Hoạt động ngân hàng nói chung và tài trợ XNK nói riêng, trƣớc hết phải có
đội ngũ cán bộ và lãnh đạo có trình độ nghiệp vụ cao, trình độ quản lý, điều hành,
trung thực, tâm huyết với nghề nghiệp mới có thể hoàn thành nhiệm vụ, đạt kết quả
cao trong kinh doanh. Cán bộ tín dụng phải giỏi về nghiệp vụ, hiểu biết kiến thức về
thị trƣờng và pháp luật. Ngoài ra còn phải có đạo đức nghề nghiệp tốt (trung t hực,
tự giác, trách nhiệm) có tác phong giao dịch tốt. Trên cơ sở đó có thể hiểu biết về
khách hàng, quyết định đối tƣợng đầu tƣ cho vay đúng hƣớng, khách quan, có khả
năng cực, tạo lợi ích nhiều hơn cho cả khách hàng và ngân hàng. Đặc biệt, trong công
tác đào tạo cán bộ thực hiện nghiệp vụ tài trợ TMQT SHB cần chú ý một số điểm sau:
Thứ nhất , c ần sớm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tài trợ TMQT theo hƣớng
chuyên môn hoá , có n hƣ vậy SHB mới đào tạo đƣợc các chuyên gia chuyên sâu về
những mặt nghiệp vụ, đặc biệt là những mặt nghiệp vụ đặc thù tạo ra những sản
phẩm chất lƣợng cao nhƣ tài trợ TMQT. Trên cơ sơ tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ
kết hợp với quy hoạch cán bộ, việc lập kế hoạch đào tạo sẽ đúng đối tƣợng, hiệu
quả cao hơn. Mặt khác cũng trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ đƣợc công khai hoá,
cán bộ nhân viên có điều kiện chủ động trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ, phát
huy cao độ ý chí và nghị lực của mình, tự tin trong quá trình phấn đấu và công tác.
Thứ hai, cần đào tạo cán bộ trên cơ sở sử dụng cán bộ và thực hiện quy hoạch
cán bộ. SHB nên cấp nhiều chỉ tiêu học tập, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ tài trợ TMQT cho các cán bộ tại các đơn vị trực tiếp kinh doanh hơn nữa,
tránh tình trạng những nhân viên giao dịch với khách hàng hàng ngày lại ít có điều
75
kiện học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình. Đặc biệt, cần thƣờng xuyên tổ
chức các khoá đào tạo chuyên về nghiệp vụ tài trợ TMQT cho các đơn vị kinh
doanh. Việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ nghiệp vụ tài trợ TMQT sẽ
giúp họ có đƣợc những xử trí linh hoạt hơn đối với các tình huống có thể xảy ra,
qua đó nâng cao trình độ thẩm định ngăn ngừa rủi ro.
Bên cạnh các kế hoạch kinh doanh, tài chính, hàng năm SHB cũng cần có kế
hoạch đào tạo, đào tạo sát với yêu cầu trƣớc mắt và chuẩn bị cán bộ hoạt động trong
lĩnh vực tài trợ TMQT cho những năm tới. Đặc biệt đối với cán bộ quy hoạch các chức
danh quản lý trong lĩnh vực tài trợ TMQT cần quan tâm đào tạo về chuyên môn và ngoại
ngữ theo tiêu chuẩn quy định. Nếu cần, có thể gửi sang học tại các trung tâm đào tạo
nổi tiếng tại nƣớc ngoài hoặc tại các ngân hàng đối tác nƣớc ngoài để nâng cao trình
độ ngoại ngữ cũng nhƣ nghiệp vụ tài trợ TMQT.
87 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2322 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB) trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc sử dụng lâu đời trong quan hệ
thƣơng mại ở các nƣớc phát triển, nhƣng đến nay, ở Việt Nam vẫn chƣa đƣợc sử dụng.
- Thị trƣờng hối đoái chƣa phát triển, các nghiệp vụ mà các Ngân hàng, nhà
xuất khẩu có thể tham gia để phòng tránh rủi ro nhƣ forward, options, future chƣa
đƣợc áp dụng thông dụng
58
- Nhà nƣớc chƣa có chính sách, chiến lƣợc đủ mạnh ủng hộ hoạt động XNK
nhƣ cung cấp thông tin, phát triển mạng lƣới tin học, viễn thông tạo tiền đề cho hoạt
động XNK.
Bên cạnh đó, trong năm 2009 hoạt động kinh tế của cả nƣớc nói chung và
ngành ngân hàng nói riêng tiếp tục chịu ảnh hƣởng của những khó khăn của cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới. Thị trƣờng trong nƣớc có sức mua giảm sút, hàng
hoá chậm luân chuyển tạo ra nguy cơ giảm phát trong nền kinh tế. Kinh tế đối
ngoại có một số khó khăn mới: thị trƣờng XNK giá cả giảm sút, đầu tƣ nƣớc ngoài
bị thu hẹp... đã tác động lớn đến hoạt động Ngân hàng. Đặc biệt đối với SHB, điều
này còn khó khăn hơn nhiều vì hầu hết các doanh nghiệp đều là kinh tế địa phƣơng
với quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, khả năng hấp thụ vốn thấp...
Thứ tư: Thiên tai lũ lụt thường xuyên xảy ra
Thiên tai lũ lụt hạn hán cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng cho
doanh nghiệp, nó đem lại thiệt hại về kinh tế và e ngại về tâm lý cho các tổ chức
kinh doanh và cá nhân. Những thiệt hại này khiến cho các doanh nghiệp vốn đã làm
ăn không hiệu quả để trả gốc lẫn lãi cho khoản vay khi đến lại càng gặp khó khăn
nghiêm trọng hơn. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hàng
nông sản, trong khi đó hoạt động sản xuất và chế biến nông sản tại Việt Nam vẫn
còn bị phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Vì vậy, khi thiên tai lũ lụt xảy ra thì khó
tránh khỏi những tổn thất dây chuyền, gây ảnh hƣởng cho cả Ngân hàng. Do vậy tỷ
lệ nợ quá hạn của Ngân hàng tăng lên làm ảnh hƣởng đến chất lƣợng tín dụng của
Ngân hàng.
Thứ năm: Các nguyên nhân về phía doanh nghiệp XNK
Vốn tự có của doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ: phần lớn các doanh nghiệp Việt
Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tồn tại và hoạt động dựa
vào nguồn vốn Ngân hàng là chính. Vì vậy, khả năng tự chủ của doanh nghiệp
không cao.
Ngoài ra, phƣơng án kinh doanh của nhiều doanh nghiệp không hợp lý: Sự
bất hợp lý thể hiện qua việc nghiên cứu thị trƣờng, dự đoán mức tiêu thụ không
59
chính xác, đán giá lại công suất, máy móc không khớp với nguyên liệu đầu vào dẫn
đến không hoàn thành lịch trả nợ cho Ngân hàng. Các doanh nghiệp nhập máy móc
thiết bị bằng trả chậm còn nhiều vốn xây dựng cơ bản do ngân sách Nhà nƣớc cấp.
Song do nguồn vốn này đƣợc cấp không đúng hạn hoặc bị cắt giảm nên không đảm
bảo đúng tiến độ thi công, ảnh hƣởng đến khả năng trả nợ đúng han của doanh
nghiệp.
Các doanh nghiệp xuất khẩu thì chủ yếu xuất hàng nông sản và chƣa có sự
hợp tác để cùng thống nhất về giá cả, chỉ tiêu chất lƣợng hàng xuất, dẫn đến xuất
khẩu tràn làn, mạnh ai ngƣời đấy làm khiến chất lƣợng cũng nhƣ uy tín của một số
hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hƣởng nặng nề. Công tác dự đoán thị
trƣờng còn yếu, không tính đƣợc chu kỳ lên xuống của các mặt hàng nông sản, do
vậy khi ký hợp đồng thì giá thấp nhƣng khi phải thực hiện giao hàng thì giá lại lên
cao, ảnh hƣởng lớn đến kết quả kinh doanh; từ đó không còn khả năng thanh toán
đúng hạn các khoản nợ với Ngân hàng.
