Cán bộ tham gia thực hiện điều tra phải được tập huấn kỹ về nghiệp vụ chuyên
môn, có tinh thần trách nhiệm. Việc điều tra hộ nghèo phải bảo đảm tính công bằng, công
khai, minh bạch, phát huy tốt quy chế dân chủ ở cơ sở để đảm bảo độ trước khi cấp giấy
chứng nhận sổ hộ nghèo nhằm đảm bảo tính chính xác, tránh khiếu kiện. Các đối tượng hộ
mới thoát nghèo, hộ giáp ranh cũng phải được thường xuyên theo dõi, kiểm tra, quản lý để
nắm được sự tiến bộ và kết quả vươn lên của các hộ nghèo. Thường xuyên cập nhật thông
tin và báo cáo về hộ nghèo một cách chính xác và kịp thời, phục vụ tốt cho triển khai thực
hiện các chính sách, biện pháp hỗ trợ có hiệu quả.
117 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2345 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ và có hệ thống vấn đề nghèo đói, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông nghiệp chế biến tinh bột sắn, gỗ ván
ép.. và một số trục đường quan trọng khác; hoàn thành xây dựng đường về các xã chưa có
đường ô tô.
+ Thông tin liên lạc: Mở rộng mạng lưới và tăng cường năng lực phục vụ của hệ
thống thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông trên toàn vùng, phấn đấu đến năm 2010, có
100% xã có điểm bưu điện -văn hoá xã, các điểm tập trung dân cư có mạng lưới điện thoại
cố định, các khu vực thị trấn, thị tứ, khu du lịch, kinh tế tập trung được phủ sóng điện thoại
di động. 100% vùng miền núi được phủ sóng phát thanh và truyền hình.
+ Phát triển hệ thống cung cấp điện: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà máy thuỷ lợi
thuỷ điện Rào Quán đảm bảo hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2008. Thực hiện
chương trình điện khí hoá nông thôn theo quy hoạch đã được duyệt với phương châm
"Nhà nước và nhân dân cùng làm", phấn đấu đến năm 2010 có trên 100% số hộ được dùng
điện lưới quốc gia. Những vùng quá xa xôi có thể phát triển thuỷ điện nhỏ theo quy mô hộ
gia đình hay nhóm hộ, sử dụng điện gió.
+ Tập trung xây dựng, nâng cấp hệ thống hồ, đập để chủ động tưới, tiêu cho sản
xuất: sửa chữa, nâng cấp các công trình thuỷ lợi và cấp nước sạch hiện có, kiên cố hoá
kênh mương dẫn nước, phát triển thuỷ lợi nhỏ và các công trình cấp nước sạch sinh hoạt
cho các thôn, bản theo đề án quy hoạch thuỷ lợi và cấp nước sinh hoạt của Sở nông nghiệp
và phát triển nông thôn.
+ Tăng cường các nguồn lực để đẩy mạnh phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng: chợ
nông thôn, trung tâm thương mại, dịch vụ, các trạm trại phục vụ sản xuất; cơ sở hạ tầng y
tế, giáo dục, văn hoá.
* Đối với vùng đồng bằng trung du:
- Tập trung ưu tiên nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị Đông Hà để đến
năm 2010 trở thành thành phố. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng để đến năm 2010 hoàn
thành hệ thống cơ sở hạ tầng 2 khu công nghiệp: Nam Đông Hà và Quán Ngang. Đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng các cụm công nghiệp, làng nghề, mỗi huyện ít nhất có một cụm
công nghiệp.
- Tích cực giải phóng mặt bằng, tạo thuận lợi cho các dự án do Trung ương đầu tư
như: nâng cấp quốc lộ 9, đường tránh thị xã Đông Hà và nhiều công trình khác. Hoàn
thành xây dựng và nâng cấp các tuyến đường tỉnh quản lý, các đầu mối giao thông chính,
trạm trung chuyển hàng hoá tại ngã tư Sòng phục vụ nhu cầu phát triển của tuyến hành
lang kinh tế Đông-Tây; kiên cố hoá hệ thống giao thông nông thôn, đến năm 2010 đạt 70%
km đường hiện có.
- Hiện đại hoá mạng bưu chính viễn thông đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập
kinh tế quốc tế. Sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong các hoạt động xã hội, quản lý
kinh tế.
- Nâng cấp, cải tạo lưới điện hạ thế và thực hiện chương trình điện khí hoá nông
thôn theo đề án đã được phê duyệt.
- Nâng cấp công trình thuỷ lợi Nam Thạch Hãn; đê bao chống úng vùng trũng Hải
Lăng; đê ngăn cát bảo vệ nội đồng chạy dọc 2 huyện Triệu Phong-Hải Lăng; kè chống xói
lở bờ sông Thạch Hãn, sông Hiếu, sông Ô Lâu; xây dựng một số hồ thủy lợi nhỏ và hoàn
thiện hệ thống kênh mương dẫn nước đảm bảo tưới, tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích
canh tác lúa của vùng và một số vùng trồng cây công nghiệp, cây thực phẩm.
- Hoàn thành dự án cải tạo hệ thống cấp nước cho các đô thị trong toàn tỉnh: Đông
Hà, thị xã Quảng Trị, các thị trấn, các khu công nghiệp. Phấn đấu đến năm 2010 có 100%
thị xã, thị trấn có hệ thống cấp nước sinh hoạt đạt tiêu chuẩn.
- Nâng cấp bệnh viện đa khoa tỉnh và các trung tâm y tế huyện; hoàn thành xây
dựng trường dạy nghề tổng hợp tỉnh, phân viện đại học Huế tại Đông Hà và hệ thống các
cơ sở đào tạo, giáo dục phổ thông trong vùng. Hoàn thành một số công trình văn hoá, thể
dục, thể thao lớn của tỉnh như: Sân vận động tỉnh và một số huyện; nâng cấp thiết bị đài
phát thanh truyền hình tỉnh và các huyện. Củng cố và nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng và
chất lượng hoạt động y tế, giáo dục, văn háo thông tin, các cơ sở dịch vụ ở các xã.
* Đối với vùng ven biển:
- Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng nhanh tốc độ đô thị hoá hai trung tâm du lịch
của vùng ven biển là Cửa Việt và Cửa Tùng gắn với phát triển khu du lịch đảo Cồn Cỏ.
Quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu du lịch ven biển đã được quy hoạch,
các trung tâm thị trấn, thị tứ, các cụm kinh tế kỹ thuật và dịch vụ trong vùng.
- Về giao thông liên lạc: Mục tiêu đến năm 2010, hệ thống giao thông, thông tin liên
lạc thông suốt đến toàn vùng. Hoàn thiện hệ thống đường giao thông ven biển; trước mắt là
đường nối cảng CửaViệt và khu nghỉ mát Cửa Tùng với tổng chiều dài 15 km. Hoàn thành
cầu Cửa Tùng bắc qua sông Bến Hải; triển khai xây dựng cầu Cửa Việt bắc qua sông Hiếu
để tạo sự liên kết không gian lãnh thổ toàn bộ vùng biển. Xây dựng các tuyến đường nối
quốc lộ 1A và các trung tâm thị xã, thị trấn, thị tứ với trục đường ven biển để mở rộng khả
năng giao lưu kinh tế của vùng miền ven biển với các vùng khác trong tỉnh và các tỉnh
khác, trọng tâm là các tuyến đường: Tỉnh lộ 64, 68, 70, 75 đông, đường 8 và đường đi qua
thị trấn Hồ Xá-Cáp Lài (huyện Vĩnh Linh).v.v.Kiên cố hoá giao thông nông thôn vùng cát
ven biển. Nghiên cứu để nâng cấp cảng Cửa Việt để tàu 2000 tấn có thể ra vào được thuận
lợi; xây dựng tuyến đường biển từ Cửa Việt, Cửa Tùng ra đảo Cồn Cỏ để khai thác và bảo
vệ có hiệu quả vùng biển của Tổ quốc trên phạm vị của tỉnh.
