Hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ hiện nay chủ yếu có khả
năng cạnh tranh cao về giá, về chất lượng ở một số chủng loại sản phẩm. Tuy nhiên, do
còn thiếu hiểu biết về thị trường Mỹ, về hệ thống luật pháp của Mỹ, về chính sách thương
mại của Mỹ cho nên các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam mới bị các chủ trang trại
nuôi trồng thủy sản của Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá. Nhìn chung, hàng thủy sản xuất
khẩu của Việt Nam đã đáp ứng được các yêu cầu về VSATTP của thị trường Mỹ thể hiện
ở KNXK hàng thủy sản ngày càng tăng qua các năm.
115 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4895 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế quốc tế. Các cơ quan
này có nhiệm vụ hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu, xây
dựng và quản lý chất lượng hàng hóa, hướng dẫn các doanh nghiệp đăng ký và bảo vệ
thương hiệu hàng hóa phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Bộ
Thương mại cần thông qua các cơ quan xúc tiến thương mại trong và ngoài nước tiếp tục
đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, tập trung vào hoạt
động tổ chức và tham gia hội chợ, triển lãm, thành lập các trung tâm giới thiệu sản phẩm
trong và ngoài nước, xây dựng và quảng bá thương hiệu. Nhà nước tạo điều kiện thuận
lợi về thủ tục và có hỗ trợ nhất định để các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam
tham gia vào các hội chợ hàng thủy sản ở Mỹ và các thị trường khác để giới thiệu các sản
phẩm thủy sản Việt Nam với thị trường Mỹ, đồng thời là cơ hội để các doanh nghiệp Việt
Nam có thể tìm kiếm bạn hàng. Đây là những biện pháp quan trọng để giới thiệu cho các
khách hàng Mỹ biết về thương hiệu của hàng thủy sản Việt Nam. Sự hỗ trợ của Nhà nước
về thông tin thị trường, về hoạt động xúc tiến xuất khẩu là nhân tố quan trọng để thủy sản
xuất khẩu có điều kiện thâm nhập sâu hơn vào thị trường Mỹ, tạo được chỗ đứng vững
chắc trên thị trường Mỹ, mang lại nhiều kim ngạch cho đất nước.
Các cơ quan ngoại giao của Việt Nam tại Mỹ như Đại sứ quán Việt Nam hay cơ
quan thương vụ có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Củng cố cơ quan tham tán thương mại của Việt Nam tại Mỹ và gắn kết hoạt động của cơ
quan này với các doanh nghiệp là điều kiện để giúp Nhà nước trong vấn đề phát triển
kinh tế đối ngoại cũng như hỗ trợ cho các doanh nghiệp thâm nhập thành công thị trường
Mỹ. Trong những năm vừa qua, các đại sứ quán cũng như thương vụ Việt Nam tại Mỹ
chưa phát huy hết vai trò của mình trong việc xúc tiến thương mại, chưa thực sự là cầu
nối giữa các doanh nghiệp nhập khẩu Mỹ với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt
Nam. Vai trò của các cơ quan ngoại giao, đặc biệt là cơ quan thương vụ Việt Nam ở Mỹ
cần phải được nâng cao và xác định rõ trách nhiệm công việc, Nhà nước nên bổ sung
thêm kinh phí hoạt động cho cơ quan thương vụ để họ có điều kiện triển khai công tác có
hiệu quả hơn. Các cơ quan thương vụ phải giúp các doanh nghiệp Việt Nam trong công
tác tiếp thị giới thiệu sản phẩm của Việt Nam với thị trường Mỹ; cung cấp cho các doanh
nghiệp Việt Nam các thông tin về thị trường Mỹ một cách xác thực, cụ thể và kịp thời
nhất là những thay đổi về hàng rào thương mại và hàng rào kỹ thuật, tìm hiểu về xu
hướng tâm lý tiêu dùng thủy sản của người dân Mỹ.
Hàng năm, Nhà nước cần dành một khoản ngân sách nhất định để đẩy mạnh hoạt
động xúc tiến thương mại chung cho ngành thủy sản, xây dựng các chiến lược xúc tiến
thương mại phù hợp với từng thị trường, gắn với việc xây dựng quảng bá thương hiệu
của từng nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực sang thị trường Mỹ. Để khuyến khích các
doanh nghiệp xuất khẩu, Nhà nước cần xem xét bổ sung tiêu chí thưởng đối với những
sản phẩm GTGT xuất khẩu và thưởng cho các doanh nghiệp không có lô hàng nào bị các
nước nhập khẩu cảnh báo.
Các cơ quan nhà nước cần thực hiện dự báo thị trường và phổ biến các thông tin
dự báo thị trường lên các phương tiện thông tin đại chúng. Khuyến khích các Hiệp hội ngành
hàng tự tổ chức nghiên cứu dự báo thị trường ngoài nước.
Các công cụ thông tin của VASEP như tạp chí thương mại thủy sản, tạp chí
Vietfish International, website vasep.com.vn và các ấn phẩm giới thiệu về doanh nghiệp
và các sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã trở thành phương tiện hữu hiệu cung cấp
thông tin cho các bạn hàng ngoài nước. Hiệp hội cũng thành lập các câu lạc bộ chuyên
ngành như Câu lạc bộ cá basa, Câu lạc bộ tôm... để thiết lập mối quan hệ hợp tác và hỗ trợ
lẫn nhau giữa các doanh nghiệp cùng nhóm ngành hàng trong việc giải quyết các vấn đề
chung như vụ kiện cá tra, cá basa, tôm, việc chống đưa tạp chất vào nguyên liệu thủy sản,
việc áp dụng các hệ thống đảm bảo chất lượng cao và hỗ trợ người nuôi thực hiện các hệ
thống VSATTP. Hiệp hội đã sớm thiết lập quan hệ lâu dài với các tổ chức hiệp hội và các
nhà nhập khẩu, phân phối thủy sản nước ngoài, thường xuyên tham gia các hội thảo, các
diễn đàn khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, những thông tin cung cấp của VASEP về thị
trường còn chưa đầy đủ, chưa tập trung và thiếu tính cập nhật. Do vậy, Bộ thủy sản cần
phối hợp với VASEP tổ chức cung cấp thường xuyên các thông tin về thị trường giúp cho
các cơ quan hữu quan và doanh nghiệp điều chỉnh kế hoạch kinh doanh kịp thời.
3.1.4. Chính sách đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ lao động trong ngành
thủy sản
Trong những năm qua, lợi thế về nguồn lực lao động dồi dào, cần cù, khéo léo là
một trong lợi thế cạnh tranh lớn nhất của ngành thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, đội ngũ
lao động kỹ thuật cao và đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn xuất nhập khẩu
trong ngành thủy sản nước ta hiện nay còn thiếu về số lượng, trình độ năng lực còn hạn
chế, chưa đáp ứng được những yêu cầu của nền kinh tế hiện đại. Để nâng cao chất lượng
lao động, Nhà nước cần có những chính sách tăng cường và mở rộng công tác đào tạo,
dạy nghề đối với các loại hình lao động như lao động quản lý, lao động kỹ thuật, lao
động phổ thông nhằm nâng cao chất lượng lao động và đáp ứng yêu cầu phát triển của
ngành thủy sản.