Hơn nữa, kiến thức của doanh nghiệp về hoạt động tín dụng, về hợp đồng
thƣơng mại còn hạn chế gây bất lợi cho Ngân hàng (doanh nghiệp bị ép mua với giá
cao, chất lƣợng không đảm bảo, công nghệ lạc hậu thiếu đồng bộ, quy định phƣơng
án trả nợ không hợp lý dẫn đến nguồn thu không đƣợc bù đắp và trả nợ Ngân hàng).
Một số doanh nghiệp còn không thực hiện đúng cam kết khi vay vốn nhƣ không
mua bảo hiểm tài sản, sử dụng vốn sai mục đích.
Ngoài những nguyên nhân khách quan nêu trên, còn phải kể đến những
nguyên nhân chủ quan thuộc về phía chính SHB, đó là:
Thứ nhất: SHB thiếu các quy định và văn bản điều chỉnh hoạt động tài trợ
TMQT
Tại SHB hiện nay vẫn chƣa có những văn bản hay quy định riêng về hoạt
động tài trợ TMQT, vì vậy khi phát sinh các nghiệp vụ mới rất khó khăn trong việc
triển khai và không có định hƣớng. Hoạt động tài trợ TMQT liên quan đến hoạt
động XNK, một hoạt động hết sức phức tạp và đòi hỏi phải có sự am hiểu các
phƣơng thức giao dịch quốc tế, hợp đồng ngoại thƣơng, tập quán và luật lệ
60
TMQT...Vì vậy, rất cần có những quy định riêng để hƣớng dẫn và tạo khung pháp
lý cho hoạt động này phát triển.
Thứ hai: Công tác quản trị rủi ro và điều hành tại SHB còn yếu kém
Trong những năm vừa qua, hoạt động quản lý và giám sát tín dụng tại SHB
chƣa thực sự đƣợc quan tâm, vì vậy Phòng Quản lý tín dụng Hội sở SHB mới chỉ
tập trung làm công tác tái thẩm định các khoản tín dụng mà chƣa có những động
thái cũng nhƣ định hƣớng để ban hành các quy định quản lý và giám sát hoạt động
tín dụng nói chung và hoạt động tài trợ TMQT nói riêng. Điều này dẫn đến sự phát
triển lệch trong cơ cấu và tỷ trọng của hoạt động cho vay tài trợ XNK. Trong khi đó
Phòng Quản lý rủi ro Hội sở thì chƣa thực sự phát huy vai trò quản trị rủi ro toàn
hàng, nhất là với hoạt động tín dụng vì số lƣợng nhân sự quá ít và thiếu trình độ
chuyên môn.
Thứ ba: Trình độ bất cập của nhân viên tín dụng tại SHB
Có thể nói, có một số nhân viên tín dụng nhận thức về bản chất tín dụng
không đầy đủ dẫn đến việc đơn giản, sơ sài trong chấp hành quy định của Ngân
hàng. Ngoài ra, đa phần các cán bộ tín dụng thiếu trình độ hiểu biết về pháp luật, thể
lệ tập quán thƣơng mại và thanh toán quốc tế, trình độ ngoại ngữ không đáp ứng
đƣợc nhu cầu nghiệp vụ. Một cán bộ quản lý tín dụng XNK nếu tính theo dƣ nợ thì
bằng hàng chục cán bộ quản lý cho vay hộ sản xuất, điều đó thể hiện hiệu quả đầu
tƣ XNK nhƣng trái lại cũng thể hiện khả năng rủi ro lớn nếu nhƣ cán bộ tín dụng đó
không đƣợc trang bị đầy đủ kiến thức tổng hợp và kinh nghiệm đạo đức kinh doanh.
Ngân hàng chƣa có đội ngũ chuyên gia giỏi về lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công
nghệ mới nên lúng túng trong việc thẩm định các dự án lớn, nhất là các dự án năng
suất có vốn đầu tƣ và nhập khẩu thiết bị nƣớc ngoài. Thực trạng đội ngũ cán bộ tín
dụng SHB hiện nay là vấn đề đáng đƣợc lƣu tâm, đa phần là nhân viên trẻ, vì vậy
còn thiếu kinh nghiệm và tri thức thực tế trong thị trƣờng chằng chịt những mối
quan hệ phức tạp.
Thứ tư: Ý thức chấp hành các quy định và quy trình nghiệp vụ tín dụng tại
SHB còn chưa nghiêm túc
61
Những trƣờng hợp rủi ro trong tín dụng có nguyên nhân quan trọng là việc
chấp hành không nghiêm chỉnh các quy định và quy trình nghiệp vụ tín dụng của
nhân viên tín dụng, đặc biệt trong quá trình thẩm định và lập hồ sơ vay vốn. Việc
xác định giá trị tài sản đảm bảo đôi khi chỉ thực hiện mang tính chủ quan hay việc
lập hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản đảm bảo không đƣợc tách độc lập với chức năng
tín dụng.
Quản lý nợ vay còn thể hiện thiếu trách nhiệm, gia hạn nợ, chuyển nợ quá
hạn không đúng quy trình nghiệp vụ, đảo nợ nội tệ với ngoại tệ (vay đồng tiền này
để trả nợ đồng tiền khác), dẫn đến tình trạng nợ xấu chạy vòng quanh, nguy cơ mất
vốn Ngân hàng ngày càng lớn.
Thứ năm: Công nghệ thông tin lạc hậu
Việc sử dụng phần mềm Smarbank đã cản trở rất nhiều việc phát triển hoạt
động tín dụng nói chung và hoạt động tài trợ TMQT nói riêng. Cụ thể, Smartbank
không có nghiệp vụ chiết khấu, vì vậy công tác đẩy mạnh nghiệp vụ này gặp rất
nhiều khó khăn và bất cập. Thêm vào đó, Smartbank trong quá trình hoạt động liên
tục gặp lỗi, đặc biệt khi phát sinh nhiều giao dịch và khối lƣợng giao dịch lớn. Vì
vậy, cán bộ nghiệp vụ của SHB gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tác nghiệp,
phải tự tính toán, phải theo dõi báo cáo ngoài....
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động tài trợ TMQT tại SHB giai đoạn
những năm 2007- 2009 và đánh giá chi tiết về năng lực cạnh tranh của SHB trên
từng yếu tố có thể thấy năng lực cạnh tranh của SHB trong hoạt động này còn thực
sự chƣa cao và chƣa tƣơng xứng với tiềm năng. Tuy nhiên, xét trên nhiều yếu tố và
góc độ, việc phát triển hoạt động này đòi hỏi phải có thời gian để có thể xây dựng
các cơ sở và nền tảng, đồng thời hoạt động này cũng gắn liền với sự phát triển của
hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng. Vì vậy, trong một thời gian ngắn SHB
chƣa thể thực sự đẩy mạnh hoạt động này và chƣa thể phát triển đƣợc theo ý muốn.
Điều quan trọng là SHB đã nhận thức đƣợc và coi đó là định hƣớng cần phấn đấu
trong những năm sắp tới. Và quan trọng hơn nữa đó là nghiệp vụ thanh toán quốc tế
62
của SHB đã bƣớc đầu tạo đƣợc sự tín nhiệm cao của các ngân hàng đại lý – thể hiện
ở việc SHB đã đƣợc Ngân hàng đại lý có uy tín trên thế giới là Wachovia Bank cấp
chứng nhận Ngân hàng thanh toán quốc tế xuất sắc năm 2009 và đƣợc tạp chi
Global Finance trao giải “Best Trade Finance Banks and Provides” của Việt Nam.
Đây là một nền tảng vững chắc giúp hoạt động tài trợ TMQT tại SHB không ngừng
tăng trƣởng cả về quy mô lẫn chất lƣợng, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của
SHB trong hoạt động này tại Việt Nam.
63
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG SÀI GÒN – HÀ NỘI TRONG
HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
3.1 Xu hƣớng phát triển hoạt động tài trợ thƣơng mại quốc tế của các Ngân
hàng thƣơng mại tại Việt Nam
3.1.1 Bối cảnh kinh tế tài chính quốc tế
Nhƣ chúng ta đã biết, bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu
hoàn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nƣớc này từ năm
2007, bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Thông qua quan hệ tài chính nói riêng và
kinh tế nói chung mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều nƣớc, cuộc khủng hoảng từ Hoa
Kỳ đã lan rộng ra nhiều nƣớc trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái
kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế ở nhiều nƣớc trên thế giới. Tuy nhiên,
trong năm 2009 tình hình nền kinh tế thế giới đã có đƣợc những kết quả phát triển
khả quan hơn sau khi Chính phủ nhiều nƣớc đã thực hiện các gói giải pháp để ngăn
chặn suy thoái kinh tế, kích cầu đầu tƣ tiêu dùng với tổng giá trị hơn 10.000 tỷ
USD, chiếm gần 20% GDP toàn cầu năm 2008.
