nhất về lập trường, quan điểm, giữ vững nguyên tắc trong Đảng, từng chi bộ đến toàn Đảng phải đẩy mạnh sinh hoạt tư tưởng, lý luận, đảm bảo tự do thảo luận, tranh luận, tôn trọng chân lý khoa học, nêu cao trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên đối với Đảng, với xã hội và với nhân dân. - Thực hành dân chủ trong Đảng phải xây dựng Đảng mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó phải đặc biệt chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức, lối sống, làm cho văn hóa dân chủ, văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức thấm sâu vào ý thức từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức đảng và toàn Đảng. - Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ gắn với cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn với kỷ niệm 40 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên trọng yếu của các chi bộ, các tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Yêu cầu học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác phải thực chất, bằng những việc làm cụ thể và thiết thực. Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên; phân công, quản lý đảng viên; kiểm tra, giám sát và đánh giá đảng viên. Chi bộ là cấp tổ chức trực tiếp tiến hành công tác đảng viên, sinh hoạt chi bộ có tác động trực tiếp đến sự trưởng thành của từng đảng viên và chất lượng đội ngũ đảng viên. Với trách nhiệm đó, các chi bộ chú trọng vào công tác kết nạp, phát triển đảng viên mới trong cán bộ, giáo viên, sinh viên. Đội ngũ trí thức, giáo viên, bác sĩ, đội ngũ cán bộ có chất lượng cao là đảng viên tăng sẽ phát huy được vai trò của Đảng trong công tác chuyên môn, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ sẽ được nâng lên, sinh hoạt Đảng sẽ thuận lợi và được nâng cao về chất hơn. Trong các chi bộ ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, đảng ủy nhà trường và các chi bộ cần chủ động kết hợp với đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nắm bắt tình hình, giao nhiệm vụ cho những sinh viên tích cực để thử thách và phát huy khả năng của họ. Nếu tích cực, chủ động, qua thử thách có thể kết nạp một số sinh viên tiêu biểu vào ngay những năm thứ hai, thứ ba. Đây là nguồn lực để nâng cao chất lượng hoạt động và sinh hoạt Đảng trong các chi bộ trong trường học. Mặt khác, các cấp ủy cần nắm tư tưởng, năng lực, sức khỏe và hoàn cảnh của 106 đảng viên trong chi bộ để tiến hành có hiệu quả việc phân công, giao nhiệm vụ và kiểm tra công tác, kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Đảng của từng đảng viên một cách cụ thể. Thực hiện tốt việc phân công, giao nhiệm vụ cụ thể cho đảng viên; thường xuyên đôn đốc, giúp đỡ và kiểm tra sự phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của đảng viên để kịp thời uốn nắn, động viên khích lệ, chính là làm cho nội dung sinh hoạt chi bộ thêm phong phú, thiết thực, có chất lượng hơn. Chất lượng sinh hoạt chi bộ phụ thuộc vào sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy cơ sở và sự chuẩn bị chu đáo của ban chi ủy về nội dung và việc cung cấp thông tin cho đảng viên và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, về thời gian sinh hoạt... Chất lượng sinh hoạt chi bộ còn phụ thuộc vào trình độ, tinh thần trách nhiệm tham gia lãnh đạo tập thể, đấu tranh khắc phục những hiện tượng tiêu cực, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong chi bộ của mỗi đảng viên, nhất là đồng chí bí thư chi bộ. Đảng không chấp nhận những "đảng viên đặc biệt", coi thường sinh hoạt chi bộ, đến họp chi bộ với tư cách cấp trên, thủ trưởng... Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII chỉ rõ: "Cải tiến sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, mỗi đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo, phải chịu sự giám sát của chi bộ về ý thức chấp hành đường lối, chính sách, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng và đạo đức, lối sống, quan hệ với quần chúng ở nơi làm việc và nơi ở" [25, tr. 27]. 3.