Hoạt động tuyên truyền của ngân hàng phải thực tế phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế của đất nước và khả năng nhận thức của người dân. Trong công
tác tuyên truyền ngân hàng thương mại không nên thực hiện quảng cáo tràn lan như
thời gian qua, vừa tốn tiền vừa kém hiệu quả mà nên tập trung vào một số dịch vụ
như lãi suất tiền gửi, những quyền lợi thiết thực của người gửi tiền, tiện ích của việc
sử dụng tài khoản cá nhân và thanh toán không dùng tiền mặt, việc phục vụ khách
hàng của ngân hàng.thường xuyên cung cấp các thông tin về khả năng tài chính
của ngân hàng, các báo cáo kiểm toán của ngân hàng qua các phương tiện thông tin
đại chúng để người có điều kiện tìm hiểu về năng lực tài chính và kết quả kinh
doanh của ngân hàng cũng như các dịch vụ hiện tại ngân hàng đang áp dụng.
58 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2360 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ngân hàng Thương mại và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiến hành kiểm tra 8 hợp đồng kinh tế và 8 hợp đồng dân sự.
Qua kiểm tra nhìn chung các nghiệp vụ chấp hành tốt các quy chế đề ra.
Tuy nhiên còn một số sai sót đã được nhắc nhở và kiến nghị sửa chữa ngay.
1.2.2.8. Các mặt công tác khác:
Đạt được kết quả trong hoạt động kinh doanh dịch vụ tiền tệ còn có sự đóp
góp đáng kể của các mặt công tác khác như: công tác tổ chức hành chính cho phù
hợp với nhu cầu các phòng ban, công tác thi đua, khen thưởng, hoạt động các tổ
chức đoàn thể.
- Công tác tổ chức cán bộ: Bố trí sắp xếp CBCNV, có kế hoạch thi tuyển
cán bộ năm 2000. Phối kết hợp với phòng kế toán thực hiện chế độ trả lương theo
hệ số lương kinh doanh của NHCT Việt Nam, chế độ BHXH, BHYT, quyền lợi
nghỉ chế độ, ốm đau theo chế độ Nhà nước. Đã tổ chức được nhiều lớp nghiệp vụ
như: tín dụng, kho quỹ...
- Công tác thi đua: hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước năm 2000 đã
đề ra các đợt thi đua. Từng phong trào thi đua ngắn ngày có nhiều hình thức hoạt
động có sơ kết khen thưởng kịp thời động viên phong trào. Thực hiện việc khen
thưởng theo định kỳ và đột xuất. Thực hiện quyết định tặng thưởng Huy chương vì
sự nghiệp ngân hàng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chi nhánh
Ngân hàng Công thương Đống Đa đã xét đề nghị được 48 trường hợp trong đó:
đương chức 27, cán bộ đã nghỉ hưu 44, cán bộ đã mất 7 trường hợp.
- Công tác hành chính quản trị: tổ chức phục vụ tốt các cuộc hội nghị của
chi nhánh, sửa chữa phòng giao dịch Cát Linh, nhà làm việc cho Quỹ tiết kiệm 43,
sửa chữa một số quỹ tiết kiệm của chi nhánh, mua sắm trang thiết bị các nhu cầu
cần thiết. Vận chuyển tiền đến các quỹ tiết kiệm an toàn. Thực hiện tốt lịch trực bảo
vệ chuyên trách và lực lượng tăng cường vào các ngày nghỉ, ngày lễ tế, đảm bảo an
toàn tài sản. Tổ chức học tập và thực hành công tác phòng cháy chữa cháy, có đội
xung kích làm nòng cốt. Đảm bảo vệ sinh an toàn trong cơ quan, phòng chống dịch
bệnh và tổ chức khám sức khoẻ cho CBCNV trong cơ quan.
- Đã tổ chức thành công Đại hội Đảng ở các chi bộ và Đảng bộ cơ sửo, đã
tổ chức Đại hội công đoàn nhiệm kỳ 2000 - 2003 và Đại hội CNVC năm 2000 bầu
ban thanh tra công nhân, trong năm đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử
Đảng, cuộc thi tìm hiểu về Bộ luật hình sự do công đoàn ngành phát động, có 2 bài
dự thi đạt giải thưởng, cuộc thi viết về gương người tốt việc tốt của Ngân hàng công
thương Việt Nam, kết quả đã có 15 bài gửi đi dự thi đợt 1.
- Các hoạt động phong trào có sự kết hợp giữa chính quyền, công đoàn và
đoàn thanh niên như: tổ chức hội thi kiểm ngân giỏi, hội thi 3 môn: cầu lông, bóng
bàn, kéo co. Tham gia hội diễn văn nghệ toàn hệ thống đạt giải 2 toàn khu vực. Tổ
chức gặp mặt và tặng quà cho các cháu thiếu nhi nhân ngày 1/6 và tết Trung thu
nhằm động viên các cháu chăm ngoan, học giỏi, gặp mặt các gia đình thương binh
liệt sỹ, quan tâm phụng dưỡng 2 bà mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ đồng bào bão
lụt ĐBSCL và ủng hộ xây dựng nhà tình nghĩa với tổng số tiền là 37.284.000đ, ủng
hộ quỹ vì trẻ thơ 1,2 triệu đồng, tặng 10 xuất học bổng cho học sinh nghèo vựơt khó
của quận.
- Với những thành tích trên, những năm qua chi nhánh Ngân hàng Công
thương Đống Đa đã được tặng thưởng các danh hiệu:
- Đảng bộ trong sạch vững mạnh 12 năm liên tục
- Công đoàn đạt danh hiệu đơn vị xuất sắc, được Tổng liên đoàn lao động
tặng cờ và bằng khen.
- Thanh niên được Trung ương đoàn tặng bằng khen.
- Phụ nữ đạt danh hiệu phụ nữ 2 giỏi.
- Tự vệ dạt danh hiệu là đơn vị quyết thắng 10 năm liền, được báo cáo
điển hình tại Đại hội thi đua quyết thắng Quân khu Thủ đô.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong năm 2000 chi nhánh còn tồn tại
một số thiếu sót cần có biện pháp khắc phục
- Nợ quá hạn và các khoản nợ khó đòi có tài sản thế chấp chờ xử lý, liên
quan đến vụ án có giảm so với cuối năm trước nhưng vẫn ở mức cao, cần có biện
pháp tiếp tục thu hồi.
- Lãi treo còn tồn đọng chủ yếu thuộc kinh tế ngoài quốc doanh chậm thu
hồi.
- Tỷ lệ sử dụng vốn chưa cao mới sử dụng hết 55% nguồn vốn vào đầu tư
cho vay.
2. Tình hình thực tế của co huy động vốn tại Ngân hàng Công thương
Đống Đa
2.1. Công tác huy động vốn từ tiết kiệm và tiền gửi dân cư:
Với mạng lưới huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư được mở rộng, có
14 quỹ tiết kiệm trên địa bàn phân bố tại các nơi đông dân cư, hoạt động thu chi đầy
đủ, kịp thời chính xác. Trong năm qua tổng số tiền gửi tiết kiệm của dân cư đạt
1200 tỷ, bằng 104% so với cuối năm 1999 tăng 47 tỷ, chiểm tỷ trọng 65% tổng
nguồn vốn, nguồn vốn này hàng năm đều tăng lên điều này chứng tỏ công tác thu
hút nguồn tiền quỹ dân cư của Ngân hàng Công thương Đống Đa ngày càng hoàn
thiện.
Cơ cấu tiền gửi tiết kiệm của Ngân hàng Công thương Đống Đa bao gồm
không kỳ hạn và có kỳ hạn, nguồn tiền quỹ tiết kiệm có kỳ hạn chiếm tỷ trọng
98,3% trong tổng số tiền gửi tiết kiệm. Với ưu điểm là thời hạn được ấn định do đó
giúp ngân hàng hoàn toàn chủ động để cho vay và đầu tư, bên cạnh đó giúp Ngân
hàng kế hoạch hoá các chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới. Đối
với các nhà quản trị điều này giúp họ dễ dàng lập kế hoạch cân bằng các nguồn lưu
kim., đảm bảo hoạt động thu chi của ngân hàng luôn nằm trong tầm kiểm soát từ đó
hạn chế các tình trạng thiêú vốn thanh toán tức thời.