Chính phủ Việt Nam đã chủ động vƣợt qua khó khăn, sớm ngăn chặn đƣợc
đà suy giảm, từng bƣớc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và tạo môi trƣờng thuận lợi
cho phát triển kinh tế -xã hội thông qua các chƣơng trình kích cầu (cho vay hỗ trợ
lãi suất 4% thông qua hệ thống NHTM, cho vay 0% hỗ trợ doanh nghiệp thu mua
lúa gạo của nông dân, cho vay hỗ trợ các doanh nghiệp trả lƣơng 0% qua Ngân
hàng Phát triển Việt Nam (VDB), cho vay tín chấp các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thông qua bảo lãnh của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB), miễn giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ…).Với những giải pháp cụ thể
và linh hoạt đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nƣớc phục hồi và
phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần vào phát triển nền kinh tế trong
năm 2009. Điều này thể hiện qua GDP của Việt Nam tăng 5,3%, là một trong những
nƣớc có tốc độ tăng trƣởng dƣơng GDP trên thế giới và có tốc độ tăng trƣởng GDP
cao nhất khu vực Đông Nam Á.
64
Trong bối cảnh đó, hoạt động XNK của Việt Nam cũng bị ảnh hƣởng ít
nhiều. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 của Việt Nam ƣớc
tính lên tới 12,246 tỷ USD. Con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên
tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhƣng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề
ra. Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2009 ƣớc tính đạt 56,584 tỷ USD, giảm 9,7%
so với thực hiện năm 2008. Trong khi đó kim ngạch nhập khẩu là 68,83 tỷ USD và
giảm 14,7%. Nhƣ vậy, nhập siêu năm 2009 khoảng 21,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu (thấp hơn năm 2008 khoảng 6,9%). Cụ thể: Do sự sụt giảm kim ngạch cả xuất
khẩu và nhập khẩu, quy mô giao dịch thƣơng mại quốc tế của Việt Nam đã giảm
nhiều trong năm nay. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm ƣớc tính chỉ còn trên
125,4 tỷ USD, giảm 12,6% so với năm 2008 (143,4 tỷ USD).
Kim ngạch xuất nhập khẩu sụt giảm nguyên nhân chính do khủng hoảng kinh
tế toàn cầu. Tuy nhiên, trong 3 tháng cuối năm cán cân thƣơng mại đã có sự đổi
chiều đi lên. Trong khi xuất khẩu thực hiện tháng 11 chỉ đạt mức 4,686 tỷ USD,
giảm tới 10% từ 5,206 tỷ USD của tháng trƣớc đó, nhập khẩu lại tăng nhẹ và đạt
mức kỷ lục 6,767 tỷ USD trong tháng 11.2009. Liên quan đến hoạt động nhập khẩu
vàng trong hai tháng gần đây, theo một nguồn tin từ Tổng cục Thống kê, kim ngạch
nhập khẩu vàng tháng 11.2009 đạt trên 337 triệu USD, tƣơng đƣơng với lƣợng
vàng nhập khoảng 9-10 tấn. Hoạt động xuất nhập khẩu năm 2009 đã khép lại mặc
dù không theo đúng kịch bản kế hoạch đề ra, nhƣng mức giảm nhập siêu so với
năm 2008 cũng đã tạo thuận lợi cho việc ổn định kinh tế vĩ mô.
3.1.2 Xu hướng phát triển hoạt động tài trợ TMQT của các NHTM tại Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế thời đại, và diễn ra mạnh mẽ
trên nhiều lĩnh vực, biểu hiện xu hƣớng tất yếu khách quan của nền kinh tế. Có thể
nói, Ngân hàng là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và phải mở cửa gần
nhƣ hoàn toàn theo các cam kết gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO, hệ
thống ngân hàng Việt Nam đƣợc xếp vào diện các ngành chủ chốt, cần đƣợc tái cơ
cầu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Để giành thế chủ động trong tiến trình hội
nhập, Việt Nam đang hƣớng tới xây dựng một hệ thống ngân hàng có uy tín, đủ
65
năng lực cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả cao, an toàn, có khả năng huy động tốt
hơn các nguồn vốn trong xã hội.
Nhận thức rõ đƣợc điều đó, NHNN Việt Nam đã linh hoạt điều chỉnh chính
sách tiền tệ phù hợp với tín hiệu thị trƣờng, nhằm tích cực phục vụ chủ trƣơng hội
nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo an sinh xã hội, quản lý lạm phát, an toàn nợ và ổn
định chung trên thị trƣờng tiền tệ. Cụ thể, trong năm 2009 NHNN đã linh hoạt điều
chỉnh lãi suất cơ bản VND theo từng thời kỳ; điều chỉnh nới rộng biên độ tỷ giá
giữa VND và USD từ +/-3% lên +/-5%; giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi
VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dƣới 12 tháng xuống 3%, kỳ hạn từ 12 tháng trở
lên xuống 1%; ban hành cơ chế thỏa thuận lãi suất....; qua đó giúp các NHTM tăng
giảm lãi suất huy động và cho vay phù hợp mục tiêu điều tiết lƣợng vốn huy động
và cho vay theo hƣớng nới lỏng một cách thận trọng, linh hoạt. Đồng thời, NHNN
cũng định hƣớng xây dựng các chính sách nhằm hỗ trợ và đẩy mạnh hoạt động tài
trợ TMQT, qua đó giúp các NHTM xây dựng các chính sách ƣu đãi cho hoạt động
tài trợ TMQT.
Có thể nói, việc phát triển hoạt động tài trợ TMQT tại các NHTM là một
trong những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Trƣớc yêu cầu hội nhập và xu thế
tự do hóa tài chính trên toàn thế giới, Việt Nam đang đặt quyết tâm cao về cải cách
hệ thống tài chính tiền tệ ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế. Việt Nam đã và đang
thực hiện các biện pháp chấn chỉnh, lành mạnh hóa hệ thống tài chính tiền tệ, coi
đây là khâu trọng yếu và nhân tố quan trọng trong công cuộc cải cách kinh tế để
thúc đẩy tăng trƣởng.
Hội nhập quốc tế sẽ mở ra cơ hội và tiềm năng trao đổi, hợp tác quốc tế về
lĩnh vực tài chính tiền tệ, đồng thời nâng cao vị thế quốc tế của các NHTM Việt
Nam trong các giao dịch tài chính tiền tệ quốc tế nói chung và tài trợ thƣơng mại
nói riêng.
Trong giai đoạn mới, sự hội nhập quốc tế cũng đƣa đến điều kiện về tiếp cận
các luồng vốn quốc tế và các trợ giúp kỹ thuật quốc tế, giúp cho các NHTM đáp
ứng tốt hơn nhu cầu vốn cho nền kinh tế trong nƣớc.
66
3.2 Định hƣớng phát triển hoạt động tài trợ TMQT tại SHB
Dựa trên cơ sở nền tảng và thế mạnh sẵn có, SHB xác định chiến lƣợc phấn
đấu trở thành ngân hàng bán lẻ đa năng hiện đại hàng đầu tại Việt Nam, năm 2015
trở thành một Tập đoàn tài chính lớn mạnh.
Với phƣơng châm đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng để đáp ứng ngày
một tốt hơn các doanh nghiệp, nhà đầu tƣ, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nƣớc, SHB đã đề ra phƣơng hƣớng phát triển hoạt động tài trợ
TMQT trong những năm tới nhƣ sau:
- Tăng cƣờng công tác huy động vốn, đặc biệt là vốn ngoại tệ; nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh
- Nâng cao chất lƣợng và các hình thức tài trợ TMQT, chú trọng nghiệp vụ
bảo lãnh, tín dụng chứng từ, chiết khấu bộ chứng từ, đảm bảo cạnh tranh về mức
phí, lãi suất chiết khấu so với các NHTM khác trong nƣớc.