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo, hướng dẫn và kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với sinh hoạt chi bộ Nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Sự lãnh đạo của cấp trên trước tiên thể hiện ở việc nghiên cứu và ban hành những chính sách, quy định đúng đắn làm chuẩn mực hướng dẫn hoạt động của chi bộ trong các đơn vị cơ sở. Sự lãnh đạo của cấp trên thể hiện ở sự gương mẫu trong công cuộc đổi mới, nhất là đổi mới tư duy, đổi mới về tổ chức và cán bộ, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của chính ngay cấp trên đối với chi bộ trong các đơn vị cơ sở. Cấp trên cần tập trung chỉ đạo chặt chẽ việc kiện toàn tổ chức chi bộ ở các đơn vị cơ sở, nhất là "các chi bộ yếu kém, đồng thời kiện toàn cấp ủy và tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết" thuộc các loại hình khác nhau. Đảng ủy, chi ủy và các bí thư chi bộ phải kịp thời nắm bắt những văn bản, hướng dẫn của Trung ương, của cấp ủy các cấp. Triển khai Hướng dẫn 05-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về "Một số vấn đề nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng”, cấp ủy các 107 quận, huyện, Đảng ủy Khối cơ quan, Ban Đại học trực thuộc Thành ủy, đã có hướng dẫn cụ thể về nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng trong các loại hình chi bộ cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Các đảng ủy, chi ủy cơ quan, đơn vị phải tiếp tục triển khai và thực hiện tốt Hướng dẫn nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đồng thời, các cấp ủy cần phải chỉ đạo sát sao, thường xuyên sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm sinh hoạt chi bộ ở các cơ quan, đơn vị để làm tốt hơn. Mặt khác, cấp uỷ cấp trên tăng cường kiểm tra giám sát chế độ sinh hoạt và chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng. Có biện pháp cụ thể để theo dõi, giám sát, đôn đốc các chi bộ, đảng bộ giữ vững chế độ sinh hoạt và sinh hoạt có chất lượng. Chất lượng sinh hoạt chi bộ được quyết định chủ yếu bởi trình độ, kinh nghiệm công tác đảng, tinh thần trách nhiệm, tác phong làm việc khoa học, dân chủ của ban chi ủy và đội ngũ đảng viên. Nhưng sự chỉ đạo sát sao, sự giúp đỡ và kiểm tra thường xuyên của đảng ủy cơ sở có vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Vì vậy, đảng ủy cấp trên cần phân công đảng ủy viên phụ trách các chi bộ trực thuộc, tham gia đầy đủ các kỳ sinh hoạt của chi bộ mà mình phụ trách, vừa hướng dẫn, chỉ đạo, rút kinh nghiệm về sinh hoạt chi bộ, vừa nắm tình hình sinh hoạt chi bộ, qua đó giúp đảng ủy nắm chắc tình hình để có chủ trương đúng trong lãnh đạo, chỉ đạo. Các đồng chí đảng ủy viên trong các tổ chức cơ sở đảng ở các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp hầu hết là cán bộ chủ chốt, công tác chuyên môn thường choán hết thời gian, trong khi công tác đảng chỉ kiêm nhiệm, nếu phụ trách nhiều chi bộ thì đảng ủy viên phải tham gia nhiều cuộc sinh hoạt trong một tháng. Vì vậy, để tạo điều kiện cho các đồng chí cấp ủy viên tham gia sinh hoạt thường xuyên với các chi bộ cần phải có qui chế làm việc chặt chẽ và có kế hoạch công tác khoa học. Cấp ủy cấp trên, đặc biệt là đảng ủy cơ sở cần định kỳ (3 tháng hoặc 6 tháng) một lần tiến hành kiểm tra các chi bộ về thực hiện chế độ sinh hoạt chi bộ; kiểm tra tình hình đảng viên tham gia sinh hoạt, nhất là đảng viên đang còn trong độ tuổi tham gia sinh hoạt với các đoàn thể, đảng viên là lãnh đạo, quản lý tham gia sinh hoạt tại chi bộ; kiểm tra tình hình thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, nội dung, hình thức sinh hoạt. Thông qua kiểm tra kịp thời biểu dương, khen thưởng tổ chức đảng và đảng viên làm tốt, phê bình những tổ chức và cá nhân làm chưa tốt. Cấp trên trực tiếp của chi bộ trong các đơn vị cơ sở đảng theo chức trách của mình cần tiến hành khảo sát từng loại chi bộ, đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân để có biện pháp đổi mới, chỉnh đốn phù hợp. Cấp ủy cơ sở và cấp trên trực tiếp của tổ chức chi 108 bộ trong các đơn vị cơ sở đảng cần phải đổi mới việc phân tích, đánh giá chất lượng các tổ chức chi bộ trong các đơn vị cơ sở đảng và đảng viên. Sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên đối với cơ sở là phải thường xuyên chú trọng đào tạo và quản lý cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, chú trọng tổng kết, phổ biến kinh nghiệm của những điển hình tiên tiến về tổ chức sinh hoạt chi bộ; kịp thời phát hiện những khó khăn, lệch lạc ở cơ sở để uốn nắn, giúp đỡ. Khi cần thiết cấp trên cử một số cán bộ có phẩm chất, kiến