Tuy nhiên với các ưu điểm trên thì loại tiền gửi này có nhược điểm là chi
phí nguồn rất lớn (lãi suất huy động áp dụng cho loại này là 0.6 %) với tỷ trọng
98,3% trong tổng số tiền gửi tiết kiệm, vì thế chi phí nguồn vốn của Ngân hàng
Công thương Đống Đa cũng cao, sở dĩ tỷ trọng nguồn tiền gửi có kỳ hạn cao là vì
các nguyên nhân sau:
- Tình hình lạm pháp của nền kinh tế nước ta ít biến động
- Đa số các hộ dân cư gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi.
Vì chi phí cho nguồn này cao nhất trong tất cả các nguồn huy động khác
do đó đòi hỏi Ngân hàng phải có kế hoạch sử dụng nguồn vốn này một cách tối ưu
đảm bảo lãi suất cạnh tranh đầu ra và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Nguồn tiền quỹ tiết kiệm không kỳ hạn của Ngân hàng chiếm tỷ trọng khá
khiêm tốn 1,7% trong tổng số tiền tiền gửi dân cư. Nguồn vốn này Ngân hàng phải
thực hiện chi trả bất kỳ lúc nào khi có yêu cầu của khách hàng do đó xét về khía
cạnh quản lý, quản trị thì không tốt lắm, nhưng đứng trên góc độ quản lý chi phí
nguồn huy động thì loại này đem lại lợi nhuận cao vì chi phí thấp. Loại vốn huy
động tiết kiệm không kỳ hạn không được dân chúng ưa thích cho lắm vì tính ổn
định của lãi và tính kinh tế không lợi thế bằng tiết kiệm có kỳ hạn do vậy nguồn huy
động này đã giảm 0,75% so với năm 1998.
Nhìn chung với tỷ lượng 65% trong tổng số nguồn vốn huy động thì có thể
nói Ngân hàng Công thương Đống Đa có lợi thế vì tiền gửi của dân cư do vậy Ngân
hàng cần mở rộng và khai thác triệt để khả năng tiềm tàng của địa bàn quận Đống
Đa.
Tình hình huy động từ tiết kiệm của Ngân hàng Công thương Đống Đa:
Đạt được kết quả trên đây là do:
Hoạt động của 14 quỹ tiết kiệm của Ngân hàng đã đáp ứng các yêu cầu
của khách hàng, phục vụ chu đáo ân cần của các nhân viên ngân hàng.
Để nguồn vốn huy động này cao hơn nữa, Ngân hàng cần áp dụng hệ
thống máy vi tính vào các quỹ tiết kiệm đảm bảo nhanh gọn và chính xác cao hơn
trong công tác nhận tiền gửi và trả tiền gửi cho khách hàng.
Từ số liệu này cũng cho chúng ta thấy tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của dân
cư cũng đa số là ngắn hạn vì:
- Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận tiền để dành tích luỹ cho nhu cầu chi tiêu
trong tương lai gần.
- Dân vẫn có tâm lý e ngại tiền gửi dài hạn vì sợ rủi ro lãi xuất, lạm phát.
Số dân gửi tiền dài hạn chủ yếu là những người có số vốn lớn, thu nhập cao, họ
không phải tính đến thu nhập hàng ngày.
- Do tài khoản tiền gửi có tính lỏng thấp nên dân e ngại.
- Chưa có chính sách bảo vệ khách hàng.
0
200
400
600
800
1000
1200
1997 1998 1999 2000
Có thể nói tiền gửi tiết kiệm có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn
của Ngân hàng. Đó là nguồn vốn dồi dào và còn ẩn chứa trong dân cư. Chủ yếu nó
được gửi vào Ngân hàng với thời hạn ngắn để đảm bảo an toàn nên cũng gây ra rất
nhiều khó khăn trong công tác đầu tư tín dụng của Ngân hàng. Do vậy, việc tạo
được niềm tin đối với khách hàng sẽ làm cho khách hàng sử dụng những thời hạn
tiền gửi dài hơn và từ đó tạo thuận lợi cho đầu tư tín dụng trung và dài hạn của
Ngân hàng.
Theo quy định tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của khách hàng được theo
dõi trên quyển sổ, gọi là sổ tiết kiệm, sổ do khách hàng giữ, Ngân hàng giữ phiếu
lưu.
Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, mỗi lần gửi được theo dõi trên một
sổ riêng. Ngân hàng xem mỗi thẻ tiết kiệm như một tài khoản phân tích. Như vậy
nếu một người gửi tiền tiết kiệm nhiều lần nhưng cùng kỳ hạn có tài khoản phân
tích, ở phương diện khách hàng thì không có gì rắc rối song ở phương diện Ngân
hàng thì ta thấy có sự trùng lặp trong ghi chép số liệu lưu trữ, bảo quản, theo dõi sổ
sách kế toán, gây khó khăn cho cán bộ quỹ tiết kiệm. Do đó cần có biện pháp để
đơn giản hoá công việc của cán bộ công nhân viên Ngân hàng trong hạch toán gửi
tiền tiết kiệm.
Thực tế cho thấy, số lượng người gửi tiền tiết kiệm tại Ngân hàng Công
thương Đống Đa còn thấp so với số dân cư trên địa bàn. Nguyên nhân do thu nhập
chưa cao chỉ là một vấn đề, mà còn do sự e ngại, giao dịch với Ngân hàng của
khách hàng. Thủ tục mở tài khoản tiền gửi về lý thuyết rất đơn giản, chỉ cần có một
CMND kèm theo 1 phiếu gửi tiền và nộp tiền vào Ngân hàng. Song thực tế thủ tục
ấy làm cho khách hàng rất mệt mỏi, do phải chờ đợi vào sổ, kiểm đếm và họ còn
mệt mỏi hơn khi rút tiền của mình. Cũng cần có CMND, phiếu lĩnh tiền song khá
tốn thời gian. Có những khách hàng lần đầu tiên giao dịch với Ngân hàng nhưng sự
hướng dẫn giúp đỡ khách hàng còn rất hạn chế do đó không tránh khỏi sự e ngại.
Một vấn đề nữa trong việc chờ đợi xếp hàng như thời bao cấo do số người tút tiền
quá động tại một quỹ tiết kiệm, gây tâm lý khó chịu cho khách hàng. Mặc dù chi
nhánh đã cố gắng rút ngắn tâm khó chịu cho khách hàng và rút ngắn thời gian giao
dịch với khách hàng song sự chờ đợi vẫn là điều tồn tại. Một nguyên nhân khác là
do khách hàng gửi ở đâu thì rút ở đó nên có một số quỹ tiết kiệm có số dân tập trung
quá đông.
Số dư trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm tăng chứng tỏ chi nhánh rất nỗ lực
trong công tác huy động vốn, song để đẩy mạnh được nguồn vốn huy động, thực
hiện đúng chủ trương vốn trong nước là quan trọng, Ngân hàng Công thương Đống
Đa cần có những giải pháp để giải quyết những tồn tại.
2.2. Công tác huy động tiền gửi của tổ chức kinh tế:
Trong năm 2000 nguồn vốn của chi nhánh không ngừng tăng trưởng đáng
kể từ tiền gửi của một số doanh nghiệp mới mở tài khoản có hoạt động lớn, tiền gửi
doanh nghiệp tăng lên 14% so với năm trước chiếm tỷ trọng 35% tổng nguồn vốn
(năm 1999 tỷ lệ này là 22%) do vậy đã có sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn có lợi
thế cho hoạt động kinh doanh.