- Phát triển mạnh và đa dạng hóa các hoạt động nghiệp vụ tài trợ TMQT,
nghiên cứu để áp dụng các hình thức tài trợ mới nhƣ Factoring, Fofaiting…
- Nâng cao thị phần hoạt động về tài trợ TMQT tại các khu vực công nghiệp,
khu chế xuất và khu đô thị, chú ý tới khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
- Tập trung đầu tƣ cho các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ từ hàng xuất
khẩu, khắc phục tình trạng mất cân đối giữa dƣ nợ cho vay xuất khẩu và nhập khẩu
nhƣ hiện nay.
- Nâng cao năng lực chuyên môn trong lĩnh vực tài trợ TMQT, trong thẩm
định cấp tín dụng, đảm bảo đạt trình độ ngang với các NHTM khác. Chủ động giới
thiệu các loại hình sản phẩm dịch vụ tài trợ TMQT mới cho khách hàng
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của SHB trong
hoạt động tài trợ TMQT tại Việt Nam
3.3.1 Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tài chính
3.3.1.1 Khẩn trương tăng vốn điều lệ
Theo quy định của NHNN, giới hạn cấp tín dụng (bao gồm dƣ nợ cho vay và
bảo lãnh) cho một khách hàng không đƣợc quá 20% vốn tự có của ngân hàng, do
vậy việc tăng vốn tự có là một trong những giải pháp cơ bản trong việc đẩy mạnh
67
tăng trƣởng tín dụng nói chung và tài trợ TMQT nói riêng. Trong năm 2010 SHB
phải hoàn thành công tác phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ lên 3.500 tỷ đồng và
niêm yết 1.500 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi lên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Theo kế hoạch trong năm 2009 SHB sẽ hoàn thành việc tăng vốn điều lệ từ 2.000 tỷ
đồng lên 3.500 tỷ đồng. Tuy nhiên việc phát hành trái phiếu chuyển đổi 1.500 tỷ
đồng không thực hiện kịp thời trong năm 2009 do vậy ảnh hƣởng đến kế hoạch sử
dụng vốn của SHB.
3.3.1.2 Tập trung các biện pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn.
Ngân hàng không chỉ hoạt động bằng vốn tự có mà một phần quan trọng
chính là nguồn vốn huy động từ bên ngoài, chủ yếu từ các doanh nghiệp và dân cƣ.
Đây là giải pháp quan trọng nhằm tạo đầu vào cho hoạt động tín dụng tại ngân
hàng, đảm bảo cung ứng vốn, nhất là nguồn vốn ngoại tệ để tài trợ cho các doanh
nghiệp XNK.
Qua những phân tích ở Chƣơng II ta có thể thấy, vốn mà SHB huy động đƣợc
hàng năm chƣa phản ánh hết tiềm năng của ngân hàng. Hơn thế nữa, phần lớn vốn
mà ngân hàng huy động đƣợc chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, vốn kỳ hạn và nhất là
vốn trên một năm rất ít. Các hình thức huy động vốn mà ngân hàng sử dụng còn đơn
điệu, chƣa phong phú tạo nên sự vƣợt trội khác biệt so với những ngân hàng khác
đang hoạt động trên cùng địa bàn. Để đạt đƣợc những điều trên ngân hàng cần phải
tiến hành các biện pháp:
Trước hết, SHB cần phải mở rộng đa dạng các hình thức huy động vốn:
Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi.
Trái phiếu hay chứng chỉ tiền gửi mà ngân hàng phát hành có thể đƣợc dùng vào thế
chấp, cầm cố để vay vốn tại ngân hàng. Và đối với những khách hàng này SHB sẽ
có những chính sách ƣu đãi hơn, đặc biệt là về lãi suất tiền vay.
Tiếp tục mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng trên thế giới, với các tổ
chức tài chính quốc tế. Đây là một trong những lợi thế của SHB đƣợc phát huy, nó
68
sẽ giúp cho ngân hàng đáp ứng vốn ngoại tệ một cách nhanh chóng và thuận tiện
phục vụ tốt cho nhu cầu của doanh nghiệp kinh doanh XNK.
SHB nên sử dụng hình thức huy động vốn bằng cách gửi tiết kiệm định kỳ.
Theo hình thức này, SHB và khách hàng cùng thoả thuận chu kỳ (thƣờng là tháng
hay quý) và khối lƣợng tiền gửi mỗi lần vào ngân hàng.
SHB cần có các chính sách ưu đãi, thực hiện tốt vấn đề bảo hiểm tiền gửi
trên cơ sở tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng.
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với số lƣợng lớn, thời hạn dài sẽ đƣợc
hƣởng mức lãi suất cao hơn hẳn với lãi suất theo quy định chung của ngân hàng.
Hay có các hình thức trả lãi trƣớc, trả lãi hàng tháng, nhập lãi vào vốn khi đến hạn
mà ngƣời gửi tiền chƣa đến nhận tiền....
Ngân hàng cần bố trí giờ giao dịch với khách hàng sao cho thuận tiện hơn
với khách hàng, cần bố trí các giao dịch viên và nhân viên các phòng ban có liên
quan làm việc thêm ngày nghỉ ngoài giờ hành chính để cán bộ công nhân viên tham
gia gửi tiền và lĩnh tiền tại ngân hàng vào thời gian rãnh rỗi. Ví dụ: VPBank hiện
giao dịch không nghỉ trƣa tại 1 số điểm giao dịch…..
Ngân hàng cần công khai việc thực hiện các biện pháp bảo hiểm tiền gửi cho
khách hàng theo quy định của NHNN. Khách hàng khi đến gửi tiền tại ngân hàng
đều có tâm lý chung là sợ khoản tiền gửi của mình không đƣợc hoàn trả trong
trƣờng hợp ngân hàng làm ăn thua lỗ hoặc bị phá sản. Do vậy, nếu SHB thực hiện
tốt điều này sẽ tạo lòng tin cho khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, làm tăng lƣợng
tiền gửi tại ngân hàng.
Đối với các khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp, ngân hàng
thƣờng trả lãi rất thấp, do đó SHB cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh
nghiệp khi đến mở tài khoản tại ngân hàng, gửi tiền và sử dụng tiền trên tài khoản
một cách linh hoạt, đáp ứng nhu cầu chi trả, thanh toán phục vụ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
3.3.2 Nhóm giải pháp về quản trị điều hành
3.3.2.1 Điều hành linh hoạt chính sách khách hàng
69
Trƣớc tiên, cần xây dựng chiến lƣợc khách hàng đúng đắn, ngân hàng và các
doanh nghiệp XNK luôn gắn bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối
quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng. Cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, SHB nên tăng cƣờng các chính sách ƣu tiên đối với những khách
hàng có quan hệ lâu đời, các khách hàng có uy tín trong lĩnh vực XNK. Đối với
những khách hàng này, SHB phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng
với hoạt động của khách hàng, thẩm định và đầu tƣ kịp thời các dự án có hiệu quả
rõ ràng. Nếu có thể SHB nên hỗ trợ thêm về lãi suất, số lƣợng tiền vay, phí thanh
toán cũng nhƣ những điều kiện đi kèm với việc vay vốn, đặc biệt là cho các doanh
nghiệp xuất khẩu.
Thứ hai, SHB cần hoàn hiện và triển khai mô hình tổ chức kinh doanh theo
định hƣớng khách hàng. SHB nên lập hồ sơ những khách hàng thƣờng xuyên, phân
đoạn khách hàng theo nguyên tắc phân đoạn thị trƣờng theo các tiêu thức khác
nhau, từ đó đƣa ra các chính sách chăm sóc, chính sách sản phẩm dịch vụ riêng cho
từng đối tƣợng. Ngoài ra, cần chủ động tìm đến khách hàng, xác định đƣợc nhu cầu
của từng nhóm khách hàng, từ đó đƣa ra các sản phẩm dịch vụ phù hợp
Thứ ba, chủ động tìm kiếm khách hàng trên cơ sở phân tích những mặt mạnh
mặt yếu của họ để chủ động đặt mối quan hệ làm ăn với những doanh nghiệp kinh
doanh XNK có nhiều triển vọng.
