Ngân hàng không nên ngồi một chỗ mà nên chủ động tìm kiếm các dự án đầu
tư có hiệu quả để cho vay, chủ động tiếp cận tìm hiểu nhu cầu đầu tư của doanh
nghiệp, từ đó tư vấn cho doanh nghiệp có phương hướng đầu tư có hiệu quả căn cứ
vào định hướng của nhà nước và kế hoạch cho vay của ngân hàng. Ngân hàng cũng
th ẩm định luôn tư cách pháp lý và tình hình tài chính doanh nghiệp. Việc cải tiến
như vậy sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả ngân hàng và doanh nghiệp trong
việc thẩm định
101 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2261 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ngân hàng dầu khí và giải pháp cho phòng tránh rủi ro do sai sót trong thẩm định tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ban đã góp phần thúc đẩy hoạt
động kinh doanh, nâng cao chất lượng cung cấp số liệu, nâng cao chất lượng thẩm
định dự án. Tuy nhiên việc áp dụng còn nhiều hạn chế, một phần do dữ liệu của
Ngân hàng Trung ương không được cập nhật thường xuyên, mặt khác do VPbank
chưa thiết lập được ngân hàng dữ liệu riêng cho mình
Ngân hàng cũng chưa chú trọng áp dụng các phần mềm trong thẩm định, do
vậy việc thẩm định nhiều khi còn mang tính thủ công cục bộ cá nhân. Điều này đi
ngược lại với đặc trưng của hoạt động thẩm định là đòi hỏi phải có sự phối kết hợp
về trí tụê của nhiều cá nhân và tập thể. Đó là chưa kể đến các tính năng ưu việt của
hệ thống máy tính chưa được khai thác một cách triệt để và có hiệu quả. Dường như
hệ thống máy tính mới chỉ dừng lại ở việc phục vụ cho công tác soạn thảo văn bản,
lưu trữ số liệu chứ chưa có sự áp dụng các phần mềm tiện ích và các tính năng hiện
đại của máy tính trong phân tích, dự báo
Vì vậy trong nhiều trường hợp đã xảy ra tình trạng sai lệch do việc tính toán
thủ công gây nên. Điều này một mặt làm giảm độ tin cậy, chính xác của các kết quả
thẩm định, mặt khác làm hao tổn thời gian và công sức của cán bộ thẩm định cũng
như của khách hàng, có thể làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng do phải chờ đợi
quyết định có được vay vốn hay không và vô hình chung làm ảnh hưởng tới uy tín
của ngân hàng.
* Về mạng lưới thông tin
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc thu thập mọi thông tin về khách
hàng thông qua các biện pháp thu thập trực tiếp hay gián tiếp song cơ sở thông tin
được dùng để phân tích thẩm định dự án chủ yếu vẫn dựa trên các tài liệu mà khách
hàng gửi đến. Trong nhiều trường hợp các nguồn thông tin này không thực sự khách
quan vì để được ngân hàng chấp nhận cho vay, chủ đầu tư đã cố tình làm sai lệch
các số liệu nhằm làm khả quan tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như làm tăng
tính khả thi của dự án
Hiện nay hầu hết các dự án gửi đến ngân hàng thẩm định đều là do chủ đầu
tư tự lập, nguồn số liệu trong các báo cáo khả thi thường thiếu gây nhiều khó khăn
cho cán bộ thẩm định. Hơn thế nữa, để tăng tính thuyết phục cho dự án, doanh
nghiệp trong quá trình lập báo cáo khả thi có xu hướng tìm mọi cách làm giảm chi
phí hoạt động của dự án xuống mức thấp nhất
Các báo cáo tài chính được sử dụng để phân tích, thẩm định khách hàng
vay vốn cũng không thực sự đủ độ tin cậy bởi có nhiều doanh nghiệp chưa thực
hiện chế độ kiểm toán bắt buộc. Thêm vào đó các báo cáo tài chính, kết quả kinh
doanh thường kỳ của doanh nghiệp nộp cho ngân hàng có nhiều loại khác nhau dẫn
đến khó hệ thống chuẩn hoá thông tin
Sự phối hợp về mặt thông tin giữa các thành viên cũng chưa chặt chẽ,
thường xuyên. Khối lượng công việc của phòng khá lớn nên các cá nhân làm việc
một cách độc lập, dự án phân công cho ai thì người đó tự tìm kiếm thông tin, tự
thẩm định dựa vào năng lực của bản thân, ít có sự hợp tác, hỗ trợ qua lại lẫn nhau về
mặt thông tin trong quá trình thẩm định. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến thời
gian cũng như chất lượng thẩm định
Trong quá trình thẩm định, tuy cán bộ thẩm định có tham khảo các thông
tin từ hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng (CIC), tuy nhiên hệ thống này mới đi
vào hoạt động, thông tin chưa có nhiều, các thông tin về khách hàng nếu có cũng
chỉ mới được cập nhật trong vòng 2 đến 3 năm gần đây. Điều này chắc chắn sẽ gây
khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc nắm bắt được một cái nhìn tổng quan về
tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như độ lành mạnh của chính doanh nghiệp
đó. Mặt khác các thông tin trên hệ thống này chủ yếu được cung cấp bởi các tổ chức
tín dụng, do vậy nếu các tổ chức này chậm hoặc không gửi thông tin lên thì sẽ khiến
cho các thông tin về doanh nghiệp bị phản ánh không đầy đủ, thiếu khách quan.
Việc thu thập thông tin từ các đối tác, bạn hàng của doanh nghiệp, từ các tổ chức tín
dụng khác là rất hạn chế. Trong khi đó, việc khai thác thông tin từ phía các cơ quan
nhà nước (như toà án, thuế, uỷ ban nhân dân, kiểm toán, kế hoạch đầu tư…) còn
khá khó khăn, lí do là bởi vì hiện nay chưa có một cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các
tổ chức cho vay và cơ quan nhà nước
Hiện nay VPBank đã yêu cầu khách hàng thanh toán qua ngân hàng để
ngân hàng dễ dàng kiểm tra tình hình tài chính doanh nghiệp, phát hiện ra các vấn
đề rủi ro tín dụng. Tuy nhiên điều này rất khó thực hiện bởi việc thanh toán qua hệ
thống ngân hàng chưa phổ biến, hơn nữa chẳng có doanh nghiệp nào muốn bị giám
sát nguồn thu chi của mình .
*Về cán bộ thẩm định:
Đa số cán bộ thẩm định cũng như đội ngũ nhân viên trong ngân hàng đều
có trình độ từ đại học trở lên, tuy nhiên đa số họ là đội ngũ trẻ, thiếu kinh nghiệm
thực tế về dự án, về thương trường. Số cán bộ có kỹ thuật còn hạn chế trong khi số
cán bộ có chuyên môn về cả nghiệp vụ lẫn kỹ thuật lại càng ít. Điều này có ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác thẩm định
Đội ngũ cán bộ thẩm định chưa được phân công chuyên môn hoá trong
công tác thẩm định, ở nhiều chi nhánh chưa có cán bộ chuyên trách về thẩm định dự
án. Nhiều cán bộ không được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ thẩm định dự án mà
chủ yếu tự nghiên cứu tài liệu thẩm định nên trình độ còn nhiều hạn chế
Mặt khác ngân hàng cũng chưa có chương trình đào tạo tổng thể về thẩm
định dự án, việc đào tạo mới chỉ dựa vào những chương trình tập huấn và bồi dưỡng
trong ngắn hạn hoặc tự đào tạo.