Tình hình huy động vốn từ tổ chức kinh tế
Có thể nói mối quan hệ Ngân hàng và các tổ chức kinh tế chủ yếu là quan
hệ thanh toán, vay vốn đầu tư...việc mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng có ý nghĩa
thực tế đối với doanh nghiệp, nó giúp cho quan hệ thanh toán qua lại giữa các doanh
nghiệp được thực hiện nhanh chóng. Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại
Ngân hàng là nguồn kinh doanh đem lại lợi nhuận cao cho Ngân hàng. Mục đích
180
350
245
650
0
100
200
300
400
500
600
700
1997 1998 1999 2000
của khách hàng khi gửi tiền này là thanh toán, hưởng các dịch vụ của Ngân hàng
đem lại, lãi chỉ là thứ yếu do đó đặc điểm loại vốn này là rẻ, khả năng khai thác chỉ
phụ thuộc vào Ngân hàng vì các doanh nghiệp luôn luôn muốn giao dịch với một
hay nhiều ngân hàng nào đó. Nhưng lại khó khăn trong hoạt động sử dụng vì tiền
gửi của doanh nghiệp nhằm mục đích thanh toán và ngân hàng phải đáp ứng mỗi
khi có hoạt động chi trả (ngoại trừ số dư tài khoản đã hết). Trên địa bàn quận Đống
Đa không có nhiều nhà máy, công ty vì thế khách hàng của Ngân hàng Công
thương Đống Đa cũng bị đặc điểm này chi phối, công nghệ ngân hàng cũng là một
lý do quan trọng để khách hàng là doanh nghiệp quan hệ với ngân hàng, các ngân
hàng có công nghệ hiện đại thoả mãn các yêu cầu của doanh nghiệp một cách nhanh
chóng, kịp thời chính xác sẽ là sự lựa chọn đầu tiên của khách hàng. Mặc dù Ngân
hàng Công thương Đống Đa đã trang bị các công nghệ hiện đại, không ngừng đổi
mới trang thiết bị song mới chỉ như các ngân hàng cùng hệ thống nên ưu thế về
công nghệ vẫn chưa được xem như là một yếu tố cạnh tranh của Ngân hàng Công
thương Đống Đa.
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế gồm 2 loại tiền gửi có kỳ hạn và không có
kỳ hạn, trong đó tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn là chủ yếu, nguồn tiền gửi có kỳ hạn
tăng nhưng không đáng kể. Đây là xu hướng chung của các doanh nghiệp không để
đồng vốn nằm im tại chỗ, không sinh lời mà đảm bảo vừa sinh lời vừa có thế năng
của đồng vốn. Đối với ngân hàng nói chung thì nguồn vốn này có ý nghĩa lớn vì lãi
suất áp dụng cho loại này rất thấp (0,2%) nên chênh lệch lãi suất đầu ra và đầu vào
lớn từ đó kết quả kinh doanh cao hơn. Tuy nhiên nguồn này có nhược điểm là luôn
biến động nên không thể mở rộng tín dụng trung và dài hạn được.
Từ năm 1997 đến nay, nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng lên
đáng kể. Năm 1997 là 180 tỷ chiếm 18.9 % tổng nguồn vốn; năm 1998 tăng 350 tỷ
chiếm 25.5 %; năm 1999 giảm xuống còn 245 tỷ chiếm 17.2 %. Năm 2000 tăng 650
tỷ chiếm 35 %. Do vậy năm 2000 nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế rất mạnh,
gấp 2.7 lần so với năm 1999 tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối.
Theo sự quan sát từ nhiều năm, nguồn này thường tăng mạnh vào thời
điểm cuối năm, nó phụ thuộc vào các tổ chức kinh tế, tình hình sản xuất, tình hình
chu chuyển vốn của doanh nghiệp, lãi suất tín dụng...xem xét nguồn tiền gửi tổ chức
kinh tế ta thấy quý I, quý II nguồn tiền này giảm do các doanh nghiệp, đơn vị sản
xuất chuẩn bị dự trữ vật tư hàng hoá cho sản xuất, đến quý III, quý IV nguồn này
tăng lên rất mạnh do các doanh nghiệp bán hàng hoá, thu hồi các khoản phải thu.
Mặc dù nguồn tiền này không cho ngân hàng tính ổn định song lại là
nguồn vốn rẻ nhất, Ngân hàng chỉ phải trả 1 lãi rất nhỏ cho việc nắm giữ nó. Vì thế
Ngân hàng Công thương Đống Đa đang áp dụng nhiều biện pháp nhằm huy động
ngày càng nhiều nguồn tiền này. Các biện pháp như: khách hàng không phải trả lệ
phí cho dịch vụ thanh toán, nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế có xu hướng
ngày càng tăng lên khi nền kinh tế ổn đinh và phát triển nếu ngân hàng thực hiện
việc huy động vốn thu nhu cầu sản xuất thì đây là nguồn đầu tiên ngân hàng quan
tâm. Bộ phận này có tính chất như một đảm bảo cho khả năng cung ứng vốn của
ngân hàng, mặt khác ngân hàng trả lãi cho nguồn này thấp hơn nguồn tiết kiệm. Vì
vậy nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế đang là mối quan tâm hàng đầu của ngân
hàng, là 1 nhân tố quan trọng trong công tác huy động vốn hiện nay. Trong năm tới
Ngân hàng Công thương Đống Đa sẽ tiếp tục đẩy mạnh biện pháp khai thác nguồn
này để phục vụ cho kinh doanh tốt hơn.
2.3. Tình hình huy động bằng kỳ phiếu, trái phiếu.
Năm 2000, Ngân hàng Công thương Đống Đa không phát hành trái phiếu
để huy động, trong kết cấu tổng vốn huy động của ngân hàng thì tỷ trọng hình thức
này rất thấp và thường không ổn định qua các năm. Việc phát hành các giấy tờ có
giá, trên bề mặt có các yếu tố như thời hạn hoàn trả, lãi suất, mệnh giá...được gọi là
hình thức huy động vốn chủ động, đối với nguồn vốn tiền gửi thì không thể ấn định
giới hạn tối đa huy động vì nó thuộc về nhân tố khách quan còn nguồn này ngân
hàng hoàn toàn có thể tính toán được, chẳng hạn muốn huy động 100 tỷ thì ngân
hàng phải phát hành số trái phiếu bằng 100tỷ/mệnh giá, nếu mệnh giá mỗi trái phiếu
là 100.000đ thì số trái phiếu là 100tỷ/100.000 = 1triệu trái phiếu.
Hiện nay TTCK Việt Nam đã ra đời và đi vào hoạt động, sẽ tạo điều kiện
thuân lợi cho việc phát hành các trái phiếu – hàng hoá của TTCK
Mặt khác, trong cơ chế quản lý của Việt Nam hiện nay thì việc huy động
vốn thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu không tự do một ngân hàng chi nhánh
phát hành, mà nó phụ thuộc vào định hướng của NHCT Việt Nam, hơn nữa hình
thức huy động vốn này có đặc điểm là lãi suất cao, thời hạn dài do vậy chỉ khi nào
các dự án dài hạn mà thiếu người đầu tư thì ngân hàng mới áp dụng hình thức này.
Tình hình huy động trái phiếu.
Mặc dù tổng số nguồn vốn huy động trong năm 2000 gia tăng nhưng
nguồn huy động bằng kỳ phiếu của Ngân hàng Công thương Đống Đa trong năm
không có, lý giải cho trường hợp này là vì nếu ngân hàng không phát hành kỳ phiếu,
trái phiếu thì nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư sẽ tập trung vào tiền gửi tiết kiệm,
việc phát hành trái phiếu nhiều sẽ làm giảm tiền gửi tiết kiệm của dân cư vì lãi suất
của trái phiếu cao, dân chúng sẽ chuyển sang mua trái phiếu để có lãi suất cao hơn,
trong khi lãi suất đầu vào cao mà ngân hàng không có kế hoạch sử dụng hợp lý thì
sẽ dẫn đến kém hiệu quả trong kinh doanh của ngân hàng.