Cuối cùng, SHB phải đặt mục tiêu không ngừng nâng cao chất lƣợng dịch
vụ, đơn giản hóa thủ tục trên cơ sở tận dụng tiện ích của công nghệ thông tin hiện
đại, phát triển giao dịch trực tuyến và giao dịch từ xa với khách hàng, xử lý giao
dịch một cửa… nhằm tạo cho khách hàng sự thuận tiện và dễ dàng tiếp cận dịch vụ.
3.3.2.2 Tiếp tục đổi mới nội dung và chất lượng hoạt động kinh doanh
SHB cần đầu tƣ kỹ thuật công nghệ, phát triển toàn diện các nghiệp vụ và
dịch vụ ngân hàng, năng động, linh hoạt trong việc thực thi các cơ chế chính sách
để giải quyết, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng; có nhƣ thế thì năng lực
cạnh tranh của SHB mới đƣợc nâng cao không chỉ trong lĩnh vực tài trợ TMQT mà
còn trên phƣơng diện toàn bộ hoạt động của Ngân hàng.
70
Cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tƣ duy kinh doanh mới. Đồng
thời, xây dựng chuẩn hoá và văn bản hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt
động chủ yếu của NHTM, trong đó có hoạt động tài trợ TMQT, thực hiện cải cách
hành chính doanh nghiệp trên cơ sở rà soát, cải cách, thực hiện đơn giản hoá quy
trình, thủ tục, hồ sơ khách hàng nhƣng vẫn đảm bảo các quy định của cơ chế hiện hành.
Ngoài ra, các đặc tính sản phẩm tài trợ TMQT từ các ngân hàng đều có điểm
giống nhau nên việc tạo ra sự khác biệt là hết sức quan trọng. Về chiến lƣợc thu hút
tiền gửi, cần xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân
chúng thói quen sử dụng tài khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần
đƣợc cắt giảm để tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh tài trợ TMQT cần tạo đƣợc quy trình cung cấp linh
hoạt các sản phẩm dịch vụ tài trợ TMQT của ngân hàng, đặc biệt đối với khách
hàng tiềm năng hay các khách hàng quen thuộc có thể đƣa ra điều kiện cho vay và
lãi suất ƣu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên.
Cuối cùng, để mở rộng hoạt động cho vay XNK Hội sở SHB nên có những
giải pháp thích hợp nhằm điều hoà vốn trong toàn hệ thống một cách có hiệu quả
nhất, tập trung vốn cho các đơn vị kinh doanh có triển vọng làm ăn có hiệu quả
đang cần vốn và những đơn vị có lợi thế trong việc phát triển hoạt động tài trợ
TMQT, tiêu biểu nhƣ SHB Hồ Chí Minh, SHB Cần Thơ hay SHB Hải Phòng (có
lợi thế địa bàn rộng với số lƣợng lớn doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK).
3.3.2.3 Tăng cường công tác giám sát và quản lý rủi ro
Việc tăng cƣờng công tác giám sát và quản trị rủi ro đƣợc thực hiện bằng các
cách sau:
- Hoàn thiện hệ thống kiểm toán, kiểm soát nội bộ trong ngân hàng, ban hành
kịp thời các văn bản quy định về việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài trợ TMQT.
- Đẩy mạnh các hoạt động kiểm tra định kỳ và đột xuất nhằm phát hiện kịp
thời những điểm yếu, bất cập trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung
và hoạt động tài trợ TMQT nói riêng, từ đó đƣa ra đƣợc các biện pháp khắc phục.
Thực tế hiện nay công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài trợ TMQT tại SHB mới
71
chỉ chú trọng vào nghiệp vụ bảo lãnh, phát hành L/C trả chậm, chiết khấu bộ chứng
từ hàng xuất; còn các nghiệp vụ khác nhƣ L/C trả ngay, nhờ thu D/P, D/A ... ít đƣợc
quan tâm. Mà ngay cả nghiệp vụ bảo lãnh, phát hành L/C trả chậm cũng chủ yếu
kiểm tra kiểm soát đối với việc thẩm định hồ sơ, tình hình tài chính của khách hàng
chứ chƣa quan tâm đến kỹ thuật và nội dung của thƣ bảo lãnh, L/C trả chậm mặc dù
nó hàm chứa nhiều nguy cơ rủi ro nếu yếu kém về nghiệp vụ và kiến thức luật
thƣơng mại quốc tế.
- Xây dựng hệ thống kho tàng có đủ tiêu chuẩn quản lý hàng hóa hình thành
từ vốn vay: Nhƣ phân tích tại Chƣơng II, hiện hình thức cho vay đảm bảo bằng lô
hàng thanh toán theo phƣơng thức L/C mở tại SHB đang đƣợc áp dụng cho một số
khách hàng nhập khẩu tại SHB. Để quản lý tốt tài sản đảm bảo hình thành từ vốn
vay này, cần xây dựng hệ thống kho bãi riêng để chủ động trong việc trông giữ, bảo
quản và xử lý hàng hóa.
- Tăng cƣờng công tác quản lý rủi ro đối với lãi suất và tỷ giá bằng cách
tăng cƣờng triển khai nghiệp vụ mua bán kỳ hạn và nghiệp vụ hoán đổi tỷ giá, lãi
suất. Nghiệp vụ mua bán kỳ hạn có thể sử dụng trong cả tài trợ xuất khẩu và nhập
khẩu. Phòng tránh rủi ro về tỷ giá của nhà nhập khẩu khi đến hạn trả, của nhà xuất
khẩu khi đến hạn thu tiền đƣợc thực hiện bằng hợp đồng mua bán kỳ hạn với SHB,
SHB lại thực hiện các nghiệp vụ đối ứng với khách hàng khác hoặc ngân hàng khác.
3.3.2.4 Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động tài trợ TMQT
SHB cần tăng cƣờng hơn nữa việc mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng
nƣớc ngoài trên cơ sở củng cố mối quan hệ đối ngoại vốn có và không ngừng mở
rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng thế giới. Thuận lợi chính của việc sử dụng
mối quan hệ với cá ngân hàng đại lý là chi phí thâm nhập thị trƣờng nƣớc ngoài
thấp, không cần cung cấp nhân sự cũng nhƣ cung cấp các phƣơng tiện mà có thể tận
dụng ngay bộ máy quản lý của các ngân hàng đại lý để phục vụ cho nhu cầu kinh
doanh của mình. Thông qua mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, SHB sẽ tận dụng
72
đƣợc các hạn mức tín dụng, hạn mức xác nhận L/C, hạn mức thanh toán, hạn mức
tái tài trợ L/C, ký kết các hiệp định khung vay vốn trung dài hạn để cho vay các dự
án nhập thiết bị công nghệ.
3.3.3 Nhóm giải pháp về nghiệp vụ tài trợ TMQT
Trước tiên, cần hoàn thiện các văn bản quy định về hoạt động tài trợ TMQT
theo hƣớng cải tiến về tổ chức, nội dung và quy trình quản lý hoạt động nhằm tạo
điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp XNK đến vay vốn. Bên cạnh đó
cũng cần tăng cƣờng và nâng cao chất lƣợng công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động
tín dụng: Phải xây dựng và thực hiện các chƣơng trình, kế hoạch kiểm tra theo định
kỳ và đột xuất đối với hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Đồng thời tăng
cƣờng lực lƣợng và nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ kiểm tra, đặc biệt là chuyên
môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, kinh nghiệm và ý thức trách nhiệm trong công
tác kiểm tra.
Thứ hai, phải đa dạng hoá các loại hình và phương thức tài trợ XNK.