Tùy thuộc từng loại đối tượng lao động, Nhà nước đề ra những hình thức đào tạo
cho phù hợp. Đối với đội ngũ ngư dân có thể đào tạo bằng nhiều hình thức như ngắn hạn,
bồi dưỡng và đào tạo tại chỗ để tăng cường và bổ sung đội ngũ lao động lành nghề cho
nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản. Các tổ chức khuyến ngư tại các địa phương
kết hợp với các trường đại học, trung cấp thủy sản, viện nghiên cứu thủy sản cung cấp
những thông tin, kiến thức, kinh nghiệm thực tế nuôi trồng và kinh doanh thủy sản cho
ngư dân và doanh nghiệp. Đối với đội ngũ lao động quản lý, Nhà nước cần chú ý đến
việc nâng cao năng lực điều hành, quản lý doanh nghiệp, kiến thức về tiếp thị, tiếp thu
khoa học kỹ thuật, trình độ công nghệ thông tin, bồi dưỡng để giúp các doanh nghiệp làm
quen và ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử. Đối với những cán bộ trực tiếp làm công
tác xuất nhập khẩu trong các doanh nghiệp, Nhà nước chú trọng tổ chức các chương trình
đào tạo chuyên sâu về thương mại quốc tế, luật lệ quốc tế cũng như hệ thống luật pháp
của Mỹ để tránh những tranh chấp có thể nảy sinh. Hướng dẫn đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ
thuật cho địa phương để thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn
thực phẩm đối với các sản phẩm mà địa phương đó sản xuất.
Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thủy sản liên kết với các đối
tác nước ngoài để bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật cho các đối tượng lao động
của ngành bằng việc gửi lao động ra nước ngoài học tập hoặc mời những chuyên gia về
thủy sản đào tạo giảng dạy tại Việt Nam.
Nhà nước tạo điều kiện tăng cường cơ sở vật chất cho các trường Đại học, Trung
cấp thủy sản và các Trung tâm đào tạo nghề khác của ngành thủy sản để những đơn vị
này có thể cung cấp được ngày càng nhiều lao động có trình độ nghiệp vụ cao về thủy
sản, đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
của sản phẩm thủy sản.
Để tăng cường vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại trong việc hỗ trợ các
doanh nghiệp về công tác marketing đối với hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Bộ Thương mại cần có kế hoạch đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên đàm phán trong các
lĩnh vực kinh tế đối ngoại với Mỹ. Đội ngũ cán bộ này phải là những người giỏi ngoại
ngữ, nắm vững những quy định của WTO, những rào cản thương mại và kỹ thuật của
Mỹ, đặc biệt là có kỹ năng và kinh nghiệm đàm phán.
3.1.5. Đầu tư hạ tầng cơ sở
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh
tranh và Nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng trong công tác này. Hệ thống cơ sở hạ
tầng bao gồm hệ thống các cầu đường, bến cảng đường sông, đường biển, đường hàng
không, kho tàng, hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước, dịch vụ bưu chính viễn thông,
internet... có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành của các doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh hàng thủy sản Việt Nam. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển có vai trò hết sức quan
trọng trong việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa.
Tuy đã được đầu tư và có cải thiện đáng kể trong những năm vừa qua nhưng hệ
thống cơ sở hạ tầng của nước ta vẫn còn nhiều lạc hậu so với khu vực. Tỷ trọng chi phí
về kết cấu hạ tầng trong một sản phẩm ở nước ta cao hơn so với các nước trong khu vực,
làm giảm các lợi thế cạnh tranh khác như lao động, sự ổn định chính trị xã hội v.v... Tuy
giá điện không quá cao nhưng chất lượng cung ứng điện, bao gồm điện áp thiếu ổn định và
cắt điện bất thường làm cho chi phí về điện của các doanh nghiệp tăng thêm từ 8-12%.
Doanh nghiệp công nghệ cao chưa dám đầu tư vào nước ta trong đó có lý do về kết cấu
hạ tầng thấp, đặc biệt là về điện. Giá dịch vụ viễn thông quốc tế, phí internet cao nhất khu
vực với tốc độ truyền dẫn chậm, dịch vụ không ổn định là những cản trở quan trọng trong
việc hạ giá thành sản phẩm. Chi phí bốc xếp ở bến cảng, phí lưu kho đều cao, cộng với
thủ tục tại bến cảng quá rườm rà làm cho chi phí quá cao về tiền bạc và thời gian. Những
tồn tại này làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản
xuất và kinh doanh thủy sản và đồng thời làm giảm sức cạnh tranh của hàng thủy sản
xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung, thị trường Mỹ nói riêng.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của hàng thủy sản
xuất khẩu nước ta nói riêng, Nhà nước cần tập trung đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ
tầng. Khoảng cách địa lý xa giữa Việt Nam và Mỹ sẽ không còn gây khó khăn lớn cho
hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam khi hệ thống đường giao thông phát triển và nhiều
cảng nước sâu của Việt Nam đi vào hoạt động. Chất lượng của các ngành dịch vụ khác
như điện, nước, bưu chính viễn thông được cải thiện và phát triển là yếu tố quan trọng
giúp hàng thủy sản Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Nhà nước cần
quan tâm tới việc đầu tư đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng nghề cá như các cơ sở hạ tầng
phục vụ nuôi trồng thủy sản, cảng cá, bến cá, hiện đại hóa hệ thống thông tin nghề cá…
nhằm hạn chế tác động của môi trường, giảm rủi ro cho nông ngư dân và đảm bảo cung
cấp đủ nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu một cách bền vững. Nhà nước cần khuyến
khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư để huy động tối đa nguồn vốn đầu tư cho
sản xuất, cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Cần tăng cường công tác nghiên cứu, thẩm định và
kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các dự án đầu tư của các doanh nghiệp thủy sản
nhằm đảm bảo dự án được thực hiện đúng mục tiêu, không gây thất thoát vốn đầu tư.
3.1.6. Kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm
Đối với hàng thủy sản xuất khẩu ra thị trường thế giới nói chung, thị trường Mỹ
nói riêng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là một điều kiện tối quan trọng. Hàng thủy
sản phần lớn đáp ứng trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng của con người, do vậy nếu không
đảm bảo tiêu chuẩn VSATTP sẽ có tác động trực tiếp đến sức khỏe con người. Đảm bảo
VSATTP đối với các sản phẩm thủy sản nhập khẩu là yêu cầu hàng đầu của thị trường
thủy sản Mỹ. Tuy nhiên, thời gian qua công tác kiểm tra, kiểm soát VSATTP đối với
hàng thủy sản xuất khẩu của nước ta chưa được chú trọng đúng mức, dẫn đến có những
lô hàng không đảm bảo tiêu chuẩn, bị đối tác trả lại vừa gây thiệt hại trực tiếp cho doanh
nghiệp, vừa ảnh hưởng lâu dài đến năng lực cạnh tranh hàng thủy sản Việt Nam. Do vậy,
Nhà nước cần tăng cường công tác kiểm soát VSATTP trong sản xuất, chế biến hàng
thủy sản.