Trong năm 1997, nguồn huy động trái phiếu của ngân hàng là 11 tỷ, năm
1998 tăng lên 55 tỷ, năm 1999 giảm xuống còn 4,5 tỷ, năm 2000 là 0 tỷ.
Mục đích phát hành trái phiếu là nhằm để huy động vốn trung và dài hạn
và ngân hàng chỉ phát hành khi đã có dự án khả thi có hiệu quả, khi nhu cầu tín
dụng không có thì ngân hàng cũng sẽ không huy động trái phiếu.
Như vậy, trong năm qua hoạt động huy động vốn của ngân hàng không có
huy động bằng trái phiếu, vì nhiều lý do, song điều này không hề làm ảnh hưởng
đến công tác huy động vốn của ngân hàng.
0
10
20
30
40
50
60
1997 1998 1999 2000
Nguồn vốn huy động của ngân hàng ngày càng tăng trưởng vững chắc do
nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chủ quan là chi nhánh đã cải tiến đường lối làm việc,
đổi mới tác phong, thái độ phục vụ đảm bảo chữ tín với khách hàng, mở rộng mạng
lưới giao dịch. Số khách hàng gửi tiết kiệm và mở tài khoản giao dịch ngày càng
tăng nhanh đây chính là môi trường thuận lợi giúp cho Ngân hàng công thương các
tỉnh bạn đang có nhu cầu cho vay nhưng thiếu vốn.
3. Một số tồn tại trong công tác huy động vốn tại Ngân hàng Công thương
Đống Đa:
Mặc dù trong năm 2000, tổng số vốn huy động từ tiết kiệm là 1200 tỷ tăng
hơn so với năm 1999 là 425 tỷ nhưng con số này nhỏ hơn đáng kể so với tiềm năng
của địa bàn. Sở dĩ Ngân hàng Công thương Đống Đa chưa thu hút hết lượng tiền
nhàn rỗi trong dân cư là vì một vài nguyên nhân sau:
- Hình thức huy động còn đơn điệu, mang tính cổ truyền, cơ bản vẫn sử
dụng bằng thể thức tiết kiệm, chính sách tiết kiệm chưa đa dạng về mặt thời gian, lãi
suất, hình thức trả lãi. Lãi suất tiết kiệm tuy có được thay đổi song vẫn chưa phù
hợp với sự thay đổi của giá cả hàng hoá vì thế không khuyến khích được người dân
gửi tiền vào ngân hàng.
- Mặc dù có 14 quỹ tiết kiệm rải rác khắp địa bàn song sự phân bố chưa tối
ưu, một vài nơi đông dân thì khách hàng thường xuyên phải xếp hàng trong khi một
số nơi thưa thớt. Những quỹ tiết kiệm của các ngân hàng khác trên địa bàn đang
khẳng định lợi thế của họ mà Ngân hàng Công thương Đống Đa thì hầu như chưa
chuẩn bị cho chiến lược cạnh tranh.
- Việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược khách hàng trong huy
động vốn vẫn còn một số hạn chế, Ngân hàng Công thương Đống Đa chưa có một
phòng chuyên nghiên cứu, phân tích thị trường, khách hàng từ đó đưa ra những
chính sách thích hợp.
- Kết cấu nguồn huy động của ngân hàng còn nhiều hạn chế, tỷ trọng
nguồn vốn tiết kiệm chiếm tới 65% trong khi nguồn vốn rẻ nhất là tiền gửi TTKT
chỉ chiếm 35%, điều này gây nên sự kém lợi nhuận trong kinh doanh của ngân
hàng.
- Tỷ trọng tiền gửi thanh toán (tài khoản séc) của dân cư còn rất thất, hình
thức thanh toán bằng séc chưa được phổ biến, do người dân chưa hiểu hết về lợi ích
của nó, thói quen gửi vàng, đô la và thu nhập thấp nên đã ảnh hưởng đến việc giao
dịch ngân hàng của dân cư.
- Ngân hàng Công thương Đống Đa đã có rất nhiều cải tiến trong những
năm qua, nhưng thủ tục rút tiền vẫn còn thủ công, chưa thuận tiện, tốc độ giao dịch
chưa nhanh, mất nhiều thời gian của khách hàng, ngân hàng vẫn chưa triển khai
hình thức gửi một nơi rút nhiều nơi do chi phí lớn.
- Ngân hàng đã đưa ra hình thức thanh toán liên hàng điện tử vào áp dụng
làm tăng tốc độ chu chuyển vốn của ngân hàng trong hệ thống. Tuy nhiên việc
thanh toán ngoài hệ thống còn lòng vòng, ách tắc làm tốc độ luân chuyển vốn chậm
lại. Như vậy, đã không đồng bộ trong khâu thanh toán giữa các Ngân hàng khác hệ
thống đã làm giảm đáng kể nguồn vốn được gửi vào ngân hàng, hơn nữa công tác
thanh toán không dùng tiền mặt còn nhiều thủ tục chưa thuận tiện cho người gửi
làm hạn chế sử dụng công cụ thanh toán này.
- Ngân hàng thiếu vốn để trang bị công nghệ hiện đại như thẻ thanh toán,
máy rút tiền tự động ATM ... nên hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt chưa
có điều kiện phát triển.
Với những khó khăn và tồn tại do ảnh hưởng chủ quan hay khách quan,
Ngân hàng Công thương Đống Đa đã có các chủ trương chính sách khắc phục nhằm
nâng cao hiệu quả phát huy đồng vốn phục vụ cho kinh doanh của mình.
Kết luận:
Trên đây là những tình hình hoạt động nói chung và tình hình huy động
vốn nói riêng của Ngân hàng Công thương Đống Đa mà em đã tổng hợp được trong
quá trình thực tập. Mặc dù bản thân đã hết sức cố gắng song với kiến thức thực tế ít,
thời gian thực tập có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích thực trạng huy động vốn của Ngân hàng
Công thương Đống Đa em xin đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng
huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Đống Đa như sau:
Chương III
Các giải pháp nhằm nâng cao khă năng huy động vốn phục vụ cho kinh doanh
tại Ngân hàng Công thương Đống Đa
1.Phương hướng huy động vốn của Ngân hàng Công thương Đống Đa trong
năm tới:
Mặc dù vẫn còn tồn tại những khó khăn trong hoạt động huy động vốn
trong năm qua nhưng Ngân hàng Công thương Đống Đa hàng năm vẫn cung cấp
cho Ngân hàng Công thương Việt Nam một lượng vốn điều chỉnh khá lớn.Điều này
phản ánh nhiều mặt hoạt động của ngân hàng, đặc biệt nó nói lên rằng hoạt động
huy động vốn của ngân hàng đang hoạt động rất hiệu quả, đạt được điều này do sự
cố gắng, nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong chi nhánh Ngân hàng
Công thương Đống Đa. Bên cạnh đó được sự chỉ đạo sát sao của Ban lãnh đạo các
phòng ban Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà
Nội, công đoàn nghành, Quận uỷ và UBND quận Đống Đa và sự phối kết hợp giữa
các ngân hàng bạn đã tạo điều kiện cho Ngân hàng Công thương Đống Đa đạt được
kết quả trên.
Phương hướng phát triển của chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
trong năm tới là tạo lập một nguồn vốn đa dạng, cơ cấu hợp lý, chi phí thấp, với
mục tiêu là phát triển nguồn tiền gửi. Trong điều kiện cạnh tranh gia tăng, và gần
như ít có sự khác biệt trong sản phẩm dịch vụ giữa các ngân hàng, vì vậy những kết
quả trên cần được duy trì và phát huy hơn nữa, đi đôi với quan điểm chủ đạo là:
- Tổ chức thực hiện việc mở rộng tài khoản tư nhân và sử dụng séc cá
nhân, nghiên cứu đề xuất những cơ chế để mọi người dân đều mở tài khoản tại ngân
hàng, tập hợp những khoản tiền nhàn rỗi của dân cư, nâng cao tỷ trọng thanh toán
không dùng tiền mặt bằng cách tạo lập thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng trong
hợp đồng giao dịch mua bán thanh toán.