Để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội và qua đó mở rộng hoạt
động cho vay, SHB nên mở rộng thêm các hình thức tài trợ TMQT nhằm đa dạng
hoá các hình thức tài trợ và hoàn thiện hơn cơ chế tín dụng. Phải không ngừng nâng
cao chất lƣợng các hình thức tài trợ TMQT, chú trọng nghiệp vụ bảo lãnh, tín dụng
chứng từ, chiết khấu bộ chứng từ, đảm bảo cạnh tranh về mức phí, lãi suất chiết
khấu so với các NHTM khác trong nƣớc. Đồng thời phải phát triển mạnh và đa
dạng hóa các hoạt động nghiệp vụ tài trợ TMQT, nghiên cứu để áp dụng các hình
thức tài trợ mới nhƣ Factoring, Fofaiting…
Ngoài ra, cũng nên đa dạng hóa phƣơng thức cho vay trên cơ sở đảm bảo
thuận tiện và nhanh gọn nhất cho khách hàng. Hiện tại SHB đang áp dụng phƣơng
thức cho vay theo hạn mức, cho vay theo món để tài trợ XNK và sắp tới SHB có thể
tài trợ cho khách hàng theo phƣơng thức thấu chi đối với những khách hàng quen
thuộc, có uy tín và tình hình tài chính lành mạnh. Nếu phƣơng thức thấu chi
73
cho doanh nghiệp đƣợc áp dụng tại SHB sẽ giảm bớt đƣợc thủ tục hành chính
cho khách hàng, phát triển quy trình tín dụng, nâng cao chất lƣợng cung ứng
dịch vụ của ngân hàng.
Đối với phƣơng thức cho vay theo phƣơng thức đồng tài trợ, ngân hàng cần
xúc tiến thực hiện cho vay đồng tài trợ theo các dự án xuất nhập khẩu với các tổ
chức tài chính khác. Sử dụng phƣơng thức cho vay này một mặt sẽ giảm thiểu đƣợc
rủi ro cho ngân hàng do có nhiều thành viên cùng tham gia thẩm định tín dụng, vận
dụng các kỹ thuật và kinh nghiệm khác nhau trong cho vay, mặt khác cũng giúp cho
khách hàng có đủ vốn trong trƣờng hợp dự án cần vốn lớn vƣợt ngoài khả năng
cũng nhƣ quy định trong cho vay của ngân hàng
Thứ ba, tiếp tục mở rộng và tăng trưởng hoạt động tài trợ TMQT, tập trung
đầu tƣ cho khách hàng có uy tín, khả năng tài chính tốt và cho các doanh nghiệp có
nguồn thu ngoại tệ từ hàng xuất khẩu, khắc phục tình trạng mất cân đối giữa dƣ nợ
cho vay xuất khẩu và nhập khẩu nhƣ hiện nay. SHB cần thiết phải mở rộng thêm
đối tƣợng cho vay mới trên cơ sở phân tích kỹ phƣơng án kinh doanh, đánh giá
chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp để phát triển mạng lƣới khách hàng
phân tán rủi ro, tránh tình trạng tập trung dƣ nợ lớn vào một khách hàng hay một
nhóm khách hàng.
Bên cạnh việc tích cực tìm kiếm, mở rộng cho vay đối với những khách hàng
mới, khách hàng có uy tín, SHB cũng cần rà soát lại hệ thống khách hàng đối với
những đơn vị đã cho vay bằng hoặc vƣợt hạn mức cần giảm dƣ nợ hoặc khống chế
trong khả năng thanh toán để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với những khách hàng
có vấn đề cần hạn chế hoặc dừng cung ứng vốn tín dụng. Tiến hành các biện pháp
cần thiết để thu hồi nợ, tránh rơi vào tình trạng nợ khó đòi.
Cuối cùng, phải không ngừng nâng cao chất lượng công tác thông tin tín
dụng. SHB cần phải thƣờng xuyên tiếp cận với khách hàng, nắm bắt các thông tin
về khách hàng từ khâu nghiên cứu thị trƣờng, nghiên cứu khách hàng chủ yếu đến
khâu điều tra, thẩm định dự án xin vay, nắm bắt đƣợc các thông tin trong quá trình
sử dụng vốn vay, tiêu thụ sản phẩm, nguồn trả nợ... Có thể tiến hành phỏng vấn trực
74
tiếp với khách hàng, điều tra tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, thông qua các khách hàng của doanh nghiệp, cơ quan quản lý, thuế, phƣơng
tiện thông tin đại chúng... Xây dựng tốt hệ thống thông tin tín dụng, từ đó cán bộ
tín dụng mới có đầy đủ các thông tin về khách hàng vay vốn. Nhờ vậy, việc thẩm
định khách hàng vay vốn phục vụ hoạt động kinh doanh nói chung và phục vụ hoạt
động XNK nói riêng mới chính xác và nhanh chóng, hạn chế tối đa đƣợc rủi ro.
3.3.4 Nhóm giải pháp liên quan đến nhân sự và công nghệ ngân hàng
3.3.4.1 Nhóm giải pháp về nhân sự
Hoạt động ngân hàng nói chung và tài trợ XNK nói riêng, trƣớc hết phải có
đội ngũ cán bộ và lãnh đạo có trình độ nghiệp vụ cao, trình độ quản lý, điều hành,
trung thực, tâm huyết với nghề nghiệp mới có thể hoàn thành nhiệm vụ, đạt kết quả
cao trong kinh doanh. Cán bộ tín dụng phải giỏi về nghiệp vụ, hiểu biết kiến thức về
thị trƣờng và pháp luật. Ngoài ra còn phải có đạo đức nghề nghiệp tốt (trung thực,
tự giác, trách nhiệm) có tác phong giao dịch tốt... Trên cơ sở đó có thể hiểu biết về
khách hàng, quyết định đối tƣợng đầu tƣ cho vay đúng hƣớng, khách quan, có khả
năng cực, tạo lợi ích nhiều hơn cho cả khách hàng và ngân hàng. Đặc biệt, trong công
tác đào tạo cán bộ thực hiện nghiệp vụ tài trợ TMQT SHB cần chú ý một số điểm sau:
Thứ nhất, cần sớm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tài trợ TMQT theo hƣớng
chuyên môn hoá, có nhƣ vậy SHB mới đào tạo đƣợc các chuyên gia chuyên sâu về
những mặt nghiệp vụ, đặc biệt là những mặt nghiệp vụ đặc thù tạo ra những sản
phẩm chất lƣợng cao nhƣ tài trợ TMQT. Trên cơ sơ tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ
kết hợp với quy hoạch cán bộ, việc lập kế hoạch đào tạo sẽ đúng đối tƣợng, hiệu
quả cao hơn. Mặt khác cũng trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ đƣợc công khai hoá,
cán bộ nhân viên có điều kiện chủ động trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ, phát
huy cao độ ý chí và nghị lực của mình, tự tin trong quá trình phấn đấu và công tác.
Thứ hai, cần đào tạo cán bộ trên cơ sở sử dụng cán bộ và thực hiện quy hoạch
cán bộ. SHB nên cấp nhiều chỉ tiêu học tập, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ tài trợ TMQT cho các cán bộ tại các đơn vị trực tiếp kinh doanh hơn nữa,
tránh tình trạng những nhân viên giao dịch với khách hàng hàng ngày lại ít có điều
75
kiện học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình. Đặc biệt, cần thƣờng xuyên tổ
chức các khoá đào tạo chuyên về nghiệp vụ tài trợ TMQT cho các đơn vị kinh
doanh. Việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ nghiệp vụ tài trợ TMQT sẽ
giúp họ có đƣợc những xử trí linh hoạt hơn đối với các tình huống có thể xảy ra,
qua đó nâng cao trình độ thẩm định ngăn ngừa rủi ro.
Bên cạnh các kế hoạch kinh doanh, tài chính, hàng năm SHB cũng cần có kế
hoạch đào tạo, đào tạo sát với yêu cầu trƣớc mắt và chuẩn bị cán bộ hoạt động trong
lĩnh vực tài trợ TMQT cho những năm tới. Đặc biệt đối với cán bộ quy hoạch các chức
danh quản lý trong lĩnh vực tài trợ TMQT cần quan tâm đào tạo về chuyên môn và ngoại
ngữ theo tiêu chuẩn quy định. Nếu cần, có thể gửi sang học tại các trung tâm đào tạo
nổi tiếng tại nƣớc ngoài hoặc tại các ngân hàng đối tác nƣớc ngoài để nâng cao trình
độ ngoại ngữ cũng nhƣ nghiệp vụ tài trợ TMQT.
3.3.4.2 Nhóm giải pháp về công nghệ
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, nâng cao tiện ích
các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ hiện đại là định
hƣớng quan trọng cần phải nhắm tới trong thời gian sớm nhất. Trƣớc tiên, cần khẩn
trƣơng đƣa phần mềm mới vào hoạt động theo đúng tiến độ: 01/05/2010 chính thức
Go live hệ thống Corebanking Intellect.