thức, năng lực và kinh nghiệm để tăng cường cho cơ sở trong thời gian cần thiết. Tác dụng quan trọng của công tác kiểm tra của cấp uỷ cấp trên đối với sinh hoạt chi bộ là thực hiện chức năng lãnh đạo. Các chi bộ không sinh hoạt thì hoạt động của Đảng coi như ngưng trệ, mọi chủ trương, đường lối không được thực hiện. Cho nên cấp uỷ các cấp coi đây là nội dung nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng, cần phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả. Nâng cao chất lượng các chi bộ, các tổ chức cơ sở đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện nay là một trong những vấn đề bức xúc của công tác xây dựng Đảng. Chỉ có trên cơ sở nắm vững lý luận và những kinh nghiệm thực tiễn, với trách nhiệm đầy đủ của cấp ủy các cấp và của từng đảng viên thì mới tạo ra được những tổ chức cơ sở đảng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng hiện nay. 109 KẾT LUẬN Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước, mảnh đất ngàn năm văn hiến, trung tâm kinh tế, chính trị, hành chính và văn hóa của cả nước, nơi tập trung các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu, các bệnh viện... trọng điểm của cả nước. Các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp của Thành phố Hà Nội có vai trò rất quan trọng trong việc tham mưu, hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là lực lượng chủ đạo trong việc thực hiện chiến lược phát triển con người về thể chất, tinh thần và nguồn lực trí tuệ, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tổ chức cơ sở đảng và các chi bộ trực thuộc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của thành phố Hà Nội là hạt nhân chính trị, có vai trò lãnh đạo cán bộ, đảng viên tổ chức và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Tổ chức đảng chỉ thể hiện và thực hiện tốt vai trò của nó khi chất lượng sinh hoạt được thường xuyên nâng cao. Sinh hoạt chi bộ có chất lượng mới làm cho đường lối, chính sách của Đảng được thực hiện, nhiệm vụ chính trị của chi bộ được triển khai, trí tuệ và trách nhiệm của đảng viên được phát huy, kỷ luật của Đảng được tăng cường, quan hệ giữa đảng và quần chúng nhân dân được củng cố và phát triển. Cho nên, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp ở Thành phố Hà Nội hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng. Sinh hoạt chi bộ trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Thành phố Hà Nội thời gian gần đây tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng nhìn chung tình hình sinh hoạt trong chi bộ vẫn còn những hạn chế, bất cập. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, khuyết điểm đó là do nhận thức của một bộ phận cán bộ cấp ủy, đảng viên nhận thức về sinh hoạt chi bộ chưa đầy đủ; năng lực và trình độ công tác đảng của một bộ phận cấp ủy còn hạn chế, chưa quyết tâm đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt; công tác chỉ đạo của các cấp ủy chưa thực sự tập trung, kiên quyết và dứt điểm đối với những chi bộ, đảng bộ cơ sở yếu kém trong sinh hoạt. Để khắc phục có hiệu quả những tồn tại, hạn chế, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, cấp ủy các cấp của thành phố Hà Nội và tổ chức đảng trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp cần thống nhất quan điểm định hướng, tiến hành đồng bộ các giải pháp, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc và kiểm tra sinh hoạt chi bộ. Trong đó cần tập trung chỉ đạo các cơ sở đảng đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu 110 của Đảng về “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đội ngũ đảng viên” để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ trọng tâm, có tính đột phá là nâng cao chất lượng công tác cán bộ và cải cách hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực hiệu quả; nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; phát huy y đức, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; nghiên cứu nhiều đề tài khoa học có chất lượng cao... Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Hà Nội gắn với đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật, khắc phục tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu. Đồng thời, phải kết hợp giữa sự chủ động, sáng tạo của chi bộ và cơ sở đảng với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên; giữa tổ chức đảng với chuyên môn và các đoàn thể quần chúng trong cơ quan, đơn vị. Thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các cấp ủy và đảng viên về vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng, các chi bộ và sự cấp thiết phải nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Trong đó, các cấp ủy cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, chăm lo giáo dục, rèn luyện phẩm chất tốt đẹp của người cộng sản, kiến quyết đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ để cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trong sinh hoạt chi bộ phải thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đảm bảo tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu, thể hiện rõ nét vai trò và hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng đối với chính quyền, đoàn thể và công tác chuyên môn. Các cấp ủy đảng cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện định kỳ sinh hoạt chi bộ; nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực tổ chức, điều hành sinh hoạt; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ công tác đảng, năng lực lãnh đạo và điều hành cho đội ngũ chi ủy và bí thư chi bộ; khẩn trương kiện toàn, tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp theo hướng tinh gọn, hợp lý... Hiện nay, toàn Đảng đang tập trung cho công tác chuẩn bị đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, các cấp ủy đảng của Thành phố cần tăng cường chỉ đạo, với nỗ lực cao nhất nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, trọng tâm là nâng 111 cao chất lượng đại hội đảng các cấp, tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong sinh hoạt chi bộ ở các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp của Thành phố Hà Nội. 112 DANH LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đức Anh (2006), "Nâng cao chất lượng hoạt động chi bộ ở trường cao đẳng, đại học", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 7). 2. (2002), 300 câu hỏi và trả lời về tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Ban Bí thư Trung ương (2007), Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 30-3-2007 của về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. 4. Ban Tổ chức Trung ương (1973), Ra sức nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, Nxb Sự thật, Hà Nội. 5. Ban Tổ chức Trung ương (1979), Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, Nxb Sự thật, Hà Nội. 6. Ban Tổ chức Trung ương (1984), Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội. 7. Ban Tổ chức Trung ương (1984), Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội. 8. Ban Tổ chức Trung ương (2004), Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, tập 1, tập 2, Hà Nội. 9. Ban Tổ chức Trung ương (2004), "Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên", tập 1, Tạp chí Xây dựng Đảng. 10. Ban Tổ chức Trung ương (2005), "Hướng dẫn đại hội đảng bộ các cấp", Tạp chí Xây dựng Đảng (số 3). 11. Ban Tổ chức Trung ương, Hướng dẫn số 05-HD/BTCTW về nội dung sinh hoạt trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng. 12. Ban Tổ chức Trung ương Đảng (2006), "Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên", Tập 2, Tạp chí Xây dựng Đảng. 13. Ban Tổ chức Trung ương (2006), Hướng dẫn số 57-HD/BTCTW ngày 16/3/2006 Một số vấn đề nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. 14. Ban Tổ chức Trung ương (2007), Hướng dẫn số 05-HD/BTCTW ngày 25/5/2007 về ''Nội dung sinh hoạt chi bộ trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng" 15. Ban Tổ chức Trung ương (2008), Hướng dẫn số 3731-CV/BTCTW ngày 16/4/2008 về việc hướng dẫn bổ sung một số nội dung sinh hoạt chi bộ gắn với việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 113 16. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Hướng dẫn số 34-HD/BTGTW ngày 12/3/2008 về nội dung sinh hoạt chi bộ nhân dịp kỷ niệm 60 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc và kỷ niệm 118 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. 17. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Tài liệu bồi dưỡng công tác Đảng cho bí thư chi bộ và cấp uỷ viên cơ sở. 18. Giáp Thị Chỉ (2006), "Sinh hoạt chi bộ xã ở Lai Châu", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 12). 