Nhà nước tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cấp điều kiện sản xuất phấn đấu
để 100% các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm, giảm
nhanh tỷ lệ sản phẩm tiêu thụ thô, tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến GTGT lên ít nhất là 60%
trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. Xúc tiến nghiên cứu các thí nghiệm tạo ra những mặt
hàng mới, độc đáo mang nhãn hiệu Việt Nam. Cùng với việc nâng cấp điều kiện sản xuất
sản xuất và áp dụng các tiêu chuẩn VSATTP, để nâng cao năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, Chính phủ cần hướng dẫn các doanh nghiệp
tiếp tục đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị. Nhà nước có những biện pháp thu
hút đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến để các doanh nghiệp có thể nâng
cao trình độ quản lý sản xuất và có điều kiện tiếp cận với các nền công nghiệp chế biến
hiện đại của thế giới.
Chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến đầu tư trang thiết bị để tăng
cường năng lực kiểm soát và phát hiện dư lượng kháng sinh, hóa chất trong nguyên liệu,
áp dụng các hệ thống truy nguyên nguồn gốc sản phẩm. Trước mắt, sớm triển khai thực
hiện mã hóa các vùng nuôi, tạo tiền đề để thực hiện truy xuất nguồn gốc. Việc áp dụng
các hệ thống truy nguyên nguồn gốc sản phẩm có thể sẽ là một chương trình được áp
dụng thông dụng như HACCP khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhằm đảm bảo nguồn
cung cấp thực phẩm cho nước Mỹ trở nên an toàn hơn, khả năng truy nguyên nguồn gốc
cũng là cách để trấn an người tiêu dùng về thực phẩm mà họ đang sử dụng. Để đáp ứng
yêu cầu về truy nguyên nguồn gốc, Bộ Thủy sản đã có kế hoạch xây dựng các quy định
pháp lý về hệ thống truy nguyên tương đương với các tiêu chuẩn quốc tế. Từ năm 2005,
hệ thống này đã được triển khai dưới dạng tiêu chuẩn khuyến khích trước khi chuyển
sang dạng tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng.
Để nâng cao chất lượng của sản phẩm thủy sản xuất khẩu, đáp ứng được những
yêu cầu nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường Mỹ, Chính phủ cần
thực hiện một số biện pháp sau:
Chú trọng công tác thông tin tuyên truyền và giáo dục về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức và thực hành VSATTP của người sản xuất,
kinh doanh xuất khẩu thủy sản.
Cần hoàn thiện và tăng cường năng lực của hệ thống thanh tra, kiểm nghiệm
VSATTP, huy động sự tham gia, kiểm tra, giám sát của cộng đồng. Trong khi các vi
phạm về VSATTTP diễn ra hàng ngày ở từng ao tôm, bè cá thì đội ngũ cán bộ thực hiện
công tác kiểm tra về vệ sinh chuyên môn còn hạn chế, chỉ tập trung ở một số cơ quan
quản lý chuyên môn cấp tỉnh và khu vực nên chưa có điều kiện sâu sát với địa bàn để có
phát hiện và xử lý kịp thời.
Nâng cao năng lực kiểm nghiệm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về VSATTP. Với điều
kiện kinh phí còn hạn hẹp thì việc trang bị một số lượng tối thiểu máy kiểm tra dư lượng
kháng sinh rất đắt, mỗi chiếc hàng tỷ đồng. Hơn nữa, chi phí kiểm tra một lô hàng thủy sản
xuất khẩu rất cao từ 5-10 triệu đồng/ 1 container hàng trong khi đó các kháng sinh bị cấm
ngày càng nhiều.
Rà soát, điều chỉnh và ban hành mới các cơ chế, chính sách, và tiêu chuẩn về
VSATTP. Thực tế xuất khẩu những năm qua cho thấy, các doanh nghiệp và hộ nuôi chưa
có được thông tin đầy đủ về những tiêu chuẩn và yêu cầu khắt khe của các thị trường. Có
những lô hàng của ta nhập vào nước sở tại khi bị nước đó xử lý ta mới biết là những lô
hàng đó không đáp ứng được những tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm mà nước đó
quy đinh từ lâu. Ví dụ chất Fluoro-quinolones đã được FDA đưa vào danh mục cấm sử
dụng từ năm 1997 nhưng trong Quyết định 07 ngày 25/2/2002 của Bộ trưởng Bộ Thủy
sản ban hành vẫn cho sử dụng hạn chế.
Tiếp tục đổi mới công tác an toàn vệ sinh cả về hệ thống tổ chức và hệ thống văn
bản pháp quy kỹ thuật theo hướng xuyên suốt từ sản xuất nguyên liệu, đến thu gom, vận
chuyển, chế biến và tiêu thụ. Thực hiện kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm soát
điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm tàu cá, chợ cá, cơ sở nuôi, cơ sở thu mua
bảo quản và cơ sở chế biến. Hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn về quy cách và chất
lượng sản phẩm cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Hệ thống kiểm tra chất lượng này
không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mà còn là điều kiện quan trọng để kiểm
soát chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu, tránh được các tiềm ẩn ảnh hưởng đến uy tín
hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Các Bộ Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Tổng
cục Hải quan tăng cường kiểm tra dư lượng kháng sinh, hóa chất bị cảnh báo đối với các
lô hàng xuất khẩu. Các bộ ngành có liên quan cần công bố danh mục các hóa chất, kháng
sinh bị cấm nhập khẩu, sử dụng hoặc hạn chế sử dụng trong sản xuất, kinh doanh.
Về dịch vụ sau thu hoạch:
Sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản không thể tăng mãi, phát triển theo
chiều rộng việc nuôi trồng luôn đi đôi với sự hủy hoại môi trường tự nhiên, môi trường
sống của thủy sản. Các nước quanh ta đã có những bài học đắt giá về vấn đề này. Lợi
nhuận trong thủy sản được tạo ra từ hai cách: thứ nhất, tăng sản lượng dẫn đến tăng lợi
nhuận, thứ hai giảm thất thoát, giảm hạ phẩm cấp, tăng các sản phẩm GTGT dẫn đến tăng
lợi nhuận, đây là biện pháp bả đảm phát triển bền vững. Tuy nhiên, bảo quản nguyên liệu
thuộc lĩnh vực hậu cần nghề cá hiện nay là khâu yếu nhất của ngành thủy sản nước ta.
Chính phủ cần quan tâm đến việc chống thất thoát sau thu hoạch và quản lý thị trường
nguyên liệu: nâng cấp chất lượng nguyên liệu, giảm giá đầu vào bằng cách áp dụng các
công nghệ bảo quản tiên tiến cùng với việc hình thành và khai thác hiệu quả hệ thống
cảng cá, chợ cá. Bộ Thủy sản cần xây dựng chương trình phát triển công nghệ sau thu
hoạch trình Chính phủ phê duyệt trong đó có việc thành lập Trung tâm hoặc Viện công
nghệ sau thu hoạch thủy sản làm nhiệm vụ nghiên cứu các cơ chế chính sách, nghiên cứu
công nghệ sau thu hoạch để kinh tế thủy sản chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang
tăng trưởng theo chiều sâu.