* Các hạn chế khác
Việc thẩm định dự án đôi khi còn mang tính chủ quan, kết quả thẩm định
còn ít nhiều phụ thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Thực tế
chúng ta gặp nhiều trường hợp mà việc ngân hàng có quyết định cho vay hay không
không chỉ phụ thuộc vào kết quả thẩm định mà còn phụ thuộc vào "tài sản vô hình
đem ra thế chấp với ngân hàng"- đó là mối quan hệ giữa VPBank và khách hàng, do
đó việc thẩm định trên thực tế chỉ mang tính thủ tục, hình thức. Vì thế mà có những
dự án kết quả thẩm định cho thấy có thể cho vay thì chưa chắc đã được chấp thuận
cho vay, trong khi có dự án mà kết quả thẩm định cho thấy không thể cho vay hoặc
còn nhiều điều bất ổn thì lại được ngân hàng sẵn sàng cấp vốn. Đây chính là nguy
cơ chủ yếu dẫn đến những rủi ro tín dụng cho ngân hàng trong thời gian qua.
3.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong công tác thẩm định của ngân hàng
Những tồn tại trong công tác thẩm định của ngân hàng thời gian qua là do
ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có cả nguyên nhân chủ quan
lẫn khách quan
3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
* Nội dung và quy trình thẩm định của ngân hàng đang trong quá trình hoàn
thiện. Quy trình thẩm định đã được xây dựng là áp dụng chung cho mọi loại dự án,
chưa có văn bản hướng dẫn riêng cho từng loại dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Các nội dung trong quy trình chưa được quy định chi tiết, tỉ mỉ làm cơ sở cho cán
bộ thẩm định có căn cứ tham chiếu, khiến họ lúng túng khi thẩm định, đặc biệt đối
với những dự án thuộc các lĩnh vực kinh doanh mới. Đó cũng là nguyên nhân dẫn
đến tình trạng bỏ qua hoặc tuỳ tiện trong một số trường hợp
Mặc dù quy trình tín dụng của ngân hàng có quy định khá đầy đủ các nội
dung cần tiến hành trong quá trình thẩm định một dự án đầu tư, song trên thực tế
việc thẩm định mới chỉ tập trung vào phương diện tài chính và phân tích thị trường.
Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu, bởi trên thực tế ngân hàng là một đơn vị kinh
doanh và cũng không có đủ nguồn lực để thẩm định hết các yếu tố, dó đó các khía
cạnh còn lại chưa được nghiên cứu quan tâm đầy đủ, nhất là khía cạnh kinh tế- xã
hội của dự án. Đây cũng là một thực tế chung ở hầu hết các ngân hàng thương mại
Việt Nam
Trong thời gian qua mặc dù các trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm
định đã được ngân hàng chú trọng đầu tư, tuy nhiên do đặc thù của ngành ngân
hàng đòi hỏi hệ thống trang thiết bị phải được thường xuyên đổi mới, cập nhật, nên
sự đầu tư đó vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu. Bên cạnh đó, hệ thống trang thiết bị này
chưa được khai thác một cách triệt để, mới chủ yếu dùng để soạn thảo văn bản và
tính toán đơn thuần trên Excell. ở đây cũng phải kể đến năng lực thành thạo máy
tính của một bộ phận cán bộ thẩm định còn chưa ổn
Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến hạn chế trên chính là do ngân
hàng chưa nghiên cứu và áp dụng các phần mềm hiện đại trong thẩm định và quản
lý dự án. Điều này trái ngược với xu hướng hiện nay, khi mà công tác thẩm định
ngày càng đòi hỏi phải được chuẩn hoá thông qua việc áp dụng hệ thống các phần
mềm trong phân tích chuyên ngành, quản lý và dự báo. Trong tương lai, ngân hàng
nên chú ý áp dụng hơn nữa ứng dụng của khoa học công nghệ trong công tác thẩm
định dự án
* Công tác thu thập, quản lý, lưu trữ thông tin của ngân hàng vẫn chưa đáp
ứng yêu cầu
Việc thu thập thông tin của ngân hàng còn nhiều hạn chế như: ngân hàng
vẫn chưa khai thác triệt để các nguồn thông tin đa dạng từ trung tâm thông tin tín
dụng Ngân hàng Nhà nước, từ các Bộ ngành liên quan, từ đối tác, khách hàng, bạn
hàng của VPBank. Ngân hàng chưa có bộ phận chuyên trách phục vụ việc thu thập
thông tin về các văn bản pháp quy mới, các thông số, quy chuẩn, tiêu chuẩn kinh tế-
kỹ thuật được áp dụng trong từng lĩnh vực dự án khác nhau, về các đối tác đã, đang
và sẽ có quan hệ tín dụng với mình. Phòng khách hàng mới chỉ làm nhiệm vụ tìm
kiếm, duy trì và triển mối quan hệ khách hàng mà chưa có sự hỗ trợ thông tin về
khách hàng cho công tác thẩm định. Mặt khác, ngân hàng cũng ít khi chủ động thu
thập thông tin, đánh giá lại các dự án đã và đang thực hiện làm tài liệu tham khảo để
thẩm định các dự án tương tự về sau, việc thu thập thông tin thường chỉ được phát
sinh ở một dự án nào đó cần được thẩm định
Bên cạnh đó, các thông tin về dự án đã thực hiện được lưu trữ dưới dạng
thô sơ, chưa có hệ thống, chưa tận dụng được hết hiệu quả của máy tính và mạng
máy tính trong việc lưu trữ và tra cứu khi cần. Sự phối hợp trao đổi thông tin, tư
vấn giữa VPbank với các đơn vị khác trong ngành hầu như chưa có
Tóm lại, ngân hàng chưa xây dựng cho mình một hệ thống cơ sở dữ liệu,
thông tin hoàn chỉnh, cũng như chưa tận dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật
trong việc xử lý và sử dụng những dữ liệu ấy
* Nguyên nhân khách quan
Chất lượng thẩmđịnh dự án không chỉ phụ thuộc vào bản thân ngân hàng
mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khách quan khác (như: môi trường luật pháp,
kinh tế, x• hội… và phụ thuộc vào chính chủ đầu tư )
- Nguyên nhân từ môi trường vĩ mô
+ Pháp luật : hệ thống luật pháp của chúng ta chưa đồng bộ, còn đang trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện. Pháp lệnh về kế toán thống kê vẫn chưa được
thực hiện một cách nghiêm minh. Hiện nay chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc, các
số liệu về khả năng tiêu thụ, về thu nhập, chi phí hoạt động,… của doanh nghiệp chỉ
mang tính ước tính mà chưa có sự kiểm chứng của bất kỳ một tổ chức kiểm toán
nào. Do đó cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định rất khó xác định tình hình tài
chính, tình tình thanh toán, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
+ Kinh tế : môi trường kinh tế trong và ngoài nước có nhiều biến động gây
khó khăn cho công tác dự báo
Hệ thống các ngân hàng hiện nay chưa hoàn thiện, thị trường chứng khoán
chưa phát triển mạnh mẽ dẫn đến khó xác định mức lãi suất chiết khấu. Tỷ giá
không thống nhất cũng gây bất lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính
Sự cạnh tranh trên thương trường diễn ra ngày càng găy gắt khiến cho nhiều
doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản
Phân cấp quản lý dự án của nhà nước không rõ ràng khiến cho ngân hàng
nhiều khi không xác định được chính xác thẩm quyền quyết định các dự án. Quản lý
dự án đầu tư đôi khi còn chồng chéo giữa địa phương và các Bộ ngành liên quan…
+ Môi trường xã hội : hệ thống các cơ quan tư vấn về thẩm định dự án, đặc
biệt là phương diện kỹ thuật, thị trường chưa phát triển
- Nguyên nhân từ phía chủ đầu tư
Trước hết phải kể đến trình độ lập dự án của các doanh nghiệp còn yếu, các
dự án được lập còn thiếu chính xác và thiếu căn cứ khoa học… Khi trình hồ sơ tài
liệu lên ngân hàng, các chủ đầu tư không cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu cần
thiết cho qua trình thẩm định, khiến cho công tác thẩm định thường bị kéo dài. Các
chủ đầu tư cũng thường cung cấp những thông tin thiếu chính xác về doanh nghiệp
và dự án, làm ảnh hưởng tới chất lượng của công tác thẩm định
Mặt khác trình độ quản lý của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay còn thấp, dẫn đến hiệu quả của các dự án không cao. Trong quá
trình dự án đi vào hoạt động, các cán bộ thẩm định cũng không thể kiểm soát được
mọi hoạt động của doanh nghiệp, từ đó khiến cho nhiều dự án bị chậm tiến độ thi
công do lựa chọn không đúng nhà thầu, triển khai vốn không đúng tiến độ hay sử
dụng vốn sai mục đích… làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
Bên cạnh đó còn phải kể đến một số những nguyên nhân khác như: thị
trường máy móc thiết bị cung cấp cho các doanh nghiệp hiện nay rất phong phú và
đa dạng. Có nhiều loại máy móc hiện đại nên các cán bộ thẩm định rất khó đánh giá
được khả năng sử dụng vận hành công nghệ, đội ngũ công nhân vận hành của doanh
nghiệp…
Trước thực trạng công tác thẩm định của ngân hàng trong thời gian qua, có thể
thấy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động thẩm định dự án đầu tư của
VPbank vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Chính vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng cần
phát huy những thành tựu đã đạt được, mặt khác tìm ra các giải pháp nhằm khắc
phục những tồn tại để không ngừng nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án,
từ đó nâng cao chất lượng hoạt động. Trong khuôn khổ chuyên đề, em xin đưa ra
một số giải pháp như sau.