19. Chín chương trình công tác của Thành ủy Hà Nội khóa XIV. 20. David Osborne và Ted Gaebler (1997), Đổi mới hoạt động của Chính phủ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 21. Tuấn Dũng (2000), "Nên sinh hoạt chi bộ như thế nào", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 2). 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Một số quy định chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội. 24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X và quy định thi hành Điều lệ Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 114 32. Đảng cộng sản Việt Nam (2006) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Hoàng Định (2004), "Sinh hoạt chi bộ nông thôn", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 7). 34. ThS. Đỗ Phương Đông (2008), "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 4). 35. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Tập bài giảng Hệ thống chính trị và nghiệp vụ công tác tổ chức, tập II, Hà Nội. 36. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Tập bài giảng nghiệp vụ công tác cán bộ, đảng viên, tập III, Hà Nội. 37. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Xây dựng Đảng (2007), Tập bài giảng Hệ thống chính trị và nghiệp vụ công tác tổ chức, tập II, Hà Nội. 38. Minh Hoàn (2007), "Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 9). 39. Minh Hiếu (2004), "Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng ở xã ngoại thành Hà Nội", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 10). 40. Nguyễn Công Huyên (2004), "Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ Công an Trung ương", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 4). 41. Nguyễn Công Huyên (2004), "Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong doanh nghiệp tư nhân", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 9). 42. Nguyễn Công Huyên (2004) "Một số kiến nghị từ khảo sát sinh hoạt của gần 1.200 chi bộ cơ quan", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 10). 43. Phạm Thu Huyền (2004), "Hà Nội nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở khu dân cư", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 4). 44. Phạm Thu Huyền (2004), "Hải Phòng nâng cao chất lượng hoạt động chi bộ khu dân cư", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 7). 45. Phạm Thu Huyền (2004), "Để chi bộ có đa số đảng viên là người hưu trí hoạt động tốt", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 10). 46. Phạm Thu Huyền (2006), "Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ quan khối đoàn thể", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 7). 47. Huyện ủy Từ Liêm (27/2/2009), Chuyên đề nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ thuộc Đảng bộ huyện Từ Liêm giai đoạn 2007-2010. 115 48. Bạch Kim (2005), "Chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ quan - Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 8). 49. GS Đặng Xuân Kỳ, Một số vấn đề lý luận về xây dựng Đảng đối với một đảng cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX03.10. 50. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 51. Đức Lượng - Chủ biên (2007), Về đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. C.Mác, Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 7, NXB CTQG, H, 1993 53. Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 54. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 56. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 59. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 60. Phương Minh (2008), "Những nét mới trong công tác xây dựng Đảng ở Hà Nội", Báo Nhân dân, (số ra ngày 06/6/2008). 61. PGS, TS Nguyễn Chí Mỳ (2006), Sự nghiệp đổi mới và đổi mới công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ Hà Nội, Hà Nội. 62. Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên), (2004), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 63. TS. Bùi Văn Ngần (2003), "Tăng cường sinh hoạt chuyên đề - một biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 8). 64. Trần Đình Nghiêm (chủ biên); Phạm Hữu Tiến, Đức Vượng, Nguyễn Thế Thắng (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội. 65. Hồng Phúc (2005), "Sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ khối Công nghiệp Hà Nội", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 8). 