3.2. Nhóm giải pháp đối với các cơ sở sản xuất, nuôi trồng, khai thác và xuất
khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ
Hoạt động tiêu thụ, xuất khẩu là yếu tố hết sức quyết định để đảm bảo hiệu quả
và tính bền vững của sản xuất. Chất lượng, giá cả của sản phẩm thủy sản xuất khẩu, dịch
vụ trước, trong và sau khi bán hàng là tất cả những nhân tố quan trọng nhất cấu thành nên
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng thủy sản của Việt
Nam sang thị trường Mỹ. Do vậy, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản
Việt Nam sang thị trường Mỹ, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng thủy sản
Việt Nam cần có những giải pháp để việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành của sản
phẩm thủy sản xuất khẩu. Sau đây, tác giả xin trình bày những giải pháp chủ yếu đối với
các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ.
3.2.1. Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm thủy sản xuất khẩu trong
các khâu nuôi trồng, khai thác, chế biến nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường Mỹ
Mỹ là thị trường khó tính bậc nhất đối với các nước xuất khẩu, đặc biệt đối với
những nước đang phát triển. Hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải cạnh
tranh quyết liệt với những hàng hóa cùng loại của nhiều nước Châu á. Tiêu chuẩn của Mỹ
đối với những mặt hàng này rất cao, đòi hỏi phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe về
chất lượng và VSATTP.
Để hàng thủy sản Việt Nam đứng vững trên thị trường Mỹ, đòi hỏi sản phẩm
xuất khẩu phải tốt hơn, chất lượng cao hơn, hoặc chí ít phải có chất lượng tương đương
so với hàng thủy sản xuất khẩu của các đối thủ cạnh tranh ở các nước khác trên thị trường
Mỹ. Giá cả thấp cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng thủy sản
Việt Nam. Thị trường thủy sản Mỹ có nhiều nhà cung cấp trong và ngoài nước Mỹ, do
vậy cạnh tranh về giá giữa các nhà cung ứng hàng thủy sản ngày càng gay gắt. Việt Nam
có nhiều lợi thế so sánh về điều kiện nuôi trồng, về giá nhân công… dẫn đến có điều kiện
để hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, việc bán hàng giá cả thấp, trong nhiều trường hợp
đã gặp phải những cản trở từ phía những nhà sản xuất thủy sản và Chính phủ Mỹ. Do
vậy, biện pháp lâu dài là phải nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thủy sản xuất khẩu qua
chất lượng sản phẩm, chính sách bán hàng, cải tiến mẫu mã, bao bì sản phẩm. Để nâng
cao giá trị xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh thủy sản thủy sản Việt Nam cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đây là một giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng thủy sản xuất khẩu. Khi so sánh về chất lượng, một số sản phẩm thủy sản của Việt
Nam có tính cạnh tranh thấp hơn so với các nước khác. Do vậy để nâng cao chất lượng
của sản phẩm, phải thực hiện nâng cao chất lượng trong tất cả các khâu từ nuôi trồng cho
đến khi chế biến.
- Lĩnh vực nuôi trồng: Đối với các cơ sở nuôi trồng thủy sản cần lựa chọn những
loại giống tốt, có năng suất cao, có hương vị đặc trưng. Đa dạng hóa phương thức nuôi,
đối tượng nuôi nhằm tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, có giá trị kinh tế, giá thành
cạnh tranh. Các cơ sở nuôi trồng cần chủ động trong việc sản xuất và kiểm soát chất
lượng con giống, áp dụng thực hành nuôi tốt (GAP) để đảm bảo vệ sinh an toàn cho sản
phẩm. Tăng cường áp dụng những biện pháp kỹ thuật nuôi trồng hiện đại để lai tạo
những con giống cho năng suất và chất lượng cao nhưng giá thành hạ. Các cơ sở sản
xuất, doanh nghiệp sản xuất thực hiện tốt việc thu hoạch và bảo quản sản phẩm sau thu
hoạch thì mới nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tỷ lệ hao hụt, cung cấp hàng hóa ổn
định cho thị trường, đứng vững trong cạnh tranh
- Khai thác: Các doanh nghiệp thủy sản, các ngư dân cần quan tâm đầu tư tàu
thuyền phục vụ cho khai thác,với công nghệ tiên tiến và hệ thống bảo quản sau thu hoạch
hiện đại tránh tình trạng hao hụt về sản lượng, các sản phẩm sau khi đánh bắt không có
phương tiện bảo quản tốt đã bị hạ phẩm cấp. Ngoài ra, các ngư dân cần chú trọng đầu tư
trang thiết bị để khai thác những loại sản phẩm thủy sản có giá trị xuất khẩu cao. Không sử
dụng những phương tiện đánh bắt bị cấm làm ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản, làm ảnh
hưởng xấu đến môi trường.
- Về chế biến: Các doanh nghiệp phải tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, cơ
giới hóa và tự động hóa dây chuyền chế biến nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm. Nâng cấp, mở rộng các nhà máy hiện có và đầu tư xây dựng một số nhà
máy mới gần các vùng nguyên liệu được quy hoạch nhằm tạo đều kiện thuận lợi cho hoạt
động chế biến. Đầu tư công nghệ chế biến đồng bộ giữa sản xuất nguyên liệu với bảo
quản, chế biến và dịch vụ hậu cần theo tiêu chuẩn HACCP. Các doanh nghiệp chế biến
phải xây dựng và áp dụng an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP và chấp
hành nghiêm ngặt những quy định về VSATTP của thị trường Mỹ nhằm nâng cao chất
lượng của sản phẩm, hạn chế tới mức thấp nhất việc trả lại hàng của các doanh nghiệp
nhập khẩu hàng thủy sản Việt Nam.
Việt Nam có những lợi thế về tự nhiên và nuôi trồng do vậy các doanh nghiệp
chế biến cần tận dụng những lợi thế này đẩy mạnh công tác nghiên cứu phát triển và đổi
mới sản phẩm nhằm đáp ứng những yêu cầu của khách hàng để đa dạng hóa sản phẩm
thủy sản xuất khẩu, đem lại nhiều lợi nhuận cho đất nước. Các doanh nghiệp cần mở rộng
sản xuất đối với những chủng loại và khối lượng các mặt hàng thủy sản chế biến có
GTGT, hàng phối chế, hàng ăn liền như tôm bao bột, tôm hấp, các sản phẩm từ thịt cua
ghẹ chín, đặc biệt quan tâm sản xuất các mặt hàng mà Việt Nam đang có lợi thế ở thị
trường Mỹ như tôm, cá tra, cá basa, cá ngừ.