Chương ii: Một số Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại
ngân hàng
2.1. Định hướng cho công tác thẩm định của ngân hàng trong thời gian tới
2.1.1. Nhu cầu thẩm định dự án tại ngân hàng
Với tư cách là một thành viên trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, ngân
hàng VPBank luôn coi việc xác định chiến lược phát triển có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, một mặt nhằm thực thi các chiến lược phát triển chung của đất nước, mặt
khác đảm bảo cho ngân hàng luôn phát triển đúng hướng, tăng trưởng tín dụng phải
đi đôi với an toàn, hiệu quả
Mục tiêu của ngân hàng trong tương lai là không ngừng đẩy mạnh các hoạt
động kinh doanh, phấn đấu trở thành một "ngân hàng bán lẻ hàng đầu của miền Bắc
và của cả nước". Để thực hiện mục tiêu này, trong những năm qua ngân hàng đã nỗ
lực thực thi nhiều biện pháp, cải tổ bộ máy tổ chức, cơ cấu lại các phòng ban chi
nhánh, mở rộng mạng lưới hoạt động và các loại hình cung cấp dịch vụ, nâng cao
chất lượng phục vụ khách hàng, thu hút và đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ
cao…
Cũng chính nhờ việc kiên định chiến lược phát triển trên mà trong thời gian
qua, mặc dù trong bối cảnh nền kinh tế trong và ngoài nước có nhiều biến động bất
lợi và môi trường cạnh tranh găy gắt giữa các ngân hàng ( các ngân hàng đua nhau
tăng lãi suất huy động, áp dụng các chương trình khuyến mãi có giá trị lên tới hàng
tỷ đồng, mở rộng mạng lưới hoạt động…). Tuy vậy ngân hàng vẫn đứng vững và
đạt được nhiều thành công ngoài dự kiến. Kết quả hoạt động kinh doanh tăng
trưởng khá cao, tổng nguồn vốn huy động đạt 5.228 tỷ đồng tăng trên 35% so với
thực hiện năm 2004, doanh số cho vay của toàn hệ thống đạt trên 2.761tỷ tăng
28.1% so với năm 2004, tỉ lệ nợ quá hạn giảm đáng kể. Chất lượng dịch vụ được cải
thiện, các sản phẩm mới được đưa vào ứng dụng đã phát huy hiệu quả, mạng lưới
hoạt động mở rộng trên toàn quốc, công tác đào tạo cán bộ được quan tâm đặc biệt
Qua hoạt động của VPBank cho thấy, ngân hàng đã không ngừng đổi mới
thích ứng với nền kinh tế thị trường để đạt được thành công như ngày hôm nay. Từ
những thành công đã có cũng như những khó khăn đã trải qua, trên cơ sở tổng kết
các bài học kinh nghiệm và đánh giá tình hình kinh tế- xã hội của đất nước trong
thời gian tới, ngân hàng đã đề ra định hướng hoạt động cho năm 2006 như sau:
- Đa dạng hoá loại hình cho vay, mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, từng bước
tiếp cận tín dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc mở rộng cho
vay phải đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro trên từng khách
hàng, giảm thiểu hệ số rủi ro, quá hạn vốn vay
- Phấn đấu đạt mức huy động vốn tiết kiệm tăng 35%, dư nợ tín dụng tăng 30%
so với năm 2005, nợ quá hạn phát sinh mới không quá 2% trong tổng dư nợ tăng
thêm. Đảm bảo tốc độ cho vay trung dài hạn bình quân đạt 15% trong giai đoạn
2006-2010
- Chủ động tìm kiếm khách hàng để lựa chọn được khách hàng tốt, dự án đầu
tư có hiệu quả kinh tế cao, thu hồi vốn tốt. Lấy hiệu quả, an toàn làm tiêu chí hàng
đầu để xét duyệt vốn vay. Đồng thời việc chủ động tìm kiếm khách hàng, dự án đầu
tư nhằm làm giảmviệc khách hàng đưa thông tin không đúng sự thật
- Thực hiện nghiêm túc luật các tổ chức tín dụng và quy trình cho vay nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay
Để thực hiện được những định hướng đã đề ra thì việc hoàn thiện công tác
thẩm định dự án cho vay vốn đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt trong
bối cảnh cạnh tranh giữa các ngân hàng và các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ đầu
tư như hiện nay. Vì vậy trước hết ngân hàng cần tập trung đề ra các giải pháp nhằm
khắc phục những tồn tại trong công tác thẩm định, nâng cao chất lượng thẩm định
dự án là cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng trong giai đoạn tiếp
theo.
2.1.2.Định hướng cho công tác thẩm định dự án đầu tư
Hoạt động thẩm định dự án đầu tư phải xuất phát từ tình hình kinh tế- xã
hội của đất nước trong từng thời kỳ và từ thực tiễn cho vay của chính ngân hàng.
Công tác thẩm định dự án cần phải phù hợp với những chủ trương, chính sách
chung của các Bộ ngành trong từng giai đoạn phát triển, đồng thời phát huy tối đa
những thế mạnh của ngân hàng. Thẩm định dự án phải tuân thủ theo đúng các quy
định của ngân hàng với tất cả dự án xin vay, mặt khác quá trình này phải được tiến
hành thường xuyên, liên tục, không chỉ diễn ra trước mà cả trong và sau cho vay.
Trong tương lai ngân hàng sẽ phấn đấu hoàn thiện để thẩm định trở thành một hoạt
động dịch vụ của ngân hàng, ngân hàng không chỉ là nơi tư vấn cho khách hàng mà
còn có thể thu phí từ hoạt động này.