- Tuỳ từng điều kiện và thời điểm cụ thể có thể áp dụng những hình thức
huy động vốn phù hợp, nhằm thu hút nguồn vốn và tiền mặt ngoài xã hội. Đa dạng
hoá hình thức và loại vốn huy động, có chính sách khai thác vốn trong từng khu vực
và tầng lớp dân cư cụ thể.
- Thường xuyên chú trọng đến công tác kiềm tra, kiểm soát nhằm phát
hiệp kịp thời những sai sót của các mặt nghiệp vụ đảm bảo an toàn tài sản tránh rủi
ro trong hoạt động kinh doanh.
- Huy động vốn phải gắn liền với việc tăng cường quản lý sử dụng sao cho
nguồn vốn huy động được sử dụng một cách cân đối, đúng mục đích, đầu tư có hiệu
quả góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo toàn đồng vốn đầu tư, đảm bảo có lợi
cho cả người gửi và ngân hàng, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả chính là cách
tạo vốn và phát triển vốn vững chắc.
- Tổ chức bộ máy cán bộ, đảm bảo đại đa số cán bộ công nhân viên phát
huy được khả năng của mình trong công tác, có chương trình hỗ trợ khuyến khích
cán bộ công nhân viên học tập thường xuyên, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và quản lý điều hành, tổ chức cho cán bộ học tập nắm vững Luật
ngân hàng, thực hiện việc hiện đại hoá ngân hàng đáp ứng yêu cầu của ngành và
hoà nhập được với khu vực và thế giới.
2. Một số giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn phục vụ cho kinh
doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa
Từ sự phân tích những nguyên nhân của các tồn tại trong hoạt động huy
động vốn của Ngân hàng Công thương Đống Đa trong chương II và phương hướng
huy động vốn trong thời gian tới của Ngân hàng Công thương Đống Đa, em cho
rằng Ngân hàng Công thương Đống Đa phải áp dụng một số biện pháp về mặt lợi
ích của khách hàng, về mặt công nghệ ngân hàng, về mặt marketing ngân hàng. Bên
cạnh đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng công thương Việt Nam cũng
phải tạo được một “sân chơi” tốt cho hệ thống ngân hàng.
2.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
2.1.1. Không ngừng đổi mới, củng cố và hoàn thiện các thị trường, thị
trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường chứng khoán...
- Đối với hệ thống ngân hàng thì thị trường nội tệ liên ngân hàng được coi
là nơi điều tiết hữu hiệu cung và cầu về vốn ngắn hạn, tại đó các ngân hàng có thể
giao dịch với nhau về nhu cầu vốn. Một ngân hàng thiếu vốn có thể được đáp ứng
bởi một ngân hàng đang có khoản dự trữ thừa khá lớn và ngân hàng có ưu thế riêng
về các mặt nghiệp vụ dẫn đến mặt này thì thừa, mặt kia thì thiếu và lúc này không
có vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng lúc khác lại ứ đọng vốn.
Bên cạnh đó trên cơ sở điều hành thị trường liên ngân hàng sẽ giúp cho
Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt chẽ về lãi suất tái cấp vốn của mình, nhằm
thực hiện được các mục tiêu về chính sách tiền tệ.
Các hoạt động khai thác vốn của các ngân hàng thương mại phụ thuộc rất
nhiều vào sự hoạt động của các thị trường. Thị trường tiền tệ được coi là một kênh
huy động vốn của ngân hàng thương mại, các hoạt động vay mượn vốn giữa các
ngân hàng thương mại với nhau và giữa ngân hàng thương mại với Ngân hàng Nhà
nước được thực hiện tại đây vì vậy thị trường này hoạt động hiệu quả sẽ góp phần
nâng cao khả năng huy động vốn của ngân hàng.
ở Việt Nam hiện nay, sự ra đời thị trường chứng khoán đã đánh dấu một
sự phát triển của hệ thống tài chính nước ta, vì khía cạnh ngân hàng thì ngân hàng
xem thị trường chứng khoán như là một điều kiện để huy động vốn dưới hình thức
phát hành các giấy tờ có giá và là một yếu tố để nâng cao khối lượng giao dịch của
dân cư, khách hàng qua ngân hàng. Thị trường chứng khoán đảm bảo cho các trái
phiếu được mua đi bán lại nhiều lần, điều này giúp cho các trái chủ không sợ vốn bị
“đóng băng” trong thời gian nhất định nào đó, thị trường chứng khoán phát triển sẽ
thu hút các nhà kinh doanh chứng khoán có thể là tổ chức kinh tế, cá nhân...và một
yêu cầu để tham gia kinh doanh chứng khoán là phải chọn cho mình một công ty
chứng khoán, mở tài khoản giao dịch tại một ngân hàng tổ chức công ty chứng
khoán ấy, như vậy sẽ nâng cao đáng kể lượng tiền gửi thanh toán của cá nhân đối
với mọi ngân hàng.
2.1.2. Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản:
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đã đổi mới cơ chế quản lý lãi suất trần và
lãi suất sàn sang lãi suất cơ bản. Luật ngân hàng Nhà nước khoản 12 điều 19 đã nêu
rõ: “Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các
tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh” và như vậy môi trường cạnh tranh
giữa các ngân hàng sẽ cao hơn. Các ngân hàng tự đưa ra lãi suất cạnh tranh, lãi suất
kinh doanh tối ưu và dùng chính sách lãi suất của mình làm một công cụ để cạnh
tranh trong huy động cũng như sử dụng vốn.
2.1.3. Điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với Ngân hàng thương
mại.
Trong Luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng quy định các
ngân hàng thương mại phải thực hiện dự trữ bắt buộc đối với nguồn vốn huy động,
trên cơ sở tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước quy định, tỷ lệ này góp
phần hạn chế hay thúc đẩy việc huy động vốn của ngân hàng vì vốn dự trữ bắt buộc
là khoản vốn phải trả lãi nhưng không được tham gia vào quá trình tạo lợi nhuận
của ngân hàng. Vì vậy tỷ lệ này cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với từng thời
kỳ.
2.1.4. Hoàn thiện quy chế bảo hiểm tiền gửi:
Ngày 1/4/2000 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy chế bảo hiểm tiền
gửi và chính thức áp dụng cho các tổ chức tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng
được phép huy động vốn của dân cư phải nộp mức tỷ lệ bảo hiểm nhất định cho
công ty bảo hiểm và công ty bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm thanh toán cho người gửi
trong trường hợp tổ chức tín dụng đó mất khả năng thanh toán. Như vậy quy chế
bảo hiểm tiền gửi đã đảm bảo khả năng đủ trả đối với người gửi, có tác dụng
khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng. Tuy nhiên quy chế này vẫn chưa
thực sự tạo cho công chúng sự tin tưởng tuyệt đối vì mức bảo hiểm tối đa đối với
một tài khoản là không quá 30 triệu và những khách hàng muốn được bảo hiểm đối
với số tiền trên 30 triệu lại phải chia ra làm nhiều tài khoản gây phiền hà, lo sợ.
Nhìn chung hoạt động của các ngân hàng thương mại nói chung đều
không thể thoát ly được khỏi định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, sự
quản lý của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng cấp trên. Do vậy để hoạt động huy
động vốn của ngân hàng tốt thì cần phải có các điều kiện vĩ mô thuận lợi.
2.2. Đối với ngân hàng công thương Việt Nam
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một ngân hàng thương mại chuyên
doanh là ngân hàng mẹ của các chi nhánh ngân hàng công thương trên toàn quốc.
Cũng như các chi nhánh khác, chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa chịu sự
quản lý chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng Công thương Việt Nam trong mọi hoạt
động. Chính vì vậy mà hoạt động huy động vốn nói riêng và hoạt động của Ngân
hàng Công thương Đống Đa nói chung đều không thể tách rời các chính sách chỉ
đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam và như vậy các chính sách chỉ đạo đúng
đắn, sát sao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng Công thương Đống Đa hoạt
động tốt trong mọi lĩnh vực.
