Luận văn Nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay

Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn đã đề cập và làm rõ chủ thể nhận thức trong học tập ở đây là sinh viên các trường đại học, cao đẳng tại địa bàn tỉnh Thái Bình, còn đối tượng khách thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình là những tri thức khoa học, một phần thực tiễn xã hội ở Thái Bình và cả nước. Sinh viên ở Thái Bình với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập vừa có điểm chung với chủ thể nhận thức - sinh viên của cả nước, vừa có những điểm riêng do đặc thù của một tỉnh vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng tạo nên. Trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học, nhận thức mà sinh viên có được luôn đặt dưới sự tổ chức hướng dẫn, gợi mở của người dạy.

pdf101 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2941 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ môn, đơn vị trong toàn trường góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, giữ vững sự ổn định phát triển của nhà trường. Các khoản thu của nhà trường bao gồm: Ngân sách Nhà nước cấp chi thường xuyên để đào tạo cho chương trình mục tiêu và dự án vay vốn, cho bồi dưỡng đào tạo lại công chức và trợ cấp khó khăn cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ bản. Các khoản thu chi hàng năm là cân đối, đúng quy định được công bố công khai tại hội nghị cán bộ công chức của các trường. Do tình hình cơ sở vật chất của các trường có khó khăn, thiếu thốn nên chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường còn có những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng tốt nhiệm vụ được giao. Để nâng cao hơn chất lượng giáo dục, đào tạo, cũng như nâng cao tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người học, Nhà nước và tỉnh Thái Bình phải kết hợp để tăng cường hơn nữa đầu tư cho giáo dục, đào tạo, tăng ngân sách và huy động mọi nguồn lực phục vụ tốt hơn cho giáo dục, đào tạo của tỉnh. So với các nước trong khu vực và trên thế giới thì ngân sách dành cho giáo dục, đào tạo ở nước ta nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng chưa tương xứng với quy mô phát triển giáo dục, đào tạo hiện nay. Muốn tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ cho giáo dục, đào tạo, theo chúng tôi Nhà nước và tỉnh Thái Bình cần kết hợp tăng cường hơn nữa cơ sở vật chất cho giáo dục, đào tạo bằng cách tạo ra môi trường pháp lý để thu hút vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, từ các thành phần kinh tế trong tỉnh và cả nước. Cần tranh thủ sự hợp tác hỗ trợ song phương và đa phương, cần đẩy mạnh việc vay vốn từ các Ngân hàng WB, ADB, từ nguồn ODA, đồng thời có chủ trương phát hành các cổ phiếu, đầu tư 100% vốn nước ngoài, nhằm thu hút vốn đầu tư cho giáo dục. Bằng cách đó áp lực về ngân sách chi phí cho giáo dục, đào tạo có thể giảm. ở Thái Bình đã có nhiều ưu đãi và chính sách khuyến khích, thu hút nhân tài nhằm tăng nguồn nhân lực có trình độ cao cho địa phương, sinh viên học giỏi và có thành tích được động viên rất kịp thời. Có thể khẳng định Thái Bình cũng là một tỉnh quan tâm và đầu tư nhiều cho giáo dục, đào tạo nhân tài, nhân lực cho tỉnh. Mặc dù còn nhiều khó khăn, song tỉnh Thái Bình đã dành phần ngân sách đáng kể cho giáo dục, đào tạo, đây cũng là một trong những chính sách nhằm khích lệ động viên người dạy và người học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, yêu cầu nâng cao vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thì tỉnh Thái Bình cần phải kết hợp với các cấp, các ngành tiếp tục đầu tư nhiều hơn nữa ngân sách cho giáo dục, đào tạo. 3.2.2. Giải pháp liên quan đến đội ngũ giảng viên Sinh viên là “trung tâm” của quá trình đào tạo, nhưng quyết định chất lượng đào tạo lại là người thầy, trình độ chuyên môn và phương pháp sư phạm của người dạy có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập của sinh viên. Thông qua quá trình đào tạo, người thầy tác động đến sinh viên, biến thành sức mạnh chủ quan của họ. Sức mạnh bên trong ấy có thể làm cho kiến thức mà thầy truyền thụ cho sinh viên được nhân lên, sáng tạo thêm rất nhiều. Thực tế đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng ở tỉnh Thái Bình hiện nay, đặc biệt ở 2 trường cao đẳng không những thiếu về số lượng mà còn hạn chế về trình độ, chuyên môn, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh. Nhu cầu của người học ngày càng tăng nhanh nhưng số lượng cũng như chất lượng giảng viên thì tăng rất chậm. Điều này đã tạo ra sự mất cân đối về tỷ lệ giảng viên trên số lượng sinh viên, làm ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giáo dục, đào tạo. Qua khảo sát ở các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Thái Bình chúng tôi thấy cơ cấu độ tuổi của giảng viên như sau: Bảng 3.2: Cơ cấu độ tuổi giảng viên các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Thái Bình từ tháng 4 - tháng 5/2005 stt độ tuổi tỷ lệ 1 Dưới 35 tuổi 22 2 Từ 36  50 tuổi 50 3 Từ 51  60 tuổi 28 Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Thái Bình. Từ thực tế trên chúng ta thấy số giảng viên trẻ ở Thái Bình còn rất thấp (chiếm 22%) Giảng viên trẻ có trình độ chuyên môn ngoại ngữ, tin học tương đối khá nhưng phương pháp và kinh nghiệm giảng dạy chưa vững vàng. Đội ngũ giảng viên lâu năm tuy phương pháp tốt, giàu kinh nghiệm., song do hoàn cảnh lịch sử, đào tạo có khi chắp vá không cơ bản, cùng với sự gia tăng không ngừng của tri thức nên nhiều khi chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Theo chúng tôi Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có kế hoạch đào tạo lại, nâng cao trình độ cho bộ phận này. Số cán bộ chuyên môn làm công tác giảng dạy và phục vụ giảng dạy tại 3 trường chiếm tỷ lệ là 68,7%. Số sinh viên trên một giảng viên là: 10 sinh viên/1 giảng viên. Về chất lượng, đội ngũ giảng viên có trình độ trên và sau đại học là: 4 phó giáo sư, 22 tiến sỹ, 115 thạc sỹ. (Chiếm tỷ lệ thấp, nhất là ở 2 trường cao đẳng). Hiện nay có 75 cán bộ giảng viên đang học nghiên cứu sinh, cao học; 50 cán bộ giảng viên đang học chương trình sau đại học và gần 30 cán bộ giảng viên đang ôn và thi nghiên cứu sinh, cao học vào năm 2005 - 2006. So với chỉ tiêu đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế thì số giảng viên của trường có học vị tiến sỹ, giáo sư, phó giáo sư của 3 trường: Đại học Y khoa, cao đẳng Kinh tế kỹ thuật, cao đẳng Sư phạm của Thái Bình hiện nay là chưa đạt yêu cầu. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân, công tác đào tạo chưa được triển khai mạnh ở các khối, các bộ môn, một số cán bộ có trình độ chuyên môn, có học vị Tiến sỹ thì thuyên chuyển công tác ra tỉnh khác hoặc nghỉ hưu… Giảng viên có trình độ ngoại ngữ C trở lên còn thấp, chưa đạt chỉ tiêu của Bộ (>80%). Mặc dù các trường đã được cấp kinh phí đào tạo lại cán bộ, đào tạo ngoại ngữ cho cán bộ giảng dạy nhưng thực tế trình độ ngoại ngữ của cán bộ giảng dạy nói chung còn quá yếu. Do vậy đối với trường Đại học Y khoa Thái Bình thì việc hợp tác Quốc tế cũng như việc cập nhật thông tin qua thư viện điện tử và qua mạng Internet còn bị hạn chế. Các trường đã mở trên 20 lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy tích cực cho 100% giảng viên trong trường. Nội dung tập huấn bao gồm: Mục tiêu học tập, lập kế hoạch bài giảng, đánh giá sinh viên, phương pháp soạn câu hỏi trắc nghiệm và thống nhất sử dụng các phương tiện dạy học, sử dụng một số trang thiết bị nghe nhìn. Đến nay 100% giảng viên đã áp dụng phương pháp dạy - học tích cực, có kế hoạch bài giảng và sử dụng tốt các phương tiện dạy học. Cán bộ, giảng viên ở 3 trường đại học Y khoa, cao đẳng Kinh tế kỹ thuật, cao đẳng Sư phạm ở tỉnh Thái Bình đã tích cực tham gia biên soạn giáo trình, bài giảng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiêp vụ, nâng cao năng lực giảng dạy. Đây còn là một hình thức bồi dưỡng, tự bồi dưỡng trình độ chuyên môn của mỗi cán bộ giảng viên nhằm đáp ứng nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hiện nay số sách đã phát hành lên tới 100 đầu sách trong đó bài giảng được phát hành chính thức chiếm 12,28%, bài giảng phát hành và sử dụng trong nội bộ nhà trường chiếm 87,72%. 99% giảng viên của 3 Trường đại học Y khoa, cao đẳng Kinh tế kỹ thuật, cao đẳng Sư phạm Thái Bình tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học ở hầu hết các bộ môn. Nghiên cứu khoa học bước đầu đã trở thành phong trào thi đua mang lại hiệu quả cao cho công tác đào tạo. Xét các danh hiệu thi đua, góp phần tăng cường mối quan hệ giữa từng trường và các trường bạn, với các đơn vị, cơ quan khác. Nghiên cứu khoa học đã tạo điều kiện về đề tài và phương pháp nghiên cứu cho các nghiên cứu sinh và và học viên cao học của trường (đại học Y khoa). Để nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, Nhà nước, Bộ giáo dục, Bộ Y tế và tỉnh Thái Bình cần kết hợp với các trường tạo những điều kiện thuận lợi nhất về kinh phí cũng như thời gian để cán bộ giảng viên phát huy và nâng cao hơn nữa chuyên môn nghiệp vụ, được đi học nâng cao chuyên môn nghiệp vụ trong nước hoặc nước ngoài, quan tâm động viên kịp thời đối với những cán bộ giảng viên có thành tích. Có chế độ ưu đãi về lương cũng như các chế độ khác đối với cán bộ, giảng viên để họ an tâm công tác và cống hiến hết khả năng cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế và tỉnh Thái Bình có kế hoạch đầu tư ngân sách, tăng cường trang thiết bị do việc dạy - học nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh và cho đất nước. Đối với từng trường cụ thể cần phải có chính sách ưu đãi hợp lý, đảm bảo công bằng trong lao động cũng như hưởng thụ cho đội ngũ cán bộ, giảng viên; phải tổ chức đánh giá đội ngũ cán bộ giảng dạy của nhà trường đáp ứng hay không đáp ứng được yêu cầu đào tạo, phải chuẩn hoá cán bộ giảng dạy theo các tiêu chí: kiến thức, phương pháp giảng dạy, đạo đức - tư cách và khả năng nghiên cứu. Có như vậy thì mới đảm bảo được chất lượng dạy- học đáp ứng được yêu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Như vậy thì mới có điều kiện để nâng cao vai trò tích cực, chủ động của sinh viên trong học tập. 3.2.3. Giải pháp về chương trình, nội dung, phương pháp dạy học Chương trình, nội dung, phương pháp dạy học là một trong nhiều nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên Thái Bình. Sau 20 năm đổi mới giáo dục đại học, cao đẳng ở tỉnh Thái Bình đã có những bước tiến lớn, tuy vậy vẫn chưa thoả mãn yêu cầu của cơ chế thị trường, yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh. Vấn đề trăn trở hiện nay của tất cả những người có chức trách cũng như cán bộ, giảng viên trực tiếp giảng dạy là nội dung chương trình đào tạo đại học, cao đẳng của chúng ta rất khác với các nước trong khu vực có nền kinh tế thị trường. Nhiều năm qua chúng ta sử dụng mô hình cấu trúc của Liên Xô cũ nhưng đến bây giờ khi chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường thì cấu trúc và nội dung chương trình không còn phù hợp nữa. Nhiều năm qua chúng ta tích cực đổi mới nội dung chương trình, nhưng kết quả đạt được chưa cao. Đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý đào tạo ở các trường thiếu kiến thức về phương pháp luận xây dựng chương trình đào tạo, thiếu kiến thức tài liệu và thông tin cần thiết cũng như những tri thức hiện đại về các ngành đào tạo. Vì vậy cần phải đổi mới hơn nữa nội dung, chương trình của từng trường, từng ngành học cho phù hợp với đối tượng sinh viên, với địa phương và yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đối với đại học thời gian đào tạo được thiết kế là 4 -6 năm, cao đẳng từ 3 đến không quá 4 năm. Như vậy phải xây dựng nội dung chương trình cho phù hợp, tránh đưa kiến thức quá nặng hoặc quá nhẹ. Đại hội Đảng toàn quốc lần IX đã nhấn mạnh "Trong những năm trước mắt giải quyết dứt điểm các vấn đề bức xúc: Sửa đổi chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cải tiến chế độ thi cử khắc phục khuynh hướng "thương mại hoá"giáo dục"... [32, tr.111-112]. Đối với trường đại học Y khoa Thái Bình, dựa vào chương trình khung đào tạo Bác sỹ đa khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo theo Quyết định số 5995/QĐ - Bộ GDDT/ĐH ngày 29/12/1999 về việc thành lập Hội đồng ngành Y khoa, tổng khối lượng kiến thức học tập trong khung chương trình đào tạo Bác sỹ đa khoa là 320 đơn vị học trình, tự chọn lý thuyết thực hành do trường đề xuất và xây dựng thể hiện trong chương trình chi tiết [17], [47]. Trường đại học Y khoa Thái Bình đã xây dựng