2.2. Các giải pháp
2.2.1. Nhận thức về công tác thẩm định
Thẩm định dự án là công việc phức tạp và có vị trí vai trò rất quan trọng
trong mỗi quyết định cho vay, do đó để thực hiện tốt công tác thẩm định, trước hết
cần có sự thống nhất về mặt nhận thức trong mỗi cán bộ nhân viên của ngân hàng.
Cụ thể là:
- Hoạt động thẩm định không chỉ là công việc riêng của các cán bộ thẩm định
mà còn phải được phổ cập ở một mức độ nhất định tới các bộ phận nghiệp vụ khác
để họ hiểu được vị trí và tầm quan trọng của công tác thẩm định, từ đó hình thành
sự phối hợp, trợ giúp cho cán bộ thẩm định trong quá trình ra quyết định
- Thẩm định dự án không chỉ hướng tới phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh
cục bộ của ngân hàng mà còn phải góp phần thực hiện những mục tiêu phát triển
kinh tế chung của ngành, của địa phương và của đất nước trong mỗi thời kỳ
- Hoạt động thẩm định phải đứng trên góc độ người cho vay vốn để xem xét,
ra quyết định, nhằm tránh xảy ra tình trạng thất thoát lãng phí, dẫn đến những tổn
thất cho xã hội
- Thẩm định dự án phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, không chỉ
diễn ra trước mà cả trong và sau cho vay, nhằm đảm bảo tính hiệu quả và an toàn
cho nguồn vốn vay
- Thẩm định dự án là một công việc có liên quan đến nhiều ngành nghề lĩnh
vực khác nhau, đòi hỏi người thẩm định phải có sự chủ động, sáng tạo, linh hoạt, có
khả năng phân tích, tổng hợp, đúc rút thực tiễn và thường xuyên trau dồi các kiến
thức chuyên môn cũng như các kiến thức về đời sống kinh tế-xã hội.
2.2.2. Các giải pháp
Các giải pháp về nội dung và phương pháp thẩm định
* Đối với nội dung thẩm định khách hàng vay vốn
Việc đánh giá các thông tin về khách hàng vay vốn là một việc không đơn
giản, bởi không phải lúc nào tình hình tài chính của các doanh nghiệp cũng được
công khai. Do vậy trước mắt ngân hàng cần yêu cầu các báo cáo tài chính của doanh
nghiệp nộp lên phải được kiểm toán. Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên tăng cường
thiết lập mối quan hệ với các cơ quan chức năng nhằm có những đánh gía đầy đủ
hơn về doanh nghiệp
Để đưa ra những kết luận chính xác hơn về tình hình của doanh nghiệp, ngân
hàng cũng nên áp dụng các phương pháp khác nhau trong phân tích tài chính doanh
nghiệp như: phương pháp phân tích tỷ lệ, phương pháp đối chiếu logic… vì thực tế
hiện naysố lượng các chỉ tiêu dùng để đánh giá chưa nhiều.
* Đối với nội thẩm định phương diện kỹ thuật
Cán bộ thẩm định cần quan tâm hơn đến phân tích khía cạnh kỹ thuật của dự
án. Thực chất họ rất khó có thể làm tốt được điều này, bởi lẽ ngân hàng hiện nay
chưa có nhiều cán bộ có chuyên môn cả về nghiệp vụ lẫn kỹ thuật, đa số họ đều tốt
nghiệp từ các trường khối kinh tế, trình độ nhận biết cũng như khả năng thu thập
thông tin là có hạn. Các chỉ tiêu của Chính phủ, của Bộ ngành liên quan chưa đầy
đủ, chưa phù hợp với tình hình hiện tại của nền kinh tế, còn ngân hàng cũng chưa có
một hệ thống chỉ tiêu về kinh tê- kỹ thuật chuẩn phục vụ cho công tác thẩm định dự
án. Do đó để trợ giúp cho cán bộ thẩm định đánh giá kỹ thuật, ngân hàng cần sớm
nghiên cứu ban hành những chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản phù hợp với từng ngành, từng
lĩnh vực cụ thể (như các tiêu chuẩn về công nghệ, máy móc, thiết bị được sử
dụng,…) làm cơ sở để cán bộ thẩm định tham chiếu
Trong trường hợp những dự án quá phức tạp, ngân hàng nên thuê các chuyên
gia có chuyên môn phù hợp thẩm định nội dung kỹ thuật nhằm rút ngắn thời gian
thẩm định.
* Đối với nội dung phân tích thị trường
Cán bộ thẩm định cần phân tích sâu hơn về phương diện thị trường của dự
án, những đánh giá về tình hình cung- cầu thị trường, về khả năng tiêu thụ của sản
phẩm cần được định tính toán, định lượng một cách cụ thể, chứ không nên đánh giá
chung chung theo cảm tính. Ngân hàng cũng cần áp dụng các phương pháp hiện đại
trong phân tích và dự báo cung- cầu sản phẩm. Hiện có nhiều phương pháp dự báo
cung- cầu đã được nghiên cứu áp dụng trong thực tế, như phương pháp ngoại suy
thống kê, phương pháp định mức, phương pháp hệ số co giãn… cán bộ thẩm định
có thể căn cứ vào số lượng và chất lượng thông tin thu thập được mà lựa chọn
phương pháp tính cho phù hợp, hoặc kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nhằm làm
tăng tính chính xác cho các kết quả dự báo
Ngoài ra trong quá trình thẩm định cần lưu ý tới các yếu tố khác như: khả
năng thay đổi thị hiếu tiêu dùng, những thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô của
Nhà nước, của nước xuất khẩu…vì chúng có thể ảnh hưởng đến đầu ra của dự án.
* Đối với nội dung thẩm định phương diện tài chính
Thứ nhất, khi thẩm định tổng vốn đầu tư, ngân hàng cần có quy định cụ thể về
các nội dung trong tổng vốn đầu tư của một dự án như: vốn đầu tư cố định, vốn đầu
tư lưu động, vốn đầu tư dự phòng, vốn đầu tư bù đắp các chi phí… bởi theo ý kiến
của nhiều cán bộ thẩm định có kinh nghiệm thì tổng vốn đầu tư của dự án khi trình
lên ngân hàng thường thấp hơn thực tế. Lý do là vì dự án khi đi vào thực hiện có thể
phát sinh nhiều hạng mục chi phí mới hoặc do chủ đầu tư cố tình làm giảm tổng vốn
đầu tư để dễ xin vay vốn hơn
Mặt khác nếu dự án đầu tư được tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau, cán bộ thẩm
định nên kiểm tra kỹ tính xác thực của từng nguồn vốn, nhất là các cam kết bỏ vốn
của các cơ quan tài trợ cả về mặt số lượng và tiến độ, tránh để xảy ra tình trạng
thiếu vốn dẫn đến làm chậm tiến độ thi công của công trình
Thứ hai, khi thẩm định các yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của dự án như:
lãi vay vốn lưu động, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí thuê đất, thuê chuyên
gia… ngân hàng cần có sự tham khảo các quy trình của Bộ tài chính, của cơ quan
chủ quản của doanh nghiệp, so sánh với chi phí sản xuất của sản phẩm tương tự trên
thị trường, không nên chấp thuận hay mặc nhiên theo sự tính toán của chủ đầu tư
hoặc tuỳ ý. Nếu là dự án mở rộng hoặc dự án mới của doanh nghiệp đã hoạt động
trong ngành đó, cán bộ thẩm định có thể lấy các chỉ tiêu cũ làm cơ sở. Nếu là các dự
án mới hoàn toàn thì các chỉ tiêu của những dự án tương tự cũng là những tham
khảo tốt.