Đối với mảng hoạt động về nguồn vốn Ngân hàng Công thương Việt Nam
có một chức năng rất quan trọng đó là tiếp nhận và điều chuyển vốn trong toàn hệ
thống ngân hàng công thương. Đối với các ngân hàng huy động nhhiều vốn song
không sử dụng hết điều chuyển vốn về ngân hàng công thương với lãi suất nhất định
còn đối với ngân hàng thiếu vốn sẽ được Ngân hàng Công thương Việt Nam cho
vay dưới góc độ chi nhánh ngân hàng thì cứ huy động được nhiều vốn thì sẽ có lãi
hoặc nhiều hoặc ít. Vì vậy nó sẽ thúc đẩy hoạt động huy động vốn tại các chi nhánh
không ngừng nâng cao và hoàn thiện từng ngày.
Sự chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam đối với Ngân hàng
Công thương Đống Đa là hết sức cần thiết và quan trọng do vậy nếu sự chỉ đạo đó
kịp thời, đúng đắn sẽ giúp Ngân hàng Công thương Đống Đa hoạt động tốt trong
mọi mặt. Bên cạnh đó việc điều hành hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt
Nam cũng hết sức quan trọng đối với mọi ngân hàng chi nhánh, do đó Ngân hàng
Công thương Việt Nam cần phải luôn luôn thay đổi các thiết bị khoa học kỹ thuật
điện tử để đảm bảo được mức độ yêu cầu của công việc.
2.3. Đối với Ngân hàng Công thương Đống Đa
2.4.1. Các giải pháp về mặt lợi ích vật chất:
Trong tình hình nền kinh tế nước ta còn nghèo, thu nhập bình quân đầu
người còn thấp do vậy đa số mục tiêu gửi tiền vào ngân hàng là hưởng lãi, và hệ
thống ngân hàng đáng áp dụng lãi suất cơ bản do đó ngân hàng cần phải chú ý hơn
đến lợi ích của người gửi tiền thông qua một tỷ lệ lãi suất cạnh tranh tối ưu.
- áp dụng một tỷ lệ lãi suất cạnh tranh hấp dẫn
Lãi suất là một trong những yếu tốt kinh tế tác động mạnh mẽ đến việc thu
hút nguồn vốn đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu vì người dân gửi
tiền vào ngân hàng đều đặt mục tiêu lãi suất lên hàng đầu. Tuy nhiên lãi suất đầu
vào quá cao sẽ cho ngân hàng gặp khó khăn cho vay ra vì các ngành sản xuất không
chịu nổi lãi suất. Do đó cần thiết phải sử dụng một chính sách lãi suất hợp lý để vừa
đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vừa kích
thích các đơn vị tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Để cho công cụ lãi suất phát huy được vai trò tác dụng của mình trong cơ chế thị
trường chính sách lãi suất cần tiếp tục xử lý theo hướng sau:
- Chỉ đạo lãi suất theo nguyên tắc kinh tế thị trường. Lãi suất đầu ra quyết
định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy
động vốn, đảm bảo cho ngân hàng thương mại kinh doanh có lãi.
- Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với tỷ lệ lạm phát dự
kiến, nghĩa là phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giá để điều
chỉnh kịp thời.
- Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến có
như thế mới khuyến khích được tiết kiệm, tránh được việc dân chúng tiết kiệm vàng
và ngoại tệ.
Về nguyên tắc lãi suất tiền gửi có kỳ hạn phải cao hơn lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn, lãi suất dài hạn phải cao hơn lãi suất ngắn hạn.
Một tỷ lệ lãi suất tối ưu đối với ngân hàng là phải đảm bảo có lãi, có tính
cạnh tranh nếu Ngân hàng Công thương Đống Đa làm được điều này sẽ thu hút tiền
gửi với khối lượng cao hơn trong năm tới.
- Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn:
Để góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế và đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá đất nước nói chung, cần phải tiếp tục đẩy mạnh việc đa
dạng hoá hơn nữa các hình thức huy động vốn và đầu tư vốn trong hoạt động của Sở
giao dịch. Đồng thời tiếp tục duy trì, bổ sung, điều chỉnh các hình thức huy động
cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế nói chung và chiến lược huy động vốn
nói riêng trong từng thời kỳ.
Các ngân hàng thương mại phải đổi mới cơ chế huy động vốn và đa dạng
hoá các hình thức tiền gửi, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế mở và sử dụng
các tài khoản được thuận lợi. Đơn giản hoá một số thủ tục, mở rộng phạm vi thanh
toán trong và ngoài địa bàn. Mục tiêu mở rộng huy động tiền gửi ở ngân hàng
thương mại nhằm thu hút mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
để tăng cường nguồn vốn đầu tư tín dụng và tạo điều kiện để mở rộng thanh toán
không dùng tiền mặt, giảm khối lượng tiền mặt đang lưu thông, tiết kiệm chi phí
phát hành, kiểm đếm, bảo quản tiền mặt.
Ngân hàng thương mại phải nâng cao hiệu quả nhanh chóng, an toàn của
các công cụ thanh toán để hấp dẫn việc thanh toán qua ngân hàng, tiến tới chấm dứt
việc thanh toán bằng ngân phiếu. Vì ngân phiếu có giá trị sử dụng như tiền mặt
nhưng với mệnh giá lớn hơn và có thời hạn lưu hành, trong quá trình sử dụng khách
hàng thường dùng ngân phiếu để mua hàng, thanh toán trực tiếp cho nhau nên ngân
phiếu chỉ quay về ngân hàng khi khách hàng đến hạn trả nợ hoặc ngân phiếu hết
thời hạn sử dụng. Ngân hàng không sử dụng được vốn nhàn rỗi trong thời gian chờ
để thanh toán. Ngân hàng thương mại cần vận dụng khách hàng sử dụng ngân phiếu
thanh toán chuyển sang hình thức thanh toán bằng séc cầm tay, tạo điều kiện thuận
lợi cho người cầm séc nộp vào tài khoản của họ tại ngân hàng hoặc có thể nhận tiền
mặt trong thời gian ngắn nhất, thuận tiện nhất khi họ có yêu cầu. Khuyến khích các
tầng lớp dân cư mở tài khoản tiền gửi cá nhân tại ngân hàng để tiện thanh toán các
khoản tiền mua hàng, chuyển tiền, trả tiền...áp dụng chi trả lương cho một số doanh
nghiệp lớn nhất là các xí nghiệp liên doanh tạo ra lượng tài khoản khá lớn từ các
doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên của họ.
Cần tranh thủ thu hút lượng vốn khá lớn từ nguồn thu của một số đơn vị
bưu điện, điện lực, cấp nước thông qua làm dịch vụ tổ chức thu tiền qua hệ thống
ngân hàng. Điều này tạo điều kiện cho người nộp tiền không phải đến cơ quan thu
tiền của các đơn vị nói trên để nộp tiền hay phải trực tại nhà để thanh toán trực tiếp
khi có người đến thu, mà chỉ cần nộp tiền thanh toán vào ngân hàng thương mại nào
đó thuận tiện nhất. Đối với cơ quan thụ hưởng thì giảm được chi phí cho cán bộ trực
tiếp đi thu, tiết kiệm chi phí kiểm tiền, bảo quản, vận chuyển.
Ngân hàng hiện nay mới chỉ áp dụng hai loại tài khoản tiền gửi là không
kỳ hạn và có kỳ hạn. Kỳ hạn tiền gửi cố định ngân hàng đưa ra mới chỉ có 3, 6, 9,
12 tháng. Do vậy ngân hàng cần đa dạng hơn về thời gian tiền gửi như áp dụng kỳ
hạn theo tuần với các mức lãi suất huy động tương ứng. Đồng thời ngân hàng nên
triển khai các tài khoản mới mang tính lưỡng tính để tạo tâm lý thanh khoản cao
hơn và phù hợp hơn cho khách hàng gửi tiền như tài khoản hẹn rút, tài khoản tiền
gửi kỳ hạn gửi một lần rút nhiều lần hay gửi nhiều lần rút một lần.