- Mở rộng và tăng cường năng lực phục vụ của hệ thống thông tin liên lạc, bưu
chính viễn thông đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, đời sống nhân dân trong vùng. Đến
năm 2010 có 100% số xã có điểm bưu điện văn hoá; toàn vùng được phủ sóng điện thoại
di động; tăng cường thiết bị thông tin giữa đất liền với các đội tàu thuyền hoạt động trên
biển. Phát triển rộng ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý kinh tế-xã
hội.
- Sửa chữa và hoàn thiện mạng lưới cung cấp điện theo chương trình điện khí hoá
nông thôn. Đến năm 2010, 100% số hộ trong toàn vùng được sử dụng lưới điện quốc gia
cho sinh hoạt; cung cấp đủ điện cho các cơ sở sản xuất.
- Phát triển đồng bộ hệ thống thủy lợi cung cấp nước tưới, sinh hoạt, thoát nước ứ,
ngăn mặn, cải tạo môi trường vùng cát phục vụ phát triển sản xuất và đời sống. Trong đó
đáng chú ý là nâng cấp, cải tạo và xây dựng các công trình sau:
+ Củng cố, nâng cấp hệ thống kênh mương để sử dụng nguồn nước của các hồ:
Thủy Tú (huyện Vĩnh Linh), hồ Khe Mương, hồ Kinh Môn, hệ thống sông đào Cánh Hòm
(huyện Gio Linh); kênh mương lấy nước từ công trình đại thuỷ nông Thạch Hãn phục vụ
cho vùng cát ven biển 2 huyện Triệu Phong, Hải Lăng.
+ Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống đê chắn cát toàn vùng (dài 60 km). Xây dựng
hệ thống kênh tách nước cát dọc theo bờ biển nhằm giải quyết ngập úng, ngăn lũ, chống
cát lấp, giảm chua phèn, cải tạo đồng ruộng...
- Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ nghề cá (các khu neo đậu, tránh, trú
bão; sửa chữa tàu thuyền; cung cấp nguyên nhiên liệu, chợ cá...) ở khu vực Cửa Việt, Cửa
Tùng và đảo Cồn Cỏ phục vụ tàu thuyền đánh bắt hải sản trên biển nhằm đẩy mạnh phát
triển kinh tế biển của toàn vùng.
- Quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng y tế, giáo dục, văn hoá...
3.2.2.3. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập
và xoá đói giảm nghèo phù hợp với đặc điểm của từng vùng
* Đối với vùng miền núi:
- Phát huy thế mạnh của vùng kinh tế động lực: Khu kinh tế thương mại đặc biệt
Lao Bảo và 5 xã: Tân Thành, Tân Long, Tân Liên, Tân Hợp, Tân Lập nằm trên trục đường
xuyên Á với chiều dài 25 km là vùng kinh tế động lực chính của vùng miền núi. Định
hướng phát triển kinh tế chủ yếu của vùng này là:
+ Phát triển mạnh các ngành kinh doanh thương mại, dịch vụ xuất nhập khẩu, kho
ngoại quan, dịch vụ du lịch. Xây dựng và củng cố hệ thống các khu chợ trung tâm, cửa
hàng miễn thuế, siêu thị; khu dịch vụ xuất nhập khẩu, kho tổng hợp, bãi hàng hoá tạm
nhập, tái xuất; hệ thống khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ phục vụ du lịch; cải tiến
phương pháp kiểm tra, kiểm soát hải quan.v..v để phát huy hiệu quả kinh tế cửa khẩu quốc
tế. Tăng cường quảng bá thu hút đầu tư, kết hợp công tác quản lý có hiệu quả hoạt động
đầu tư sản xuất tại các khu công nghiệp ở vùng này, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế, tạo nhiều việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao động.
+ Khác với các vùng khác trong tỉnh là thời tiết khí hậu ở đây rất mát mẻ, thuận lợi
cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Đất đai trong vùng rất tốt, phù hợp các loại cây công
nghiệp, cây ăn quả. Do đó, cần thực hiện tốt công tác quy hoạch, giao quyền sử dụng đất
lâu dài cho các hộ gia đình; tổ chức các dịch vụ hướng dẫn kỹ thuật canh tác, cung ứng vật
tư, bao tiêu sản phẩm hàng hoá cho nâng dân để phát triển mạnh sản xuất các loại cây công
nghiệp: cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả.
- Đối với các xã không thuộc vùng kinh tế động lực, đời sống của nhân dân rất khó
khăn, thu nhập chính dựa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Vì vậy, phải đẩy mạnh phát
triển nông, lâm nghiệp theo định hướng: đa dạng hoá sản xuất trên cơ sở phát huy lợi thế
đất đai rộng lớn của vùng; chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; xây dựng những vùng sản
xuất chuyên canh kết hợp thâm canh tăng vụ và tăng năng suất; ổn định vùng nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến là con đường cơ bản để thoát nghèo và vươn lên làm giàu của cả
vùng. Giải pháp tác động để phát triển kinh tế của vùng này là:
+ Tiến hành quy hoạch chi tiết sử dụng đất; quy hoạch xây dựng vùng sản xuất
chuyên canh tập trung những loại cây hàng hoá; bố trí lại dân cư và xây dựng các vùng
kinh tế mới. Thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất và thị trường tiêu thụ. Quy
hoạch sản xuất phải đi đôi với phát triển mạng lưới thu mua, chế biến. Có chính sách hỗ
trợ phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hoá của vùng. Đẩy
nhanh việc giao đất lâu dài, khoán bảo vệ rừng cho các hộ gia đình quản lý và sử dụng. Mở
rộng diện tích kết hợp thâm canh tăng năng suất vùng chuyên canh sản xuất tập trung cây
cà phê, cây hồ tiêu ở các xã Hướng Tân, Hướng Phùng, Hướng Sơn, Hướng Linh, thị trấn
Khe Sanh và một số địa bàn ở các xã vùng Lìa. Phấn đấu đến năm 2010 diện tích cà phê
đưa vào khai thác của toàn vùng miền núi đạt trên 4.000ha, cây hồ tiêu 1.000ha. xây dựng
vùng sản xuất cây sắn nguyên liệu ở vùng Lìa cung cấp cho nhà máy tinh bột của tỉnh với
diện tích trên 3.500ha. Đẩy mạnh sản xuất các loại cây ăn quả hàng hoá đã được khẳng
định trên địa bàn như: chuối, xoài, bơ và một số loại cây khác. Chú trọng khâu áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật về canh tác, thu hoạch, bảo quản sản phẩm nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất. Quan tâm khâu lựa chọn và sử dụng giống cây trồng phù hợp, hạn chế việc
đưa ra thử nghiệm các loại giống mới trên quy mô diện rộng khi chưa được nghiên cứu,
khảo sát kỹ tránh gây thiệt hại kinh tế và làm mất lòng tin của nhân dân.
+ Phát triển thuỷ lợi nhỏ, hỗ trợ khai hoang ruộng nước cho đồng bào DTIN và các
hộ nghèo để đẩy mạnh sản xuất lúa nước, bảo đảm lương thực cho nhân dân trong vùng,
nhất là các hộ đồng vào DTIN, hộ nghèo; chấm dứt tình trạng du canh, du cư và tình trạng
phá rừng làm nương rẫy.