Các doanh nghiệp cần liên kết, hợp tác với nhau để trao đổi những kinh nghiệm
trong sản xuất cũng như các kinh nghiệm về thị trường nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến sẽ giúp cho họ có thể
cùng nhau thực hiện những đơn hàng lớn, với giá cả ổn định.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản
cần được quan tâm. Hiện nay, ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp chế
biến thủy sản xuất khẩu còn ở mức sơ khai do vậy gây khó khăn cho các doanh nghiệp
khi bị Bộ Thương mại Mỹ điều tra bán phá giá. Khi ứng dụng công nghệ thông tin, doanh
nghiệp sẽ quản lý được quá trình sản xuất từ đầu vào, quá trình sản xuất và đầu ra của sản
phẩm. Đây là mô hình có thể giúp doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về truy
nguyên nguồn gốc sản phẩm của các thị trường.
3.2.2. Cạnh tranh bằng thương hiệu - một biện pháp mang lại hiệu quả kinh
tế cao khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ
Việc xây dựng thương hiệu đối với hàng hóa nói chung và hàng thủy sản nói
riêng đã và đang trở thành một trong vấn đề mà các doanh nghiệp cần phải quan tâm.
Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp của Việt Nam do không quan tâm đến việc
đăng ký thương hiệu nên một số sản phẩm đã bị đánh cắp thương hiệu và có thể sẽ bị mất
thị trường, làm ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp. Hàng thủy sản
của ta chủ yếu thâm nhập vào thị trường Mỹ thông qua các Công ty chuyên nhập khẩu,
cho nên thương hiệu thủy sản Việt Nam hầu như không hiện diện trên sản phẩm mà thay
vào đó là các nhãn hiệu Mỹ. Người tiêu dùng Mỹ chủ yếu biết đến sản phẩm qua các nhà
phân phối của Mỹ, chứ chưa biết đến thương hiệu sản phẩm thủy sản Việt Nam. Có
những mặt hàng thủy sản của Việt Nam rất có thế mạnh khi xuất sang thị trường Mỹ
nhưng vẫn chưa có thương hiệu cho sản phẩm. Một sản phẩm có thương hiệu tốt sẽ thu
hút được nhiều khách hàng và có sự gia tăng cao giá trị của sản phẩm. Do vậy, việc xây
dựng thương hiệu là một vấn đề cấp bách để tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường Mỹ và
phát triển ngành thủy sản Việt Nam. Bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu cần xây dựng
thương hiệu của chính mình với những sản phẩm độc đáo riêng biệt so với các đối thủ
cạnh tranh khác. Tuy nhiên, để phát triển và giữ vững được thương hiệu, bản thân các
doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm phù hợp
với nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Thị trường thủy sản Mỹ là thị trường có quá nhiều
sản phẩm có chất lượng tương đương nhau, do vậy thương hiệu sản phẩm là yếu tố quan
trọng để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm hàng xuất khẩu của Việt Nam. Vấn đề
thương hiệu sản phẩm không chỉ được đặt ra trên phạm vi từng chủng loại sản phẩm
riêng biệt hay ở các doanh nghiệp đơn lẻ, mà cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh
nghiệp sản xuất và xuất khẩu thủy sản, giữa ngành thủy sản với các ngành khác và sự hỗ
trợ của Nhà nước trong việc quảng bá thương hiệu sản phẩm hàng thủy sản Việt Nam
trên thị trường Mỹ.
3.2.3. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, tìm hiểu về thị trường Mỹ
Mặc dù Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực đã đánh dấu bước bình
thường hóa hoàn toàn về cơ bản giữa Việt Nam- Mỹ nhưng trong quá trình thực thi Hiệp
định còn những khó khăn thách thức. Mỹ là thị trường rất mở nhưng các doanh nghiệp
Việt Nam muốn thâm nhập thành công thị trường Mỹ phải cạnh tranh quyết liệt với chính
các nhà doanh nghiệp Mỹ và với các đối thủ cạnh tranh khác. Một trong những thách thức
mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải giải quyết khi kinh doanh tại thị trường Mỹ là
trình độ hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường Mỹ còn rất hạn chế. Do vậy,
các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần chủ động tiếp cận những thông tin về
thị trường để có thể chủ động trong kinh doanh. Các thông tin cần nghiên cứu:
Tìm hiểu hệ thống luật thương mại cũng như các quy chế hải quan. Hệ thống
này rất phức tạp được phân loại theo các chuyên ngành rất cụ thể như Luật về nguồn gốc
xuất xứ hàng hóa, tiêu chuẩn kỹ thuật, thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, hạn chế
nhập khẩu về lý do an ninh… đó là những hàng rào phi thuế quan thường xuyên được áp
dụng triệt để để bảo hộ thị trường trong nước của Mỹ.
Các biện pháp thuế quan như các quy định về biểu thuế, thuế suất, trị giá tính
thuế... cũng cần phải được tìm hiểu và nghiên cứu kỹ lưỡng. Ngoài ra, các doanh nghiệp
cần tìm hiểu chính sách và thị trường Mỹ như chính sách thương mại, quy mô thị trường,
các biện pháp quản lý nhập khẩu, các loại hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu để có những
định hướng, chính sách thâm nhập thị trường Mỹ một cách đúng đắn. Các doanh nghiệp
có thể tìm kiếm thông tin về thị trường Mỹ qua các ấn phẩm, tạp chí chuyên ngành về
thủy sản, thương mại hoặc qua các tổ chức như Bộ Thương mại, Bộ Thủy sản, VASEP,
các trung tâm xúc tiến thương mại và các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở Mỹ. Các
doanh nghiệp cũng có thể tìm kiếm thông tin qua các trang Web giới thiệu về các doanh
nghiệp Mỹ, tình hình tiêu thụ thủy sản thị trường Mỹ qua các trang Web của Bộ Thương
mại Mỹ, Cơ quan quản lý thủy hải sản Mỹ hoặc các quy định hạn chế hoặc cấm nhập
khẩu các loại hàng hóa qua trang Web của Cục Quản lý dược và Thực phẩm Mỹ…
3.2.4 Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm tại thị
trường Mỹ
Như đã phân tích trong chương 2, công tác xúc tiến thương mại ở Việt Nam còn
lạc hậu, mới ở những bước phát triển ban đầu, các doanh nghiệp chưa chủ động trong
việc thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, năng lực tài chính bị hạn chế, hoặc
không có kinh nghiệm và thiếu thông tin trong việc thực hiện các hoạt động này. Các
doanh nghiệp cần xác định việc thâm nhập thị trường Mỹ là quá trình vừa hợp tác, vừa
đấu tranh; hợp tác với các doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối hàng của Mỹ để tiếp cận
thị trường, tiếp cận đến các kênh phân phối nhưng đồng thời cũng là một quá trình đấu
tranh, đấu tranh với các nhà sản xuất nội địa Mỹ được bảo hộ bởi hệ thống luật pháp và
chính sách của chính phủ và với các đối thủ cạnh tranh khác vốn đã có những thế mạnh
về kênh phân phối và kinh nghiệm kinh doanh tại thị trường Mỹ. Do vậy, các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam cần xác định rõ đặc điểm thị trường của
mình cũng như của các đối thủ để có hoạt động xúc tiến thương mại cho phù hợp.