* Tài khoản hẹn rút có thể xác định kỳ hạn cuối cùng nhưng cho phép
khách hàng rút một mức tiền nào đó (chẳng hạn 10%) mà không cần báo trước, rút
một tỷ lệ cao hơn nhưng phải báo trước. Tài khoản này sẽ phù hợp với nhu cầu của
những khách hàng mà họ chưa kế hoạch được nhu cầu sử dụng tiền của họ, nhất là
tiền gửi lớn cho các dự án đầu tư. Do tính chất lưỡng tính, lãi suất trên tài khoản nên
thấp hơn lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn nhưng cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
* Tài khoản gửi một lần rút nhiều lần có tính kế hoạch cao và rất phù hợp
với tiền gửi cho các dự án đầu tư hay quản lý tài chính thay khách hàng. Lãi suất
trên tài khoản này có thể là lãi suất cho từng kỳ hạn rút tiền kể từ ngày gửi hoặc lãi
suất bình quân cho cả món tiền.
* Tài khoản gửi nhiều lần rút một lần cũng cần áp dụng vì nó cho phép
ngân hàng huy động tiền gửi các khách hàng có thu nhập thường xuyên nhưng sử
dụng tiền một lần như những khách hàng mua hàng trả chậm nhưng bán hàng – thu
tiền hàng tháng. Tài khoản này giúp khách hàng gửi tiền hưởng lãi ngay khi nhận
được tiền từ bán bàng và có một khoản lớn để thanh toán cho người bán khi đến
hạn. Lãi suất trên tiền gửi tuỳ thuộc vào thời hạn từ khi khách hàng nộp tiền đến kỳ
hạn thanh toán.
Nguồn tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn chủ đạo do quy mô và chi
phí thấp, sở giao dịch sử dụng các công cụ để đa dạng hoá nguồn vốn đồng thời
điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn cho phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn.
Huy động tiền gửi có kỳ hạn cần định ra nhiều kỳ hạn để thích hợp với
nhu cầu của người gửi tiền. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với các loại vốn
dài hạn để đảm bảo lợi ích cũng như khuyến khích người dân gửi tiền dài hạn. Bên
cạnh các hình thức tiết kiệm hiện nay ngân hàng cần mở ra các hình thức nhận tiền
gửi tiết kiệm khác nhau, đi sâu vào tâm lý người dân:
- Tiết kiệm nhân thọ, tiết kiệm tuổi già, tiết kiệm học đường, tiết kiệm việc
làm, tiết kiệm xây dựng nhà ở...mỗi loại hình có chính sách hấp dẫn riêng như lãi
suất thường ưu đãi hơn so với các loại tiết kiệm khác hay người gửi được quyền ưu
tiên vay vốn với lãi suất thấp...
Cùng với hình thức tiết kiệm là loại hình kỳ phiếu, trái phiếi theo nhiều kỳ
hạn và lãi suất khác nhau. Tạo mọi điều kiện để các công cụ nợ dễ dàng chuyển đổi.
Ngân hàng nên phát hành nhiều loại kỳ phiếu ký danh, vô danh. Đối với tiền gửi tiết
kiệm có loại tiết kiệm lấy lãi trước, loại tiết kiệm lấy lãi sau cùng với gốc khi đáo
hạn. Tiết kiệm có quay số mở thưởng theo định kỳ. Tiết kiệm gửi tiền một nơi lĩnh
ra nhiều nơi, loại gửi một lần rút ra nhiều lần cả gốc và lãi. Ngoài ra còn có tiết
kiệm đảm bảo theo giá trị vàng hay USD.
Tiền nhàn rỗi trong dân cư đến nay khó có thể xác định được số chính xác,
nhưng theo dự tính còn rất nhiều. Vấn đề là ở chỗ ngân hàng phải đưa ra nhiều hình
thức đa dạng, phong hú về thể loại tiền gửi để người dân được quyền lựa chọn hình
thức nào, loại hình nào phù hợp hấp dẫn trước khi họ đưa ra quyết định gửi tiền vào
ngân hàng. Sở giao dịch I – NHCT cần đi đầu trong việc thử nghiệm tiến tới áp
dụng phổ biến trong ngân hàng công thương những hình thức huy động vốn nói
trên.
2.3.2. Các giải pháp về mặt công nghệ ngân hàng:
- Thường xuyên đổi mới công nghệ ngân hàng
Trong thời gian qua Ngân hàng Công thương Đống Đa đã trang bị cho
mình hệ thống máy tính với tốc độ xử lý cao, thay thế các chương trình ứng dụng
trong công tác kế toán ngân hàng. Bảo dưỡng toàn bộ máy tính, máy in cùng các
thiết bị khác, bố trí các trang thiết bị ở nơi khô ráo. Phân công cán bộ kỹ thuật lắp
đặt các máy PC để các phòng ban có đủ phương tiện làm việc. Tuy vậy những đổi
mới đó chưa theo kịp tình hình phát triển của các ngân hàng hiện đại. Có thể nói
công nghệ ngân hàng đánh giá sự khác biệt giữa các ngân hàng với nhau. Các tiện
ích của ngân hàng được các công ty chú ý đến, mục tiêu gửi tiền của họ thu chi tiền
hàng hoá dịch vụ được nhanh chóng, quản lý số dư chính xác...vì vậy để nâng cao
khối lượng huy động tiền gửi của tổ chức kinh tế đòi hỏi Ngân hàng Công thương
Đống Đa cần phải có một hệ thống công nghệ hiện đại.
Trên thực tế Ngân hàng Công thương Đống Đa hiện nay có 14 quỹ tiết
kiệm trong đó chỉ có quỹ số 43 là sử dụng chuyển tiền điện tử về trụ sở còn lại làm
thủ công gây nên chậm chạp, sai sót.
Ngân hàng còn phải từng bước đổi mới công nghệ thanh toán, sử dụng
triệt để đa dạng hoá các hình thức thanh toán như thanh toán không dùng tiền mặt.
Không ngừng ứng dụng các tiến bộ về khoa học kỹ thuật tiến tới điện toán hoá toàn
bộ các hoạt động ngân hàng. Đảm bảo cho khâu thanh toán nhan, chính xác tiện lợi
với phí rẻ nhất. Đa dạng hoá các hình thức thanh toán như sử dụng máy rút tiền tự
động ATM, các loại tiền điện tử như Vina Card, Master Card... nối mạng với tất cả
các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng.
-Đa dạng hoá các nghiệp vụ để phát triển các nghiệp vụ để phát triển các
nghiệp vụ nợ.
Để khai thác được tối đa nguồn vốn trong nước, ngân hàng cần nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn bởi vì nó là cơ sở của việc mở rộng nghiệp vụ tạo vốn.
Nghiệp vụ sử dụng vốn và tạo vốn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có
tạo được nguồn vốn mới thì mới có cơ sở sử dụng và ngược lại có sử dụng vốn tốt
mới có điều kiện tăng nguồn vốn huy động. Do vậy, ngân hàng chỉ có thể hoạt động
tốt trên cơ sở kết hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn một cách hài hoà.
- Mở rộng đầu tư tín dụng tới mọi thành phần kinh tế, chú trọng khu vực
quốc doanh làm ăn kém hiệu quả, vốn tự có ít. Mở rộng tín dụng ngoài quốc doanh.
Song song với việc mở rộng tín dụng phải áp dụng các nguyên tắc để quản lý tiền
cho vay một cách hiệu quả.
- Phát triển các hình thức thuê mua:
Vì đây là hình thức hữu hiệu và thích hợp với các nền kinh tế chậm phát
triển. Tham gia vào lĩnh vực này ngân hàng sẽ mở rộng được đối tượng phục tới
những khách hàng không đủ điều kiện vay vốn của ngân hàng nếu đem sử dụng cho
hoạt động này sẽ đem lại hiệu quả cao.