chương trình đào tạo chi tiết từng môn học và trình Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành để thực hiện gồm 264 đơn vị học trình bắt buộc (giáo dục đại cương, giáo dục chuyên nghiệp), 41 đơn vị học trình tự chọn của trường. Nội dung đào tạo thống nhất thực hiện theo khung chương trình của các trường Đại học Y trong cả nước, đồng thời nhà trường thường xuyên khuyến khích các bộ môn biên soạn và đổi mới nội dung giảng daỵ. Hiện nay 100% bộ môn có chương trình chi tiết, 100% giáo viên có chương trình chi tiết môn học được thông qua kế hoạch giảng dạy trong bộ môn trước khi giảng [30]. Các chỉ số đánh giá tiêu chuẩn chương trình đào tạo đạt điểm tối đa theo bảng điểm đánh giá điều kiện đảm bảo chất lượng đạo tạo bác sỹ đa khoa tại Việt Nam của Bộ Y tế. Đối với trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật Thái Bình và trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình thời gian đào tạo được thiết kế là 3 năm. Sản phẩm đào tạo ở các ngành được cung cấp ở trình độ dưới chuẩn Đại học, do đó phải thiết kế cấu tạo nội dung chương trình cho phù hợp, tránh đưa kiến thức không hợp lý. Đối với trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật (Cao đẳng thực hành) thì chương trình có nhiệm vụ cung cấp cho người học các kiến thức và kỹ năng hoạt động nghề nghiệp là chủ yếu, chương trình đào tạo kiến thức đại cương cần giới hạn ở mức cơ bản nhất. Đối với chương trình cao đẳng Sư phạm Thái Bình (cao đẳng cơ bản) thì có thể xem như một bộ phận cấu thành của chương trình đào tạo đại học thuộc ngành tương ứng. Vì vậy chương trình của dạng cao đẳng này có thể chứa trọn vẹn hoặc chứa một phần khối lượng kiến thức giáo dục đại cương ở chương trình đại học. Bên cạnh nội dung chương trình thì phương pháp dạy - học cũng tác động rất lớn đến việc nâng cao vai trò chủ thể nhận thức của sinh viên Thái Bình. Trong nhiều năm qua giáo dục đại học, cao đẳng ở Thái Bình tích cực rất nhiều trong việc đổi mới phương pháp dạy - học nhưng thực tế vẫn chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn. Bản chất của quá trình dạy- học là có tính quy luật. Có rất nhiều quy luật chi phối hoạt động dạy- học nhưng có lẽ quy luật cơ bản nhất là quy luật thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học tập nghiên cứu khoa học của sinh viên. Nhận thức được quy luật này cán bộ giảng viên của 3 trường đại học, cao đẳng ở Thái Bình luôn cố gắng phấn đấu để vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học hiện đại trongquá trình giảng dạy của mình, nhằm thu được kết quả cao nhất. Giảng viên ở tỉnh Thái Bình đã và đang tập trung đổi mới một cách mạnh mẽ phương pháp giảng dạy của mình, từ năm 2004 đã triển khai đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập và quản lý ở nhà trường, coi đây là cách đột phá để đổi mới cách giảng dạy, học tập và quản lý ở các trường. Có rất nhiều quan niệm về cách đổi mới phương pháp nhưng theo chúng tôi mọi sự đổi mới về phương pháp đều phải tuân thủ nguyên tắc “đặt sinh viên vào vị trí trung tâm” của quá trình giảng dạy dưới sự hướng dẫn gợi mở tích cực của giảng viên. Đây là phương pháp sẽ đưa đến những nhận thức mới về mục đích, mục tiêu đào tạo, về vai trò của người dạy, người học, về bản chất của quá trình dạy - học, về hệ thống các phương pháp... nghĩa là chúng ta đã tiếp cận được các vấn đề của sư phạm học hiện đại. Phương pháp dạy học tích cực lấy “sinh viên làm trung tâm” không phải ngẫu nhiên mà có, nó có cơ sở lý luận từ trong Triết học. Người dạy và người học có mối quan hệ qua lại, thầy đóng vai trò là ngoại lực tác động tới sinh viên, giúp sinh viên phát huy hết nội lực của bản thân, tự vận động để tìm ra tri thức và như vậy là họ đóng vai trò chủ động, quyết định tới chất lượng học tập của bản thân. Nhưng như trên đã nói, vì là mối quan hệ qua lại cho nên trong phương pháp này vai trò của người thầy không thể bị coi nhẹ mà ngược lại phải có sự dẫn dắt, gợi mở của người thầy thì sinh viên mới hiểu sâu sắc kiến thức, có định hướng đúng, không phải mò mẫm. Trong quá trình sử dụng phương pháp dạy học tích cực người dạy đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn gợi mở, sinh viên tự chủ, độc lập, tự tích cực hoá bản thân. Trong quá trình ấy sẽ diễn ra nhiều quan điểm, nhiều ý kiến trái ngược mâu thuẫn nhau về một hoặc nhiều vấn đề. Trong tình huống ấy, người thầy sẽ phát hiện kịp thời với tư cách là cố vấn, là trọng tài khoa học đưa ra những kết luận cuối cùng trong các cuộc tranh luận. Đồng thời, người thầy cũng kiêm luôn vai trò là người đánh giá, kiểm tra kết quả học tập của sinh viên. Thông qua cách học như vậy mỗi sinh viên sẽ tự động sửa chữa, điều chỉnh, đánh giá, rút kinh nghiệm về phương pháp học, về cách xử lý các tình huống có vấn đề của mình. Ngược lại khi người thầy tiếp nhận từ các em những vấn đề mới nảy sinh qua quan hệ của các em với bạn bè, thầy cô, xã hội... sẽ khiến người dạy phải tự điều chỉnh hệ thống phương pháp của mình, có thể tăng lên ở phương pháp này, giảm bớt ở phương pháp kia… Như Mác đã nói: "Nhà giáo dục cũng phải được giáo dục". Vì vậy bản thân người dạy cũng phải tích cực, năng động, sáng tạo để không ngừng đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học. Quan hệ thầy - trò trong dạy - học luôn là một quá trình vừa thống nhất vừa mâu thuẫn, mâu thuẫn này được giải quyết thì mâu thuẫn khác nảy sinh cứ như thế cả thầy và trò sẽ đều đạt đến một trình độ cao hơn cả về tri thức khoa học và phương pháp. Đổi mới phương pháp đào tạo với phương trâm lấy người học làm “trung tâm” của quá trình đào tạo dưới sự hướng dẫn của người thầy là phát huy vai trò chủ thể nhận thức của sinh viên trong học tập, đồng thời người thầy sẽ giúp sinh viên cách học, cách tự hiểu bản thân để tự học có hiệu quả. Để quá trình dạy - học của thầy - trò đạt hiệu quả cao không phải chỉ dựa vào một phương pháp nào đó mà người thầy ở đây phải biết kết hợp nhiều phương pháp dạy để giờ lên lớp của thầy - trò đạt hiệu quả cao nhất. Các yếu tố như cấu trúc, nội dung chương trình, cách dạy của giảng viên... đều đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tập của sinh viên. Tuy nhiên, tất cả các yếu tố trên xét đến cùng chỉ là những nguyên nhân bên ngoài, sự ảnh hưởng của những nguyên