Trong xây dựng hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Mỹ, các doanh
nghiệp nên đặc biệt chú trọng các vấn đề về giá cả, chất lượng, nhãn mác, các hình thức
quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, các hình thức phân phối phù hợp với thị trường Mỹ.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc nhiều vào chiến lược
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Xây dựng một chiến lược tiêu thụ sản phẩm dài hạn
trên thị trường Mỹ là nhiệm vụ rất cần thiết của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần chủ
động tăng cường xúc tiến thương mại và tận dụng tốt nhất những hỗ trợ của Nhà nước,
của Hiệp hội để thâm nhập thị trường: Xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao
sức cạnh tranh, hoàn thiện cơ chế đối phó với những hành động cạnh tranh không lành
mạnh. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật thương mại quốc tế để doanh
nghiệp của ta sẵn sàng đối phó với các tranh chấp thương mại trên thị trường ngoài nước.
Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý với các Hiệp hội ngành hàng với các
doanh nghiệp trong giải quyết các vụ việc, hạn chế những hậu quả bất lợi, tăng cường
hợp tác giữa các doanh nghiệp nuôi trồng, khai thác với các doanh nghiệp chế biến và
xuất khẩu thủy sản dựa trên việc đảm bảo lợi ích giữa các bên là một trong những điều
kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh, đứng vững và phát triển trên thị trường Mỹ nói
riêng, thị trường thế giới nói chung.
Về chiến lược quảng cáo: Có thể sử dụng nhiều hình thức quảng cáo trên đài,
tivi, trên báo; quảng cáo trên các tờ rơi, trên catalog hoặc xây dựng trang Web riêng
quảng bá hình ảnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các hình thức
phải được nghiên cứu kỹ cho phù hợp với tập quán của người tiêu dùng Mỹ.
Về chiến lược thu hút khách hàng: Người tiêu dùng Mỹ thích có sự lựa chọn đa
dạng của sản phẩm, do vậy các doanh nghiệp cần có chính sách cập nhật sự thay đổi thị
hiếu tiêu dùng để đa dạng hóa nguồn hàng, chủng loại hàng xuất khẩu với kiểu dáng, mẫu
mã, tính năng... theo kịp đòi hỏi của thị trường Mỹ với giá cả cạnh tranh, chất lượng tốt
nhất. Các doanh nghiệp Mỹ thường coi trọng việc thực hiện đúng thời gian giao hàng. Do
vậy, ngoài vấn đề về chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần đặc
biệt chú trọng về thời gian giao hàng để không làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh
nghiệp. Phần lớn các hợp đồng hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu đi Mỹ
được ký thông qua hội chợ, triển lãm. Các doanh nghiệp có thể thông qua các hội chợ
chuyên ngành, triển lãm hoặc nghiên cứu các hệ thống siêu thị để tìm hiểu, nắm bắt kinh
nghiệm thực tiễn của thị trường Mỹ. Việc tham gia hội chợ cũng là một cơ hội để hàng
thủy sản Việt Nam có thể thâm nhập vào hệ thống nhà hàng của Mỹ đây là một hệ thống
bán lẻ rất nhiều tiềm năng. Theo bà Elizabeth Rose Daly - đại diện văn phòng thị trưởng
thành phố Newyork nói với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia buổi hội thảo về
"Kinh doanh với thị trường Mỹ" do Phòng Thương mại Việt Nam phối hợp với Phòng
Thương mại Mỹ thực hiện ngày 16/11/2005: Các doanh nghiệp Việt Nam muốn tránh
những thất bại khi làm ăn tại thị trường Mỹ thì không còn cách nào khác là các doanh
nghiệp Việt Nam phải thuê luật sư Mỹ tư vấn cho hoạt động kinh doanh của mình. Để có
được đối tác tốt, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có lý lịch rõ ràng, chứng minh
được năng lực tài chính của mình. Các doanh nghiệp nên mở văn phòng đại diện ở Mỹ để
thuận lợi cho việc kinh doanh, nếu chi phí đắt thì có thể liên kết nhiều doanh nghiệp
trong nước với nhau.
3.2.5 Phát triển hệ thống phân phối hàng thủy sản trên thị trường Mỹ
Các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu sang thị trường Mỹ theo nhiều
cách: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu qua trung gian, liên doanh liên kết với các doanh
nghiệp Mỹ… Hiện nay, hàng thủy sản của Việt Nam chủ yếu được bán cho các nhà nhập
khẩu Mỹ, một mắt xích rất quan trọng trong hệ thống phân phối hàng thủy sản của Mỹ.
Hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ có khối lượng tương đối lớn, ổn
định và được nhiều người ưa chuộng nên các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam chủ động thành lập công ty con tại Mỹ để tham gia hệ thống phân phối tại thị trường
này. Các công ty con này sẽ giúp các doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp và cung ứng sản
phẩm cho các nhà bán buôn. Việc thành lập các công ty con sẽ ổn định giá xuất khẩu,
nhất là trong điều kiện tôm đông lạnh của ta có thể còn phải chịu thuế chống bán phá giá
ít nhất trong 5 năm nữa.
Hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu dưới hình thức xuất khẩu
qua trung gian do các doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm kinh doanh tại thị
trường Mỹ, hơn nữa phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
nên kinh phí còn hạn hẹp nên không có điều kiện thâm nhập trực tiếp vào các kênh bán lẻ tại
thị trường Mỹ. Hiện nay, một số mặt hàng của Việt Nam đã được nhiều người tiêu dùng Mỹ
biết đến và quy mô kinh doanh của doanh nghiệp đã được mở rộng thì các doanh nghiệp này
nên sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp. Thực hiện theo hình thức này sẽ giúp doanh
nghiệp thâm nhập nhanh nhất, có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Mỹ. Còn đối với các
doanh nghiệp có quy mô không lớn, kinh nghiệm làm ăn với Mỹ chưa nhiều, các sản phẩm
chưa quen thuộc trên thị trường Mỹ thì nên thực hiện theo hình thức liên doanh liên kết với
các doanh nghiệp Mỹ để thông qua hệ thống phân phối của các doanh nghiệp này nhằm
tiếp cận thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp cần hợp tác chặt chẽ, xây dựng mạng lưới các
đối tác Mỹ để phát triển kinh doanh khi thuận lợi và đấu tranh với lực lượng bảo hộ khi
cần thiết.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng tối đa lực lượng Việt kiều đang sinh
sống tại Mỹ cho mục tiêu tiếp cận các kênh phân phối trên thị trường Mỹ. Các doanh
nghiệp Việt Nam có thể liên doanh với các đối tượng này nhằm phát huy hết những lợi
thế cạnh tranh của Việt Nam. Có thể sử dụng lao động, nhà xưởng, nguyên liệu của Việt
Nam để sản xuất ra sản phẩm, còn các Việt kiều thì chịu trách nhiệm về thị trường, về
đầu ra của sản phẩm. Nếu khai thác tốt mối quan hệ này thì sản phẩm thủy sản của Việt
Nam sẽ có được cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường Mỹ.
Sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam phải được bán với những phương
pháp phù hợp với hệ thống phân phối của thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp xuất khẩu
phải xây dựng cho mình chiến lược sản phẩm. Đó là tổng thể các biện pháp từ nghiên cứu
nắm bắt nhu cầu thị trường đến tổ chức sản xuất, chuẩn bị hàng hóa, xuất bán theo yêu
cầu của khách hàng và các hoạt động sau bán hàng. Chiến lược sản phẩm được xây dựng
trên cơ sở nghiên cứu dung lượng thị trường, đánh giá khả năng của mình và các đối thủ
cạnh tranh chính, để từ đó xác định được cho mình ngách thị trường phù hợp. Các doanh
nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa phải xác định được thực chất khả năng, vị trí
của mình trong các vấn đề: thị phần tại từng thị trường tiêu thụ và đối thủ cạnh tranh;
năng lực cạnh tranh hàng hóa của mình và nhu cầu của khách hàng; các yếu tố môi
trường kinh doanh, văn hóa, chính trị, xã hội có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hàng
hóa của mình, để từ đó sử dụng các chiến lược cạnh tranh khác nhau đối với các phân
khúc thị trường hàng thủy sản ở Mỹ.
Hệ thống phân phối trong thị trường Mỹ có vai trò quan trọng trong việc đưa
hàng thủy sản nhập khẩu đến tay người tiêu dùng, do vậy việc tiếp cận các kênh phân
phối của thị trường này là rất cần thiết. Trong chiến lược sản phẩm của mình, các doanh
nghiệp Việt Nam cần hết sức chú ý đến điều kiện này. Trong xây dựng chiến lược đẩy
mạnh xuất khẩu hàng thủy sản vào thị trường Mỹ, cần phải kết hợp với chiến lược xuất
khẩu vào các thị trường khác để tạo sức mạnh tổng hợp của hàng thủy sản xuất khẩu Việt
Nam. Đồng thời, phải kết hợp tốt giữa đẩy mạnh xuất khẩu với đáp ứng nhu cầu của thị
trường nội địa.
Kết luận
Trong các thị trường xuất khẩu của hàng thủy sản Việt Nam thì thị trường Mỹ
luôn được xác định là một trong những thị trường chủ lực và nhiều tiềm năng. Để đẩy
mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ, đòi hỏi hàng thủy sản Việt Nam phải có năng lực
cạnh tranh cao. Qua 3 chương của luận văn, tác giả đã thực hiện được mục tiêu và
nhiệm vụ nghiên cứu đề ra. Luận văn đã hệ thống một số vấn đề lý luận về cạnh tranh,
sức cạnh tranh của hàng hóa. Luận văn đã tập trung phân tích những nhân tố ảnh hưởng
đến sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ: Điều kiện tự nhiên;
cơ sở hạ tầng; điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hóa, xã hội; giá cả, chất lượng,
kiểu cách, thương hiệu hàng hóa và hệ thống phân phối, dịch vụ bán hàng. Qua phân
tích những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên
thị trường Mỹ cho thấy giá cả và chất lượng là hai yếu tố quan trọng hàng đầu để giúp
hàng thủy sản Việt Nam có thể xâm nhập thành công và có chỗ đứng vững chắc trên thị
trường Mỹ. Luận văn cũng tập trung phân tích về đặc điểm thị trường thủy sản Mỹ,
kinh nghiệm của Thái Lan, Trung Quốc trong nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thủy
sản xuất khẩu sang thị trường Mỹ như về giá cả, chất lượng, điều kiện sản xuất... Luận
văn đã đi sâu phân tích, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của hàng
thủy sản Việt Nam; phân tích và so sánh năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt
Nam với một số đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường Mỹ.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ,
bản thân Nhà nước cần chú trọng đến việc thực hiện các giải pháp như: cải thiện quan hệ
Việt - Mỹ, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu hệ thống luật pháp cũng như các
thông tin về thị trường Mỹ, tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư cơ sở hạ
tầng, kiểm soát chất lượng VSATTP, đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Còn
đối với các doanh nghiệp cần quan tâm đến các biện pháp để nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm, cạnh tranh bằng thương hiệu, phát triển hệ thống phân phối và tăng
cường hiểu biết thông tin về thị trường Mỹ. Nếu những giải pháp trên được Nhà nước và
doanh nghiệp thực hiện đồng bộ sẽ giúp cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thủy
sản của Việt Nam sẽ nâng cao được chất lượng sản phẩm, vượt qua được hàng rào kỹ
thuật nghiêm ngặt của thị trường Mỹ và đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu trên thị
trường Mỹ nói riêng và thị trường thế giới nói chung.
Hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ hiện nay chủ yếu có khả
năng cạnh tranh cao về giá, về chất lượng ở một số chủng loại sản phẩm. Tuy nhiên, do
còn thiếu hiểu biết về thị trường Mỹ, về hệ thống luật pháp của Mỹ, về chính sách thương
mại của Mỹ cho nên các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam mới bị các chủ trang trại
nuôi trồng thủy sản của Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá. Nhìn chung, hàng thủy sản xuất
khẩu của Việt Nam đã đáp ứng được các yêu cầu về VSATTP của thị trường Mỹ thể hiện
ở KNXK hàng thủy sản ngày càng tăng qua các năm. Tuy nhiên, do các sản phẩm thủy
sản của Việt Nam chủ yếu nuôi bằng phương pháp quảng canh, bán thâm canh và quy mô
các doanh nghiệp nuôi trồng và chế biến nhỏ nên việc thực hiện các yêu cầu về VSATTP
còn bị hạn chế. Thị trường Mỹ rất rộng lớn nhưng hàng thủy sản của Việt Nam rất khó
vào vì hàng thủy sản Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các nước có nhiều lợi thế như
Thái Lan, Trung Quốc. Ngoài ra, những vấn đề khác như cơ cấu sản phẩm còn nghèo
nàn, thiếu thương hiệu nổi tiếng, khả năng tiếp cận các kênh phân phối của Mỹ còn hạn
chế, kinh nghiệm đối phó với những vụ kiện từ phía các doanh nghiệp thủy sản Mỹ còn
thiếu khiến cho hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa chiếm được thị phần
đáng kể tại thị trường này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu luận văn và cơ bản đã đạt
được mục tiêu nghiên cứu, tuy nhiên do hạn chế về nguồn thông tin, tư liệu nên số liệu
phân tích, so sánh về năng lực cạnh tranh hàng thủy sản xuất khẩu một số nước chưa
được sâu, cần được tiếp tục nghiên cứu. Mặt khác, do hạn chế chủ quan về phía tác giả,
nên chắc chắn luận văn còn những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự
góp ý từ các nhà khoa học, các thày, cô giáo và các bạn để có thể tiếp tục hoàn chỉnh luận
văn này cũng như thực hiện tốt hơn các công trình khoa học trong tương lai.
danh mục tài Liệu THAM Khảo
1. TS. Lê Thị Vân Anh (2003), Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hóa nông lâm thủy sản, Hà Nội.
3. Bộ Thương mại (2000), Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
vào thị trường Hoa Kỳ, Hà Nội.
4. Bộ Thương mại (2001), Chính sách và giải pháp phát triển thị trường hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010, tầm nhìn đến 2020, Hà Nội.
5. Bộ Thương mại (2002), Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
thời kỳ 2001 - 2010, Hà Nội.