+ Tích cực trồng mới rừng tập trung và khoanh nuôi bảo vệ rừng nhằm tăng nhanh
tốc độ phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ nguồn tài nguyên rừng. Phát triển các mô
hình kinh tế trang trại và kinh tế hộ có sử dụng nhiều lao động tại chỗ theo các mô hình
nông lâm kết hợp, mô hình VAC. Cần tạo mọi điều kiện để huy động vốn, đào tạo lao
động, ứng dụng kỹ thuật mới, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm để các trang trại phát
triển sản xuất thuận lợi, góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
của địa phương.
+ Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi hàng hoá: Vùng có thế mạnh phát triển chăn nuôi
đại gia súc, nuôi ong lấy mật. Cần khuyến khích phát triển mạnh chăn nuôi trâu, bò, dê,
hưu, nai (lấy nhung), lợn, ong lấy mật. Bên cạnh mở rộng quy mô đàn gia súc, Nhà nước
cần hỗ trợ khâu kỹ thuật như: giống, chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh, tổ chức các hình thức
chăn nuôi tập trung. Có kế hoạch hỗ trợ xây dựng các cơ sở công nghiệp chế biến các sản
phẩm chăn nuôi.
+ Cùng với việc hình thành các trung tâm cụm xã, cụm kinh tế kỹ thuật và dịch vụ,
cần tập trung hỗ trợ để phát triển tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ miền núi, hỗ
trợ người nghèo tiêu thụ sản phẩm. Phát triển hệ thống thương mại vùng sâu, vùng xa, tạo
điều kiện về cơ chế chính sách để các chợ vùng sâu, vùng xa phát triển và trở thành các thị
tứ, trung tâm giao lưu buôn bán, tiêu thụ sản phẩm của nông dân. Mở rộng các ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp sản xuất mộc gia dụng, chế biến lâm sản (mây, tre, đan lát.v.v.), chế
biến lương thực, thức ăn gia súc, những sản phẩm có nguyên liệu trong vùng và sử dụng
lao động tại chỗ; phát triển công nghiệp chế biến cà phê để giải quyết sản phẩm đầu ra của
trồng trọt.
+ Quan tâm phát triển đồng bộ các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của
vùng như: vận tải hàng hoá và hành khách; thông tin, báo chí, phim ảnh. Tổ chức tốt mạng
lưới tín dụng cho vay, bảo hiểm đến tận thôn, bản và hộ gia đình. Nâng cao chất lượng
phục vụ của các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, bảo vệ thực vật; hoạt động y tế,
chăm lo sức khoẻ nhân dân, hoạt động kế hoạch hoá gia đình; trung tâm giáo dục cộng
đồng; đẩy mạnh giáo dục toàn diện đối với toàn vùng miền núi.
* Đối với vùng đồng bằng và trung du:
- Vùng đồng bằng và trung du của Quảng Trị có tỷ lệ hộ nghèo đói thấp hơn các
vùng khác và có 3 khu vực rõ rệt đó là: Khu vực (I) gồm: 2 thị xã Đông Hà, thị xã Quảng
Trị; các thị trấn Vĩnh Linh, Gio Linh, Hải Lăng, Ái Tử, Cam Lộ. Trong khu vực này có các
khu công nghiệp: Nam Đông Hà, Quán Ngang và các cụm công nghiệp các huyện, cũng là
nơi tập trung nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp của tỉnh. Khu vực (II) gồm các xã đồng
bằng chuyên canh cây lúa của các huyện: Vĩnh Linh, Triệu Phong, Gio Linh, Hải Lăng,
Cam Lộ. Đặc điểm: đất ít, nguời đông. Khu vực (III) là vùng trung du (gò đồi) gồm các xã
5 huyện trên. Đặc điểm: đất rộng, mật độ dân cư thưa hơn đồng bằng, có nhiều tiềm năng
phát triển cây công nghiệp, trồng rừng, chăn nuôi hàng hoá; sản xuất công nghiệp chế biến
và vật liệu xây dựng.v.v..
Những giải pháp chính tác động để phát triển kinh tế-xã hội và thực hiện XĐGN
vùng này là:
- Đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở khu vực (II):
+ Phát huy hiệu quả của các cơ sở sản xuất công nghiệp hiện có như nhà máy xi
măng, thép, gỗ ván ép, gạch ngói, chế biến thuỷ, hải sản, chế biến tinh bột sắn.v..v Hoàn
thiện cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp: Nam Đông Hà, Quán Ngang và các cụm
công nghiệp ở các thị trấn, kết hợp thu hút và mở rộng các cơ sở sản xuất công nghiệp
mới; khuyến khích tiểu thủ công nghiệp và các ngành truyền thống phát triển nhằm góp
phần tăng trưởng kinh tế và tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho lao động trong tỉnh; giải
quyết việc làm cho các hộ nghèo, nhất là các hộ nghèo thuộc đối tượng chính sách.
+ Phát triển đồng bộ và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ. Trước hết là
ưu tiên xây dựng trung tâm thương mại Đông Hà trở thành trung tâm thương mại lớn
của khu vực miền Trung. Mở rộng quy mô phục vụ kết hợp nâng cao chất lượng hoạt
động đối với tất cả các loại hình dịch vụ gồm: bưu chính viễn thông, giao thông vận tải,
tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, dịch vụ tư vấn, kỹ thuật, chăm sóc sức khoẻ,
giáo dục-đào tạo, văn hoá nghệ thuật, vui chơi giải trí.
Nhiệm vụ phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ của khu
vực này phải bảo đảm thực hiện nhiệm vụ là đầu tàu hạt nhân trong việc thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, định hướng, hỗ trợ để thúc đẩy các vùng khác phát triển; tạo nguồn lực để
tỉnh có điều kiện thực hiện các chính sách hỗ trợ XĐGN.
- Đối với khu vực các xã đồng bằng chuyên canh cây lương thực là chủ yếu thì cần
thực hiện các giải pháp chính sau:
+ Tăng cường hệ thống giao thông nội vùng (liên thôn, liên xã); hoàn thiện hệ thống
thủy lợi tưới, tiêu; hệ thống điện điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt; hệ thống trạm, trại
dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống.
+ Tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện chuyển đổi cơ
cấu cây trồng vật nuôi để nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất. Xây dựng vùng chuyên
canh sản xuất lúa hàng hoá chất lượng cao để tăng giá trị xuất khẩu. Thực hiện thâm canh
tăng vụ, tăng năng suất đồng thời tận dụng tối đa diện tích đất nông nghiệp đưa vào sản
xuất nhằm tăng giá trị sử dụng đất, tăng thu nhập cho người lao động. Đối với những diện
tích đất không có khả năng chủ động tưới nước hoặc kém màu mỡ cần chuyển sang trồng
màu, cây thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày. Hướng vào sản xuất các loại sản phẩm
lương thực, thực phẩm sạch và cao cấp để tăng giá trị hàng hoá, phục vụ nhu cầu phát triển
du lịch của địa phương.
+ Tận dụng diện tích mặt nước các ao, hồ, sông ngòi để đẩy mạnh nuôi trồng thủy
sản. Những khu vực gần hạ nguồn sông Hiếu, sông Bến Hải cần đẩy mạnh nuôi tôm xuất
khẩu. Tăng cường chăn nuôi lợn và gia cầm theo hướng sản xuất hàng hoá. Phát triển chăn
nuôi phải gắn với đẩy mạnh các biện pháp kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh, cung
ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm.
- Đối với khu vực (III): Phát huy lợi thế đất đai còn khá rộng và chưa được khai thác
hoặc khai thác chưa hiệu quả để phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp theo hướng đa dạng
hoá sản phẩm hàng hoá.