Đối với chi phí khấu hao, ngân hàng cần kiểm tra đối chiếu với các văn bản
quản lý kinh tế mới nhất của Nhà nước nhằm đảm bảo tính, hợp pháp, chính xác
trong tính toán. Ngân hàng cần xem xét mức khấu hao cho phù hợp với từng lĩnh
vực hoạt động của dự án, của từng loại hình doanh nghiệp, tránh tình trạng các
doanh nghiệp áp dụng mức khấu hao nhanh để giảm nghĩa vụ nộp thuế với Nhà
nước. Nếu doanh nghiệp tính sai quy định của Bộ tài chính thì VPBank cần tính
toán lại và có ý kiến với doanh nghiệp. Đồng thời ngân hàng phải đặt chi phí này
trong mối quan hệ với khả năng tiêu thụ của sản phẩm, với tính khả thi của dự án vì
khấu hao là một nguồn trả nợ cho ngân hàng, nó không phải nguồn có sẵn hiển
nhiên, do đó nó có thể là con số vô nghĩa nếu dự án không khả thi, sản phẩm của dự
án không tiêu thụ được
Thứ tư, cần chú ý đến các khoản thu hồi khi xác định dòng tiền của dự án
Khi xác định dòng tiền của dự án, cán bộ thẩm định cần chú ý các khoản hoàn
trả vốn lưu động và thu hồi các giá trị thanh lý khi dự án chấm dứt hoạt động. Bởi lẽ
phần lớn các dự án khi kết thúc thì các máy móc thiết bị, nhà xưởng còn một giá trị
thị trường nhất định. Khi bán chúng sẽ xuất hiện dòng thu từ dự án, tuỳ theo quy
định chế độ kế toán hiện hành mà dòng thu này có thể sẽ phải chịu thuế thu nhập
doanh nghiệp hay không
Ngoài ra khi dự án kết thúc doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn lưu động ròng, do đó
khoản thu này phải được cộng vào dòng tiền cuối cùng của dự án
Như trong dự án xây dựng nhà máy sản xuất đá xẻ trên, mặc dù các tài sản cố
định của dự án được khấu hao trong vòng 14 năm và vòng đời của dự án chỉ là 10
năm, nhưng cán bộ thẩm định đã không đưa phần giá trị thanh lý tài sản cố định
cũng như khoản thu hồi vốn lưu động vào dòng thu cuối cùng của dự án. Mặc dù dự
án có hiệu quả ngay cả khi không có các khoản thu hồi trên, nhưng việc tính toán
các dòng thu thiếu cơ sở khoa học như vậy sẽ làm giảm tính chính xác của các chỉ
tiêu hiệu quả tài chính
Thứ năm, các chỉ tiêu NPV, IRR, T là các chỉ tiêu thường gặp trong các dự án
đầu tư của ngân hàng, tuy nhiên khi sử dụng chúng phải quan tâm đến giá trị thời
gian của tiền, nếu không chúng sẽ không phản ánh đầy đủ ý nghĩa. Mặt khác, cùng
với các chỉ tiêu NPV, IRR, T, ngân hàng cũng nên đưa các chỉ tiêu khác vào tính
toán như chỉ tiêu điểm hoà vốn, lợi ích- chi phí, năng lực hoà vốn… những chỉ tiêu
này sẽ bổ xung cho nhau giúp cán bộ thẩm định có một cái nhìn toàn diện hơn về dự
án
Thứ sáu, ngân hàng nên đưa ra một phương pháp tính tỷ suất chiết khấu thích
hợp. Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trên là cơ sở quan trọng để đánh giá tính khả thi
của mỗi dự án đầu tư và là căn cứ cho các quyết định tài trợ vốn của ngân hàng. Tuy
nhiên, để các chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ bản chất của chúng thì việc lựa chọn một
tỷ suất chiết khấu thích hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Một dự án có thể được
tài trợ vốn từ nhiều nguồn khác nhau, ở những thời điểm khác nhau và với mức l•i
suất khác nhau. Do đó tỷ suất chiết khấu phải phản ánh được tổng chi phí cơ hội của
tất cả các nguồn vốn đó
Hiện có nhiều phương pháp tính tỷ suất chiết khấu khác nhau, cán bộ thẩm
định nên lựa chọn áp dụng sao cho phù hợp với từng loại dự án, chứ không nên chỉ
sử dụng lãi suất ngân hàng làm lãi suất chiết khấu như hiện nay. Trong ví dụ trên,
nếu tính theo phương pháp đơn giản nhất là phương pháp bình quân gia quyền, tỷ
suất chiết khấu dùng để tính chuyển dòng tiền của dự án sẽ là :
Tại thời điểm hiện tại lãi suất cho vay của ngân hàng là 12%/năm
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm tối đa trên thị trường tiền gửi là 9,5%/năm )
Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên áp dụng mức lãi suất chiết khấu được điều
chỉnh theo các năm để phản ánh các tác động của môi trường tới dự án như lạm
phát, trượt giá…
Thứ bảy, phân tích độ nhạy chưa được quan tâm đúng mức khi xem xét các dự
án
(Bảng phân tích độ nhạy 1 chiều của dự án )
Qua bảng phân tích độ nhạy trên ta thấy trong các yếu tố tác động nhiều đến
chỉ tiêu NPV là yếu tố sản lượng và giá bán sản phẩm. Trong yếu tố sản lượng thì
các sự biến động của gạch BLOCK có tác động mạnh nhất tới NPV (sản lượng thay
đổi 1% thì NPV giảm tới 24,9%). Tiếp theo là yếu tố giá bán, trong đó sự thay đổi
giá bán sản phẩm gạch BLOCK tác động nhiều nhất tới NPV (1% thay đổi giá gạch
làm NPV giảm 23,44%). Do đó trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định cần lưu
ý tới sự thay đổi của các yếu tố sản lượng và giá bán sản phẩm trên thị trường, vì
chúng có thể tác động mạnh tới hiệu quả tài chính của dự án
* Về xác định thời hạn trả nợ, phương thức trả nợ
Cách xác định thời hạn trả nợ, mức thu nợ, cách thức thu nợ cả gốc và lãi phải
phù hợp với năng lực sản xuất của khách hàng và tiến độ thực hiện của dự án. Hiện
nay ngân hàng thường tiến hành thu đều từng kỳ hay thu luỹ thoái với mong muốn
thu công nợ càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên trong thời gian đầu các máy móc thiết
bị chạy chưa hết công suất, sản phẩm sản xuất ra ở giai đoạn thăm dò thị trường…
Do đó nếu ngân hàng yêu cầu mức trả nợ cao từ đầu sẽ làm cho dự án chưa đủ khả
năng trả, ảnh hưởng đến sản xuất
Ngân hàng không nên chia đều khoản thu gốc cho các kỳ luỹ thoái mà nên căn
cứ vào dòng tiền của dự án đồng thời tiến hành thu nợ gốc tăng dần theo thời gian,
như vậy sẽ phù hợp với quá trình vận hành kết quả đầu tư. Việc thu lãi cũng cần
được tính toán sao cho phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
tránh tình trạng các doanh nghiệp phải vay vốn ngắn hạn để trả lãi ngân hàng.