Trên nền tảng công nghệ hiện đại của Intellect, SHB cần có chính sách khai
thác công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản
phẩm tài trợ TMQT dựa trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về
sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cƣờng bán
chéo sản phẩm đến khách hàng. Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm
dịch vụ tài trợ TMQT cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá
trình hoạt động của ngân hàng.
Trong quá trình đầu tƣ trang thiết bị và lắp đặt phần mềm, cần chú trọng thực
hiện các giải pháp an ninh mạng triệt để. Khi nền kinh tế càng đƣợc chuyển sang số
hóa thì những rủi ro đạo đức xuất phát từ phía khách hàng ngày càng nhiều và ngày
càng tinh vi. Vì vậy, nếu không có những giải pháp an ninh mạng triệt để thì ngƣời
thiệt hại đầu tiên từ những vụ tấn công mạng chính là ngân hàng. Và khi đó, uy tín
76
của ngân hàng cũng nhƣ sự tin tƣởng từ phía khách hàng đối với ngân hàng sẽ
không còn, đƣơng nhiên năng lực cạnh tranh của ngân hàng sẽ giảm sút.
3.3.5 Nhóm giải pháp liên quan đến hoạt động Marketing và chính sách chăm
sóc khách hàng
Trong hoạt động của SHB cho đến nay việc ứng dụng các hình thức
Marketing còn nhiều hạn chế và đây vẫn là một điểm yếu của ngân hàng. Để nâng
cao đƣợc năng lực cạnh tranh của ngân hàng nói chung và của hoạt động tài trợ
TMQT nói riêng SHB cần thực thi chính sách Marketing một cách có hiệu quả, đặc
biệt là chính sách chăm sóc khách hàng và chính sách sản phẩm.
Đối với chính sách chăm sóc khách hàng: Bất kỳ một doanh nghiệp nào
muốn tồn tại và phát triển, đều phải tìm thị trƣờng đầu ra cho sản phẩm của mình,
hay nói một cách khác đó là sản phẩm của doanh nghiệp làm ra phải phục vụ cho
một đối tƣợng khách nào đó. Bởi vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn thu hút
cho mình thật nhiều khách hàng, ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Để nâng cao năng lực cạnh
tranh, cần phải hoạch định chính sách chăm sóc khách hàng trên các cơ sở sau:
Một là, cần phân khúc thị trƣờng để xác định cơ cấu thị trƣờng hợp lý và
khách hàng mục tiêu, phân nhóm những khách hàng theo tiêu chí phù hợp, từ đó
giới thiệu sản phẩm dịch vụ phù hợp với từng đối tƣợng khách hàng.
Hai là, cần thƣờng xuyên cung cấp thông tin về tình hình tài chính, năng lực
và kết quả kinh doanh, giúp khách hàng có cách nhìn tổng thể về ngân hàng và tăng
lòng tin vào ngân hàng.
Ba là, tổ chức các hội nghị khách hàng hoạt động trong lĩnh vực XNK để
thắt chặt hơn mối quan hệ với khách hàng, để cung cấp thêm cho khách hàng những
kinh nghiệm trong việc ký kết các hợp đồng thƣơng mại cũng nhƣ giúp khách hàng
có nhiều thông tin hơn về các sản phẩm dịch vụ tài trợ TMQT của SHB.
Bốn là, SHB phải tiếp tục đổi mới cung cách phục vụ tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho khách hàng khi đến giao dịch tại ngân hàng. Đội ngũ cán bộ ngân hàng
phải luôn thể hiện phong cách làm việc văn minh, lịch sự, nhiệt tình trƣớc khách
77
hàng hay nói một cách khác là mỗi cán bộ công nhân viên của SHB phải làm
Marketing tạo nên bộ mặt mới cho ngân hàng. Từ đó mới có thể nâng cao năng lực
cạnh tranh của Ngân hàng và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực
tài trợ TMQT.
Cuối cùng, cần tổ chức bộ phận chăm sóc khách hàng riêng, tạo cho khách
hàng cảm giác đƣợc tôn trong mỗi khi đến ngân hàng. Bộ phận này có nhiệm vụ
hƣớng dẫn khách hàng khai báo thông tin, trả lời thắc mắc của khách hàng, tƣ vấn
và giới thiệu các dịch vụ tài trợ TMQT tới khách hàng…
Đối với chính sách giá cả: Giá cả là một yếu tố hết sức nhạy cảm, bởi vì giá
cả của ngân hàng (đó là lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền vay, phí dịch vụ ngân hàng…)
đƣợc quy định tƣơng đối chặt chẽ và không có sự chênh lệch lớn giữa các ngân
hàng với nhau. Điều quan trọng ở đây là: Chính sách giá cả của ngân hàng phải đáp
ứng sao cho phù hợp với từng đối tƣợng khách hàng, từng loại dịch vụ, từng địa bàn
hoạt động và trong từng thời kỳ phải có những thay đổi cho phù hợp.
SHB nên cho khách hàng nhiều cơ hội để lựa chọn nhiều cách trả lãi khác
nhau phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của họ: điều này vừa phục vụ tốt
hơn đối với khách hàng mà bản thân ngân hàng cũng tiết kiệm đƣợc thời gian và
công sức trong việc theo dõi các món lãi có thời hạn khác nhau. Với các doanh
nghiệp xuất khẩu, SHB nên có những chính sách ƣu đãi riêng về lãi suất cho vay
cũng nhƣ các loại phí liên quan.
Bên cạnh chính sách khách hàng và chính sách giá cả, SHB cũng cần có
những tìm tòi đi sâu nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để từ đó đƣa ra những sản
phẩm, dịch vụ mới đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng đặc biệt là những
khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực XNK. Thêm vào đó, SHB cần làm mạnh hơn
công tác quảng bá giới thiệu hình ảnh của mình để ngày càng có nhiều tổ chức cá
nhân biết tới SHB cũng nhƣ những dịch vụ tài trợ TMQT mà SHB đang cung ứng,
qua đó sẽ thu hút đƣợc nhiều các doanh nghiệp XNK đến với ngân hàng.
3.4 Đề xuất một số kiến nghị
3.4.1 Đối với Chính phủ và các bộ ngành
- Đối với Chính phủ:
78
Trƣớc tiên, cần hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về thị trƣờng và thƣơng mại.
Chính sách thƣơng mại chƣa ổn định gây khó khăn cho các ngân hàng trong quá
trình thực hiện tài trợ TMQT. Có những mặt hàng năm nay cho phép nhập khẩu
nhƣng năm sau lại không cho phép nhập khẩu, giá cả hàng hóa biến động liên tục
làm cho ngân hàng cũng nhƣ doanh nghiệp XNK rơi vào tình trạng khó khăn. Vì
vậy, định hƣớng kế hoạch nhập khẩu của Chính phủ là vấn đề quan trọng, mang tính
quyết định đối với chiến lƣợc kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất cũng nhƣ
hoạt động trong lĩnh vực XNK.
Bên cạnh đó, hoạt động XNK qua đƣờng tiểu ngạch còn trong tình trạng
buông lỏng quản lý và thiếu các chính sách quản lý hiệu quả, hầu hết quan hệ thanh
toán XNK đều sử dụng tiền mặt mà không thông qua hệ thống ngân hàng, điều này
vừa làm giảm khả năng quản lý của nhà nƣớc và làm giảm vai trò của các ngân hàng
trong việc phát triển TMQT và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hoạt động TMQT.
- Đối với Bộ Công thƣơng:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện chính sách thƣơng mại theo hƣớng khuyến
khích xuất khẩu và quản lý chặt chẽ nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, hải
quan, thuế quan...Trong thời gian qua, các văn bản quy định về công tác XNK, thuế
quan... thƣờng xuyên thay đổi đã khiến các doanh nghiệp bị động trong việc thực
hiện kế hoạch kinh doanh, từ đó ảnh hƣởng đến công tác XNK của doanh nghiệp và
gián tiếp ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy, ổn
định chính sách thƣơng mại là một giải pháp hết sức quan trọng giúp hoạt động tài
trợ TMQT phát triển.