- Ngân hàng có thể đứng ra hỗ trợ về ngân quỹ, bảo lãnh cho các công ty
cổ phần phát hành trái phiếu, cổ phiếu có thể chuyển nhượng.
- Đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng như nhận cất giữ, bảo quản các tài
sản quý, thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cầm cố...Các nghiệp vụ này có tác dụng
không nhỏ trong việc tạo lòng tin của các tổ chức kinh tế và cá nhân với hoạt động
của ngân hàng.
2.3.3. Giải pháp về mặt marketing ngân hàng:
Hoàn thiện chính sách khách hàng
Một nhân tố quan trọng chắc chắn tạo ra lợi thế cạnh tranh trong điều kiện
ít có sự khác biệt về sản phẩm và dịch vụ hiện nay là chất lượng dịch vụ khách
hàng. Chất lượng dịch vụ khách hàng trở thành một con đường dẫn đến thành công
lâu dài dựa trên việc duy trì quan hệ lâu dài với các khách hàng đã có và thu hút các
khách hàng mới thông qua việc giới thiệu của các khách hàng đã có. Trong điều
kiện thị trường tài chính thường xuyên biến động và ít có khác biệt về sản phẩm,
chất lượng của dịch vụ khách hàng là một trong số ít các đặc tính tạo ra sự khác biệt
giữa các ngân hàng. Chính sách này không chỉ nhằm tạo ra được một nguồn vốn có
quy mô to lớn, chất lượng cao mà còn giúp ngân hàng bán được sản phẩm và dịch
vụ khác.
Để hoàn thiện chính sách này, ngân hàng cần phải đảm bảo thực hiện đồng
bộ tất cả những yếu tố sau:
- Mọi thành viên trong ngân hàng cần hiểu rõ nhu cầu và mong muốn của
khách hàng. Họ cần phải nắm chắc chiến lược khách hàng là gì, điều gì làm khách
hàng thoả mãn, họ cần phải làm gì để đáp ứng được khách hàng...
- Chính sách phát triển dịch vụ khách hàng không phải là các chính sách
hay hoạt động có tính ngắn hạn mà phải được duy trì thường xuyên và lâu dài. Dịch
vụ khách hàng phải thường xuyên trong đầu của mọi thành viên, kể cả những người
trực tiếp hay không trực tiếp giao dịch với khách hàng.
- Chiến lược khách hàng sẽ không thể thành công nếu ngân hàng không
thường xuyên đào tạo hiệu quả cán bộ nhân viên của mình. Sở giao dịch I cần trang
bị kiến thức marketing tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong ngân hàng trở thành
một mắt xích trong việc thu nhập thông tin, xử lý thong tin từ đó đáp ứng kịp thời
nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra mỗi cán bộ nhân viên không chỉ cần giỏi trong
chuyên môn của họ mà còn phải biết tất cả các nghiệp vụ của ngân hàng. Họ cần
được đào tạo về công dụng, đặc điểm của từng sản phẩm, dịch vụ, đồng thời biết
được quy trình thực hiện các bộ phận liên quan.
Để tạo ra phong cách và văn hoá hướng về khách hàng trong toàn ngân
hàng, mọi thành viên phải có tinh thần tự giác và luôn cố gắng cho sự thành công
của công việc. Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần tạo ra một môi trường khuyến
khích sự phát triển của mỗi cá nhân thông qua các chính sách quản lý phù hợp,
chính sách thưởng phạt hợp lý.
3.2.1.5. Tăng cường công tác thông tin quảng cáo:
Phải thực sự thừa nhận rằng công tác tuyên truyền hoạt động ngân hàng ở
Việt Nam trong thời gian qua đã được triển khai trên bề rộng, sử dụng số kinh phí
không nhỏ, nhưng hiệu quả trong công tác tuyên truyền không cao, nhất là tuyên
truyền về tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, về việc mở tài khoản cá nhân và sử
dụng séc...
Sự hiểu biết của người dân về ngân hàng là một nhân tố cần thiết để tạo ra
sự tin tưởng lẫn nhau giữa người gửi tiền với ngân hàng. Ngân hàng là người thủ
quỹ của khách hàng, nắm giữ tài sản bằng tiền của khách hàng, sử dụng tài sản bằng
tiền của khách hàng để mưu cầu lợi ích cho nền kinh tế, cho người vay, cho chính
ngân hành và cho người gửi tiền. Nếu người gửi tiền không hiểu được điều đó thì họ
sẽ hiểu sai về hoạt động ngân hàng và họ chỉ gửi tiền vào ngân hàng khi thấy có lãi
suất cao. Họ cho rằng hoạt động của ngân hàng có nhiều rủi ro. Do vậy mà trách
nhiệm của ngân hàng là phải thường xuyên quảng cáo, tuyên truyền về hoạt động
của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Hoạt động tuyên truyền của ngân hàng phải thực tế phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế của đất nước và khả năng nhận thức của người dân. Trong công
tác tuyên truyền ngân hàng thương mại không nên thực hiện quảng cáo tràn lan như
thời gian qua, vừa tốn tiền vừa kém hiệu quả mà nên tập trung vào một số dịch vụ
như lãi suất tiền gửi, những quyền lợi thiết thực của người gửi tiền, tiện ích của việc
sử dụng tài khoản cá nhân và thanh toán không dùng tiền mặt, việc phục vụ khách
hàng của ngân hàng...thường xuyên cung cấp các thông tin về khả năng tài chính
của ngân hàng, các báo cáo kiểm toán của ngân hàng qua các phương tiện thông tin
đại chúng để người có điều kiện tìm hiểu về năng lực tài chính và kết quả kinh
doanh của ngân hàng cũng như các dịch vụ hiện tại ngân hàng đang áp dụng. Từ đó
tại cho khách hàng một cách nhìn khái quát và chi tiết hơn về hoạt động của hệ
thống ngân hàng, làm tăng lòng tin của họ đồng thời hấp dẫn họ gửi tiền vào ngân
hàng ngày một nhiều hơn.
Đi song hành với hình thức quảng cáo là khuyến mại. Các hình thức
khuyến mại đa dạng sẽ tạo ra sự thích thú của khách hàng như trả lời câu hỏi có
thưởng, hình thức xổ số theo tài khoản, lãi suất ưu đãi với khách hàng thường
xuyên, liên tục.
Các giải pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động ảnh hưởng
đến công tác huy động vốn của Ngân hàng. Vì vậy phải tiến hành đồng bộ không
coi trọng mặt này cũng không xem nhẹ mặt kia, có như vậy thì mới nâng cao khả
năng huy động vốn của Ngân hàng Công thương Đống đa.
Kết luận:
Nhận thấy rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của
mình nói riêng và trong nền kinh tế nói chung, Ngân hàng Công thương Đống Đa
đã có rất nhiều cố gắng trong việc huy động vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh
cũng như trong quá trình công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặc dù còn nhiều
tồn tại song doanh số huy động vốn hàng năm của Ngân hàng vẫn tăng nhanh, để
đạt được kết quả này là do tập thể cán bộ công nhân viên chi nhánh đã đoàn kết, nỗ
lực hết mình và sự chỉ đạo của ban lãnh đạo NHCTVN, NHCTĐĐ. Bên cạnh đó sự
phối kết hợp của quận uỷ, UBND quận Đống Đa đã giúp Ngân hàng đạt được kết
quả trên.
Mục lục
Lời nói đầu.
Chương I: Những vấn đề mang tính lí luận về Ngân hàng Thương mại về hoạt động
huy động vốn của Ngân hàng.
1. Tổng quát về Ngân hàng Thương mại.
1.1 Khái niệm.
1.2 Chức năng của Ngân hàng Thương mại.
1.2.1 Trung gian tài chính.
1.2.2 Trung gian thanh toán.
1.2.3 Tạo tiền.
1.2.4 Dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác.
2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại.
2.1 Cơ cấu nguồn vố của Ngân hàng Thương mại.
2.1.1 Vốn tự có.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100266_0681.pdf