* Đối với nội dung phân tích độ an toàn của dự án thông qua phân tích rủi ro
Nội dung này cho đến nay hầu như vẫn chưa được cán bộ thẩm định đề cập
đến trong các báo cáo thẩm định của ngân hàng, đây là một khiếm khuyết rất lớn mà
ngân hàng cần sớm khắc phục. Bởi phân tích rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong công tác thẩm định dự án. Nó giúp cho cán bộ thẩm định có cái nhìn tổng
quan hơn, đầy đủ hơn và đặt dự án vào trong một sự vận động thực tế của nó, từ đó
giúp ngân hàng giảm thiểu những tổn thất có thể dự báo trước
Do vậy trong thời gian tới ngân hàng nên coi việc phân tích và quản lý rủi ro
là điều kiện cần thiết khi xem xét thẩm định dự án. Trước mắt ngân hàng có thể
nghiên cứu áp dụng ngay phương pháp phân tích độ nhạy và phân tích theo kịch
bản. Còn trong tương lai, khi ngân hàng đã có hệ cơ sở dữ liệu phong phú, các máy
tính và phần mềm hiện đại, có thể áp dụng thêm phương pháp phân tích theo kịch
bản.
Giải pháp về mặt tổ chức điều hành
Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác thẩm định dự án
của ngân hàng thời gian qua là chưa có sự chuyên môn hoá trong khâu tổ chức thẩm
định. Do đó trong thời gian tới ngân hàng cần có phòng thẩm định riêng, có nhiệm
vụ chuyên trách thẩm định các dự án trung và dài hạn, có sự độc lập với phòng tín
dụng và quản lý nợ vay. Việc tổ chức bố trí như vậy sẽ giúp cho mỗi cán bộ thẩm
định giảm bớt khối lượng công việc, tạo điều kiện cho họ chuyên tâm hơn vào công
việc, đồng thời có thời gian để trau dồi thêm nghiệp vụ cho bản thân. Ngân hàng
cũng lưu ý tuyển chọn thêm các cán bộ có kinh nghiệm về thẩm định kinh tế-kỹ
thuật dự án
Mặt khác ngân hàng nên quy định chi tiết hơn về trách nhiệm cũng như quyền
lợi của cá nhân các cán bộ thẩm định. Đồng thời cần thường xuyên rà soát, sắp xếp
lại đội ngũ cán bộ, bổ sung cán bộ còn thiếu cho các chi nhánh, thuyên chuyển các
cán bộ không đủ khả năng đi làm việc khác
Ngân hàng nên tạo lập một cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình thẩm
định giữa các bộ phận trong ngân hàng nhằm nâng hiệu quả công việc. Phòng thẩm
định cần phối hợp chặt chẽ với phòng khách hàng, phòng thu hồi nợ, phòng tài
sản…để thu thập được các thông tin chính xác về khách hàng, về dự án vay vốn.
Giải pháp về đội ngũ cán bộ
Thực tế đã cho thấy con người luôn là yếu tố trung tâm, có ảnh hưởng quyết
định đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Chính con người quyết định sự thu
thập thông tin, sử dụng các phương pháp để xử lý và đưa ra quyết định cuối cùng.
Do đó để nâng cao chất lượng thẩm định dự án thì trước tiên ngân hàng cần phải
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ về mọi mặt: nhận thức, trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm công tác, đạo đức nghề nghiệp…
* Tuyển chọn nhân sự đầu vào có chất lượng cao
Trong thời gian qua, đa số đội ngũ nhân viên được tuyển chọn vào VPbank
đều có trình độ chuyên môn tương đối cao, tuy nhiên trong thời gian tới ngân hàng
nên chú ý tiếp tục thực hiện công tác bổ sung, tuyển mới những người có năng lực
thực sự vào làm việc. Cán bộ được tuyển chọn cần có sự kết hợp hài hoà giữa năng
lực chuyên và tư cách đạo đức. Sau khi tuyển dụng, ngân hàng cần phổ biến để mỗi
cán bộ đều nắm bắt được các mục tiêu, các quy định của ngân hàng cũng như các
quy định của luật pháp có liên quan, đồng thời cần được hướng dẫn, đào tạo chuyên
sâu cho họ về công việc sẽ được giao
Ngân hàng cũng cần có các chính sách thu hút nhân tài vào làm việc lâu dài
hoặc mời làm cố vấn hoặc làm cộng tác viên cho các hoạt động của mình
* Đào tạo, trao đổi chuyên môn
Trong qua trình thẩm định dự án, cán bộ thẩm định luôn có xu hướng coi
trọng phương diện tài chính hơn các phương diện khác. Điều này phần lớn là do
những kiến thức mà họ được trang bị ở trường Đại học còn hạn chế, thông thường
họ mới chỉ biết về mặt tài chính dự án, còn việc nghiên cứu thị trường, đánh giá thị
trường, đánh giá hiệu quả dự án, các vấn đề liên quan đến kỹ thuật… thì ít được đề
cập, do đó việc họ lựa chọn phương án tài chính là căn cứ chủ yếu để thẩm định
cũng là điều có thể hiểu được.
Tuy nhiên đòi hỏi về mặt chất lượng thẩm định đã dẫn đến sự khập khiễng
giữa lý thuyết và thực tế. Bởi vì trong thực tế, quá trình thẩm định đòi hỏi mỗi cán
bộ thẩm định phải có kiến thức tổng hợp tương đối cao về: pháp luật, kinh tế, công
nghệ- kỹ thuật, thông tin thị trường, thanh toán quốc tế… do đó hoàn thiện công tác
thẩm định dự án trước hết ngân hàng cần từng bước nâng cao trình độ của các cán
bộ thẩm định
Ngân hàng nên mở các lớp đào tạo, tổ chức các buổi hội thảo, mời các
chuyên gia về nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm với các ngân hàng bạn, tìm nguồn
tài liệu cho cán bộ tham khảo… Bên cạnh khuyến khích động viên cán bộ tự trau
dồi kiến thức, ngân hàng có thể cử những nhân viên có đủ năng lực đi đào tạo ở
nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định, từ đó giúp cán bộ có điều kiện
học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ. Lưu ý là để công tác đào tạo đạt
được kết quả cao thì quá trình đào tạo này phải được diễn ra thường xuyên và có hệ
thống
* Giáo dục về nhận thức, tư cách đạo đức
VPbank cần thường xuyên giáo dục về ý thức, đạo đức và kỷ luật nghề nghiệp
cho các cán bộ của mình để họ nhận thức được vai trò và ý nghĩa to lớn của công
tác thẩm định dự án, đồng thời có ý thức tự giác, trung thực và tinh thần trách nhiệm
cao hơn
Ngân hàng cũng nên có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với nhân viên, kịp thời
khen thưởng về vật chất lẫn tinh thần đối với các cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ,
đồng thời phát hiện ra những biểu hiện sa sút về đạo đức để kịp thời uốn nắn. Xử lý
nghiêm minh đối với các cán bộ có hành vi tiêu cực, vô tình hay cố ý làm trái các
quy định chung dẫn đến những thiệt hại cho ngân hàng…
Việc làm tốt công tác thẩm định không chỉ phụ thuộc vào bản thân mỗi cán bộ
thẩm định mà còn phải có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của ngân hàng. Do
vậy ngân hàng cũng phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát, lựa chọn và đào
tạo các cán bộ thanh tra có năng lực, có phẩm chất tốt và có chuyên môn nghiệp vụ
vững vàng.
Giải pháp về thông tin
Thông tin là căn cứ quan trọng để thẩm định dự án, do đó nâng cao chất lượng
công tác thu thập và xử lý thông tin sẽ góp phần hoàn thiện nghiệp vụ thẩm định.