+ Tiến hành quy hoạch chi tiết sử dụng đất đai, thực hiện giao quyền sử dụng đất
lâu dài và khoán bảo vệ rừng cho các hộ gia đình. Xây dựng vùng sản xuất chuyên canh
tập trung cây công nghiệp: cao su, hồ tiêu với năng suất, chất lượng cao ở các xã vùng đồi
của huyện Gio Linh, Vĩnh Linh, Cam Lộ; kết hợp mở rộng diện tích với thâm canh tăng
năng suất. Phấn đấu đến năm 2010 diện tích cây cao su đạt 17.000ha (trong đó đưa vào
khai thác 12-13.000ha), cây hồ tiêu đạt 2.000ha. Tăng cường sản xuất các loại cây công
nghiệp ngắn ngày như lạc, các loại cây họ đậu, các loại cây đặc sản có giá trị hàng hoá
như: các loại khoai, môn địa phương đang có thương hiệu tốt trên thị trường.
+ Mở rộng hoạt động kinh doanh nghề rừng, trồng rừng phòng hộ, rừng kinh tế để
phủ xanh đất trống, đồi trọc, cải tạo môi trường, cung cấp nguyên liệu cho nhà máy chế
biến gỗ ván ép của tỉnh; đồng thời tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đẩy
mạnh phát triển các mô hình kinh tế trang trại, mô hình kinh tế hộ gia đình sử dụng nhiều
lao động tại chỗ để khai thác tiềm năng đất đai.
+ Phát triển mạnh chăn nuôi hàng hoá. Áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật để
mở rộng chăn nuôi đàn gia súc, trọng tâm là đàn bò, dê, hươu, nai lấy nhung, nuôi ong lấy
mật, chăn nuôi trăn, rắn, ba ba.v.v.
- Đối với cả hai khu vực (II) và (III): Cần hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động
để mở rộng phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống để tăng thêm
việc làm, giảm thời gian lao động nhàn rỗi ở nông thôn.
+ Khuyến khích và hỗ trợ đất đai, vốn, lao động kỹ thuật.v.v để phát triển các cơ sở
sản xuất công nghiệp chế biến nông sản ở các vùng tập trung nguyên liệu, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Các ngành công nghiệp cần ưu tiên
phát triển là: Công nghiệp chế biến cao su, hồ tiêu, hoa quả, thủy sản, thịt hộp, lương thực,
thức ăn gia súc...
+ Phát triển đồng bộ các ngành dịch vụ, phục vụ sản xuất, đời sống như: vận tải,
thông tin liên lạc, các loại hình báo chí, dịch vụ tín dụng ngân hàng, bảo hiểm.
Nâng cao chất lượng phục vụ của hệ thống các trung tâm, trạm trại các dịch vụ
khuyến nông, lâm, công, thuỷ sản, bảo vệ thực vật; chăm sóc sức khoẻ nhân dân, kế hoạch
hoá gia đình, giáo dục đào tạo; văn hoá văn nghệ...
* Đối với vùng ven biển:
- Tiến hành quy hoạch chi tiết, giải phóng mặt bằng và tăng nhanh tiến độ đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch để phát triển ngành du lịch biển, góp phần tăng trưởng kinh
tế, giải quyết việc làm cho dân vùng biển. Trong đó ưu tiên phát triển mạnh các khu du
lịch quan trọng: Cửa Việt, Cửa Tùng, Mỹ Thuỷ và một số cụm du lịch khác dọc bờ biển.
- Cải tạo, nâng cấp cảng Cửa Việt để trở thành cảng hàng hoá, đáp ứng yêu cầu
phát triển các ngành sản xuất công nghiệp; thương mại của tỉnh.
- Tăng cường năng lực tàu thuyền đánh bắt xa bờ với tổng công suất tàu thuyền
toàn vùng năm 2010 đạt 35.000 CV và sản lượng khai thác hải sản đạt 20-21 ngàn tấn. Áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ, hải sản, đưa diện tích nuôi
trồng toàn vùng đạt trên 1.500 ha, trong đó diện tích nuôi các loại tôm xuất khẩu đạt trên
1.100 ha. Khai thác biển và nuôi trồng phải gắn liền với bảo vệ môi trường và nguồn lợi
biển, bảo đảm cho việc phát triển bền vững.
- Phát triển mạnh các ngành nghề dịch vụ hậu cần nghề cá như: xây dựng các khu
neo đậu, tránh bão cho tàu, thuyền; cung cấp nguyên, nhiên vật liệu, ngư lưới cụ và sửa
chữa tàu thuyền. Tổ chức hệ thống thu mua, chế biến thuỷ hải sản nhằm giải quyết khâu
tiêu thụ sản phẩm và nâng cao giá trị sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị
trường nội địa và thị trường xuất khẩu. Bảo đảm công ăn việc làm ổn định và tăng thu
nhập cho lao động.
- Tổ chức các mô hình sản xuất nông, lâm nghiệp trên cát để vừa phát triển sản xuất
vừa cải tạo môi trường vùng cát. Kết hợp với các chương trình, dự án trồng rừng với việc
di dãn dân lập làng sinh thái ra vùng cát, hình thành các tụ điểm dân cư mới phù hợp với
quá trình phát triển cả trước mắt và lâu dài.
- Hình thành các cụm kinh tế miền biển tạo động lực thúc đẩy phát triển chung trên
phạm vi toàn vùng, trong đó chú ý phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ,
du lịch. Quan tâm đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống
như: Giao thông vận tải, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục-đào tạo, dân số kế hoạch hoá gia
đình, văn hoá...
3.2.2.4. Tổ chức đào tạo nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ thôn, xã, đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và thực hiện thành công mục tiêu xoá đói giảm
nghèo
Nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ cơ sở, là nhân tố quan trọng để chuyển tải
đúng những thông tin, chủ trương, chính sách, pháp luật và những ưu đãi của Đảng và Nhà
nước đến tận người dân, tránh được tình trạng hiểu sai, gây thắc mắc, khiếu kiện hoặc thực
hiện sai. Mặt khác cán bộ cơ sở là những người trực tiếp theo dõi, tổ chức quản lý và thực
hiện các kế hoạch, dự án XĐGN ở cơ sở. Mục tiêu của kế hoạch, dự án được thực hiện
thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và năng lực của chính đội ngũ các
bộ trực tiếp quản lý và tổ chức thực hiện. Kinh nghiệm nhiều nơi cho thấy, việc nâng cao
trình độ, năng lực cho cán bộ cơ sở sẽ thu được kết quả tốt hơn khi triển khai thực hiên các
kế hoạch và dự án XĐGN ở cơ sở. Trong những năm vừa qua, tỉnh Quảng trị cũng đã quan
tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ cấp xã, thôn và những cán bộ làm
công tác XĐGN trong toàn tỉnh, nhưng nhìn chung trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ
chính quyền cơ sở còn rất yếu, nhất là vùng miền núi. Vì vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ cơ sở để góp phần XĐGN là yêu cầu rất bức thiết hiện nay ở Quảng Trị. Cần tổ
chức đào tạo đồng bộ có hệ thống cho đội ngũ cán bộ này cả về chính trị, chuyên môn,
kiến thức về pháp luật, quản lý kinh tế, đạo đức người cán bộ và cả lòng nhiệt tình, tâm
huyết nghề nghiệp. Hướng ưu tiên đào tạo về trình độ chuyên môn của đối tượng này là,
tập trung đạo tạo kiến thức về sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản; quản lý kỹ
thuật vận hành các công trình giao thông, thuỷ lợi, nước sạch, quản lý đất đai, quản lý kinh
tế, những kiến thức quản lý xã hội, quản lý hành chính.