Thứ hai, cần có chính sách để hƣớng các doanh nghiệp đầu tƣ hợp lý vào
những ngành xuất khẩu trọng điểm và ƣu tiên đầu tƣ vốn, công nghệ, lao động cho
những ngành có khả năng xuất khẩu. Chú trọng đầu tƣ vào các ngành chế biến
lƣơng thực, thực phẩm, thủy hải sản nhằm tăng tỷ trọng hàng chế biến trong kim
ngạch xuất khẩu. Từ đó, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và góp phần đẩy mạnh hoạt
động tài trợ TMQT tại các NHTM.
79
Thứ ba, cần thành lập cơ quan chuyên trách về quản lý thông tin tài chính
doanh nghiệp. Cơ quan này có chức năng cập nhật những thông tin chính xác thay
thế những thông tin sai lệch, thực hiện công khai minh bạch hóa thông tin. Cơ quan
này sẽ thực hiện chức năng thu thập, tổng hợp và cung cấp thông tin độc lập, khách
quan về hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và khả năng tài
chính của doanh nghiệp, từ đó xếp hạng tín nhiệm cho doanh nghiệp. Thông qua chỉ
số tín nhiệm của doanh nghiệp có thể xác định đƣợc khả năng thanh toán của doanh
nghiệp, từ đó các NHTM quyết định việc cấp tín dụng tài trợ doanh nghiệp. Sự ra
đời của trung tâm này là một yêu cầu thiết yếu trong xu thế phát triển và hội nhập
kinh tế nƣớc ta.
3.4.2 Đối với NHNN Việt Nam
Một là, cần phối hợp cùng Bộ Tài chính tham gia xây dựng và phát triển đa
dạng thị trƣờng vốn, tạo điều kiện san sẻ bớt gánh nặng cung cấp vốn hiện nay mà
các NHTM đang phải gánh vác.
Hai là, cần tạo ra sự ổn định về tỷ giá và lãi suất cho thị trƣờng: Trong thời
gian qua, diễn biến về tỷ giá giữa đồng USD và VND diễn ra tƣơng đối phức tạp,
NHNN thông qua các công cụ vĩ mô cần phải có biện pháp bình ổn tỷ giá để
tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, thông qua đó cũng tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng và nâng cao
chất lƣợng tín dụng XNK.
Ba là, cần củng cố thêm nữa hệ thống thông tin và cung cấp thông tin, nhất là
thông tin của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK: Để cung cấp đầy đủ,
chính xác thông tin về các khách hàng cho hệ thống NHTM nói chung và cho SHB
nói riêng NHNN cần tăng cƣờng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Cụ thể
là chỉ đạo, đôn đốc các ngân hàng thực hiện chế độ cung cấp thông tin khách hàng
theo quy chế và tổ chức hoạt động thông tin tín dụng do Thống đốc ngân hàng nhà
nƣớc ban hành đồng thời giúp các ngân hàng cập nhập thông tin khi có biến động
của khách hàng.
Bốn là, cần ban hành hệ thống quy định mang tính pháp lý điều chỉnh trực
tiếp hoạt động tín dụng XNK: Hoạt động tài trợ XNK thông qua phƣơng thức L/C
80
khá phổ biến ở nƣớc ta, do đó nhu cầu về các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động
cấp tín dụng XNK theo hình thức này là hết sức cần thiết. Trên phƣơng diện quốc
tế, hoạt động thanh toán bằng L/C đƣợc điều chỉnh bởi UCP 600 do Phòng Thƣơng
mại quốc tế (ICC) ban hành. Trên phƣơng diện quốc gia, NHNN nên ban hành một
văn bản hƣớng dẫn chung việc áp dụng UCP 600 vào thực tiễn thanh toán quốc tế
của Việt Nam để có một hành lang tập quán thống nhất của Việt Nam, tránh hiện
tƣợng vận dụng UCP 600 rất khác nhau của các ngân hàng.
Năm là, cần có những chính sách nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất
khẩu về lãi suất, thời gian, thủ tục vay vốn. Có nhƣ vậy, mới có thể hỗ trợ hoạt động
xuất khẩu nói chung và hoạt động tài trợ xuất khẩu tại các ngân hàng nói riêng phát
triển.
Cuối cùng, NHNN cần phát huy vai trò lãnh đạo của mình đối với các ngân
hàng thƣơng mại Việt Nam trong quan hệ giao dịch với các bạn hàng quốc tế:
Trong quan hệ quốc tế, uy tín là một yếu tố vô cùng quan trọng. Ngoại trừ các ngân
hàng thƣơng mại nhà nƣớc, nhìn chung các ngân hàng TMCP Việt Nam chƣa xây
dựng đƣợc sự tin tƣởng của các ngân hàng nƣớc ngoài cũng nhƣ chƣa có đƣợc uy
tín trên thị trƣờng tài chính quốc tế. Để tạo điều kiện cho ngân hàng thƣơng mại
Việt Nam mở rộng tín dụng tài trợ XNK thì NHNN cần phát huy hơn nữa vai trò
lãnh đạo cho các ngân hàng thƣơng mại trong quan hệ quốc tế.
81
KẾT LUẬN
Mở rộng hoạt động tín dụng, đặc biệt là mở rộng hoạt động tài trợ TMQT của
NHTM nói chung là một trong những hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhất trong
điều kiện nền kinh tế thị trƣờng nhƣ hiện nay. Nó không chỉ giúp các NHTM tồn
tại, phát triển mà còn giúp các ngân hàng này khẳng định đƣợc chỗ đứng của mình
trong hệ thống ngân hàng quốc gia cũng nhƣ hệ thống ngân hàng quốc tế.
Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của SHB trong
hoạt động tài trợ TMQT là một vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, qua việc vận dụng tổng
hợp các phƣơng pháp nghiên cứu kết hợp với thực tiễn, đề tài đã hoàn thành một số
công việc sau:
- Phân tích khái quát về hoạt động tài trợ TMQT và năng lực cạnh tranh của
các ngân hàng thƣơng mại trong hoạt động tài trợ TMQT; phân biệt một số hình
thức tài trợ TMQT và đƣa ra một số chỉ tiêu để đánh giá năng lực cạnh tranh của
ngân hàng trong hoạt động tài trợ TMQT; từ đó nêu lên tầm quan trọng của hoạt
động này trong thực tiễn.
- Giới thiệu một cách khái quát về Ngân hàng Sài Gòn- Hà Nội (SHB), phân
tích thực trạng đồng thời chỉ ra các ƣu nhƣợc điểm trong hoạt động tài trợ TMQT
tại SHB hiện nay. Qua đó đánh giá khái quát về năng lực cạnh tranh của SHB trong
hoạt động tài trợ TMQT so với các ngân hàng đối thủ.
- Đƣa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của SHB trong hoạt động tài trợ TMQT tại Việt Nam.
Thông qua đề tài này, tác giả hy vọng một số giải pháp và kiến nghị đã nêu
sẽ đóng góp phần nào vào quá trình định hƣớng cũng nhƣ việc đề ra các giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động tài trợ TMQT của SHB nói
riêng và của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, do hạn chế
về khả năng và trình độ, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
đƣợc sự hƣớng dẫn, ý kiến, nhận xét của các thầy cô giáo và các bạn để bài luận văn
này đƣợc hoàn chỉnh hơn.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu xắc đến TS Đặng Thị Nhàn,
người đã nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo và hướng dẫn hoàn thành luận văn này.
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. TS Đặng Thị Nhàn (2006), Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán trong tài trợ
thương mại quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, Trƣờng Đại học
ngoại thƣơng
2. PGS,TS Nguyễn Thị Quy (2004), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân
hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Trƣờng Đại
học Ngoại thƣơng
3. PGS, NGƢT Đinh Xuân Trình, TH.S Vũ Thị Kim Oanh, TH.S Đặng Thị Nhàn
(2000), Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài trợ thương mại
quốc tế ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - Bộ Giáo dục và đào
tạo
4. Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (2007, 2008, 2009), Báo cáo thường niên.
5. Nguyễn Văn Tiến (2005), Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương, NXB
Thống kê Hà Nội.
6. Phạm Hồng Chi (2006), Tài trợ thương mại quốc tế của Ngân hàng NN & Phát
triển nông thôn Việt Nam- Thực trạng và giải pháp phát triển, Đại học Ngoại
thƣơng Hà Nội
7. TS. Nguyễn Minh Kiều (2006), Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, Nhà
xuất bản Tài chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3372_8189.pdf