6. Bộ Thương mại (2005), Rào cản trong thương mại quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
7. Bộ Thương mại (2005), Tiếp cận thị trường Hoa Kỳ, Hà Nội.
8. Bộ Thủy sản (1998), Chiến lược xuất khẩu thủy sản Việt Nam thời kỳ 1996 - 2000 và
2010, Hà Nội.
9. Bộ Thủy sản (2002), "Nghề cá Mỹ và thị trường thủy sản Mỹ", Chuyên đề thủy sản,
(4), tr. 1-16.
10. Bộ Thủy sản (2003), "Dự báo thị trường thủy sản Mỹ năm 2020", Thương mại, (12),
tr. 14-16.
11. Bộ Thủy sản (2005), Chương trình phát triển giống thủy sản đến năm 2010, Hà Nội.
12. Bộ Thủy sản (2006), Chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 và
tầm nhìn 2020, (Dự thảo lần 4), Hà Nội.
13. Bộ Thủy sản (2005), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm
2004, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 của ngành
thủy sản, Hà Nội.
14. GS.TS Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
16. David Becg, Stanley, Fischer, Rudiger Dornbush (1992), Giáo trình kinh tế học vĩ
mô, vi mô, Nxb giáo dục, Hà Nội.
17. Dự án STARR Việt Nam và Viện quản lý kinh tế Trung ương (2003), Đánh giá tác
động kinh tế của Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Lợi thế cạnh tranh của các công ty Hoa kỳ ở Việt
Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Giáo trình kinh tế thủy sản (2005), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
21. ThS. Trần Đại Hải (2006), "Những trở ngại cho tăng trưởng xuất khẩu thủy sản, Thương
mại, (14), tr. 4-6.
22. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2004), "Sự tăng trưởng của thị trường cá
ngừ tươi tại Mỹ", Thương mại thủy sản, (12), tr. 32- 33.
23. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Sản phẩm cá rô phi giá trị gia tăng
chiếm lĩnh thị trường", Thương mại thủy sản, (1), tr. 38-39.
24. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Hồi kết của vụ kiện tôm", Thương
mại thủy sản, (2), tr. 2-3.
25. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Thủy sản Việt Nam và thị trường
Mỹ năm 2004", Thương mại thủy sản, (2), tr. 23-25.
26. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Mỹ: nhập khẩu cá rô phi tăng",
Thương mại thủy sản, (7), tr. 15.
27. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Thị trường cá ngừ vây vàng Mỹ",
Thương mại thủy sản, (7), tr. 23-24.
28. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005),"Những gì đằng sau lệnh cấm tiêu
thụ cá basa", Thương mại thủy sản, (9).
29. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Sẽ tăng cường kiểm tra 100% số
lô hàng xuất khẩu vào Hoa Kỳ và Canada", Thương mại thủy sản, (11), tr. 18.
30. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Chương trình phát triển thủy sản
1998 - 2005: Những thành tựu, tồn tại và bài học kinh nghiệm", Thương mại
thủy sản, (12), tr. 2-6.
31. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2006), "Nhân công giá rẻ - lợi thế cạnh
tranh của Trung Quốc trong chế biến thủy sản", Thương mại thủy sản, (2), tr.
38- 40.
32. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2006), "Tiềm năng tôm của ngành tôm
Thái Lan", Thương mại thủy sản, (3), tr. 38- 40.
33. PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, "Xung quanh quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản
đến năm 2010 và giai đoạn tiếp theo", Thủy sản, (3), tr. 31-33.
34. Hồ Sĩ Hưng - Nguyễn Việt Hưng (2003), Cẩm nang về xâm nhập thị trường Mỹ, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
35. Tạ Quang Ngọc (2000), "Để đưa ngành thủy sản phát triển mạnh mẽ và bền vững
trong thập niên tới", Thủy sản, (1). tr. 2.
36. Thanh Phong (2005), "Thuế chống bán phá giá có thể làm tăng khả năng cạnh tranh
của Trung Quốc", Thương mại thủy sản, (11), tr. 12.
37. TS. Nguyễn Việt Thắng (2005), "Ngành thủy sản và phương hướng phát triển giai
đoạn 2006-2010", Thủy sản, (4), tr. 3-5.
38. Võ Thanh Thu (2001), Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ, Nxb Thống kê, Hà Nội.
39. Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ (2005), Quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và
định hướng trong thời gian tới, Hà Nội.
40. Thu Trang (2005), "Xuất khẩu thủy sản năm 2004 của Trung Quốc tăng mạnh", Thủy
sản, (5), tr. 31-32.
41. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Invest Consult (2002), Tìm hiểu Hoa Kỳ cho
mục đích kinh doanh, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
42. Nguyễn Thị Tú (2004), Nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt
Nam vào thị trường Châu Âu, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
43. Từ điển thuật ngữ kinh tế học (2001), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
44. ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2001), Nâng cao năng lực cạnh tranh
của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam, Hà Nội.
Tài Liệu TRÊN INTERNET
45. http:// vinanet.com.vn (2005), Hàng hóa vào thị trường Mỹ phải có thương hiệu,
ngày 19-12.
46. http:// vinanet.com.vn (2005), Quan hệ thương mại Việt Mỹ ngày càng phát triển,
ngày 10-1.
47. http:// www nhandan.com.vn. (2006), giới thiệu dự luật về quy chế quan hệ thương
mại bình thường vĩnh viễn cho Việt Nam tại Quốc hội Mỹ, ngày 15-6.
48. Trang Web của Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ: http:// www.fda.gov/
49. Trang Web của Cơ quan quản lý thủy hải sản liên bang Mỹ: http:// www.st.nmfs.gov/
50. Trang Web cung cấp số liệu về xuất nhập khẩu giữa Mỹ và các nước: http://
www.census.gov/ foreign-trade/balance/index.html.
51. Trang Web cung cấp thông tin về hoạt động thủy sản của Việt Nam: http://
www.ficen.org.vn
Phụ lục
Phụ lục 1
Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Mỹ
giai đoạn 1994- 2004
Đơn vị tính: triệu USD
Năm KNXK của Việt Nam sang Mỹ KNXK của Mỹ sang Việt Nam
1994 50,5 172,9
1995 199,0 252,3
1996 331,8 616,6
1997 388,4 286,7
1998 554,1 273,9
1999 608,4 291,5
2000 821,3 367,5
2001 1.053,0 460,4
2002 2.394,8 580,0
2003 4.554,9 1.324,4
2004 5.275,8 1.163,4
2005
Nguồn: Báo cáo các năm của Bộ Thương mại (1998 - 2005).
Phụ lục 2
xuất nhập khẩu thủy sản của Mỹ năm 1994- 2005
Đơn vị tính: triệu USD
Năm Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu Thâm hụt
1994 3.127 6.644 3.517
1995 3.481 7.043 3.562
1996 3.147 7.080 3.933
1997 2.850 8.138 5.288
1998 2.400 8.578 6.178
1999 2.848 9.073 6.225
2000 3.004 10.086 7.082
2001 3.289 9.880 6.591
2002 3.208 10.209 7.001
2003 3.287 11.112 7.388
2004 3.724 11.379 7.655
2005 4.077 12.158 8.081
Nguồn: Cơ quan quản lý thủy hải Mỹ (2000 - 2005).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ (2).pdf