Nguồn thông tin càng chính xác và phong phú thì kết quả thẩm định càng có độ
chính xác cao. Do đó VPBank một mặt cần gia tăng các nguồn cung cấp thông tin,
mặt khác cần tìm cách thu thập và xử lý thông tin một cách có hiệu quả
Đối với những thông tin liên quan dự án của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định
không chỉ căn cứ vào các tài liệu khách hàng gửi đến, mà phải trực tiếp phỏng vấn
người đại diện giao dịch của doanh nghiệp để chất vấn các thông tin không chính
xác. Đồng thời kết hợp với việc tham quan khảo sát cơ sở sản xuất, văn phòng, nhà
xưởng nhằm điều tra năng lực sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Cán bộ thẩm
định có thể tham khảo các thông tin từ bạn hàng, đối tác, các nhà cung cấp của
doanh nghiệp để đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thanh toán
cũng như khả năng cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra của dự án. Ngoài ra các
nguồn thông tin cần thiết có thể được thu thập từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc
NHNN, từ các tổ chức tín dụng mà ngân hàng có quan hệ, từ các cơ quan quản lý
kinh tế, các chuyên gia kinh tế kỹ thuật, các thông tin đa dạng từ sách báo, tài liệu
chuyên ngành có liên quan …
Tuy nhiên việc thu thập các nguồn thông tin trên nhiều khi khá khó khăn do
phạm vi thu thập rộng, đòi hỏi tốn kém về thời gian và chi phí, các kênh cung cấp
thông tin không đầy đủ và khó tiếp cận, trong khi cán bộ thẩm định bị giới hạn về
thời gian. Do đó các cán bộ thẩm định cần lưu ý thường xuyên thu thập và lưu trữ
thông tin một cách khoa học. Cán bộ thẩm định cần cập nhật các quy định của nhà
nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư ( như : quy chế đấu thầu, quy định về tổng dự
toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản, về chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh
nghiệp…), các thông tin về thị trường giá cả… Đồng thời tiến hành lưu trữ toàn bộ
các thông tin vào máy tính để dễ dàng quản lý thay vì lưu trữ dưới dạng văn bản
như hiện nay
Mặt khác, để hoàn thiện hệ thống thu thập và xử lý thông tin nhằm phục vụ
cho công tác thẩm định có hiệu quả hơn, ngân hàng nên thiết lập một trung tâm
thông tin riêng. Trung tâm này có nhiệm vụ chuyên nghiên cứu thu thập, lưu trữ và
cung cấp thông tin cho phòng thẩm định, hỗ trợ cho các cán bộ thẩm định trong việc
tìm kiếm các thông tin cần thiết, giảm bớt thời gian ra quyết định. Ngân hàng cũng
cần sớm xây dựng một hệ cơ sở dữ liệu riêng cho mình.
Giải pháp về trang thiết bị
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế hiện đại nói chung và đòi
hỏi của ngành ngân hàng nói riêng, VPBank cần tăng cường đầu tư đổi mới trang
thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định sao cho mỗi cán bộ đều được trang bị một
máy vi tính và toàn bộ hệ thống được nối mạng LAN cũng như mạng ADSL…
Có thể nói thẩm định dự án là một công việc khá phức tạp, khối lượng công
việc lớn đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của cán bộ thẩm định. Bởi vậy việc ứng
dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong công tác thẩm định là rất cần
thiết, có thể giúp cho mỗi cán bộ thẩm định tiết kiệm được nhiều thời gian và sức
lực. Do đó trong tương lai ngân hàng cần đẩy mạnh ứng dụng các phần mềm trong
phân tích, dự báo như Crustal Ball kết hợp với Excell hoặc đặt thiết kế một chương
trình hỗ trợ nghiệp vụ thẩm định từ các công ty trong và ngoài nước.
Các giải pháp khác
Ngân hàng nên lập ra quỹ thẩm định, bởi thẩm định dự án là một công việc
phức tạp, không phải một sớm một chiều mà giải quyết được. Để công tác thẩm
định đạt được hiệu quả cao, ngân hàng phải tổ chức gặp gỡ khách hàng, thường
xuyên xuống cơ sở để kiểm tra. Thẩm định không chỉ khống chế ở một số giai đoạn
kiểm tra trước mà cả trong và sau cho vay. Như vậy quá trình này diễn ra liên tục,
gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ thực tế này,
VPbank nên có một quỹ thẩm định riêng nhằm giảm bớt những khó khăn về chi phí
cho các cán bộ thẩm định, đồng thời nó cũng góp phần đào tạo cán bộ, tăng cường
trang bị cơ sở vật chất, ứng dụng tin học… trong quá trình thẩm định.
2.3. Một số kiến nghị
2.3.1.Với nhà nước và các Bộ ngành có liên quan
Thứ nhất Nhà nước cần công bố rộng rãi quy hoạch tổng thể về phát triển kinh
tế xã hội theo ngành, vùng lãnh thổ và theo từng thời kỳ. Quy hoạch này sẽ giúp cho
các ngân hàng thương mại có cơ sở để bố trí kế hoạch tín dụng để vừa đảm bảo
được nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, vừa
đảm bảo về mặt lợi ích cho các ngân hàng
Thứ hai nhà nước cần không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơ chế
chính sách
Nhà nước cần đưa ra các chính sách phát triển kinh tế hợp lý, tránh những đột
biến xuất hiện làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín
dụng nói chung và các ngân hàng nói riêng, gây thiệt hại cho ngân hàng, chủ đầu tư
và toàn thể nền kinh tế
Hoàn thiện hệ thống pháp luật cho hoạt động của ngân hàng nói chung và quy
chế thẩm định dự án đầu tư nói riêng. Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế
chính sách và hệ thống các văn bản pháp chế nhằm có đủ các điều kiện cần thiết cho
việc thực hiện luật ngân hàng, đảm bảo cho các ngân hàng hoạt động hiệu quả, năng
động và an toàn
Chính phủ cũng cần sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế, điều chỉnh một số
vấn đề liên quan đến hoạt động tíndụng ngân hàng và những vấn đề phát sinh do
chưa có quy định cụ thể
Chính phủ cũng cần có văn bản hướng dẫn cụ thể trách nhiệm của các bên
vớikết quả thẩm định trong nội dung dự án, quy định từng bước về từng bước mở
rộng quyền và trách nhiệm thẩm định đối với những đối tượng thường xuyên liên
quan đến lập và thẩm định dự án như Ngân hàng, Bộ thương mại, Bộ Kế hoạch đầu
tư…
Thứ ba nhà nước cần có quy định buộc các doanh nghiệp phải thực hiện
nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán, tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc
kiểm tra, giám sát tình hình của doanh nghiệp, qua đó có thể phòng ngừa rủi ro. Mặt
khác cần đẩy mạnh hoạt động của kiểm toán nhà nước và kiểm tóan độc lập trong
nền kinh tế, đặc biệt là kiểm toán độc lập vì đây là nơi cung cấp thông tin cho công
tác thẩm định tương đối chính xác. Để nâng cao hoạt động của kiểm toán trước hết
cần có sự thống nhất giữa các công ty kiểm toán Việt Nam, tiêu chuẩn hoá các
chuẩn mực kiểm toán sao cho phù hợp với những chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt quốc
hội nên có quy định các báo cáo tài chính phải được xác nhận bởi của cơ quan kiểm
toán
Thứ tư nhà nước cần đẩy mạnh các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và thực
sự cần thiết, tạo điều kiện cho đầu tư có trọng điểm và đem lại hiệu quả cao. Cần
đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá cá doanh nghiệp Nhà nước để nâng cao tính trách
nhiệm, tự chủ và chất lượng quản lý các doanh nghiệp Nhà nước
Thứ năm các Bộ chủ quản như Bộ công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, tổng