nhân này đến mức nào là phụ thuộc vào khả năng nhận thức, vận dụng, chuyển hoá tri thức của từng sinh viên. Như vậy, có thể nói phương pháp dạy học tích cực là phương pháp có nhiều ưu điểm kết hợp giữa cá thể hoá và xã hội hoá quá trình dạy - học. Đồng thời để phát huy tối đa hiệu quả của một giờ giảng thì người giảng viên phải biết kết hợp linh hoạt nhiều phương pháp: Truyền thống và hiện đại, phương pháp giảng giải, thuyết trình, đặt câu hỏi, nêu tình huống có vấn đề, phương pháp hợp tác, phương pháp tự học tập và nghiên cứu khoa học, tự đánh giá kiểm tra. Khi vận dụng phương pháp giảng dạy tích cực có tác dụng giảm được thời gian soạn bài, giảm thời gian giảng giải trên lớp và sẽ tăng thời gian đối thoại, giờ giảng sẽ sinh động, sôi nổi lên rất nhiều. Thầy đặt câu hỏi, nêu tình huống có vấn đề, trò trả lời. Cả thầy và trò đều làm việc tích cực, hứng thú sinh viên có niềm vui được khám phá chân lý, tự tin, mạnh dạn phát biểu, tranh luận với thầy với bạn.. Tóm lại: Để góp phần nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên thì chúng ta cần phải quan tâm đúng mức đến nội dung chương trình, phương pháp dạy và học. Có như vậy mới thúc đẩy các em tích cực hơn, chủ động hơn trong quá trình học tập. Để đáp ứng được yêu cầu của thời đại thì chất lượng đào tạo của chúng ta phải được nâng cao, muốn có chất lượng đào tạo tốt thì chúng ta phải có kế hoạch đầu tư cho người dạy, người học và những vấn đề có liên quan đến họ. 3.2.4. Giáo dục chuyên ngành phải kết hợp với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức Nền kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực, tạo điều kiện cho cá nhân phát triển thì mặt khác lại là môi trường nuôi dưỡng cho những hiện tượng tiêu cực, cá nhân chủ nghĩa nẩy nở làm ảnh hưởng xấu đến một bộ phận thanh niên, lối sống của họ nếu đi chệch hướng sẽ bị xói mòn. Đặc biết đối với đối tượng là thanh niên sinh viên thì chúng ta phải đặc biệt chú ý đến việc giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức làm thế nào để mỗi một sinh viên của chúng ta thực sự hăng say phấn đấu trong học tập, lao động để khẳng định mình, gắn mình với cộng đồng với xã hội, rèn luyện để giác ngộ chính trị, tư tưởng và đạo đức. Có một thời kỳ các môn học về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh bị xem nhẹ. Thang giá trị đạo đức bị thay đổi ít nhiều do sự thay đổi của từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thời kỳ trước đổi mới giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc được Giáo sư Trần Văn Giàu nhấn mạnh, Bao gồm 7 nội dung là "yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa" thì ngày nay sự biến đổi về thang giá trị có thay đổi theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên, ở một số khía cạnh, trong đó có văn hoá tinh thần có nhiều điều đáng lo ngại, lối sống cá nhân chủ nghĩa, chạy theo đồng tiền, tham nhũng, mê tín dị đoan, truyền thống dân tộc bị xem nhẹ. Vì vậy ở các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Thái Bình bên cạnh việc giáo dục chuyên ngành cần chú ý đến giaó dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho sinh viên. Thực hiện chỉ thị số 34/CT-TW của Bộ chính trị "Về tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển Đảng viên trong các trường học". Trường đại học Y khoa, trường cao đẳng Sư phạm, trường cao đẳng Kinh tế kỹ thuật tỉnh Thái Bình đã đặt ra các yêu cầu và nhiệm vụ như sau: Thứ nhất: Phải củng cố niềm tin của sinh viên vào Đảng, vào hiện thực ngày càng tốt đẹp của xã hội ta. Chỉ khi nào họ có niềm tin cộng sản vững chắc thì sẽ quyết định khuynh hướng, mục đích, hiệu quả hoạt động của họ; sẽ trở thành những người hoạt động hăng say, tích cực và giành thành quả cao trong công việc của mình. Thứ hai: Phải tăng cường giáo dục cho họ có tình cảm yêu nước nồng nàn; yêu độc lập dân tộc, yêu chủ nghĩa xã hội, phải biết làm giàu cho gia đình và đất nước, phải trung với Đảng, với nước, với dân. Trong điều kiện hiện nay thì việc "Trung", "Hiếu" phải được coi là giá trị nổi bật để sinh viên không dễ bị sa vào cạm bẫy của kẻ thù, quay lưng phản lại Tổ quốc, phản bội nhân dân. Như vậy, có thể nói khi chúng ta giáo dục tình cảm yêu nước là nội lực quan trọng để tạo cho sinh viên những người chủ tương lai của đất nước ý chí tự lực tự cường, say mê lao động và tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập. Thứ ba: Phải giáo dục ý thức cộng đồng để mỗi cá nhân phải hăng say phấn đấu trong học tập và lao động, khẳng định mình, gắn mình với cộng đồng với xã hội. Đồng thời trách nhiệm của cộng đồng là tạo những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, trưởng thành của mỗi cá nhân, gắn cá nhân với cộng đồng. Cộng đồng quan tâm tới cá nhân sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn giúp cho cá nhân trong đó có từng sinh viên vượt qua khó khăn, quyết tâm phấn đấu giành thắng lợi cho bản thân và đóng góp cho cộng đồng, xã hội. Thứ tư: Ngày nay sinh viên đặc biệt quan tâm đến việc làm sau khi ra trường. Do đó, giáo dục đạo đức nghề nghiệp phải coi là một nội dung cơ bản trong giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho sinh viên. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp giúp cho họ có trách nhiệm cao đối với ngành nghề mà họ đã lựa chọn từ đó khơi dậy lòng nhiệt tình - yêu nghề của họ để phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhất là đối với sinh viên ở tỉnh Thái Bình chủ yếu là sinh viên sư phạm và sinh viên y khoa - những ngành cần đặc biệt giáo dục đạo đức, trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp. Vì vậy ngoài việc giáo dục chuyên ngành, giáo dục chính trị, tư tưởng thì còn cần phải quan tâm giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên nghế nhà trường sẽ có tác động tích cực đối với sinh viên giúp họ có thể hy sinh lợi ích cá nhân để cống hiến cho xã hội chấp nhận làm việc ở những nơi xa trung tâm văn hoá, kinh tế. Nhất là đối với sinh viên ở tỉnh Thái Bình đa số sẽ trở thành thầy thuốc và thầy giáo, nên việc giáo dục y đức và đạo đức nghề nghiệp cho họ là vấn đề cần đặc biệt chú trọng. Thứ năm: Kết hợp giáo dục chuyên ngành với giáo dục phẩm chất truyền thống: Yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, trung hiếu, cần kiệm... với