66. PGS, TS Tô Huy Rứa, Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay, Mã số KHXH 05.07. 116 67. Nguyễn Công Soái (2008), "Nâng cao năng lực của tổ chức cơ sở đảng ở Hà Nội", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 5). 68. Lê Hồng Sơn (2005), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ trong các trường phổ thông công lập tại thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ ngành Xây dựng Đảng, Hà Nội. 69. Phúc Sơn (2007), "Giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở đảng bộ Ban Cơ yếu Chính phủ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 9). 70. Xuân Sơn (2005), "Thấy gì từ sinh hoạt chi bộ nông thôn ở Hà Tây?", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 8). 71. Hà Văn Tải (2005), "Từ một Đại hội chi bộ ở khu dân cư", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 6). 72. Huỳnh Ngọc Thanh (2005), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ ở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ ngành Xây dựng Đảng, Hà Nội. 73. Thành ủy Hà Nội, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII, XIV Đảng bộ Hà Nội. 74. Thành ủy Hà Nội (2005), Hai mươi năm đổi mới ở Thủ đô Hà Nội - Định hướng phát triển đến năm 2010, Chương trình nghiên cứu khoa học 01X-13, Hà Nội. 75. Thành ủy Hà Nội (2008), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2008 và phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội năm 2009 của Thành phố Hà Nội, Hà Nội. 76. Thành ủy Hà Nội, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, số 139-BC/TU: 77. Thành ủy Hà Nội: Báo cáo sơ kết hai năm tổ chức thực hiện chương trình số 02- CTr/TU ”Tạo bước chuyển biến mạnh về xây dựng chỉnh đốn Đảng giai đoạn 2006- 2010), Hà Nội. 78. Thành ủy Hà Nội (2009), Báo cáo công tác xây dựng Đảng năm 2008 định hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2009, Hà Nội. 79. Thành ủy Hà Nội (2009), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng 9 tháng đầu năm; nhiệm vụ trọng tâm 3 tháng cuối năm 2009 của Thành phố Hà Nội, Hà Nội. 80. Phạm Văn Thảnh (2002), "Một số biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ", tạp chí Xây dựng Đảng, (số 5). 117 81. Phương Thảo (2004), "Biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở một số đảng bộ cơ quan", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 7). 82. Đỗ Đức Thiện (2005), "Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong Đảng bộ quân đội", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 8). 83. Trần Thu Thuỷ (2006), "Biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ bệnh viên", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 7). 84. Nguyễn Minh Tuấn (2004), "Sinh hoạt chi bộ theo chuyên đề trong quân đội", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 7). 85. Hà Triều (2008), "Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở cơ quan hành chính", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 1). 86. Cao Duy Tiến (2001), Nâng cao chất lượng sinh hoạt các chi bộ khối nghiên cứu, giảng dạy ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ ngành Xây dựng Đảng, Hà Nội. 87. Ngô Đức Tính (2006), Chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn, Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở trọng điểm năm 2006, Hà Nội. 88. Ngô Đức Tính (1992), Hướng dẫn nghiệp vụ công tác Đảng, tập I, II, Nxb Tư tưởng - Văn hoá, Hà Nội. 89. Ngô Đức Tính (1990), Hướng dẫn nghiệp vụ công tác Đảng, tập I, Nxb Tư tưởng – Văn hoá, Hà Nội. 90. Ngô Đức Tính (1991), Công tác bí thư chi bộ, Nxb Tư tưởng – Văn hoá, Hà Nội. 91. Ngô Đức Tính (1994), Công tác Đảng ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 92. Ngô Đức Tính (2001), Xây dựng Đảng về tổ chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 93. Ngô Đức Tính (2006), Chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn, xóm ở tỉnh Nam Định hiện nay, Đề tài khoa học cơ sở trọng điểm, Hà Nội. 94. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội. 95. Bùi Trọng Vỵ (2002), "Cải tiến nội dung sinh hoạt chi bộ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 6).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf186_8687.pdf
Luận văn liên quan