Thông qua các chương trình, dự án đào tạo tổ chức nhiều hơn nữa các lớp tập huấn
cho các bộ xã, thôn về các hình thức trợ giúp hộ nghèo, nhất là các hộ nghèo đồng bào dân
tộc thiểu số. Kế hoạch đào tạo phải gắn với bố trí sử dụng cán bộ hợp lý; ưu tiên đào tạo và
sử dụng người tại chỗ, đồng bào dân tộc thiểu số để cán bộ này trực tiếp về làm việc tại
cộng đồng dân tộc của mình. Kế hoạch đào tạo và bố trí sử dụng cán bộ phải bảo đảm các xã
vùng khó khăn ở miền núi sớm có khả năng làm được chủ đầu tư và quản lý có hiệu quả các
công trình, dự án phân cấp cho cấp xã.
Khẩn trương hoàn thiện và tổ chức thực hiện đề án tăng cường cán bộ cho các xã
nghèo. Trước mắt chọn một số cán bộ có trình độ, năng lực, có lòng nhiệt tình bố trí tăng
cường cho các xã ĐBKK thuộc chương trình 135. Có chính sách khuyến khích để cán bộ,
công chức tích cực tự học tập, nâng cao trình độ năng lực làm việc, ưu tiên tuyển dụng đối
với các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi tại các trường đại học, cao đẳng về nhận công tác tại
tỉnh; chính sách hỗ trợ cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa.
3.2.2.5. Phát triển mạnh mẽ phong trào xã hội hoá các hoạt động văn hoá - xã
hội
Xã hội hoá các hoạt động văn hoá - xã hội là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi
của nhân dân, toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp văn hoá - xã hội, nhằm từng bước nâng
cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao và sự phát triển về thể chất, tinh thần
của nhân dân. Yêu cầu chung của xã hội hoá là phải đa dạng hoá được các hình thức hoạt
động để khai thác tiềm năng và nguồn lực trong xã hội; thiết lập mối quan hệ chặt chẽ, đồng
bộ có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển toàn diện đời sống văn hoá tinh thần của nhân
dân. Các hoạt động xã hội hoá do tập thể hoặc cá nhân thực hiện phải nằm trong khuôn khổ
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; mở rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân dân
chủ động và bình đẳng tham gia. Xã hội hoá không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà
nước, giảm bớt phần ngân sách của Nhà nước mà thực chất là Nhà nước phải thường xuyên
tạo thêm nguồn thu để từng bước tăng tỷ lệ chi ngân sách cho các hoạt động này, đồng thời
tăng cường quản lý tốt hơn để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí được cấp. Thục
hiện xã hội hoá các hoạt động văn hoá - xã hội, cũng là một trong những giải pháp để thực
hiện chính sách công bằng xã hội, tạo điều kiện cho toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng
chính sách, người nghèo được hưởng thụ tốt hơn thành quả giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục -
thể thao v.v...ở mức độ ngày càng cao hơn.
- Về giáo dục - đào tạo: Thực hiện xã hội hoá đi đôi vơi nâng cao quản lý nhà nước.
Huy động tổng hợp các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. ngân sách
Nhà nước ưu tiên đầu tư những nhiệm vụ trọng điểm, vùng khó, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, các trường dân tộc nội trú v.v...Tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường, gia
đình và xã hội; khuyến khích các ngành, địa phương, tổ chức kinh tế, xã hội và người sử
dụng lao động tham gia xây dựng trường, hỗ trợ kinh phí cho người ở cơ quan, đơn vị
mình đi học. Xây dựng quy chế, quy định về huy động, sử dụng các nguồn đóng góp của
nhân dân, của cộng đồng để xây dựng trường học và các mục tiêu khác cho phát triển giáo
dục - đào tạo. Khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục - đào tạo và đạy nghề ngoài công
lập. Nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục từ xa, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung
tâm học tập cộng đồng. Quan tâm đào tạo nghề cho lực lượng lao động ở nông thôn theo
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
- Về y tế: Nhà nước phải tiếp tục tăng đầu tư ngân sách cho y tế; trong đó ưu tiên
bảo đảm kinh phí hoạt động cho y tế cộng đồng, chăm sóc sức khoẻ cho các đối tượng
chính sách, người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho hệ
thống y tế dự phòng, y tế cơ sở, nhất là khu vực vùng sâu, vùng xa. Hỗ trợ đào tạo các bộ y
tế cơ sở và vùng miền núi. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham
gia hoạt động từ thiện, hỗ trợ trang thiết bị y tế và khám chữa bệnh cho người dân trên địa
bàn. Củng cố và mở rộng hoạt động bảo hiểm y tế theo hướng đa dạng các loại hình bảo
hiểm; Từng bước thực hiện người đóng bảo hiểm y tế có quyền được lựa chọn cơ sở khám
chữa bệnh phù hợp. Tiếp tục thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho người
nghèo, vùng có nhiều khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường quản lý Nhà
nước đối với hoạt động y tế nhất là các cơ sở y tế tư nhân , kinh doanh thuốc, dược liệu...
- Về văn hoá:
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động văn hoá, tích cực huy
động nguồn lực để đầu tư cho văn hoá, trước hết là tập trung hoàn thiện các thiết chế văn
hoá cơ sở; ngân sách ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Bảo tồn và
tôn tạo những giá trị văn hoá phi vật thể có ý nghĩa với sự nghiệp phát triển và giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc. Tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người, nhất là người nghèo được tiếp
cận nhiều hơn, hưởng thụ nhiều hơn những thành quả phát triển về văn hoá, nghệ thuật.
- Về dân số, lao động, việc làm và XĐGN: Tăng cường đầu tư co sở vật chất và thực
hiện có hiệu quả chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ tốt sức khoẻ bà mẹ và
trẻ em, giảm nhịp độ tăng dân số tự nhiên ở các vùng nông thôn, miền núi. Mở rộng các
hình thức đào tạo nghề. Trước mắt đào tạo lao động nông thôn tiếp cận với kiến thức kinh
doanh nhỏ, kỹ thuật trong sản xuất, chăn nuôi, xây dựng dân dụng v.v... Khuyến khích
người lao động tích cực học nghề, tự tạo việc làm để tăng thu nhập. Phát huy hiệu quả hoạt
động của các trung tâm dịch vụ giới thiệu việc làm, tuyển người lao động cho cá cơ sở sản
xuất và thực hiện xuất khẩu lao động. Phát huy vai trò và sức mạnh của quần chúng, tiếp
tục đẩy mạnh hơn nữa các phong trào: toàn dân tích cực ủng hộ quỹ "ngày vì người
nghèo", truyền thống " tình làng nghĩa xóm", "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư", tạo môi trường thuận lợi để mọi người, mọi tổ chức đoàn thể chính trị,
xã hội tích cực tham gia hoạt động XĐGN.
3.2.3. Nhóm giải pháp hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo
Nội dung của nhóm giải pháp này là thực hiện các cơ chế chính sách XĐGN mang
tính hướng dẫn, hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng là người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo.
Nguyên tắc của giải pháp này là không dừng lại ở chổ " cho cần câu hơn cho xâu cá" mà
phải vươn tới mục tiêu cao hơn là: " chỉ cho người nghèo chỗ chặt cần câu, chỗ có nhiều cá
và câu cá bằng mồi gì".
+ Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã nghèo, trước hết là 28 xã
ĐBKK ở miền núi, các xã biên giới thuộc chương trình 135 và các xã nghèo ven biển theo
quyết định 257 của Chính phủ. Ngoài nguồn vốn TW hỗ trợ đầu tư hàng năm thuộc
chương trình 135, và chương trình các xã bãi ngang ven biển, công tác đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng xã nghèo cần tập trung thực hiện tốt các nội dung:
* Đẩy mạnh xã hội hoá việc huy động các nguồn lực ở cộng đồng, tranh thủ các
nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp để tăng nguồn đầu tư. Ưu tiên
xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu với quy mô hợp lý cho các xã nghèo: Trước hết là các
công trình phục vụ sản xuất, dân sinh như: hoàn thiện hệ thống cấp điện đến tận các khu
dân cư, thôn, bản; đường liên thôn, thuỷ lợi nhỏ, chợ, trường học, thiết bị y tế v.v...Hoàn
thiện các trung tâm cụm xã nhằm làm chuyển biến bộ mặt nông thôn ở các xã nghèo, vùng
nghèo tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo tiếp cận tốt hơn các dịch vụ phát triển sản
xuất, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, con nuôi, tăng thu nhập, nâng
cao mức sống, góp phần đẩy nhanh tiến độ giảm nghèo ở các địa phương. Việc tổ chức
thực hiện các chương trình, dự án, xây dựng cơ sở hạ tầng ở xã nghèo phải gắn với thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở, đảm bảo có sự tham gia của người dân trong việc: xác định
nhu cầu, địa điểm xây dựng, thứ tự ưu tiên, tham gia thực hiện và giám sát công trình; thực
hiện phương châm " xã có công trình, dân có việc làm, tăng thu nhập góp phần giảm
nghèo". Từng bước phân cấp cho xã làm chủ đầu tư, đi đôi với bồi dưỡng nâng cao năng
lực cán bộ trực tiếp triển khai và quản lý công trình đầu tư xây dựng cấp xã, thôn.
* Hỗ trợ vay vốn ưu đãi và hướng dẫn người nghèo cách làm ăn.
- Đối với những hộ nghèo có khả năng lao động nhưng thiếu vốn để đầu tư sản xuất
kinh doanh tự vươn lên thoát nghèo, Nhà nước tạo điều kiện để họ được vay vốn tín dụng
với lãi suất ưu đãi; ưu tiên đối với hộ nghèo có chủ hộ là phụ nữ; đối tượng chính sách,
DTIN. Ngoài ra những hộ mới thoát nghèo hay giáp ranh nghèo cũng cần hỗ trợ cho hộ
được vay vốn tín dụng có lãi suất ưu đãi. Thủ tục cho vay, thu hồi vốn phải đơn giản,
thuận tiện, nhanh chóng và thời gian cho vay phải phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Áp dụng linh hoạt các phương thức cho vay, trong đó chủ yếu sử dụng tín chấp thông qua
hình thức nhóm tín dụng-tiết kiệm, hoặc các nhóm tương trợ tự nguyện của người nghèo,
các đoàn thể xã hội. Tùy theo điều kiện, tình hình của từng địa bàn để cung cấp vốn vay
bằng tiền hay bằng hiện vật theo yêu cầu của hộ nghèo. Đẩy mạnh các biện pháp huy động
để tạo nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu vốn và sử dụng vốn vay có hiệu quả. Kiểm soát chặt
chẽ vốn đầu tư, nhằm đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, sử dụng đúng mục đích, chống lãng
phí, thất thoát và các hiện tượng tiêu cực trong quản lý, sử dụng vốn.
- Để giúp người nghèo thoát nghèo một cách bền vững, cần phải hỗ trợ họ về kiến
thức và kỹ năng xây dựng kế hoạch, bố trí sản xuất hợp lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào tổ chức sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm gắn với giải pháp hỗ trợ vốn ,
tăng thu nhập bền vững.
Đối tượng cần tập trung ưu tiên khi thực hiện chính sách hỗ trợ người nghèo cách
làm ăn là những hộ nghèo có lao động, có đất sản xuất nhưng thiếu kinh nghiệm, kiến
thức; những hộ nghèo thuộc đối tượng chính sách, đồng bào DTIN, phụ nữ nghèo. Thông
qua các lớp tập huấn tại thôn, bản; hội nghị đầu bờ; xây dựng mô hình trình diễn; sử dụng
các tờ rơi; quảng cáo, phát hành tài liệu để phổ biến kiến thức cho nhân dân, nhất là các
đối tượng nghèo. Nội dung cần tập trung ưu tiên hướng dẫn, phổ biến trong thời gian tới
là: những kiến thức, kỹ năng về xây dựng kế hoạch, ra quyết định sản xuất kinh doanh phù
hợp với thị trường; bố trí sản xuất; quản lý chi tiêu trong gia đình, quản lý sản xuất. Hướng
dẫn kỹ thuật canh tác, trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, một số ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ buôn bán nhỏ.v..v.Cung cấp thông tin về khoa học kỹ thuật, thị
trường, nhất là các đối tượng ở vùng sâu, vùng xa. Các chương trình, dự án đào tạo, tập
huấn hướng dẫn người nghèo cách làm ăn phải phù hợp với tâm lý của người nghèo,
phong tục của từng địa phương, bảo đảm cho đối tượng nghèo mau chóng có ý thức vươn
lên tự thoát nghèo; Nhà nước giảm dần sự trợ giúp cho không.
* Mở rộng mạng lưới đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo nghề để hỗ trợ giải
quyết việc làm cho người nghèo. Mở rộng quy mô đào tạo của trường dạy nghề tổng hợp
tỉnh, trường trung học nông nghiệp và các trung tâm đào tạo nghề trên địa bàn do Sở Lao
động thương binh và Xã hội đang tực tiếp quản lý; các trường Cao đẳng sư phạm, Trung
học y tế, trường lái xe... để tăng cường năng lực các cơ sở đào tạo, thực hiện tốt nhiệm vụ
đào tạo cho lao động trên địa bàn. Ưu tiên đối tượng nghèo, đặc biệt thanh niên nghèo,
người nghèo ở vùng đông dân cư, thiếu đất sản xuất, DTIN, những nơi chuyển đổi mục
đích sử dụng đất sang phát triển công nghiệp và đô thị; quan tâm đối tượng mới thoát
nghèo và giáp ranh nghèo. Tổ chức đào tạo nghề cho người lao động phải đảm bảo giúp đỡ
họ có được tay nghề cần thiết để tạo được việc làm ổn định, tăng thu nhập tại các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ; đi xuất khẩu lao động hoặc tự tạo
việc làm, góp phần giảm nghèo bền vững.
* Thực hiện chính sách trợ cấp, hỗ trợ người nghèo khi gặp rủi ro và những hộ
nghèo thuộc diện chính sách mà không có khả năng lao động.
Trong cuộc sống thường xảy ra các rủi ro gây thiệt hại bất thường như mất mùa, sản
xuất kinh doanh thua lỗ, tai nạn, ốm đau..v.v.làm cho rất nhiều người không nghèo cũng
trở nên nghèo và cần sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng. Đối với người nghèo khi gặp
những trường hợp trên càng dễ bị tổn thương nhiều hơn, nhất thiết phải có sự trợ giúp kịp
thời của xã hội để họ có thể vượt qua. Ở Quảng Trị ngoài hai đối tượng trên, còn có một bộ
phận khá lớn hộ nghèo, người nghèo thuộc đối tượng chính sách xã hội, chính sách người
có công không có khả năng lao động mà cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào sự quan tâm hỗ
trợ của Nhà nước và cộng đồng. Vì vậy, trong chương trình XĐGN và thực hiện các chính
sách xã hội luôn phỉa có một chính sách riêng, kế hoạch cụ thể để hỗ trợ kịp thời cho các
đối tượng này. Tuy chỉ là những chính sách XĐGN mang tính ngắn hạn, nhưng chính sách
trợ cấp người nghèo khi gặp rủi ro là một chính sách hiệu quả nhất đứng từ phía người
nghèo, đồng thời phản ánh tính nhân văn sâu sắc của chế độ xã hội.