các giá trị đạo đức mới như chủ động, sáng tạo, tự lập, tự chủ, vượt khó... Thiết nghĩ như vậy sẽ giúp họ khẳng định bản thân và hoà nhập vào xã hội hiện đại, hơn nữa họ không mất gốc mà còn có điều kiện vươn lên làm chủ khoa học - kỹ thuật hiện đại và có thể đuổi kịp trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Chỉ có kết hợp tốt giữa giáo dục chuyên ngành và giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho sinh viên thì chúng ta mới có một lớp trí thức "Vừa hồng, vừa chuyên" như Bác Hồ kính yêu của chúng ta hằng mong đợi. Tuy nhiên để làm được điều đó thì không chỉ có đội ngũ giảng viên lý luận trong trường mà quan trọng hơn là phải có sự quan tâm kết hợp của nhà trường, Ban giám hiệu, các phòng ban. (Đặc biệt là phòng công tác tư tưởng chính trị của các trường), các khoa, tổ chức Đảng, tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên... có như vậy mới đào tạo được những sinh viên có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội và sẽ trở thành những người cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ giỏi có lập trường chính trị kiên định, có đạo đức và lối sống trong sáng. Để thực hiện được những vấn đề trên cần phải có một loạt các giải pháp tích cực: Cần phải xây dựng hoàn thiện nội dung các môn học Mác-Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thiết kế chương trình các môn học cho phù hợp với sinh viên của từng hệ, từng chuyên ngành đào tạo. Tích cực đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị. Tổ chức các hội thảo tuyên truyền, cổ động, cung cấp thông tin cho sinh viên. Tổ chức Đảng, các cấp lãnh đạo, các đoàn thể trong từng đơn vị, trường học cần phối hợp tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị, quán triệt sâu sắc quan điểm, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước. Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cần đẩy mạnh các hoạt động, nâng cao vai trò nòng cốt trong các phong trào học tập, phong trào chống các tai tệ nạn xã hội. Ngày 24 tháng 6 năm 2002 Thủ trưởng Chính phủ đã có quyết định phê duyệt đề án "Một số biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu qủa giảng dạy, hiệu quả học tập các môn khoa học Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng..." Mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng trình độ đội ngũ giảng viên các bộ môn khoa học Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng, các môn khoa học như: Triết học Mác- Lê nin, Kinh tế chính trị Mác - Lê nin, Chủ nghĩa xã hội, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh (đối với các trường đại học, cao đẳng) là những môn học bắt buộc. Nội dung của các môn khoa học Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nội dung thi tốt nghiệp. Đối với cán bộ giảng viên các môn khoa học Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài các chế độ, quyền lợi của giảng viên đại học, cao đẳng, họ còn được hưởng thêm chế độ phụ cấp giờ giảng tính theo tiền lương, ngạch, bậc cộng với phụ cấp chức vụ (nếu có) và trả theo số giờ thực tế giảng dạy (tối đa không vượt quá số giờ chuẩn quy định của chức danh người được hưởng) với mức 25% áp dụng đối với những giờ giảng của những giảng viên cho các lớp đào tạo cao đẳng, đại học và sau đại học. Đối với sinh viên, kết quả học tập các môn này là một trong những điều kiện quan trọng để xem xét việc xếp loại khen thưởng và xét công nhận tốt nghiệp. Vì vậy, một trong những giải pháp nhằm nâng cao vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình là bên cạnh việc giáo dục chuyên ngành, Ban Giám hiệu nhà trường, đội ngũ giảng viên chuyên ngành, giảng viên dạy lý luận, các tổ chức Đảng, đoàn thể, các phòng ban của nhà trường phải cùng kết hợp để tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho sinh viên. 3.2.5. Đổi mới chính sách đối với sinh viên Muốn nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng phát huy có hiệu quả cao hơn và phát huy có hiệu quả vai trò tích cực, sáng tạo của sinh viên trong học tập thì cùng với các giải pháp khác cần phải đổi mới chính sách đối với sinh viên. Nhà nước phải có chính sách ưu đãi hơn nữa đối với sinh viên như tăng học bổng đối với sinh viên giỏi, có chính sách hộ trợ những sinh viên nghèo để họ có thể an tâm học tập, phát triển tài năng, lập nghiệp. Chúng ta đã xoá bỏ chế độ phân công việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, vì vậy mà sinh viên phải tự tìm việc làm theo khả năng của bản thân và phụ thuộc vào yêu cầu của nền kinh tế xã hội. Do đó phải có chế độ ưu đãi hợp lý đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, đặc biệt đối với các đối tượng thuộc diện chính sách, các đối tượng ở vùng sâu, vùng xa… Có chính sách khuyến khích giáo dục của nhà trường gắn với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất để sinh viên ra trường dễ có cơ hội kiếm việc làm. Nếu được như vậy thì tinh thần học tập của sinh viên sẽ được nâng lên rất nhiều và chất lượng đào tạo sẽ cao hơn. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng “Đào tạo theo nhu cầu của xã hội”. Khắc phục tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các ngành nghề và các cấp đào tạo. Tránh lãng phí nguồn nhân lực đã qua đào tạo phải kế hoạch hoá giáo dục, đa dạng hoá hình thức giáo dục… ở tỉnh Thái Bình nếu xét về hình thức sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp là tương đối cao so với các tỉnh khác. Ngoài những lợi thế về việc làm, thì sinh viên Thái Bình còn được quan tâm rất nhiều từ phía tỉnh, nhà trường với những chế độ ưu đãi như: Hỗ trợ sinh viên nghèo học giỏi, cho sinh viên vay vốn, tạo việc làm giúp sinh viên có thêm thu nhập để trang trải học tập. Cần bổ sung thêm những chính sách như sinh viên giỏi được ưu tiên chỗ ở trong ký túc xá. Những sinh viên giỏi, xuất sắc được ưu tiên giữ lại trường làm cán bộ, được tuyển dụng vào các cơ quan, bệnh viện và trường học lớn của tỉnh để các em có môi trường tốt phát huy hết khả năng, trí tuệ của mình phục vụ cho quê hương, đất nước. Tạo sự công bằng trước cơ hội kiếm việc làm cho mỗi sinh viên sau khi tốt nghiệp... Có như vậy thì việc nâng cao vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của sinh viên ở Thái Bình sẽ thuận lợi và hữu ích hơn. Các tổ chức, đoàn thể, đặc biệt là đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên đã tác động tích cực tới các em trong quá trình học tập. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong từng nhà trường có vai trò, ảnh hưởng lớn tới chất lượng giáo dục và đào tạo. Nhiệm vụ chính mà các tổ chức Đoàn, Hội sinh viên trong nhà trường đề ra là: “Dạy tốt và học tốt”. Giúp các đoàn viên tiếp cận cuộc sống, khơi dậy tinh thần “đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Biên tập và phát hành ”Bản tin học tập” hoặc tập san theo chủ đề hàng tháng (hoặc quý) để thông tin về kết quả học tập và rèn luyện của từng lớp, cung cấp thêm thông tin văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của từng đoàn viên, sinh viên trong từng môn học. Thông qua các hoạt động khơi dậy trong sinh viên tinh thần tự chủ, thi đua trong học tập. Tăng cường các hoạt động ngoại khoá phục vụ cho môn học như nghe nói chuyện chuyên đề, trích đoạn tác phẩm và trình diễn các tiểu phẩm, đi tham quan thực tế, tổ chức các cuộc thi "cán bộ đoàn giỏi thanh lịch", "sinh viên thanh lịch, hiểu biết...", "giao lưu sinh viên các trường"… sẽ giúp sinh viên hiểu biết thêm rất nhiều, nâng cao tinh thần tập thể, tính trung thực và lòng nhân ái trong sinh viên. Sinh hoạt ở các câu lạc bộ môn học sẽ tập hợp được các đoàn viên sinh viên có cùng sở thích, chọn được các nhân tài trong các lĩnh vực, giúp đoàn viên sinh viên đảm nhận các đề tài nghiên cứu khoa học có cơ hội ứng dụng kiến thức được học vào thực tiễn. Ngoài ra ở các trường như đại học Y, cao đẳng Kinh tế kỹ thuật, cao đẳng Sư phạm Thái Bình, Đoàn trường có vai trò và nhiệm vụ giúp đỡ sinh viên học tập. Thông qua việc thành lập các “Quỹ học bổng”, “Quỹ hỗ trợ tài năng trẻ” “Quỹ tín dụng học sinh, sinh viên”… để giúp sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, có điều kiện và cơ hội học tập tốt hơn. Tổ chức các hoạt động hướng nghiệp và giới thiệu việc làm cho sinh viên, tổ chức gặp gỡ giao lưu giữa các đoàn viên ưu tú có kết quả học tập và rèn luyện tốt. Tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, thể thao, tham quan di tích, hoạt động từ thiện xã hội “Hiến máu nhân đạo”, “Mùa hè xanh”, “Màu áo xanh tình nguyện…”, thông qua các ngày lễ, các đợt vận động, các ngày hoạt động xã hội… để lôi kéo sinh viên vào các hoạt động lành mạnh. Đồng thời, qua các hoạt động trên đoàn viên - sinh viên không chỉ vui chơi, giải trí, mà còn giúp họ nâng cao chất lượng học tập, hoà nhập với cộng đồng, giác ngộ chính trị đạo đức, hình thành nhân cách người sinh viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tất nhiên, các chính sách đối với sinh viên ở Thái Bình không được dẫn đến bình quân chủ nghĩa, vì như vậy sẽ triệt tiêu động lực học tập của sinh viên. Các chính sách đối với sinh viên ở tỉnh Thái Bình không được cào bằng, bình quân chủ nghĩa nhưng phải đảm bảo được tính nhân văn, ưu việt của chế độ ta là phải quan tâm tới con em thương binh, liệt sỹ, gia đình có công, con em lao động nghèo. Có như vậy mới vừa nâng cao được vai trò chủ động, sáng tạo của sinh viên trong học tập, vừa đảm bảo tính chất XHCN của các chính sách đối với sinh viên. Các giải pháp trên phải được thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện. Đồng thời phải động viên được sinh viên cố gắng, tích cực hơn nữa trong học tập và nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó việc nâng cao vai trò chủ động, tích cực, của sinh viên ở tỉnh Thái Bình mới đạt hiệu quả như mong muốn. Kết luận Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn đã đề cập và làm rõ chủ thể nhận thức trong học tập ở đây là sinh viên các trường đại học, cao đẳng tại địa bàn tỉnh Thái Bình, còn đối tượng khách thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình là những tri thức khoa học, một phần thực tiễn xã hội ở Thái Bình và cả nước. Sinh viên ở Thái Bình với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập vừa có điểm chung với chủ thể nhận thức - sinh viên của cả nước, vừa có những điểm riêng do đặc thù của một tỉnh vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng tạo nên. Trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học, nhận thức mà sinh viên có được luôn đặt dưới sự tổ chức hướng dẫn, gợi mở của người dạy. Đối tượng nhân thức (cụ thể là các tri thức khoa học, các môn học) không phải bắt đầu từ cái cụ thể cảm tính mà là những phạm trù, quy luật… là kết quả của quá trình lao động tư duy của loài người qua rất nhiều thời đại. Cái mà sinh viên tiếp cận và chiếm lĩnh chính là cái cụ thể trong tư duy, là cái đã được trừu tượng hoá, khái quát hoá đạt tới những yếu tố bản chất, quy luật của khách thể. Để có thể nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, đào tạo, để có thể đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho quê hương, đất nước cần phải quan tâm đến quá trình dạy- học trong các trường Đại học, Cao đẳng. Quá trình dạy - học muốn đạt kết quả tốt thì trước hết phải có những người thầy giỏi toàn diện, có phương pháp tốt, biết kết hợp vai trò hướng dẫn, gợi mở với vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của sinh viên. Quá trình dạy học của người giảng viên phải thực sự trở thành quá trình dạy cách học, cách nhận thức cho sinh viên, giúp sinh viên tìm ra phương pháp học phù hợp nhất với bản thân. Học là quá trình tiếp thu, xử lý thông tin bằng các hành động trí tuệ dựa vào các yếu tố sinh học và vốn kiến thức đạt được của bản thân từ đó mà chiếm lĩnh thêm những tri thức mới. Như vậy trong quá trình học thì yếu tố tự học là rất quan trọng đối với mỗi sinh viên, vì ngoài tri thức tiếp thu được ở trường sinh viên có thể tự tiếp cận, tự xử lý thông tin qua các thông tin đại chúng. Tính tự giác của sinh viên còn được biểu hiện trong động cơ, thái độ học tập, ý thức được vai trò của mình trong tương lai, biến tri thức có được thành những kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng vào trong thực tiễn. Khi đã tự giác học tập có nghĩa là đã hình thành tính tích cực, dần dần sẽ phát triển thành tính độc lập của nhận thức. Đó chính là khả năng tự phát hiện và giải quyết vấn đề. Sinh viên ở Thái Bình về cơ bản đã phát huy được vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của bản thân trong học tập. Tuy nhiên so với yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Thái Bình và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước thì còn nhiều bất cập. Để nâng cao hơn nữa vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên ở Thái Bình đáp ứng yêu cầu đổi mới của tỉnh và của cả nước, cần phải thực hiện đồng bộ một số phương hướng như: Tích cực hoá chủ thể nhận thức của sinh viên đồng thời chống khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa; nâng cao vai trò gợi mở, hướng dẫn của giảng viên; nâng cao vai trò tự giáo dục; tự học tập của sinh viên. Đồng thời thực hiện tốt các giải pháp về cơ sở vật chất, về đội ngũ giảng viên, về nội dung chương trình, về phương pháp giảng dạy và kết hợp giữa giáo dục chuyên ngành với giáo dục đạo đức, chính trị, tư tưởng trong các trường. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Dương An (1999), Thư từ quê lúa Thái Bình, Nxb Tài chính, Hà Nội. 2. Nguyễn Dương An (2000), Mái trường quê lúa, Nxb Lao động, Hà Nội. 3. Nguyễn Văn An (1995), Tình hình thiết bị hiện nay và phương pháp giải quyết nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường đại học và chuyên nghiệp, Vụ Kế hoạch và Tài chính - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội. 4. Lê Khánh Bằng (1994), Phương pháp giảng dạy đại học, Tài liệu dùng cho giảng viên đại học và cao học, Nxb Đại học Sư phạm I Hà Nội. 5. Đặng Quốc Bảo (2002), Lời bàn về giáo dục và học tập (ý kiến của danh nhân), Hà Nội. 6. Ban Văn hóa - Xã hội Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Bình (2004), Báo cáo kết quả giám sát, thẩm tra của Ban Văn hóa - Xã hội Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp thứ 3, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIV. 7. Ban Kinh tế - Ngân sách Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Bình (2004), Báo cáo thẩm tra của Ban Kinh tế - Ngân sách tại kỳ họp thứ 3 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIV. 8. Bộ môn giáo dục y học - Trường Đại học Y khoa Hà Nội (1999), Dạy học tích cực trong đào tạo y học, Nxb Y học Hà Nội. 9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995), Kỷ yếu Hội nghị chuyên đề: Nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội. 10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Quy chế về tổ chức đào tạo kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy, Lưu hành nội bộ, Hà Nội. 11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Ngành giáo dục và đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nxb Giáo dục. 12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Kỷ yếu Hội thảo đổi mới giáo dục đại học chuyên nghiệp hội nhập và thách thức, Hà Nội. 13. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (1996), Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Bộ Y tế (1997), Chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa. 15. Nguyễn Hữu Cát (1998), "Suy nghĩ về phương pháp giảng dạy hiện đại", Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (5), tr.16-18. 16. Phạm Khắc Chương (1997), "Cái khó đối với dạy thật tốt, học thật tốt trong nhà trường đại học hiện nay", Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (9), tr.12-13. 17. Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Ngọc Sáng (3/2004), Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo bác sĩ y khoa các trường Đại học Y Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo đổi mới giáo dục Việt Nam, hội nhập và thách thức. 18. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (2002), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 19. Chính phủ số 1534/CP-KG (2004), Báo cáo về tình hình giáo dục trình Quốc hội ngày 14/10/2004, Hà Nội. 20. Nguyễn Cương (1998), Góp phần tìm hiểu một số quy định trong giáo dục đại học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 21. Nguyễn Tất Dong (1995), Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Dự án Việt Nam - Hà Lan (5/2000), Kiến thức, thái độ, kỹ năng cần có của sinh viên y khoa mới tốt nghiệp, Hội thảo về chương trình giảng dạy theo KAS, Thái Nguyên. 23. Dương Tự Đam (1999), Những phương pháp tiếp cận thanh niên hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 24. Nguyễn Văn Đản (5/2004), "Quan niệm về chất lượng giáo dục", Tạp chí Giáo dục, (87), tr.7-10. 25. Đỗ Ngọc Đạt (1998), Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1979), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV, Nxb Sự thật, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội. 29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội. 38. Hà Minh Đức (3/2004), Nghĩ về chuẩn mực và chất lượng giáo dục, Kỷ yếu Hội thảo "Đổi mới giáo dục Việt Nam: Hội nhập và thách thức". 39. Trần Khánh Đức (3/2004), "Thực trạng và các giải pháp nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển của các trường đại học Việt Nam", Tạp chí Phát triển giáo dục, (3), tr.14-18. 40. Giáo dục các nước trên thế giới (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. Tô Xuân Giáp (2001), Phương tiện dạy học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 42. Trần Văn Hà (2000), "Học hỏi và tự học", Tự học, (1), tr.9-10. 43. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Phạm Minh Hạc (2000), "Kinh tế tri thức và phát triển giáo dục, đào tạo", Báo Nhân dân, ngày 10/7/2000, tr.4. 45. Vũ Ngọc Hải, Trần Khánh Đức (2003), Hệ thống giáo dục hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục. 46. Vũ Ngọc Hải (3/2004), Cải cách giáo dục đại học Việt Nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước xây dựng, phát triển nền kinh tế trí thức định hướng xã hội chủ nghĩa, Kỷ yếu Hội thảo đổi mới giáo dục Việt Nam: Hội nhập và thách thức. 47. Phan Huy Hiền (1999), "Về đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay", Báo Nhân dân, ngày 18/4/1999, tr.4. 48. Nguyễn Minh Hiển (1998), "Chủ trương và giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát triển, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học từ nay đến năm 2000", Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (5), tr.3-9. 49. Nguyễn Đức Hoàn (2002), Phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng ở Việt Nam hiện nay (Qua thực tế một số trường cao đẳng ở tỉnh Hải Dương), Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 50. Hội đồng giáo dục tỉnh - ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2003), Tài liệu Đại hội giáo dục tỉnh Thái Bình lần thứ I. 51. Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Thị Tính (1999), "Hiệu quả của việc dạy tự học trong quá trình dạy ở đại học", Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (2), tr.8-9. 52. Nguyễn Văn Hợi (1990), "Cơ sở lý luận của việc biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo", Triết học, (4), tr.61-66. 53. Đỗ Huân (2001), Sử dụng thiết bị nghe nhìn trong dạy - học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 54. Phạm Quang Huân (5/2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ trong quá trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục", Tạp chí Giáo dục, (87), tr.1-5. 55. Đặng Thành Hưng (3/2004), "Chuẩn giáo dục và chương trình giáo dục", Tạp chí Phát triển giáo dục, (3), tr.1-4. 56. Trần Quốc Kham (2004), Nâng cao chất lượng đào tạo kỹ năng cho bác sĩ đa khoa vùng đồng bằng Bắc bộ - thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 57. Luật Giáo dục (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58. Luật Giáo dục (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 59. V.I.Lênin (1976), Bút ký triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội. 60. V.I.Lênin (1976), Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 61. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 62. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 63. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 64. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 65. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 10, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 66. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 67. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 69. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 70. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 71. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 72. C.Mác - Ph.Ăngghen (1964), Góp phần phê phán chính trị, kinh tế, Nxb Sự thật, Hà Nội. 73. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 74. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 75. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 76. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 77. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 78. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 79. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 80. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 81. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 82. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 83. Trần Văn Nhung (5/2004), "Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam: Hội nhập và thách thức", Tạp chí Giáo dục, (86), tr.1-4. 84. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1997), Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 85. Nguyễn Tấn Phát (2000), "Tự học, tự bồi dưỡng suốt đời trở thành một quy luật", Tự học, (4), tr.1-2. 86. Trần Hồng Quân (1995), Quyết tâm hành động để nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học đáp ứng yêu cầu của đất nước, Kết luận tại Hội nghị chuyên đề "Nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Hà Nội. 87. Sở Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2004 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 tỉnh Thái Bình. 88. Sở Lao động - Thương binh Xã hội Thái Bình (2004), Báo cáo tình hình và kết quả 4 năm thực hiện chương trình việc làm và dạy nghề. 89. Nguyễn Tiến Thủ (2001), Quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức với việc phát huy vai trò chủ thể trong học tập của sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 90. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 47/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng Việt Nam giai đoạn 2001- 2010. 91. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg (ngày 28/12/2001) về chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010. 92. Nguyễn Minh Thuyết (2004), "Xác định đúng yêu cầu đào tạo nhân lực để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Giáo dục, (87), tr.45-46. 93. Phạm Sỹ Tiến (1995), Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học để nâng cao chất lượng đào tạo đại học, Vụ Sau Đại học - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội. 94. Phạm Thanh Tịnh (3/2004), Nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - hiện trạng và phương hướng, Kỷ yếu Hội thảo đổi mới giáo dục Việt Nam: Hội nhập và thách thức. 95. Phạm Văn Toàn (4/2004), "Những yếu tố cần quan tâm để nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học",Tạp chí Phát triển giáo dục, (4), tr.19-21. 96. Toàn cảnh kinh tế - xã hội Thái Bình (2003), Báo Quốc tế - Bộ Ngoại giao, Hà Nội. 97. Nguyễn Đình Tứ (1994), Phấn đấu để thực sự tạo ra bước chuyển biến rõ rệt trong chất lượng đào tạo của đại học và cao đẳng, Bài nói tại Hội nghị chuyên đề: "Nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại Hà Nội. 98. Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu mới giáo dục Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội. 99. Tư liệu Sở Giáo dục và Đào tạo Thái Bình. 100. Tư liệu phòng đào tạo trường Đại học Y khoa Thái Bình, Cao đẳng sư phạm Thái Bình, Cao đẳng kinh tế kỹ thuật Thái Bình. 101. Trung tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội (2002), Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo dùng cho các trường đại học Việt Nam. 102. Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình (2004), Điều tra cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. 103. Trường Đại học Y Thái Bình (2001), Kết quả điều tra sinh viên tốt nghiệp năm 2001, Dự án Giáo dục đại học. 104. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2004), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2004 và mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu năm 2005 trình bày tại kỳ họp thứ 3 - Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIV. 105. Trần Xuân Vinh (1995), "Sự biến đổi một số giá trị cơ bản của thanh niên hiện nay", Tạp chí Triết học, (3), tr.40-43.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay.pdf
Luận văn liên quan