cục thống kê…cần phối hợp trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án. Bên cạnh
đó, các Bộ cần hệ thống hoá thông tin liên quan đến lĩnh vực mà mình quản lý,
đồng thời hàng năm công bố công khai các thông tin này để các ngân hàng thương
mại cũng như chủ đầu tư dễ dàng thu thập thông tin
2.3.2. Với ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại khác
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và đặc biệt trước
sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Để đẩy mạnh việc sắp xếp, kiện và củng cố
lại các ngân hàng này theo hướng phát triển, an toàn và ổn định thì vai trò chủ đạo
của ngân hàng nhà nước là rất cần thiết. Do đó ngân hàng nhà nước cần có những
chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động của các ngân hàng nói chung và nâng
cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư nói riêng
Ngân hàng nhà nước cần ban hành nội dung quy trình thẩm định dự án thống
nhất trên cơ sở thẩm định dự án của các cơ quan khoa học, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ
xây dựng, Bộ khoa học môi trường, của các ngân hàn sao cho phù hợp với điều kiện
nước ta, đồng thời hoà nhập với thông lệ quốc tế
Ngân hàng nhà nước cần tăng cường hỗ trợ về chuyên môn nghiệp vụ cho các
ngân hàng bằng cách tổ chức các lớp huấn luyện đào tạo nghiệp vụ cho các cán bộ
ngành, cần chú trọng kỹ năng thực hành bằng phầm mềm thẩm định trên máy tính
với các ví dụ thực tiễn. Hàng năm Ngân hàng nhà nước nên tổ chức các hội nghị
tổng kết đầu tư của các ngân hàng thương mại vào từng lĩnh vực, ngành nghề của
nền kinh tế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và góp phần định hướng đầu tư trong
thời gian tới
Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro và trung tâm tín
dụng ngân hàng để cung cấp các nguồn thông tin hữu ích, đồng thời đảm bảo an
toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng nhà nước nên mở rộng
phạm vi cung cấp thông tin của trung tâm tín dụng (CIC), đồng thời cung cấp thêm
các thông tin kinh tế- kỹ thuật có liên quan cho công tác thẩm định
Công tác thanh tra giám sát cần được đẩy mạnh nhằm kịp thời phát hiện những sai
sót trong công tác tín dụng nhất là công tác thẩm định để hạn chế những rủi ro
Ngoài ra các ngân hàng thương mại cũng cần tăng cường sự hợp tác trong việc
thu thập và xử lý thông tin, trao đổi kinh nghiệm để phục vụ cho công tác thẩm định
dự án. Bởi vì mỗi ngân hàng đều có những thế mạnh riêng nên sự hợp tác này rất có
ý nghĩa, nhất là đối với các dự án đồng tài trợ.
2.3.3.Kiến nghị với chủ đầu tư
Để tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc thẩm định dự án, trước hết
các doanh nghiệp nên chọn lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh phù hợp với khả năng
tài chính và năng lực quản lý của mình
Các dự án đầu tư xin vay vốn cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tính hợp
pháp, phù hợp với quy hoạch phát triển của từng ngành từng vùng để ngân hàng
không phải mất thời gian và chi phí để thẩm định những dự án không được phép
hoạt độn. Khi xem xét để đi đến quyết định đầu tư cần nghiên cứu kỹ về các khía
cạnh thị trường, kỹ thuật, tài chính… Các chủ đầu tư cần nhận thức đúng vai trò của
công tác thẩm định dự án trước khi ra quyết định đầu tư để có những dự án thực sự
có hiệu quả, tránh coi việc lập dự án chỉ là hình thức để xin vay
Các luận chứng kinh tế kỹ thuật, các báo cáo tài chính và hồ sơ tài liệu có liên
quan được gửi lên ngân hàng cần đảm bảo tính trung thực, chính xác để kết quả
thẩm định được chính xác. Muốn vậy các chủ đầu tư cần có sự hợp tác cao với ngân
hàng. Các chủ doanh nghiệp cần biết rằng, khi công tác thẩm định được tiến hành
tốt, ngân hàng ra được những quyết định đúng đắn thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
công cuộc đầu tư của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo khả năng thu hồi vốn của
ngân hàng. Như vậy cả ngân hàng và doanh nghiệp đều có lợi.
2.3.1. Với VPBank
Thường xuyên điều các đoàn kiểm tra giám sát hỗ trợ hoạt động thẩm định tại
ngân hàng, cử các cán bộ thẩm định có kinh nghiệm và lâu năm, các chuyên gia
thuộc trung tâm đào tạo của VPBank đến tham tán và đóng góp xây dựng ý kiến cho
công tác thẩm định tại ngân hàng. Mặt khác ngân hàng cũng cần có chính sách khen
thưởng đãi ngộ xứng đáng với các cán bộ thẩm định
Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần tích cực tổ chức các hội nghị tổng kết kinh
nghiệm thẩm định, các hội thi cán bộ thẩm định giỏi nghiệp vụ toàn ngân hàng
nhằm tăng cường sự hiểu biết và phối hợp giữa các chi nhánh và các đơn vị trực
thuộc
Ngân hàng không nên ngồi một chỗ mà nên chủ động tìm kiếm các dự án đầu
tư có hiệu quả để cho vay, chủ động tiếp cận tìm hiểu nhu cầu đầu tư của doanh
nghiệp, từ đó tư vấn cho doanh nghiệp có phương hướng đầu tư có hiệu quả căn cứ
vào định hướng của nhà nước và kế hoạch cho vay của ngân hàng. Ngân hàng cũng
thẩm định luôn tư cách pháp lý và tình hình tài chính doanh nghiệp. Việc cải tiến
như vậy sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả ngân hàng và doanh nghiệp trong
việc thẩm định
Kết luận
Công tác thẩm định dự án đầu tư đóng vai trò rất quan trọng. Nó tạo tiền đề
cho các quyết định đầu tư hay cho vay chính xác và có hiệu quả. Việc thẩm định dự
án đầu tư cần được thực hiện một cách nghiêm túc để hạn chế các rủi ro có thể xảy
ra khi thực hiện dự án và đem lại những dự án có hiệu quả cho xã hội .
Qua thời gian tìm hiểu thực trạng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, em đã hoàn thành xong chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Song do khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế nên trong nội dung phân tích, cũng
như các kiến nghị, giải pháp còn nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong được các thầy
cô và các bạn đóng góp ý kiến để Chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị ái Liên - Giáo viên hướng
dẫn trực tiếp và tập thể các cán bộ của Ngân hàng VPBANK đã giúp đỡ tận tình em
trong quá trình thực tập và để em hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình "Lập và Quản lý dự án đầu tư" -NXB Thống kê Hà Nội
2. Giáo trình "Kinh tế đầu tư" - NXB Thống kê Hà Nội
3. Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án "Đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất Đá xẻ và
đá Granite"
4. Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ ban hành "Quy chế
quản lý đầu tư và xây dựng" và Nghị định 07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003 về sửa
đổi bổ sung một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng
5. Báo cáo thường niên của Ngân hàng VPBANK
6. Luận văn tốt nghiệp của bộ môn Kinh tế đầu tư
7. Phương pháp phân tích dự án đầu tư - NXB Quốc gia
8. Giáo trình Ngân hàng thương mại - Đại học KTQD
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Ngân hàng dầu khí và giải pháp cho phòng tránh rủi ro do sai sót trong thẩm định tài chính.pdf