* Hỗ trợ pháp lý và khả năng tiếp cận pháp lý cho người nghèo, nhất là đồng bào
DTIN vùng miền núi. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho
nhân dân, nhất là những kiến thức pháp luật, chính sách quy định liên quan dến đời sống
của dân như: Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia đình, Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em,
Luật đầu tư và các Nghị định của Chính phủ về giao đất nông nghiệp lâu dài cho dân, các
Nghị định về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực an ninh, trật tự an toàn xã hội, quản lý bảo
vệ rừng, chính sách vay vốn, hỗ trợ giáo dục, khám chữa bệnh cho người nghèo; các chính
sách hỗ trợ đồng bào DTIN đặc biệt khó khăn và nhiều chính sách khác của Nhà nước liên
quan đến XĐGN. Bên cạnh tuyên truyền phổ biến pháp luật phải kết hợp tập huấn nâng
cao năng lực cán bộ của xã, thôn và người dân về phương pháp quản lý, tổ chức thực hiện
các quy định của pháp luật. Xây dựng và phát triển tủ sách pháp luật ở xã, phát huy tác
dụng của các trung tâm học tập cộng đồng ở thôn, xã, bản; thực hiện có hiệu quả các dịch
vụ trợ giúp pháp lý cho người dân như: hướng dẫn thực hiện các thủ tục vay vốn, đăng ký
hộ khẩu, làm thủ tục cấp quyền sử dụng đất, giải quyết khiếu kiện...
* Đẩy mạnh thực hiện chương trình hỗ trợ xây dựng nhà ở, đất ở, đất sản xuất,
nước sinh hoạt cho hộ nghèo. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chương trình hỗ
trợ xây dựng nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ nghèo, đặc biệt là các đối
tượng chính sách, DTIN theo chủ trương của Chính phủ, với phương thức "Nhà nước và
nhân dân cùng làm". Hoàn thiện đề án của tỉnh về thực hiện Quyết định 134 của Chính phủ
về hỗ trợ xây dựng nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho hộ nghèo theo hướng mở
rộng đối tượng hưởng lợi và tăng mức huy động của cộng đồng bằng những giải pháp và kế
hoạch thực hiện cụ thể.
- Về nhà ở: Nhà nước ưu tiên tăng tỷ lệ ngân sách để hỗ trợ xây dựng nhà ở cho các
hộ DTIN đặc biệt khó khăn chưa có nhà ở mà không có khả năng tự làm nhà. Các đối
tượng khác chủ yếu huy động từ sức mạnh cộng đồng, các nhà tài trợ. Phấn đấu đến năm
2010 có bản xoá nhà dột nát cho các hộ nghèo trong toàn tỉnh.
- Về đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt: Đối với những hộ nghèo DTIN ở miền
núi, tiếp tục thực hiện theo Quyết định 134/2004/QĐ-Ttg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng
Chính phủ về định mức hỗ trợ, đối tượng và phương thức hỗ trợ. Các đối tượng nghèo ở
vùng đồng bằng và các khu vực khác mà thiếu đất sản xuất, tỉnh cần có kế hoạch kiểm tra,
khảo sát lại quỹ đất ở các địa phương, thu hồi những diện tích đất chưa được sử dụng hợp
lý ở các nông, lâm trường, đất hoang hoá.v.v.để giải quyết hỗ trợ cấp đất ở, đất sản xuất
kịp thời cho hộ nghèo, tạo điều kiện cho họ có điều kiện phát triển sản xuất để thoát nghèo.
Khuyến khích những người dân vùng sâu, vùng xa sáng tạo việc sử dụng nguồn nước tự
nhiên để cộng đồng sinh hoạt. Đồng thời kêu gọi các chương trình, dự án tài trợ để hỗ trợ
xâydựng các công trình nước sinh hoạt cho các vùng nghèo, khó khăn.
Việc tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ xây dựng nhà ở, cấp đất sản xuất, đất ở và
nước sinh hoạt cho hộ nghèo phải bảo đảm công khai, dân chủ, minh bạch và có sự tham gia
đầy đủ của người dân trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách.
* Tạo điều kiện để các hộ nghèo, người nghèo tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ xã
hội, trong đó trọng tâm là:
- Thực hiện chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo. Củng cố mạng lưới y tế cơ
sở, nhất là y tế xã, thôn, bản. Tăng cường trang thiết bị y tế cho các trạm y tế xã, đặc biệt
là các xã nghèo, các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ y, bác sĩ về việc làm tại cơ sở. Thực hiện mô hình tổ chức quân dân y kết hợp tại các
cơ sở khám chữa bệnh ở khu vực biên giới và một số khu vực có quân đội đóng quân.
Nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế các tuyến từ tỉnh đến huyện, xã đảm bảo cho người
dân nói chung và người nghèo tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ y tế. Thường xuyên thông
tin, tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức cho người nghèo hiểu về quyền lợi và
nghĩa vụ khi đi khám chữa bệnh. Tăng cường chỉ đạo thực hiện tốt việc khám chữa bệnh
miễn phí cho hộ nghèo, các đối tượng chính sách và hình thức khám chữa bệnh nhân đạo
do các chương trình quốc gia và tài trợ thực hiện. Tăng quỹ khám, chữa bệnh để đảm bảo
tăng khả năng chi khám chữa bệnh cho người nghèo được tốt hơn; nâng mức kinh phí sự
nghiệp y tế cho các xã có nhiều hộ nghèo, kết hợp quản lý có hiệu quả việc sử dụng các
quỹ bảo hiểm y tế.
- Chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo. Cùng với việc thực hiện có hiệu
quả các mục tiêu của chương trình mục tiêu quốc qua về giáo dục là: củng cố và phát huy
thành quả phổ cập giáo THCS, THPT, tăng cường cơ sở vật chất các trường học, mở rộng
mạng lưới các trường học phổ thông ở vùng miền núi, vùng khó khăn chưa đủ chỗ cho học
sinh.v..v. đảm bảo đủ điều kiện cho các đối tượng học sinh trong độ tuổi đi học có nhu cầu
đều được đến trường. Củng cố và nâng cao chất lượng trường dân tộc nội trú của tỉnh,
huyện. Tỉnh cần đẩy mạnh thực hiện một số chính sách hỗ trợ về giáo dục người nghèo
như:
+ Tổ chức thực hiện tốt việc miễn, giảm học phí, các khoản đóng góp cho con em
các hộ nghèo. Ngân sách Nhà nước dành một khoản kinh phí cùng với các nguồn huy động
tài trợ để cấp, cho không dụng cụ học tập, sách giáo khoa, trợ cấp học bổng.v..v cho con
em hộ nghèo, nhất là đối tượng chính sách, đồng bào DTIN, vùng đặc biệt khó khăn.
Khuyến khích phát triển các hình thức hoạt động khuyến học ở các cấp, hội, đoàn thể, đơn
vị, dòng họ.v.v.để giúp đỡ con em hộ nghèo có tinh thần vượt khó, học giỏi.
| Có chính sách hỗ trợ phát triển giáodục miền núi như: hỗ trợ xây dựng nhà ở giáo
viên, tăng lương, phụ cấp chính sách khen thưởng kết hợp đào tạo, bồi dưỡng cho giáo
viên phục vụ miền núi; ưu tiên cho các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
để đội ngũ này có điều kiện ổn định đời sống, yên tâm công tác, phát huy tinh thần trách
nhiệm, nhiệt tình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy. Thực hiện chính sách luân
chuyển giáo viên vùng khó, đồng thời khuyến khích giáo viên tự nguyên ở lại phục vụ lâu
dài ở vùng miền núi nhằm không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng giáo dục miền núi,
rút ngắn khoảng cách chênh lệch về chất lượng giáo dục, đào tạo giữa các vùng.
3.2.4. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện
Để thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng và XĐGN bền vững, ngoài những
giải pháp đã nêu ở trên, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
3.2.4.1. Kiện toàn bộ máy ban chỉ đạo các cấp, tăng cường công tác tuyên truyền
nâng cao nhận thức cho người dân
Tiếp tục duy trì cơ cấu bộ máy chỉ đạo, ban quản lý điều hành XĐGN cả 3 cấp từ
tỉnh đến cơ sở. Thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực chỉ đạo, điều
hành của các ban chỉ đạo, ban quản lý điều hành. Tăng cường cán bộ cho các xã nghèo
theo đề án đã được áp dụng thực hiện từ năm 2006; rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy chế
hoạt động của các ban chỉ đạo phù hợp với nhiệm vụ trong tình hình mới, sát với thực tiễn,
nâng cao trách nhiệm của các thành viên ban chỉ đạo. Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ trực
tiếp làm công tác XĐGN ở huyện, xã, đặc biệt là trang bị cho họ những kiến thức cần thiết
về công tác dân vận. Bố trí đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác XĐGN ở các cấp
phải ổn định, tránh hiện tượng thay đổi thường xuyên như hiện nay dẫn đến hiệu quả và
chất lượng công việc không cao. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức hội, đoàn thể tham gia các hoạt động XĐGN. Đối với những vùng đồng bào DTIN
cần chú ý phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, trưởng họ và những người có uy
tín trong cộng đồng tham gia tuyên truyền, vận động và gương mẫu thực hiện XĐGN.
Thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền về công tác giảm nghèo với nhiều hình
thức phong phú như thông qua hệ thống phát thanh, truyền hình, báo chí, tờ rơi, áp phích,
hội thảo chuyên đề và các hoạt động văn hoá, văn nghệ lồng ghép chủ đề giảm nghèo phù
hợp với tâm lý, tập quán của người dân, các DTIN nhằm nâng cao nhận thức, xây dựng ý
chí, lòng tin quyết tâm tự vươn lên thoát nghèo. Thông qua công tác tuyên truyền, vận
động khuyến khích, kêu gọi các cấp, các ngành, các tổ chức kinh tế-xã hội và mọi người
dân tham gia ủng hộ nguồn lực phục vụ tốt cho thực hiện chương trình. Cũng qua thông tin
tuyên truyền kịp thời giới thiệu những nhân tố điển hình, mô hình sản xuất kinh doanh và
cách làm ăn thoát nghèo có hiệu quả, kinh nghiệm hay để nhân rộng các mô hình làm ăn
tốt trên địa bàn. Tích cực vận động nhân dân phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân
tương ái, giúp đỡ lẫn nhau; nêu cao đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "nhường áo sẻ cơm"
lúc khó khăn, hoạn nạn để giúp đỡ những người nghèo mà trước hết là giúp đỡ ngay những
người nghèo khó ở bên cạnh mình, ở cộng đồng mình.
3.2.4.2. Tổ chức tốt công tác điều tra, quản lý hộ nghèo
Hàng năm tiến hành điều tra xác định chính xác hộ nghèo, phân loại đối tượng hộ
nghèo làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện các giải pháp XĐGN thích hợp. Tách
riêng đối tượng hộ nghèo chính sách không có khả năng lao động, thường xuyên phải trợ
cấp từ ngân sách và các nguồn tài trợ, nhằm xác định chính xác tỷ lệ hộ nghèo, nhóm
những đối tượng hộ nghèo cần phải tác động những giải pháp để họ tự vươn lên vượt
nghèo.
Cán bộ tham gia thực hiện điều tra phải được tập huấn kỹ về nghiệp vụ chuyên
môn, có tinh thần trách nhiệm. Việc điều tra hộ nghèo phải bảo đảm tính công bằng, công
khai, minh bạch, phát huy tốt quy chế dân chủ ở cơ sở để đảm bảo độ trước khi cấp giấy
chứng nhận sổ hộ nghèo nhằm đảm bảo tính chính xác, tránh khiếu kiện. Các đối tượng hộ
mới thoát nghèo, hộ giáp ranh cũng phải được thường xuyên theo dõi, kiểm tra, quản lý để
nắm được sự tiến bộ và kết quả vươn lên của các hộ nghèo. Thường xuyên cập nhật thông
tin và báo cáo về hộ nghèo một cách chính xác và kịp thời, phục vụ tốt cho triển khai thực
hiện các chính sách, biện pháp hỗ trợ có hiệu quả.
3.2.4.3. Đẩy mạnh các biện pháp tạo nguồn vốn phục vụ chương trình xoá đói
giảm nghèo
- Bố trí sử dụng vốn hợp lý các nguồn vốn ngân sách Nhà nước đầu tư hàng năm
dành cho hỗ trợ các mục tiêu XĐGN bao gồm:Vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ có mcụ
tiêu, vốn chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình của tỉnh về XĐGN, các nguồn vốn
ngân sách của tỉnh, huyện, xã và vốn các chương trình, dự án tài trợ qua kênh Chính phủ
quản lý thực hiện đầu tư trên địa bàn tỉnh.
- Tiếp tục huy động, vận động bổ sung quỹ XĐGN từ các nguồn: Tiết kiệm chi ngân
sách chi thường xuyên của tỉnh, huyện, xã; nguồn đóng góp xây dựng quỹ vì người nghèo
của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước và cộng đồng xã hội. Cần có cơ chế thống
nhất quản lý việc huy động và sử dụng nguồn này để các địa phương, đơn vị có cơ sở tổ
chức thực hiện và kịp thời nêu gương, biểu dương những đơn vị, cá nhân có thành tích.
- Tiếp tục quản lý, sử dụng tốt hơn các nguồn vốn tín dụng ưu đãi phục vụ phục vụ
người nghèo từ các quỹ của ngân hàng chính sách, vốn vay dự án nhỏ giải quyết việc làm
(vốn chương trình 120). Đồng thời kết hợp vốn tự có, tự vận động của các tổ chức hội,
đoàn thể để đầu tư cho hộ nghèo.
Cần xây dựng kế hoạch ngân sách tổng thể 5 năm, 10 năm và thực hiện hàng năm
cho chương trình XĐGN trên địa bàn. Theo kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội của
tỉnh giai đoạn 2006-2010, thì tổng nguồn vốn có khả năng huy động để đầu tư, hỗ trợ trực
tiếp cho các đối tượng xã nghèo, hộ nghèo, người nghèo trên địa bàn toàn tỉnh là 1.268 tỷ
đồng (gấp 1,7 lần giai đoạn 2001 - 2005).
Trong đó: Ngân sách nhà nước 334 tỷ đồng; vốn tín dụng ưu đãi 634 tỷ đồng; vốn
tài trợ nước ngoài qua các dự án ODA, NGO là 270 tỷ đồng, vốn huy động cộng đồng và
các tổ chức trong nước khoảng 30 tỷ đồng.
3.2.4.4. Xây dựng chương trình hành động xoá đói giảm nghèo
Tỉnh và các huyện, thị xã, xã cần tiến hành xây dựng chương trình hành động
XĐGN 5 năm và hàng năm, nghĩa là đưa ra một phương án phối hợp hoạt động của các
cấp, các ngành thật sự khoa học để lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế, xã hội và
xoá đói giảm nghèo trên địa bàn sao cho tác động của tất cả các yếu tố cùng chiều hướng
tới mục tiêu tăng trưởng và XĐGN bền vững. Chương trình hành động XĐGN phải tạo ra
được sự phân công cụ thể, hợp lý và gắn với trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi của
những cơ quan ban, ngành và các địa phương trong quá trình thực hiện mục tiêu XĐGN.
Mục tiêu và nội dung của chương trình XĐGN phải thực sự là một nội dung của kế hoạch
phát triển KT-XH của địa phương.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ và có hệ thống vấn đề nghèo đói.pdf